Results 1 to 6 of 6

Thread: Viết Cho Mẹ và Quốc Hội Nguyễn văn Trấn,(ST)

  1. #1
    nho ^°O°^ suongkhoimay's Avatar
    Join Date
    Mar 2006
    Posts
    4,519

    Default Viết Cho Mẹ và Quốc Hội Nguyễn văn Trấn,(ST)

    sưu tầm ở diễn đàn Uminh.cốc

    Hôm nay là ngày lễ của các bà mẹ, nên mình post lên đây để mọi người cùng đọc,
    để biết lòng của những người mẹ VN!


    Happy Mother's Day - 09/05/2010

    Viết Cho Mẹ và Quốc Hội Nguyễn văn Trấn

    Lời Giới Thiệu: Nguyễn Văn Trấn Và Quyển Sách "Viết Cho Mẹ và Quốc Hội"

    Tháng 9 năm 1995, một sự kiện lạ lùng đã xảy ra tại Việt Nam. Đó là quyển sách "Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội" của ông Nguyễn Văn Trấn được in và bán công khai. ở một quốc gia tôn trọng quyền tự do ngôn luận, nếu sự kiện này xảy ra, có lẽ không ai lấy làm ngạc nhiên. Nhưng ở Việt Nam, quả là một việc lạ. Vì ai cũng biết, hệ thống kiểm soát sách báo và truyền thông của chế độ độc tài Việt Nam vô cùng chặt chẽ và gắt gao. Một quyển sách, với nội dung được cơ quan tối cao của đảng cộng sản đánh giá là "rất phản động, rất độc hại" và sau đó bị Trương Tấn Sang, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh, ký một quyết định "Mật" cấm lưu hành và tịch thu (xem Liên Minh tháng 01/1996), lại có thể lọt qua được hệ thống kiểm duyệt để phát hành công khai, lại là một chuyện lạ.

    Trước khi đánh giá tại sao chuyện lạ này có thể xảy ra, thiết tưởng cần nói qua về nội dung của cuốn sách và tác giả, để hiểu tại sao nhóm cán bộ phụ trách thẩm định cuốn sách này, trong văn thư mật gởi Đỗ Mười, Đào Duy Tùng, Lê Khả Phiêu, ngày 30/10/95, đã đáng giá rằng : "đây là một cuốn sách có nội dung rất phản động, rất độc hại vì nó vu khống, bêu xấu, chửi bới, lên án gay gắt sự lãnh đạo của Đảng ta một cách toàn diện (cả chính trị, kinh tế và văn hóa, văn học) và "có tính hệ thống" (cố nêu sai lầm này tiếp sai lầm khác trong các thời kỳ và có liên hệ mật thiết với nhau), nó bộc lộ một thái độ bất mãn rất cay cú, trắng trợn, nghĩa là "ăn thua đủ" (nói theo người Nam Bộ) với Đảng ta và chế độ ta".

    Ông Bảy Trấn, Hai Cù Nèo:
    Ông Nguyễn Văn Trấn, còn được gọi là Bảy Trấn, sinh năm 1914 tại Chợ Đệm thuộc làng Tân Kiên, huyện Bình Chánh, tỉnh Long An (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Xuất thân từ một gia đình địa chủ được coi là khá giả, ông được gởi lên Sài Gòn học trường Pétrus Ký (1927). Năm 1930, sau khi thi đậu tú tài phần nhất, ông bỏ học và bắt đầu hoạt động cách mạng chống lại thực dân Pháp. ở thời điểm đó, theo lời tự thuật, ông đã chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi tư tưởng của cụ Phan Chu Trinh và ông Nguyễn An Ninh. Nhưng khi phong trào cộng sản bộc phát mạnh ở khắp nơi, người thanh niên Nguyễn Văn Trấn đã tham gia vào đảng cộng sản, với sự tin tưởng rằng "cách mạng vô sản thế giới sẽ gióng trống phất cờ giải phóng cho dân tộc yếu hèn".

    Từ đó, Nguyễn Văn Trấn lao vào cuộc đấu tranh với tư cách là một đảng viên đảng cộng sản. Trong hơn 40 năm hoạt động cho tới lúc về hưu vào năm 1976, Nguyễn Văn Trấn đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong guồng máy đảng cộng sản như Chính Ủy Bộ Tư Lệnh khu 9 và Bí Thư Khu Ủy, Đại Biểu Đại Hội Đảng lần thứ hai, Giáo Sư trường Nguyễn Ái Quốc và sau đó trường Đại Học Nhân Dân tại Hà Nội, Vụ Phó Ban Tuyên Huấn Trung ương. Sau khi về hưu, ông cộng tác với nhiều tờ báo tại Việt Nam, như tờ Tuổi Trẻ, với bút hiệu Hai Cù Nèo, bằng những bài viết châm biếm vạch ra những yếu tố tiêu cực, xấu xa của chế độ xã hội chủ nghĩa. Ông cũng viết nhiều sách khảo cứu, tự thuật như Chúng Tôi Làm Báo (1977), Chợ Đệm Quê Tôi (1985), Chuyện Trong Vườn Lý (1988), Trương Vĩnh Ký, Con Người và Sự Thật (1994).

    Năm 1995, ông viết tập "Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội". Quyển sách lọt qua vòng kiểm soát của Đảng và được bày bán gần như công khai. Chỉ trong vòng một tháng, hơn 10.000 cuốn sách phát hành hết sạch và ở khắp nước ai cũng bàn tán về những sự kiện được nêu lên trong "Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội". Thấy được tầm tác hại của quyển sách, Trương Tấn Sang, theo lệnh của Bộ Chính Trị, ra chỉ thị cấm lưu hành và tịch thu. Trong khi đó, mặc dù bị đánh giá không còn đủ tư cách là đảng viên, nhưng Nguyễn Văn Trấn vẫn chưa bị khai trừ hay bị thi hành kỷ luật, vì theo báo cáo mật gởi Bộ Chính Trị, nhóm công tác viên đề nghị "Để không gây dư luận xôn xao trước đại hội 8, nên chưa thi hành kỷ luật khai trừ vội". Điều đó có nghĩa là, bản án dành cho Nguyễn Văn Trấn vẫn treo ở đó, chờ có cơ hội tốt Đảng sẽ thi hành.

    "Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội", hồi ký chính trị của một đảng viên cộng sản kỳ cựu:
    "Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội" là một cuốn sách dày 544 trang, được tác giả Nguyễn Văn Trấn viết như một loại hồi ký chính trị, nói về cuộc đời của chính mình, những bước thăng trầm của tác giả trong khoảng 50 năm "làm cách mạng" và những trăn trở của ông trước hiện tình đất nước. Trước hết, quyển sách được viết như một lời sám hối của một người cộng sản phản tỉnh, như tiếng thét phẫn nộ của một người dân trước những bất công, phi lý của đời sống và như một bản án lệnh dõng dạc vạch tội đảng cộng sản Việt Nam.

    Tại sao tác giả lấy tựa đề "Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội" ? Mẹ ở đây là là người sinh ra mình, Mẹ còn là biểu tượng cho cội nguồn, cho tổ quốc. "Viết cho Mẹ" của Nguyễn Văn Trấn dường như để gởi một thông điệp đến cho tất cả những ai, trong đó có nhóm lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam, đã quên mất mình từ đâu mà ra, quyền bính do đâu mà có. Đoạn mở đầu, tác giả đã nhắc đến việc Khổng Tử nói "đàn bà khó dạy" và Lỗ Tấn tự hỏi : "Không biết khi nói đàn bà khó dạy, Khổng Tử có kể mẹ ông vào đó hay không?" Thái độ coi thường nguyện vọng của người dân của tập đoàn lãnh đạo đảng cộng sản được Nguyễn Văn Trấn xem như một người kinh thường mẹ đẻ ra mình. Trong một lá thư gởi ra ngoài nói về tác phẩm của mình, Nguyễn Văn Trấn viết, vẫn bằng lối khôi hài chua chát: "Mọi việc ở đời đều phụ thuộc vào dân và dân thì phụ thuộc vào lời nói. Mà hỡi ôi, ở Việt Nam nay câu nói của dân gian vẫn còn có giá trị "Ngắn cổ kêu chẳng thấu trời". Nguyễn Văn Trấn không kéo cổ dân cho nó dài ra, mà chỉ làm một con cóc khô kêu gào cho"Thượng Đế Đảng" chớ có quên động cơ thành lập Đảng là "Đem lại tự do bình đẳng lại cho nhân dân".

    Trong tiếng kêu gào thay cho dân đen thấp cổ, bé miệng, Nguyễn Văn Trấn hướng về Quốc Hội, vì dù muốn dù không, đây cũng là cơ chế được xem là đại diện cho tiếng nói nhân dân, là nơi thông qua cái bản hiến pháp trong đó những quyền tự do căn bản của con người, như quyền tự do ngôn luận, báo chí, được long trọng công nhận. Hướng về nơi mang danh nghĩa là đại diện cho nhân dân để đòi quyền cho nhân dân, Nguyễn Văn Trấn muốn vạch trần bản chất mỵ dân của chế độ mà ông đang sống.

    Bằng thể loại thuật chuyện như nói, pha lẫn khôi hài và châm biếm, toàn bộ quyển sách phản ảnh sự cay độc của tác giả trong cách chỉ trích tập đoàn lãnh đạo cộng sản và những sai lầm liên tục của Đảng cộng sản Việt Nam. Nội dung của quyển sách nhắm vào ba điểm chủ yếu :

    1) Những sai lầm và tội ác của đảng cộng sản Việt Nam:
    Qua từng thời kỳ của lịch sử, ông Nguyễn Văn Trấn đã vạch ra nhiều sai lầm là tội ác của đảng cộng sản Việt Nam. Trong thời kỳ cải cách ruộng đất tại Miền Bắc, quyển sách nêu lên nhiều bằng chứng cho thấy sự độc ác của chế độ. Theo ông, vì rập theo sự chỉ đạo của Mao Trạch Đông và cúi đầu vâng lệnh cố vấn Trung Quốc, đảng cộng sản đã giết hại nhiều người vô tội trong vụ cải cách này, thậm chí dứt tình và đối xử độc ác với những đồng chí hôm qua của mình, làm tan nát tình làng nghĩa xóm. Cũng trong giai đoạn này, cuộc chỉnh huấn và cải tạo trí thức Miền Bắc đã làm cho nhiều người chết hay thân tàn, ma dại. Quyển sách đã kết luận rằng "thật ra chỉnh huấn làm cho người cộng sản ngây thơ ngày xưa học rồi thấy mình "chẳng ra con người" nữa; chỉnh huấn là sáng tạo kỳ quái, là biểu hiện cường bạo của Mao, bậc vua chúa cách mạng ở phương Đông".

    Đối với vụ Nhân Văn - Giai Phẩm, quyển sách ca ngợi những người như Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang xứng đáng là những kẽ sĩ Việt Nam, đã biểu hiện khí tiết của mình trước cường quyền và so sánh tòa án của chế độ như là một "tôn giáo pháp đình của giáo hội thời trung cổ", xét xử tùy tiện, vô luật lệ. Gần đây, trước đòi hỏi phải xét lại vụ án này, Nguyễn Văn Trấn phê phán thái độ ngoan cố của lãnh đạo Đảng, không chịu sửa sai, giải oan cho những kẻ vô tội, mà "lại cứ gào : đây là vụ án chính trị, vụ án đã qua, bọn Nhân Văn đã nhận tội, không nên nhắc tới nữa,...".

    Quyển sách cũng đưa ra một số sự kiện lịch sử, trong vụ án xét lại chống đảng vào thập niên 60. Theo ông Nguyễn Văn Trấn, Lê Đức Thọ đã thao túng Hội Nghị Trung ương lần thứ 9 của đảng cộng sản vào năm 1963, vô hiệu hóa ông Hồ Chí Minh, để kéo đảng cộng sản Việt Nam chống chủ trương xét lại của Liên Xô. Sau vụ này, như chúng ta đã biết, là hàng loạt vụ bắt bớ, thanh trừng đã xảy ra.

    Đối với việc thống nhất đất nước từ 1975, theo ông Nguyễn Văn Trấn, là tham vọng của nhóm lãnh đạo Bắc Hà muốn thống trị miền Nam, không muốn cho miền Nam được phát triển. Nó đã gây ra tai họa lớn cho Miền Nam, làm cho Miền Nam trượt dốc băng để "đuổi kịp Miền Bắc" và cùng nhau ăn độn ! Ngược lại với đường lối cưỡng ép này, ông Nguyễn Văn Trấn đưa ra đề nghị thành lập một Liên Bang Việt Nam gồm hai miền Nam-Bắc, với một chế độ tự trị tại miền Nam.

    Đánh giá về giai đoạn hiện nay, từ khi Hà Nội triệt hạ Câu Lạc Bộ Kháng Chiến tại miền Nam, tịch thu các quyền cơ bản của con người, theo lời ông Nguyễn Văn Trấn, chế độ độc tài đang muốn đàn áp các tiếng nói của lương tri như Linh Mục Chân Tín, ông Nguyễn Ngọc Lan, ông Đỗ Trung Hiếu, hoặc bắt giữ các gương mặt tiêu biểu của truyền thống dân chủ như ông Nguyễn Hộ, khai trừ khỏi đảng các văn nghệ sĩ như Bùi Minh Quốc, Dương Thu Hương và các nhà cách mạng lão thành như ông Lê Hồng Hà, ông Nguyễn Trung Thành v.v...

    2) Lên án việc đàn áp tôn giáo và kêu gọi trở về với tôn giáo:
    Là người đi theo một chủ nghĩa vô thần trên 40 năm, sự hồi đầu của Nguyễn Văn Trấn được nhìn thấy rõ trong những phê phán của ông về chính sách đàn áp tôn giáo của các đảng cộng sản, về tình trạng mất mát các giá trị thiêng liêng của xã hội Việt Nam như luân lý, đức tin, điều thiện, thái độ bao dung và ánh sáng của tôn giáo trong tâm hồn con người. Trang 398, ông kết luận rằng "tái lập những giá trị tôn giáo là con đường duy nhất để giải quyết cuộc khủng hoảng thiêng liêng hiện thời". Trong quyển sách, ông trích rất nhiều bài giảng của linh mục Chân Tín, để phần nào muốn nói lên sự sám hối của ông và ý muốn trở về với những giá trị tinh thần và tôn giáo, những giá trị đã và đang bị dập vùi một cách tàn bạo dưới chủ nghĩa vô thần cộng sản.

    3) Đòi hỏi những quyền tự do căn bản của con người, đặc biệt là quyền tự do báo chí:
    Trong phần 3 và cũng là phần cuối của quyển sách, Nguyễn Văn Trấn kết thúc bằng một kiến nghị gởi Quốc Hội cộng sản, trong đó có đoạn viết "Tôi lưu ý Quốc Hội, sự giả đò không chăm sóc, sự giả đò quên các quyền căn bản của con người, là nguyên nhân gây ra đau khổ cho Tổ Quốc, cho nhân dân, là nguyên nhân gây ra sự đồi bại của những kẻ làm ông nhà nước". Ông yêu cầu được tự do ngôn luận và tự do báo chí, vì theo ông "Hiện thời người trong nước ta, đang khao khát nhơn quyền và các quyền tự do dân chủ. Nhà làm báo, thì nghĩ theo nhà báo : Nếu nói nhơn quyền là một cái la bàn, thì kim chỉ nam là tự do ngôn luận, tự do báo chí và in sách."

    Ông kết thúc quyển sách bằng câu "Tôi chờ Quốc Hội trả lời". Nhưng sự chờ đợi này, chính ông cũng biết là vô ích. Ông chờ đợi một điều khác, đó là phản ứng của quần chúng, của Đảng. Và ông đoán đúng. Quốc Hội vẫn im lặng như mấy chục năm qua như một gã câm chỉ biết gật đầu. Quần chúng phấn khởi vì có một người như ông, đi theo đảng nhiều năm, dám nói lên những điều mà quần chúng bình thường dấu tận đáy lòng, không dám nói ra. Đảng nổi giận vì có người dám nhục mạ Đảng. Những sự việc xảy ra tiếp theo, như ra lệnh cấm lưu hành, tịch thu sách, răn đe ông Nguyễn Văn Trấn và dằn mặt các đảng viên khác, chỉ là một tiến trình logic của thể chế độc tài tại Việt Nam, không ai ngạc nhiên, kể cả ông Nguyễn Văn Trấn.

    ***

    Sự kiện quyển sách "Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội" của ông Nguyễn Văn Trấn được bày bán công khai, rồi sau đó bị cấm đoán và tịch thu, phản ảnh một số hiện trạng tại Việt Nam.

    Trước hết, qua nội dung của cuốn sách, chúng ta có thể đánh giá rằng càng ngày càng có nhiều người từng phục vụ cho đảng cộng sản, nhìn ra được bản chất độc ác và những chính sách sai lầm tai hại của Đảng đã là nguyên nhân của tình trạng lụn bại của đất nước Việt Nam hôm nay. Những người này, tham gia vào đảng cộng sản với lý tưởng yêu nước, yêu dân. Ngày nay, họ nhận chân được rằng đảng cộng sản không phục vụ cho lý tưởng đó, mà ngược lại còn làm hại nước, hại dân. Sự phản tỉnh của những người này đã thúc đẩy họ nói lên, viết ra những lời cảnh tỉnh, những bản cáo trạng dành cho đảng cộng sản Việt Nam. Điều chắc chắn là họ sẽ bị bịt miệng, bị đàn áp, để lãnh đạo đảng hủy diệt mọi mầm mống chống đối trong nội bộ đảng.

    Nhưng một quyển sách như vậy, lọt qua được hàng rào kiểm soát cũng là một sự kiện đáng quan tâm. Qua nhận định nội bộ của Đảng, "việc để cho cuốn sách độc hại này được in và bán là một sơ hở, thiếu sót của cơ quan tuyên huấn và cơ quan quản lý xuất bản, quản lý ấn loát ở TP Hồ Chí Minh" và đưa ra chỉ thị là phải có biện pháp xử lý đối với những người có trách nhiệm trong việc in ấn và phát hành.

    Việc này làm cho chúng ta nhớ lại vụ tờ báo Truyền Thống Kháng Chiến bị cấm không cho in và phát hành, nhưng sau đó được cơ sở ấn loát của nhà nước tại các tỉnh Miền Nam in và phổ biến. Tại Việt Nam, đảng và nhà nước cộng sản kiểm soát mọi phương tiện ấn loát truyền thông, từ giấy, nhà in, đến nhà xuất bản. Nhưng những tác phẩm như "Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội" vẫn in và bán được, tức là cần phải có sự đồng tình, giúp đỡ của chính cán bộ, đảng viên trong guồng máy sản xuất và kiểm soát sách báo. Chính vì sợ "bứt dây, động rừng", nên lãnh đạo đảng cộng sản chưa dám có biện pháp mạnh với ông Nguyễn Văn Trấn. Sự kiện này cũng phản ảnh tình trạng phân hóa, giao động cùng cực trong chế độ Hà Nội và chắc chắn xu hướng cổ võ cho một nước Dân Chủ Tự Do, tôn trọng Nhân Quyền đang ngày một lên cao trong hàng ngũ đảng viên cộng sản Việt Nam. Đây là một ngòi nổ vô cùng nguy hiểm, nó có khả năng châm ngòi cho một ngọn núi lửa, như sự so sánh của ông Nguyễn Hộ, để đốt tan mọi độc tài, áp chế tại Việt Nam.


    Nguyễn Đức Quang
    __________________

    _________________________Đập cổ kính ra tìm lấy bóng ,
    Xếp tàn y lại để dành hơi .


    2010










  2. #2
    nho ^°O°^ suongkhoimay's Avatar
    Join Date
    Mar 2006
    Posts
    4,519

    Default Re: Viết Cho Mẹ và Quốc Hội Nguyễn văn Trấn,(ST)


    Viết Cho Mẹ và Quốc Hội Nguyễn văn Trấn,(ST)


    Nguyễn văn Trấn

    1995, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ



    CHUONG I : TRAI TIM, LY TRI VA LUẤN THƯƠNG


    Hễ thấy không còn bao lăm hơi nữa, mình sẽ viết một cái gì như tiểu thuyết đọc vui, tặng mẹ.

    Thì nay

    Viết cho mẹ và cho Quốc hội đây.

    Định cho nó là tập sách của trái tim, của lý trí và của luân thường.

    Bạn đọc nhứt định sẽ thấy ẩn ngữ gì đó đối với cuộc sống.

    Thôi, ta đọc thử văn hào Pháp Anatole France, viết nhớ lại mình, coi.

    Tôi sẽ nói cho bạn nghe những gì mà mỗi năm cái cảnh trời thu mây bay, những buổi bắt đầu ăn tối dưới đèn và những chiếc lá úa vàng, trong chùm cây run rẩy, nhắc tôi nhớ lại. Tôi sẽ kể cho bạn nghe cái tôi thấy lúc băng qua vườn Luxembourg vào những ngày đầu tháng Mười, khu vườn có vẻ đìu hiu mà đẹp đẽ hơn bao giờ hết, bởi đó là thời tiết cây rụng lá, lá vàng từng chiếc, từng chiếc rơi xuống đôi vai trắng nõn của những pho tượng đá. Cái mà tôi nhìn thấy lại, lúc bấy giờ, đi trong vườn là một chú bé, tay thọc túi quần, cái cặp sách trên lưng, nhảy nhót tung tăng trên đường tới trường, như một con chim se sẻ. Mà chỉ đầu não tôi thấy cậu, vì cậu ta là một hình ảnh, cái hình ảnh của tôi hồi hai mươi lăm năm về trước.

    Thiệt tình, tôi thiết tha với chú bé ấy lắm. Vào thuở của chú còn bay nhảy, thì tôi không có gì bận bịu với chú. Nhưng giờ đây chú không còn nữa thì tôi thương chú biết chừng nào. Tôi coi lại chú hơn tất cả những cái tôi khác của tôi, khi cái tôi đó không còn. Chú khờ nhưng không xấu bụng. Tôi phải nói thiệt rằng chú không hề để lại một kỷniệm nào xấu cho tôi. Đó là một bé ngây thơ vô tội mà tôi đã mất. Tự nhiên tôi tiếc, tự nhiên tôi thấy lại chú trong tâm tư và đầu não của tôi đang sung sướng mà khơi lại tình nhớ chú.

    Ngày xưa đi học. Thầy kêu trả bài. Bài ngày tựu trường (La rentrée des classes), giọng tôi tốt, tôi đọc lời văn trong trẻo véo von.

    (C'est l'ombre du moi que j'étais il y a vingt cinq ans)

    (Đó là cái hình ảnh của tôi hồi hai mươi lăm năm về trước).

    Chính thầy tôi ngồi nghe cũng nhắm nhỏ mắt lại để nhớ cái hình ảnh hồi còn nhỏ của mình.

    Viết về mẹ

    Với người có tuổi, nhớ tới Mẹ là nhớ ơn.

    Trong cuộc sống, nếu là cuộc sống hạnh phúc và nghiêm chỉnh - thì phải, chúng ta đoàn tụ với bốn người.

    Một là người yêu. Người Tây họ nói: đó là phân nửa của tôi. Vợ - chồng.

    Hai là bạn thân. Lưu Bình, Dương Lễ.

    Ba là cuốn sách. Y đang má dựa vai kề với nhiều bạn nữa trên kệ, kia kìa.

    Người thứ tư! Mẹ. Đây là người thân nhất, hơn cả nhơn tình, hơn cả bạn thân và các cuốn sách.

    Vì trong người mẹ có cả ba bạn kia.

    Khắp thế giới, người nước nào cũng kêu mẹ, bằng má má, và đặt ra nhiều câu ca tụng mẹ.

    Ta có câu: Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

    Người Albanie nói: Ngay ông Trời cũng có Mẹ kia mà!

    Người ấn Độ nói: Không ai nói nổi trọn ơn nghĩa của trời và của mẹ.

    Người Mỹ có câu: Trái tim của mẹ là trường học của con.

    Người Yisdish nói: Vì Trời không thể có mặt khắp nơi nên mới tạo ra người mẹ.

    Napoléoner nói: Tương lai của đứa con là công trình của người mẹ.

    Ernest Renan nói: Mẹ tôi là một tấm kiếng trong đó tôi nhìn thấy lại quá khứ.

    Trung Hoa có phương ngôn:

    Đứa con có lìa bỏ gia đình, đi đến đâu nó cũng đem bàn tay của Mẹ nó theo.

    Nói Trung Hoa mà nhớ Lỗ Tấn. Ông nhà văn lớn này khi đọc sách thấy Khổng Tử nói: Phụ nhơn nan hóa Ông cười hả hả mà hỏi bổng rằng: Không biết, khi nói người đàn bà là khó dạy, lão Khổng có kể Mẹ ông vào đó hay không!.

    Ông Florian nhà viết ngụ ngôn Pháp, mẹ mất hồi mình còn bé. Một hôm, đi đường gặp một em bé đứng khóc, Florian vỗ má nó và nói:

    Nín đi em. Em bị mẹ đánh hả? Em sướng hơn qua, vì em hãy còn có mẹ để mà đánh em.

    Những thằng bạn thứ ba nó cấp cho tôi những cổ văn học ấy. Và chúng biểu tôi đọc nhà phê bình Sainte Beuve. Tôi đã đọc và hết sức vui:

    Sung sướng thay ai ngay từ buổi thiếu thời đã tìm thấy trong bè bạn, trong người thân cái lương tâm thứ hai, mà có khi còn là cái lương tâm thứ nhất, một người làm chứng thường xuyên, nó khuyến khích, nó làm cho bạo dạn, nó giúp đỡ và sau đó, bất kỳ ởđâu có mặt hay vắng mặt, ta cũng một lòng kính trọng! Đó là người Mẹ.

    Vậy cho nên khi tôi đọc Pline le Jeune, ông Pline Trẻ (nhà văn rô man này sanh sau Jésus ba chục năm) tôi thấy ông thảng thốt

    Tôi đã mất người chứng giám đời tôi

    Tôi lo sợ, từ rầy tôi có thể sống bê tha.

    Nhờ ông ấy nói, thường giữ gìn lòng, tôi không để khi Mẹ không còn, mình đâm ra sống bê tha.

    Mẹ là lương tâm của con người. Con người sống ởđời thường sợ lương tâm trách móc. Biết vậy nên có nhiều nhà văn đã viết để cho người Mẹ làm lương tâm can thiệp vào, kiềm chế không để con có hành vi tội ác.

    Trong tiểu thuyết Những con đường đói khát G. Amado viết một câu chuyện thương tâm. Người lâm nạn lấy câu thần chú mày có mẹ không mà thoát khỏi tay một tên hung ác.

    G. Amado viết:

    Một số nông dân bị địa chủ lãnh chúa cướp hết ruộng đất, bị hành hạ, bị ức hiếp, nghèo đói phải kéo nhau vào rừng, lập cuộc sống thành bầy thường xuyên tới những thị trấn, cướp lương thực, vàng bạc, hãm hiếp, giết người.

    Như hôm nay.

    Chúng ùa vào một phố phường, lùa tất cả đàn bà con gái - những ai không kịp chạy trốn chúng nó - vào một rạp chiếu bóng, làm một cuộc nhảy múa lõa lồ. Mỗi tên cướp, kẹp một phụ nữ... Lucas là tên đầu đảng, có trò hết sức ác độc để đã nư mối oan cừu đối với xã hội người giàu bức hại kẻ nghèo. Nó ra lịnh lâu la tìm cho nó một phòng riêng. Nó cho đốt một bếp lửa đỏ. Trên than hồng, nó nung một con dấu, thứ con dấu bằng sắt mà người chủ bầy bò đốt đỏ lên rồi in lên mông bò để làm dấu riêng bò đó là bò của nó.

    Trong phòng ấy, nó bắt người này đến người khác, những người đàn bà tội nghiệp vào.

    Bọn lâu la thì ở bên ngoài hành lạc thả cửa.

    Khi nghe có mùi thịt nướng bay ra, chúng reo lên: A!

    Đầu đảng ta đã đóng dấu ả rồi.

    Tên phó đảng tên là De Thiên Lôi cũng có buồng riêng. Nó không làm ác đến như đầu đảng.

    Nó quét mắt qua đám đông. Đôi mắt háo hức của nó đang lựa mồi. Chị kia thấy cái nhìn ấy châm bẩm chị. Chị hốt hoảng chạy loanh quanh. De Thiên Lôi rượt theo ôm chị, đem vào buồng, thả chị ra để nhìn. Trước mắt nó, người thiếu phụ đứng không động đậy, vẻ mặt nghiêm nghị và thân hình phơi bày đầy đủ.

    Chị bị lùa đi đây, thì đứa con trai chị chạy trốn đâu đó. Bây giờ, cái người mẹ sắp bị làm ô nhục, nên mẹ thốt nhiên nhớ tới con. Người mẹ liền có ý nghĩ sáng suốt, như ánh chớp loáng qua.

    Chị nhìn thẳng vào tên cướp ngắm chị đã thèm đang sắp sửa hành hạ chị. Chị hét vào mặt đỏ rượu của nó:

    Đồ khốn, mày không có mẹ hay sao hử?

    Câu hỏi bất ngờ đến nỗi De Thiên Lôi không thể hiểu ngay được. Đôi lúc gã cũng nhớ đến bà cụ Giu cun đi na, nhưng vào lúc đó, ấy là điều gã không muốn nghĩ đến tí nào.

    Hẵng để thây kệ bà lão đấy.

    Nếu anh có một người mẹ, anh hãy nghĩ đến bà và hãy nhớ rằng tôi cũng thế, tôi cũng có một đứa con. Anh hãy để phước, để đức cho mẹ anh mà buông tha cho tôi về.

    Trước mắt gã là cái món gã thèm...

    De Thiên Lôi thấy lại bà cụ Giu cun đi na đang đi đi, lại lại và la mắng trìu mến các con.

    Người thiếu phụ nói tiếp:

    Vì âm đức của mẹ anh, tôi xin anh điều đó.

    Mẹ anh sẽ nguyền rủa anh nếu anh không tha tôi ra khỏi nơi này. Tôi sẽ không tìm cách thoát thân nữa. Chính anh, anh phải biết xử sự thế nào. Đó là vì âm đức của mẹ anh đó.

    De Thiên Lôi đưa tay dụi mắt, gã không thể xua đuổi được cái hình ảnh của bà cụ Giu cun đi na.

    Thôi được rồi, nhưng mày cút đi nhanh lên, trước khi tao thay đổi ý kiến.

    Người thiếu phụ hốt đại món vải gì đó, che bớt thân hình... và chạy ra đường.
    De Thiên Lôi đứng không cục cựa, trong mắt hãy còn hình ảnh mẹ, bà Giu cun đi na.

    Tôi cũng biết lo như Pline. Nên tôi nhớ mẹ lắm.
    Bâng khuâng nhớ mẹ
    Năm 1976 tôi từ Hà Nội về Sài Gòn.
    Má tôi đợi tôi không được. Đã đi!
    Các anh em ở Long Hiệp, Gò Đen

    Anh Chín Giông đọc sơ thảo. Cuộc họp có trên 30 người:

    Cuộc phá khám lớn Sài Gòn không làm được vì âm mưu bị lộ.

    Một tốp nghĩa quân đã tìm cách len lỏi đi bộ mà về. Chúng tôi bốn đứa phụ trách võ khí cũng đành chèo ghe xà beng, búa lớn, xà no mà ngược nước.

    Về tới Chợ Đệm trời đã sáng trợt. Ban ngày ban mặt không thể chèo ghe qua Ba Cụm được. Chúng tôi đến Vàm Cai Tâm nhận chìm ghe bỏ ghe và vũ khí.

    Chúng tôi lên nhà của anh Bảy Trấn vừa lúc má anh, bà Võ Thị Đức vừa nấu chín nồi cơm ăn sáng.

    Sao kêu tên Bác Tám ra như vậy?

    Công của ai đối với cách mạng thì phải nói ngay tên của người ấy. Bà Võ Thị Đức sẵn có nồi cơm năm, liền đập mấy cái hột vịt rồi chiên, dọn ra biểu:

    ¡n đi tụi bây, để giỏi cẳng mà về.
    Tôi ngồi nghe, rưng rưng nước mắt
    Có những cái cười trách móc
    Có những cái khóc nhớ ơn
    Hôm nay mùng hai Tết.

    Con gái Nguyễn Hộ giỗ mẹ liệt sĩ, có mời. Những người khách ăn giỗ đã làm luôn lễ truy điệu Phùng Quán, mới mất hôm kia (22-1-95). Năm 1994 Phùng Quán (và nhiều anh nữa như Hữu Loan, Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu có vô Sài Gòn và gặp mặt người kháng chiến cũ) đến thăm Câu lạc bộ, đã đọc bài thơ.

    Lời mẹ dặn và lưu niệm chữ ký tên. Anh em câu lạc bộ, bốn mươi người làm lễ tưởng nhớ, một người của Nhơn Văn - Giai phẩm xin anh hãy ngậm hờn xem cuộc đấu tranh cho nhân quyền và tự do dân chủ đang được tiếp tục không lơi.

    Thơ:

    LƠI ME D¡N

    Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
    Mẹ tôi thương con không lấy chồng
    Trồng dâu nuôi tằm dệt vải
    Nuôi tôi đến ngày lớn khôn
    Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
    Ngày ấy tôi mới lên năm
    Có lần tôi nói dối mẹ
    Hôm sau tưởng phải ăn đòn
    Nhưng không. Mẹ tôi chỉ buồn

    Ôm tôi hôn lên mái tóc

    Con ơi!

    Trước khi nhắm mắt

    Cha con dặn con, suốt đời
    phải làm người chân thật

    Mẹ ơi, chân thật là gì?

    Mẹ tôi hôn lên đôi mắt.
    Con ơi một người chân thật

    Thấy vui muốn cười cứ cười
    Thấy buồn muốn khóc là khóc

    Yêu ai cứ bảo là yêu
    Ghét ai cứ bảo là ghét
    Dầu ai ngon ngọt nuông chiều
    Cũng không nói yêu thành ghét

    Dầu ai cầm dao dọa giết
    Cũng không nói ghét thành yêu
    Từ đấy người lớn hỏi tôi
    Bé ơi, bé yêu ai nhất?
    Nhớ lời mẹ, tôi trả lời
    Bé yêu những người chân thật
    Người lớn nhìn tôi không tin
    Cho tôi là con vẹt nhỏ
    Nhưng không! Những lời dặn đó
    In vào trí óc của tôi
    Như trong giấy trắng tuyệt vời
    In lên vết son đỏ chói.
    Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
    Đứa bé mồ côi thành nhà văn
    Nhưng lời mẹ dặn thuởlên năm
    Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ
    Người làm xiếc đi dây rất khó
    Nhưng chưa khó bằng nhà văn
    Đi trọn đời trên con đường chân thật
    Yêu ai cứ bảo là yêu
    Ghét ai cứ bảo là ghét
    Dù ai ngon ngọt nuông chiều
    Cũng không nói yêu thành ghét
    Dù ai cầm dao dọa giết
    Cũng không nói ghét thành yêu
    Tôi muốn làm nhà văn chân thật
    Chân thật trọn đời
    Đường mật công danh không làm ngọt
    được lưỡi tôi
    Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
    Bút giấy tôi ai cướp giật đi
    Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.

    1957
    Phùng Quán
    94



    --------------------


    2010










  3. #3
    nho ^°O°^ suongkhoimay's Avatar
    Join Date
    Mar 2006
    Posts
    4,519

    Default Re: Viết Cho Mẹ và Quốc Hội Nguyễn văn Trấn,(ST)

    Viết Cho Mẹ và Quốc Hội Nguyễn văn Trấn,(ST)


    Lời mẹ dạy

    Trong Tuổi trẻ của Lénine

    Những bậc thang bắt đầu kêu cót két. Đó là bà mẹ lên thăm các con trước khi ngủ. Volodia vội vàng nhắm nghiền mắt lại giả vờ ngủ.

    Bà mẹ tới gần sửa lại chiếc khăn trễ xuống và cúi xuống nhìn vào mặt Volodia.

    Thằng láu cá của mẹ, mẹ xem nào. Bà ngồi xuống thành giường khẽ vuốt mái tóc rối bù của Volodia Này không nên buồn bực, con hãy kể xem con đang băn khoăn điều gì.

    Mẹ ơi, con đang nghĩ xem con có hèn nhát hay không.

    Nhưng con định làm gì thế? Bà tò mò hỏi.

    Chính con cũng chưa biết cơ mà. Đôi khi con hiểu rằng không nên sợ gì hết, nhưng cũng có khi bỗng thấy rất sợ... Con không tài nào hiểu rõ tại sao lại như thế, cần phải làm gì để trởthành một người can đảm thật sự?

    Bà mẹ bất giác mỉm cười:

    Ai cũng có thể trởthành can đảm.

    Volodia nhổm dậy:

    Ai cũng có thể trởthành can đảm à?

    Sao lại thế được?

    Cái đó chắc là rất khó chớ?

    Không con ạ, chỉ cần bao giờ cũng đứng về phía chân lý. Nếu như con biết rằng con phải; con phải, con sẽ không sợ cái gì trên đời cả. Sự thật và lòng can đảm bao giờ cũng đi liền với nhau. Con biết đấy, chân lý thì dù có đưa vào lửa cũng không cháy và có nhận xuống nước cũng không chìm, nó không sợ gì hết.

    Với thái độ ân cần âu yếm của người mẹ, bà lấy tay vuốt má con.

    Con trai yêu của mẹ, con nên biết, dối trá làm con người hèn nhát và đạo đức giả.

    Volodia nằm im lặng một lúc suy nghĩ về những câu nói với mẹ. Cậu áp má vào bàn tay của mẹ và hãnh diện nói:

    Mẹ thông minh thật... Bây giờ con phải tự xét xem nên suy nghĩ về câu nói đó như thế nào.

    Ơn nặng núi Khâu

    ông Trương Minh Ký (1855-1900) có hai câu thơ

    Nhọc nhằn ơn nặng núi Khâu

    Muốn đền tấc cỏ lòng âu chẳng tròn.

    Ta đọc đoạn văn sau đây của Anatole France:

    Tôi sung sướng. Tôi rất lấy làm sung sướng. Tôi mường

    tượng cha tôi nè, mẹ tôi nè và chị ởlà

    những người khổng lồ rất hiền lành. Họ đã

    chứng kiến những ngày đầu trời đất đứng im, vĩnh viễn và không giống với ai hết. Tôi chắc rằng họ lo cho tôi khỏi bị cái gì không may, và tôi cảm thấy yên lòng mà ởgần với họ.

    Niềm tin của tôi đối với mẹ tôi là một cái gì vô bờ bến. Khi tôi nhớ lại cái niềm tin thần thánh và đáng tôn kính đó tôi muốn gởi mấy cái hôn cho cái anh chàng bé em là tôi thuởxưa kia.

    Những ai hiểu rằng trong đời rất khó mà giữ như một bát nước đầy một mối tình cảm, họ sẽ thông cảm nỗi quyến luyến của tôi đối với những kỷniệm như vậy.

    (Sách Của Bạn Tôi A. France)

    Nỗi quyến luyến đó là bao nỗi nhớ

    ơn.

    Coi như em Rémi đây.

    Tôi là đứa trẻ người ta nhặt được

    Tuy vậy, cho đến năm lên tám, tôi vẫn tưởng tôi có mẹ như mọi đứa trẻ khác, vì mỗi khi tôi khóc thì luôn luôn có một người đàn bà dịu dàng ôm tôi vào lòng âu yếm ru tôi, khiến cho nước mắt tôi ngừng chảy.

    Mỗi khi tôi lên giường ngủ, cũng có một người đàn bà đến hôn tôi. Và khi gió rét tháng chạp trút những bông tuyết vào cửa kính trắng xóa, bà ấy vừa ấp ủ chân tôi trong đôi bàn tay trìu mến của bà, vừa hát cho tôi nghe một bài hát mà giờ đây tôi còn nhớ điệu và lõm bõm vài lời ca hát.

    Khi tôi chăn con bò sữa ởven đường đầy cỏ hoặc ởnhững đám cây hoang lá dại, mà gặp một trận mưa giông bất ngờ đổ xuống thì bà chạy đến đón tôi, bắt tôi núp trong chiếc váy len của bà, và túm váy lên che đầu, che vai cho tôi cẩn thận.

    Một lần tôi có chuyện gây gổ với bạn bè thì bà dỗ tôi, bảo tôi kể cho bà nghe những nỗi bực bội chất chứa trong lòng tôi và hầu như lúc nào bà cũng tìm được những lời thích hợp để an ủi tôi, hoặc tỏ ra đồng tình với tôi.

    Qua những việc ấy, và bao nhiêu việc khác nữa từ giọng nói cách nhìn, cái vuốt ve cho đến những lời trách mắng ôn tồn, tôi yên trí bà là mẹ tôi.

    Không gia đình Hector Malot

    Nguyện ước ba sinh

    Trong câu của Trương Minh KýTrương Minh Ký 1855-1900 còn có tên là Trương Minh Ngôn, hiệu là Mai Nham, tự là Thế Tải, quê làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định nay thuộc quận 5 TP. Hồ Chí Minh. Ông là người theo học tại trường Lycée d'Algers (Bắc Phi) vào những năm 1870. Tốt nghiệp về nước ông dạy học tại trường Chasseloup - Laubat, trường Sĩ Hoạn, trường Thông Ngôn tại Sài Gòn. Có lúc ông là cộng tác viên thường trực của Trương Vĩnh Ký (1837-1898) cho tờ Gia Định báo. Sau đó, ông làm chủ bút báo này. Ông là tác giả nhiều tác phẩm vừa chữ Pháp chữ Việt chuyên về giáo dục (NXB). vừa nói đó, ta thấy nhớ ơn hai chữ ấy thổn thức cái nguyện ước đền ơn.

    Tôi đang mân mang.

    Còn nhỏ, ởtrong nhà phải hiếu thảo,

    sách Đồng ấu đã dạy.

    Chớ chơi ác rách áo quần

    Phải ân cần lo học tập

    Lớn lên biết nghe thì lại được nghe:

    Mình vóc tóc da, thọ của mẹ cha, chớ làm

    bị thương.

    Nhà văn Anh nổi tiếng, ông Charles ____ens cũng khuyên:

    Cuộc sống được trao cho ta với điều kiện nghiêm ngặt là chúng ta phải biết dũng cảm bảo vệ nó cho đến hơi thởcuối cùng.

    Tuổi tôi đã già bắt chước ông lão Léon Tolstoi làm người có ích, đó để đền tấc cỏ.

    Và tôi nói đây với người bạn già hưu trí cũng là để giới thiệu phép biết sống già. Savoir vieillir là nói theo Tây.

    Biết sống già là để đền ơn.

    Chớ ai như Voltaire.

    Coi ổng nói:

    Tôi ưa cười nhạo chơi, chớ nhứt định không xía vào bất cứ chuyện gì. Kể ra tôi nhạo báng có hơi nhiều đó thật.

    Nhạo báng cũng giúp cho con người của nó được thêm sức trong lúc sống già.

    Cho nên hoàng đế Fréderic de Grand của nước Đức, rất biết Voltaire ngự sử của mình, đã phán:

    Có thể ví Voltaire như một cây cổ thụ, tàn lá xum xuê, rợp mát nhưng có trái độc. Ngồi dưới bóng nó mà hóng mát thì sướng lắm, còn ăn quả của nó, thì coi chừng trúng độc.

    ----------------------------

    Happy Mother's Day -
    05/09/2010



    2010










  4. #4
    nho ^°O°^ suongkhoimay's Avatar
    Join Date
    Mar 2006
    Posts
    4,519

    Default Re: Viết Cho Mẹ và Quốc Hội Nguyễn văn Trấn,(ST)


    Viết Cho Mẹ và Quốc Hội

    Trái lành cho tuổi già là những trái này:

    Baron de Montesquieu

    (1639-1735)

    Ông có nói, ông bằng lòng sự sống của ông nên không ngớt dồi mài:

    Lý do thứ nhứt là sự tự bằng lòng về tánh ưu việt của mình, là coi việc làm của mình sẽ làm cho con người đã thông minh càng được thông minh.

    Cũng có duyên do khác nữa là hạnh phúc mà chính ta tìm thấy trong tình yêu học hành. ở tôi dường như đó là một say mê suốt đời. Nó gắn bó với ta, trong khi mà nhiều đam mê khác lần lượt rời bỏ ta.

    Phải lấy sự say mê học hành mà tạo ra hạnh phúc bền vững, bám theo ta qua mọi thử thách của từng độ tuổi.

    Vả lại kiếp sống là ngắn ngủi, ngoài hạnh phúc đó thì còn có hạnh phúc nào, còn có đại hạnh phúc nào mà có sức sống dai.

    Phải là một ý định tốt đẹp đây không? là làm việc để để lại, sau chúng ta những người sung sướng hơn chúng ta?

    Tôi luôn luôn cảm nhận một niềm vui âm thầm khi mà tôi đã làm một cái gì đó cho lợi ích chung.

    Jean Jacques Rousseau

    (1712-1778)

    Ông viết trong thơ cho nhơn tình mà lại nói sự đời:

    Những người mà tôi mang ơn sanh thành; những người cung phụng cái tôi cần, những người khai hóa tâm hồn tôi; và những người đã truyền cho tôi những bản lãnh của họ.

    Những người ấy, giờ đây có thể là không còn,

    nhưng những tục lệ tốt đẹp mà tôi đã luyện tập

    theo thành thói quen mà ai thấy cũng khen; những

    sự giúp đỡ sẵn sàng đón lấy sự đòi hỏi của

    tôi; quyền tự do công dân mà tôi được hưởng, tôi

    mà có được các cái đó là nhờ có sự giám sát

    của xã hội, nó hướng dẫn sự chăm sóc người

    dân; nó giám sát và điều khiển sự ân cần đối với phúc

    lợi của mọi người. Nó đã dự phòng những

    cái mà khi ra đời tôi sẽ cần, và nó sẽ

    làm cho nắm xương khô của tôi được chiêm bái khi tôi đã chết.

    Như vậy chư vị ân nhân của tôi có thể đã chết rồi,

    nhưng mà chừng nào trên mặt đất hãy còn

    có con người, thì tôi buộc phải trả cho loài

    người cái ơn về những điều tốt đẹp mà tôi đã thọ lãnh.

    Charles Robert Darwin

    (1803-1880)

    Nếu tôi được hân hạnh sống lại lần thứ hai thì tôi sẽ đặt cho mình một kế hoạch đọc bao nhiêu thơ, nghe bao nhiêu nhạc, ít nhất là mỗi tuần một lần. Có lẽ bằng cách rèn luyện như vậy, tôi có thể làm cho bộ não của mình không bao giờ bị già cỗi. Nếu thiếu những đam mê đó thì hạnh phúc sẽ bị phí hoài, và có thể điều đó sẽ ảnh hưởng không tốt đến trí lực, thậm chí đến cả tinh thần nữa, vì nó làm giảm khả năng nhạy cảm của chúng ta đối với thiên nhiên.

    Đó là, tôi có một tư tưởng: Đền ơn.Muốn

    cho nó ăn mặc đẹp.

    Soi đường đền ơn

    Tôi học chưa hết năm thứ nhứt tú tài, là

    tôi về.

    O°n ỉ với má:

    Cho con đi Tây. Nè nghe. Con mà học được nghề làm giấy, con mởhãng nuôi một tốp con nít; ban ngày nó đi lượm giẻ rách ban đêm chúng nó học. Nhà mình giàu, làm vậy có phước lắm.

    Khi còn ởnhà trường, tôi lâu lâu lại giở tự điển ra coi chỗ nói về nhà trường cao đẳng xã hội học ởParis và trường dạy nghề làm giấy.

    Tôi mơ ước học được Ecole des hautes études sociales de Paris hoặc Ecole de papeterie de Grenoble.

    Má tôi đem lời xin của tôi mà đi tâu.

    Cậu tôi hứ, với lý do là gia quyến tôi đã từng cho hai đứa đi Tây. Khi về nước một đứa là Nguyễn Văn Į đi làm việc ởtrường Bá Nghệ, một đứa nữa là Nguyễn Văn Thế cầm đầu cuộc biểu tình An Lạc, đi từ đình Tân Túc thẳng vào khám lớn, ngồi tù hai năm.

    Vậy là thang mây của tôi bị hẫng.

    Tôi ởnhà đọc sách và tập viết.

    Tôi cũng lại coi trong tự điển mà thấy nói Karl Marx

    là tác giả của tác phẩm thiên tài,

    Tư Bản Luận (Le Capital)

    Tôi chia tuần lễ ra hai. Một nửa ởnhà. Một nửa đi ngồi thư viện Lagrandière (bây giờ là thư viện Khoa học xã hội).

    Nên cô đầm ởthư viện, có nhiều buổi, mỉm cười mà đặt trước mặt người độc giả sáng sủa quyển La Marchandise (hàng hóa) của ông Marx, mà thư viện chỉ cho mượn cuốn sách bộ phận ấy của Le Capital.

    Má tôi luôn luôn kêu tôi dậy theo tiếng chuông công phu của Chùa Sùng Phước, ởgần.

    Tôi viết, viết theo sách nào đó đã dạy. Tập viết thì nên viết nhật ký, văn nó trôi chảy mà đề tài lại nhiều, cũng đáng ghi mà để lại.

    Và đó cũng là làm theo...

    Để tôi nói cho bạn nghe nha!

    Tôi không rời Sách Của Bạn Tôi.

    Trong đó, Anatole có đoạn viết là Ghi khi tảng sáng. Tôi lấy đó mà cho vào nhật ký, coi như là bài học cũng Ghi vào lúc rạng đông.

    (Tất nhiên bây giờ, để giới thiệu cho bạn tôi phải nói ra bằng tiếng mẹ đẻ, dựa theo văn dịch của Hương Minh).

    Đây là sự thu lượm qua một đêm đông: cái bó kỷ niệm đầu tiên của tôi. Tôi để cho gió cuốn nó đi sao? Hay là bó nó lại và đem vào bồ? Tôi nghĩ rằng nó sẽ là một thức ăn bổ dưỡng tinh thần.

    Con người ưu tú và thông thái bực nhứt đời nay là ông Littré, ông ước muốn mỗi gia đình đều có những lưu trữ văn thư và quyển sử tinh thần của nó. Ông nói, từ khi mà một nền triết học tốt đẹp đã dạy tôi biết đánh giá cao truyền thống và sự bảo tồn, thì lắm lúc tôi tiếc rằng suốt thời kỳ Trung Cổ, có những gia đình khá giả không hề nghĩ đến việc đóng những quyển sổ nho nhỏ để ghi chép những sự kiện chính trong lịch sử gia tộc, để truyền lại cho nhau. Chừng nào gia đình còn tồn tại. Dẫu sơ sài đến đâu, nếu còn lại cho đến nay, những ghi chép đó là bao nhiêu điều lý thú. Đã mất đi biết bao tri thức và kinh nghiệm mà nếu có một chút cẩn trọng một chút kiên trì là đã cứu vớt được!

    Và tôi cũng mượn lời sách nói:

    Về phần tôi sẽ thực hiện ý muốn của lão

    hiền giảđiều này sẽ được giữ gìn và

    nó sẽ khởi đầu cuốn sổ của gia đình...

    Không nên để mất bất cứ cái gì của quá khứ. Vì chỉ bằng quá khứ người ta xây đắp tương lai.

    (Tiếc thay, nhựt ký của tôi đã bị xét nhà mà lấy hết. Thôi thì lấy lòng kính trọng quá khứ mà đọc quyển sách này!)

    Và:

    Hỡi anh em nông dân

    Lực lượng tranh đấu của Quần chúng Pháp đã đưa chánh phủ Mặt trận Bình dân lên nắm chính quyền.

    Tuy sự thành công này nó mới chỉ là cuộc thắng lợi của Bình dân nhưng nó rất có ảnh hưởng đến cuộc toàn thắng tương lai của vô sản giai cấp và cấp thời nó dìu dắt và ủng hộ sự tranh đấu của DANCHUNG lao khổ bị đè nén ởthuộc địa.

    Chánh phủ mặt trận Bình dân muốn có cuộc cải cách ởthuộc địa, nên sẽ phái ủy Ban Điều Tra sang đây để xem xét tình hình xã hội Chánh trị và cuộc sinh hoạt của DANCHUNG .

    Hỡi các anh lao nông

    Hèn lâu ta bị ngộp hơi, nín thở

    Quyền lợi của chúng ta bị cướp bóc

    Trăm ngàn thứ sưu thuế ép nặng trên lưng

    Ta cần phải tranh đấu, có tranh đấu mới mong đặng sống tự do hơn, sung sướng hơn.

    Ta hãy nhận thức rằng: trong lịch sử giai cấp tranh đấu, những quyền lợi thực hiện là cái giá của biết bao nhiêu sự chiến đấu nhọc nhằn khe khắt mà lịch sử có dịp nói đến những cảnh giết hại thây phơi thành núi, máu chảy tợ sông.

    Mình nằm không, không ai biết mình đòi gì mà cho mình.

    Phương chi nay chính phủ Mặt trận bình dân đưa tay cho mình nắm lấy, mởđường tranh đấu cho mình mà mình lại bỏ qua thời cơ tốt để cho chính phủ biết rằng sự lao khổ của ta đến đây đã quá nước rồi, để đòi chính phủ phải khẩn cấp thi hành những nguyện vọng thiết tha của ta để kiếp sống của ta có đôi chút giá trị, để đời ta đặng hưởng phần hạnh phước như tất cả nhân loại dưới bóng mặt trời sao?

    Thời kỳ khủng bố đã qua! Chúng ta chẳng phải là bọn phiến loạn chủ trương khuynh phúc kẻ đương cuộc xứ này, chỉ là một đám dân lao khổ tranh đấu cho sự sanh tồn.

    Chớ trông chờ nơi nhà chánh trị đại gia nào. Anh em nông dân hãy liên hiệp mà trực tiếp lấy ủy Ban Điều Tra Quyền lợi của nông dân, hoàn cảnh khốc hại của nông dân, không phải là nông dân thì ai thấu đáo đặng? Xứ ta là một xứ nông nghiệp. Đa số dân chúng đều sống trong nghề nông. Thì còn quyền lợi nào hệ trọng cho bằng quyền lợi của nông dân?

    Anh em nông dân hãy kịp liên hiệp lại hưởng ứng với đám thợ thuyền ởthành phố, tổ chức ởchốn thôn quê, các đồn điền vô số ủy ban hành động để dự thảo bản thỉnh cầu mọi nơi mà lập ra bản thỉnh cầu hiệp nhứt để trình cho ủy Ban điều tra kịp khi họ bước đến đất nước xứ nầy.

    Anh em Nông dân ta hãy liên hiệp lại để chấn động phong trào giác ngộ về quyền lợi của giai cấp, để tăng gia lực lượng tranh đấu của quần chúng họa may trong xứ này lần thứ nhứt mới thấy đặng một cuộc đại cải cách thỏa hiệp với hoàn cảnh Dân Chúng chăng?
    _______________________________




    2010










  5. #5
    nho ^°O°^ suongkhoimay's Avatar
    Join Date
    Mar 2006
    Posts
    4,519

    Default Re: Viết Cho Mẹ và Quốc Hội Nguyễn văn Trấn,(ST)


    tthấy viết sao cóp bi(vì coi cọp mà!)

    ---------------------------------------




    ủy ban địa phương Chợ Đệm hiệu triệu

    NGUYEN V¡N TRAN

    L£ V¡N NGA°

    NGUYEN V¡N THڊ

    L£ V¡N NHI°

    Hỏi thăm điều chi xin do nơi Mr NGUYEN V¡N TRAN.

    Trời rựng sáng

    Sao Mai mọc trong đời tôi.

    Bên Pháp có Chánh phủ Mặt trận bình dân

    Bên ta trí thức và tư sản Sài Gòn làm.

    ĐÔNG DƯƠNG ĐAI HOI

    Tôi dầm mình trong phong trào. Tôi viết tờ truyền đơn cho ủy ban hành động của Chợ Đệm. Bạn thấy tờ truyền đơn đó. Tôi như thấy lại tôi cách đây 58 năm.

    Các ủy ban hành động của tỉnh Chợ Lớn (như các tỉnh khác) họp lại làm ra một cái Liên ủy.

    Tôi được bà con thương: thằng con nhà giàu có học không làm việc cho Tây, với bà con cô bác thì nhứt nhứt trình thưa giặm dạ.

    Người ta mừng cho tôi được cử làm chánh của Ban thơ ký: Trấn Trân Lộc.

    Ba thằng họ Nguyễn:

    Nguyễn Văn Trấn tự là Xồi có đi học bên Nga, về nước còn mang tên Nga là Frigorne, tham gia hoạt động cộng sản, bị bắt, bị tra tấn dữ lắm, chịu đựng anh hùng.

    Nguyễn Văn Lộc tướng tá ăn mặc áo vá, cẳng phèn rất là nông dân, nhưng nói năng với nhiều chữ chỉ có người có chức gì đó trong Đảng Cộng sản mới nói được. Anh ta ởBến Lức. Trân ởPhú Lạc. Tôi Chợ Đệm.

    Tôi cầm chèo lái viết tờ truyền đơn dài nhứt trong lịch sử truyền đơn. Người ta gọi nó là tờ truyền đơn tám trang. Văn viết mướt lắm, theo Trương Vĩnh Ký hiểu:

    Lời nói không dùng tiếng cao kỳ, cứ thường

    thiệt sự mà nói rõ ràng dễ hiểu.

    Tờ truyền đơn này đề tựa là lời kêu gọi.

    Hỡi quần chúng lao khổ ởĐông Dương

    HAY ĐƯNG DẤY

    Tờ truyền đơn này, ngày nay không ai còn cất. Đó là bài văn của tôi thi vào Đại học - Cuộc đời.

    Anh Hà Huy Tập

    (tôi chưa biết tên, nhưng gọi ngay cho dễ nói)

    cho gọi tôi lên Bà Điểm, để coi thằng nhỏ ra sao.

    Anh Bảy Trân dẫn tôi... ở nhà của chị hai Sóc tôi được gặp anh Tập. Múa tay trong bị. Tôi coi là một buổi trước ngọn tọa đăng rọi hai mặt thầy và trò, tôi ra mắt Đảng.

    (Trong lý lịch tôi ghi ngày vào Đảng ngày này)

    Anh Hà Huy Tập khen tờ truyền đơn có những tiếng nói trẻ con, làm động lòng người ME³, làm cho người ta thương thân phận anh nông dân nghèo, quanh năm chân lấm tay bùn, mồ hôi nước mắt chan cơm.

    Tới đầu năm 1937, Jules Brévié sang trấn nhậm toàn quyền, Justin Godard sang thanh tra tình hình lao động, anh Tập đã biểu Chợ Đệm lấy tờ truyền đơn, in phát cho dân làm biểu tình đón rước.

    Còn ngay bây giờ anh lấy một mảnh giấy nhỏ viết cho Thanh Sơn giới thiệu người bạn trẻ này đến làm việc với các anh. Ký tên: Đố biết ai?.

    Báo Dân Chúng đây!

    Đảng cho tôi làm nghề VIET BAO.

    Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó.

    Nhưng bụng cô thiếu nữ cũng nói thầm: thằng đó mình cũng ưng.

    Trong bụng tôi thì có tiếng nói của triết gia Joubert:

    Heureux celui qui n'est propre qu'à une seule chose, en la remplissant il remplit sa distinée.

    nghĩa là:

    Sung sướng thay cho ai chỉ hữu dụng có một việc gì, cứ làm tròn việc ấy là đã thỏa lòng với kiếp sống.

    Đầu hết là viết báo Le Peuple (mà anh cộng sản Honel thay cho tên L'Avant-garde).

    Tôi nhớ tới bây giờ:

    Anh Nguyễn An Ninh ra tòa để trả lời cuối cùng của chánh phủ (l'ultimatum du gouvernement)

    Sao nhà nước đã ra lịnh cho các anh giải tán cái Đại hội Đông Dương, mà sao các ủy ban hành động, hãy còn?

    Nguyễn An Ninh đáp:

    Hãy coi Đông Dương Đại hội là của tôi đi,

    thì được lịnh giải tán thì nó giải tán rồi.

    Còn ủy ban hành động là của quần chúng,

    tôi có quyền gì mà giải tán nó.

    Tôi đang làm phóng viên, đứng gặm viết chì nghe, ghi phiên

    tòa xử. Khi viết tường thuật, nhơn cái lời

    nói cuối cùng của chánh phủ tôi nghĩ ra lời

    nói cuối cùng của Nguyễn An Ninh mà cho

    chạy tít: l'ultimatum au gouvernement. Có nghĩa là lời cuối cùng (của Nguyễn An Ninh) nói với nhà nước.

    Anh Ninh đang ngồi khám.

    Chiều thứ bảy, chị Hai Sóc vào thăm. Khi về chị tạt qua tòa báo Le Peuple, chị cười và nói với tôi:

    Mầy viết báo thế nào, anh Ninh nói: thằng Trấn viết chữ Tây thế này thì tôi ởtù rục xương.


    còn tiép 621ê

    __________________
    *
    *



    2010










  6. #6
    nho ^°O°^ suongkhoimay's Avatar
    Join Date
    Mar 2006
    Posts
    4,519

    Default Re: Viết Cho Mẹ và Quốc Hội Nguyễn văn Trấn,(ST)



    tiếp.---------->Viết Cho Mẹ và Quốc Hội Nguyễn văn Trấn,(ST)

    Tôi kể công trong sự ra đời của báo ở Sài Gòn vừa xảy ra:

    Ông Tây Cendrieux, chủ một nhà in nhỏ ở đại lộ Bonard (nay là Lê Lợi) làm khai, ra báo quốc ngữ lấy tên là Dân Quyền. Người An Nam, giáo sư Võ Thành Cứ đứng tên Gérant.

    Báo ra, bị hốt. Cendrieux kiện tới bên Tây. Bên Tây cho Cendrieux thắng kiện.

    Nhưng nhà nước thuộc địa bỏ gì trong tai, trong túi ông, ông nghỉ chơi luôn.ông đây thầy, nóng hổi vừa thổi vừa đọc đây.

    Xe cây bóp kèn cháy đâu, cháy đâu chở lính không phải đi chữa lửa mà đi vừa đánh trẻ
    em, vừa thu báo, của Hoàng Minh Đẩu, được Nguyễn Văn Hảo chủ rạp hát cho 150 đồng, ra báo Cái chuông có ý tưởng nhớ Nguyễn An Ninh với báo Cái Chuông rè và làm cho dân Sài Gòn có chuyện cười chơi.

    Rồi đến, có ai đâu lạ! Ta!

    Hôm đó có chuyện tôi đến phòng Trạng sư Trịnh Đình Thảo.

    Ông nói với tôi về quan hệ giữa đạo luật và sắc luật. Sắc luật không thể thay đổi, thậm chí hủy bỏ một đạo luật. Như về Tự do báo chí.

    Quốc hội Pháp thông qua Tự do báo chí.

    Bên này Toàn quyền lại ra sắc luật, ra báo phải xin phép. Như vậy là chống hiến pháp rồi. Ông Trịnh Đình Thảo lấy luật ra mà khuyên... Tôi về nói với Chị Hai Sóc: cho tôi gặp.
    Và tôi đã được gặp người cũ Hà Huy Tập và người mới Nguyễn Văn Cừ. Và Đảng đã cho ra báo, vượt qua phép của Tây. Việc này, hồi đó ai cũng khen sức chạy của tôi cho tờ Dân Chúng ra đời thắng lợi, mà ở trong đã viết bài ăn thôi nôi.

    Dân Chúng của các bạn đã được một tuổi.

    Ngày hôm nay là ngày kỷniệm đệ nhất chu niên của tên lính tiên phong cho Tự do báo chí xứ này tức là tờ Dân Chúng yêu quí của các bạn. Dân Chúng được một tuổi. Một năm chiến đấu để nâng cao trình độ tinh thần của quốc dân, chống thế lực phản động. Một năm dằn vặt với tài chánh để cho tờ báo được luôn luôn hầu chuyện cùng quốc dân. Ba trăm sáu chục ngày sống và làm việc của Dân Chúng cần phải đem ra đây cho các bạn yêu quí của nó được biết.

    Một năm qua!

    Nhớ lại những lúc bắt đầu đem in tờ báo D.C số 1, chúng tôi không sao quên chí cương quyết hy sinh và làm việc của các bạn trong tòa báo. Chúng tôi bây giờ và ngày nay cũng thế, chỉ nhờ sức ủng hộ của độc giảđem hết tài lực phụng sự cho quốc dân. Kiếm được 100 đồng bạc và căn cứ vào vụ báo Dân Quyền, chúng tôi quyết định cho ra tờ báo không xin phép, chúng tôi đưa khai báo cho biện lý cuộc đúng theo luật Tự do báo chí. Biện lý cuộc gởi lại cho chúng tôi lúc bấy giờ, biên lai chứng nhận (récépissé), một phần mừng cho chúng tôi.

    Chúng tôi liền đi tìm nhà in. Tới đâu đưa récépissé ra làm bằng để mướn in, nhưng không một ông chủ nào dám nhận in tờ báo của chúng tôi. Mãi đến 19-7-1938 Mr Fauquenot chủ nhà in S.A.T.I chịu in với giá rất mắc; chúng tôi cũng vui lòng.

    Với số tiền dự bị ít ỏi, với một giá in rất cao, chúng tôi định ra 3 số liên tiếp mặc dầu nhà cầm quyền có thể đến tịch thu, nên chúng tôi đành cho ra 4 trương cỡ nhỏ. Chúng tôi quả quyết hy sinh. Trong lúc làm việc cứ chờ nhà cầm quyền đến và chúng tôi đã sẵn có những câu trả lời. Chúng tôi cũng dự bị hoàn cảnh khiến nên, cho một vài người của chúng tôi nằm khám để gây ra một dư luận rầm rộ, rộng rãi về Tự do Báo chí của một dân tộc mất hết quyền tự do. Khi ngồi lại nhà in để sửa bài, một tiếng động một tiếng còi xe hơi đã làm cho chúng tôi hồi hộp tưởng chừng xe hơi của nhà cầm quyền đã đến.

    Hết sắp chữ đến lên khuôn và in ra máy số đầu, chúng tôi đã sống trong sự hồi hộp và sự vui mừng khoan khoái. Máy chạy báo in ra từng số càng chồng chất lên cao, chúng tôi lại càng vui mừng hơn nữa.

    In xong 1000 tờ báo, trời đã chiều tối, chủ nhà in lại làm khó dễ. Như mọi tờ báo đã xin phép, cứ đem depôt légal 6 tờ là được. Đằng này không. Ông chủ nhà in buộc để đúng giờ làm việc và có chữ của Biện lý cuộc mới được lấy báo.

    Đêm ấy 21 tháng Bảy 1938 chúng tôi ởlại nhà in nài nỉ, xin lấy báo ra đặng phát hành nhưng vô hiệu. Mưa tầm tã. Chúng tôi vẫn đi đi lại lại để thăm chừng mấy số báo ông chủ cho người canh gác để coi mấy tờ báo nhỏ nhít ấy ngày mai được chào quốc dân hay là phải vào kho của Sở mật thám.

    Mặc dầu ông chủ nhà in không cho lấy trước một tờ báo nào, chúng ta trà trộn một hồi cũng giấu được 10 số và trời mưa xối xả chúng tôi cứ việc đạp xe máy đem về cất để dành. Nếu có trởngại, chúng tôi cũng đã có một số báo để làm kỷ niệm.

    Sáng ngày 27-7-38, tức là ngày hôm nay năm ngoái, sau khi được chữ ký của biện lý, ông chủ nhà in mới cho lấy báo. Tức thì tờ Dân Chúng, số 1 bán 2 xu bay ra khắp thành phố Sài Gòn và các nơi trong xứ. Ngày ấy biện lý cuộc cho đòi người quản lý để hỏi cách thức ra báo hằng ngày hay hằng tuần, cỡ lớn hay cỡ nhỏ mà thôi.

    Các giới thợ thuyền, nông dân và các phần tử khác trong xứ đều vừa hoan nghinh, vừa ngạc nhiên thấy tờ Dân Chúng được xuất bản không xin phép. Mỗi ngày chúng tôi được không biết bao nhiêu thơ từ, hoan nghinh, khuyến khích ủng hộ gởi đến. Liền đó chúng tôi đến viếng những nhà tai mắt các nhà báo xứ này. Người nào cũng công nhận việc làm ấy là hy sinh chánh đáng.

    Báo Dân Chúng liền vọt lên 2000 và nhờ tiền ủng hộ của các nơi gởi đến khá nhiều nên chúng tôi cho ra hai lần một tuần và chỉnh đốn bài vởcho đúng đắn. Chúng tôi can thiệp ngay đến vấn đề chia đất công điền cho dân nghèo mướn và bỏ thuế thân. Đến số 4 báo lên đến 3000 rồi 3500. Các nơi anh chị em gởi bài vởtin tức về rất nhiều nên đến số 9 chúng tôi cho in tới 4000 và thêm 2 trương. Càng tiến tới mà không có gì trởngại, chúng tôi sửa lại nội dung và hình thức cho xuất sắc hơn nữa.

    Tới số 10, chúng tôi cho ra cỡ lớn với giá 3 xu.

    Các tờ báo khác cũng dựa theo báo Dân Chúng mà ra mắt độc giả. Một sự thắng lợi vẻ vang cho sức chiến đấu của dân tộc ta từ mấy mươi năm mà nhứt là từ những năm 30-31 và Đông Dương đại hội. Báo cứ giữ y số 4000 mãi đến số 28, kỷniệm 21 năm cuộc Cách mạng tháng Mười ởLiên Xô, số báo lên 6000. Đến khi kỷniệm 9 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, số báo nhảy vọt đến 10.000.

    Từ đó vua Bảo Đại cấm lưu hành báo Dân Chúng ởTrung Kỳ nên báo đành sụt xuống 7000.

    Cứ như thế sau nầy, vua Cao Mên cũng bắt chước cấm báo Dân Chúnglai vãng đến Kim Thành, số báo còn 6000.



    còn
    _______________




    2010










Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts