HY VỌNG



Một trận động đất khủng khiếp đã chôn vùi 30,000 người ở Armenia vào năm 1989. Không lâu sau khi thảm họa xảy ra, một người cha chạy đến trường của đứa con và ông rụng rời nhìn thấy ngôi trường hoàn toàn sụp đổ.

Nhớ đến vị trí lớp học của đứa con là ở một góc trường, ông chạy đến đó và bắt đầu đào xới, với hai bàn tay ông lôi ra những mảng gạch vụn.

Các phụ huynh khác, đang đứng than khóc gần đó, tìm cách ngăn cản ông, họ nói, [I]“Trễ quá rồi! Tất cả chúng nó đều chết hết! Trễ quá rồi!”[I] Ngay cả cảnh sát cũng tìm cách can gián ông. Nhưng ông tiếp tục đào xới.

Ông đào trong 36 giờ đồng hồ không ngừng nghỉ. Vào giờ thứ 38 ông nghe có tiếng nói. Ông la lên, “Armand!”. Tiếng đứa con trai gọi lại, “Bố!”

Sau đó là một cuộc đối thoại lạ thường. Đứa con trai la lên từ đống gạch vụn:“Bố ơi! Có 14 đứa chúng con ở đây. Con nói tụi nó là đừng có lo. Con nói với tụi nó là bố sẽ đến.”

Khi người ta nghe tiếng của Armand, họ cùng với người cha đào xới. Trong vòng nhiều phút sau đó, tất cả 14 đứa con trai được cứu sống. Chúng được bình an, chỉ sợ hãi, đói và khát một chút.

Khi tòa nhà đổ xuống, căn phòng chúng ở thì sập xuống thành hình tam giác, giữ cho chúng khỏi bị đè bẹp (trích từ câu chuyện của Mark V. Hansen trong cuốn Chicken Soup for the Soul).

Có nhiều cách để nhìn vào câu chuyện lạ thường này. Tỉ như, chúng ta có thể nhìn từ quan điểm của dân chúng và cảnh sát.

Khi họ nhìn thấy tòa nhà sụp đổ, họ mất tất cả hy vọng, họ không tin rằng bất cứ ai có thể sống sót.

Hoặc chúng ta có thể nhìn từ quan điểm của người cha của Armand. Ông thấy tòa nhà vụn vỡ nhưng ông không mất hy vọng, ông tin rằng con ông có thể còn sống.

Sau cùng, chúng ta có thể nhìn từ quan điểm của 14 đứa trẻ bị kẹt trong đống gạch vụn của tòa nhà.

Chúng không bao giờ mất hy vọng, phần lớn là vì niềm tin lì lợm của Armand, nó tin rằng cha của nó sẽ đến giải cứu.

Từ quan điểm của các học sinh, câu chuyện này là một minh họa tuyệt vời cho câu chuyện Mùa Vọng.

Trước khi Đức Giêsu giáng lâm, dân chúng Israel ở trong một hoàn cảnh tương tự như 14 học sinh.

Họ bị giam hãm trong một thế giới suy sụp về luân lý và tinh thần. Tất cả những gì họ có thể làm là chờ đợi trong tăm tối, hy vọng sẽ có sự cứu thoát.

Nhờ các ngôn sứ như Isaia, trong bài đọc một hôm nay, họ giữ vững đức tin. Ngôn sứ Isaia luôn nói với họ là hãy tin tưởng vào Cha trên trời, cũng như Armand luôn nói với chúng bạn rằng hãy tin tưởng vào cha của nó.

Nhiều người ngày nay cũng giống như các cha mẹ than khóc đứng chung quanh ngôi trường sụp đổ sau trận động đất.

Họ thấy thế giới chúng ta trong một tình trạng suy sụp về luân lý và tinh thần. Họ không nhìn thấy gì khác hơn là cả một núi tội ác, chiến tranh, ma túy, thối nát, và không tôn trọng mọi hình thức sự sống. Họ bỏ cuộc và chỉ đứng nhìn, than khóc cho hoàn cảnh.

Cũng có những người, giống như các học sinh, bị giam trong một núi gạch vụn. Quả thật họ trong một hoàn cảnh tuyệt vọng. Điều duy nhất đem cho họ hy vọng là đức tin lạ thường của những người, giống như em Armand.

Sau cùng, có những người như cha của Armand. Họ cũng nhìn thấy một đống suy sụp về luân lý và tinh thần, nhưng họ không bỏ cuộc.

Hãy để ý đến một thí dụ thật hay của một trong những người này.

Mẹ của Bs. Ben Carson lớn lên trong hoàn cảnh nghèo nàn tồi tệ ở Detroit. Chồng bà từ bỏ bà khi Ben tám tuổi.

Bà thấy hai mẹ con bị kẹt trong một sự suy sụp về luân lý và tinh thần của thế giới chung quanh. Nhưng thay vì tuyệt vọng, bà bám víu lấy tia sáng đức tin nơi Thiên Chúa, sâu thẳm trong linh hồn của bà.

Tia sáng đức tin đó đã đem cho bà sức mạnh để làm ba công việc ít lương cùng một lúc để sống còn.

Trong hoàn cảnh đó, bà tìm chút thời giờ để khích lệ Ben, bà nói,“Con có thể trở nên bất cứ gì con muốn, nếu con tin rằng Chúa sẽ giúp con, nếu con tự giúp chính mình.”

Được khích lệ bởi lời của mẹ, Ben đã thi hành đúng như vậy.

Ngày nay, Bác Sĩ Ben Carson là một trong những bác sĩ não khoa hàng đầu quốc gia và cũng là tiếng nói hy vọng hàng đầu của ngành y khoa này.

Nói với các học sinh trung học ở trường cũ của ông, bác sĩ Ben nói:

“Hãy nghĩ đến điều vĩ đại! Hãy đặt tầm nhìn thật cao như ngọn Everest. Không ai được sinh ra để thất bại.” (Câu chuyện Carson, trích từ Christopher News Notes, February 1993)

Câu chuyện của Armand và người cha, câu chuyện của Isaia và dân Israel, câu chuyện của Ben và người mẹ là những tia hy vọng cho thế giới ngày nay, là nơi nhiều người mất hy vọng.

Những câu chuyện này mời chúng ta hãy trở nên tiếng nói hy vọng cho thế giới ngày nay. Và nền tảng cho niềm hy vọng đó được tìm thấy nơi đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu – một niềm tin mà chúng ta tuyên xưng trong mỗi Thánh Lễ khi chúng ta cầu nguyện rằng:

Chúa Kitô đã chết!
Chúa Kitô đã sống lại!
Chúa Kitô sẽ lại đến.



Đó là ý nghĩa của Mùa Vọng. Đó là đừng mất hy vọng.

Đó là hãy tin tưởng, dù có tăm tối và tuyệt vọng thế nào đi nữa.

Đó là về niềm tin nơi Chúa Giêsu, là người đã đến thế giới của chúng ta cách đây 2,000 năm, đã sống, đã chết, đã sống lại và đã hứa là sẽ trở lại vào cuối thời gian.

Và khi Đức Giêsu trở lại, chúng ta sẽ nghe cùng một tiếng nói mà tác giả sách Khải Huyền được nghe gần 2,000 năm trước khi ông viết:

Tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: "Ðây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ.

Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ biến mất" (Kh 21:4).


Đây là thông điệp hy vọng trong các bài đọc hôm nay.

Đây là thông điệp hy vọng mà chúng ta cử hành trong mùa Vọng.

Đây là thông điệp hy vọng mà chúng ta tuyên xưng cho toàn thế giới khi chúng ta nói:

Chúa Kitô đã chết!
Chúa Kitô đã sống lại!
Chúa Kitô sẽ lại đến.





Cha Mark Link, S.J.