Results 1 to 2 of 2

Thread: Khi nào nên tụng CHÚ ĐẠI BI?

  1. #1
    Senior Member
    Join Date
    Dec 2008
    Posts
    171

    Default Khi nào nên tụng CHÚ ĐẠI BI?

    Quote Originally Posted by siublack
    Em nam nay duoc 44 tuoi. Em co' duyen nen tinh co biet den Chu Dai Bi trong website o trang YouTube. Rat tiec la` em chua hieu gi` nhieu ve Chu Dai Bi ngoai` nhung loi` tung trong kinh. De giup em trong chuyen tu tap, rat mong quí đạo hửu giup giai thich dum` cho em duoc biet rang` khi nao` thi` nen tung Chu Dai Bi va` Chu Dai bi thuong duoc su dung trong nhung truong hop nao`. Em co' nghe noi' Chu' Dai Bi rat linh ung trong nhung truong hop giup cho nhung nguoi` bi ma quy? am', dieu nay co' dung ko anh? Rat mong anh vui long` chi day dum`. Thanh` that cam on quí đạo hửu truoc that nhieu.
    Bạn, Trong truyện "Đậu Du Bằng" rút ra từ cuốn "Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh có câu "Mỗi ngày ông tụng tối thiểu là 108 biến, mà thông thường là nhiều hơn thế ". Như vầy bạn có thể tụng Chú Đại Bi mỗi ngày. Muốn tìm hiểu thêm Chú Đại Bi thì mời bạn đọc cuốn sách ở đường link cuối bài. Xin phép mang câu hỏi của bạn theo truyện này đi nơi khác cho mọi người có duyên với Chú Đại Bi nhé. Nice day. BM

    ĐẬU DU BẰNG




    Thuở trước, có một người nọ trì tụng Chú Ðại Bi đã được khoảng mười hai năm. Trong suốt mười hai năm ấy, ông chẳng gặp chuyện gì gọi là kỳ diệu nhiệm mầu cả—Chú Ðại Bi chẳng biến ra cơm cho ông ăn, cũng chẳng làm ra áo quần cho ông mặc—thế nhưng, ông vẫn tin tưởng và chăm chỉ, đều đặn trì tụng Chú Ðại Bi. Mỗi ngày ông tụng tối thiểu là 108 biến, mà thông thường là nhiều hơn thế.

    Một lần nọ, ông đi chơi xa và phải ngủ qua đêm ở nhà trọ. Tại Trung Hoa, ở một vài địa phương có loại quán trọ gọi là "hắc điếm." Hắc điếm là gì? Ðó là một thứ nhà trọ trá hình của bọn cướp. Bọn cướp này cũng tương tự như thổ phỉ vậy; có điều, thổ phỉ thì ra chận đường người ta mà cướp bóc, giết hại, còn chúng thì ở trong nhà chờ đợi. Khi có khách tới quán của chúng tá túc, thấy khách mang theo tiền của, hoặc đeo nhiều vàng bạc châu báu, ra vẻ khách buôn giàu có, thì chúng liền đưa khách đến một căn phòng nhỏ khá tươm tất và có cửa riêng để chúng có thể ra vào dễ dàng. Sau đó, chúng lén bỏ thuốc mê trong rượu cho khách uống và đến khuya, thừa cơ khách ngủ mê mệt, chúng lẻn vào đoạt hết tiền bạc, đôi khi còn giết người luôn nữa.

    Người trì tụng Chú Ðại Bi này ở trọ trong hắc điếm cũng được mời uống thứ rượu có bỏ thuốc mê, nhưng vì thâm tín Phật Pháp nên ông không uống rượu; do đó không bị trúng thuốc mê. Ðến nửa đêm, đang ngủ ông chợt nghe có tiếng chân người tiến vào phòng mình. Ông hé mắt nhìn ra, nhác thấy bóng một lưỡi dao sáng loáng, ông sợ đến cứng cả người, tự nhủ: "Người này cầm dao đến hẳn là để giết mình đây!"

    Ngay lúc đó, bên ngoài bỗng có tiếng đập cửa. Chủ quán—kẻ âm mưu giết người—giật mình giấu vội con dao, lẻn ra khỏi phòng, rồi hỏi vọng ra: "Ai đó? Ai gọi cửa đó? Who are you? Who?"

    Người ngoài cửa đáp: "Tôi đây! Tôi họ Ðậu, tên Du Bằng. Tôi có một người bạn ở trọ trong quán ông. Ông ấy tên là ... Nhờ ông nhắn lại là tôi mời ông ấy sáng mai đến nhà tôi ăn điểm tâm nhé!"

    Chủ quán mở hé cửa nhìn ra thì thấy một người đàn ông trang phục giống như cảnh sát, liền nghĩ: "Thì ra viên cảnh sát này có quen biết với người mà mình định giết. Ông ta là bạn của cảnh sát! Cảnh sát đến mời ông ấy sáng mai đi ăn điểm tâm!" Vì thế, đêm ấy gã chủ quán không dám ra tay giết người.

    Sáng hôm sau, chủ quán nói với ông khách trọ chuyên trì Chú Ðại Bi: "Ông có người bạn tên Ðậu Du Bằng đến tìm tối qua. Lúc đó đã khuya lắm rồi, mà ông cũng đã đi ngủ nên ông ấy không muốn đánh thức ông dậy. Ông ấy muốn mời ông hôm nay đến nhà ông ấy ăn sáng."

    Ông này vừa nghe đến mấy tiếng "Ðậu Du Bằng" thì cảm thấy rất quen thuộc. Sực nhớ ba chữ ấy vốn ở trong bài Chú Ðại Bi, ông chợt hiểu ra ngay, bèn nói: "Ðúng rồi, ông ấy là bạn tôi đấy. Chúng tôi có hẹn gặp nhau sáng nay, chốc nữa tôi đến nhà ông ấy ăn sáng."

    Người này lọt vào sào huyệt của bọn cướp mà không bị chúng giết hại là nhờ có trì tụng Chú Ðại Bi. Do đó, quý vị đừng cho rằng trì tụng Chú Ðại Bi là chẳng có ích lợi. Ðến lúc quý vị gặp nguy hiểm, sanh mạng của quý vị bị đe dọa, bấy giờ quý vị mới nghiệm ra được diệu dụng mầu nhiệm của Chú . Tuy nhiên, hiện tại quý vị chưa gặp chuyện bất trắc, nguy hiểm tới tánh mạng, thì cũng chưa cần đến sức gia hộ của Chú Ðại Bi. Vậy, quý vị chỉ nên thành tâm chuyên cần trì tụng là đủ, và chớ bận tâm về việc Chú Ðại Bi có trợ giúp gì trong vấn đề cơm ăn áo mặc của mình hay không!

    Trích @ http://www.dharmasite.net/daibidalani1.htm

    Thiên Thủ Thiên Nhãn
    Quán Thế Âm Bồ Tát
    Quảng Ðại Viên Mãn
    Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh

    Hán dịch: Ðường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Ðạt Ma
    Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Hòa Thượng Tuyên Hóa.



  2. #2
    Senior Member
    Join Date
    Dec 2008
    Posts
    171

    Default Re: Khi nào nên tụng CHÚ ĐẠI BI?





    KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
    QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT - Phổ Môn Phẩm
    HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA Lược Giảng


    Đọc @: QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT - Phổ Môn Phẩm

    Nghe audio @: QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT - Phổ Môn Phẩm

    Một câu chuyện hay từ cuốn sách:

    LƯU TIÊN SINH TAY HEO


    Ðịa ngục có phải giống như nhà tù ở thế gian không? Do người ta làm ra cái nhà rất chắc chắn, chờ khi có người phạm tội thì đem nhốt vào đó chăng? Không phải thế! Ðịa ngục là do tội ác của mỗi cá nhân mà hiện ra. Quý vị tạo ác nghiệp sát nhân thì sẽ có địa ngục sát nhân hiện ra; tạo tội ác đốt nhà thì sẽ có địa ngục đốt nhà hiện ra. Bởi tạo ác nghiệp gì thì sẽ có địa ngục đó hiển hiện, vì thế chủng loại địa ngục không có nhất định. Ðến khi trả nghiệp xong rồi thì địa ngục ấy sẽ tự biến mất. Nghiệp chưa hết thì địa ngục vẫn còn.

    Tại Mãn Châu nơi sinh quán của tôi, ở huyện Du Thọ có vị "Lưu tiên sinh tay heo," ông ta có thể nhớ được việc trong ba đời trước của mình.

    Ðầu tiên, ông ta là một người con có hiếu đối với cha mẹ, sau đó được đầu thai làm con nhà giàu. Cha ông ta hơn bốn mươi tuổi mới sanh được đứa con trai là ông. Ðến năm ông ta mười ba tuổi, cha mẹ cưới cho ông một cô vợ lớn hơn ông một hay hai tuổi. Cha ông ta tuy đã trên năm mươi nhưng vẫn còn cường tráng lại cưới thêm một cô vợ lẽ, cô vợ này suýt soát tuổi con dâu. Lưu tiên sinh có vợ không đầy hai năm, sanh được một đứa con trai. Ðợi cho con mình mười ba tuổi, ông ta lại cưới vợ cho con, cô con dâu lại lớn hơn con ông mấy tuổi. Chẳng bao lâu, cha mẹ ông ta lần lượt qua đời, chỉ còn lại người vợ lẽ của cha ông thôi. Ông ta thấy bà vợ lẽ của cha quá đẹp bèn chiếm luôn làm vợ mình. Sau đó không lâu, con ông ta lại chết, ông ta lại thấy cô con dâu dung mạo cũng mỹ miều bèn lấy dâu làm vợ nốt. Thế là, bà má nhỏ cũng là vợ, nàng dâu cũng là vợ tuốt; đó gọi là "trên thì giựt mẹ, dưới thì giành dâu." Lúc đó ông ta chừng hai mươi tám hay hai mươi chín tuổi thôi.

    Ðến chừng quá bốn mươi tuổi, ông ta mới bắt đầu tỉnh ngộ, tự nghĩ: "Ôi, cả đời mình gây ra tội ác quá nhiều! Lấy mẹ kế làm vợ, bắt con dâu làm vợ, thiệt là tội không phải nhỏ!"

    Bấy giờ ông ta mới tu tập, tin Phật, tụng kinh, chuyên trì Kinh Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật. Tụng được mười mấy năm, đến lúc ông năm mươi mấy tuổi thì chết. Chết rồi thần thức ông đến trước vua Diêm La. (Vua Diêm La là ông vua quản lý tất cả quỷ ở địa ngục, rất là dữ tợn, mặt đen sì sì không vị nể ai hết). Vua Diêm La hỏi:

    - Tại sao cả đời ngươi toàn làm ác cả vậy? Bây giờ phải thả ngươi vào ngục dầu sôi, dùng vạc dầu để chiên ngươi mới được!

    Nói rồi kêu hai con quỷ kéo ông vào ngục vạc dầu, bấy giờ có vị phán quan ở kế bên nói: "Không thể được!"

    - Tại sao? Vua Diêm La hỏi,

    - Tại vì ông ta có tụng Kinh Kim Cang. Bây giờ bụng nó đầy Kim Cang trong đó. Phải cho ông ta mửa hết kinh ra rồi hãy đem đi nấu dầu.

    Thế là vua Diêm La cho ông ta đầu thai làm người. Ông đầu thai vào một gia đình rất nghèo, cha mẹ chuyên bán đồ điểm tâm. Ðứa bé sinh ra đặc biệt từ nhỏ rất thích ăn uống, ăn uống đến nỗi bụng tích lại càng lúc càng to. Ðến chừng đứa bé năm tuổi, vì bụng trướng quá lớn mà chết. Sau khi đứa bé chết, cha mẹ nó cùng bàn với nhau: "Bụng thằng bé này tại sao lại lớn quá vậy? Chắc là có cái gì trong đó. Chúng ta mổ ra xem thử!" Họ bèn mổ bụng đứa bé ra, thấy trong đó có một vật cứng như đá kim cương. Con quỷ ở kế bên nói: "À, bây giờ thì bắt nó đem nấu dầu được rồi đấy!" Nó bèn dẫn ông ta về gặp vua Diêm La, vua nói:

    - Bây giờ, bắt nó đầu thai làm heo trước đã!

    Ông ta lại đầu thai làm heo, được người ta vỗ béo rồi đưa đi làm thịt. Sau đó, ông ta lại trở về địa ngục để chờ đem đi nấu dầu. Ông ta nói với vua Diêm La:

    - Ngài không cần nấu tôi nữa, cho tôi về nhân gian đầu thai làm người đi! Và xin Ngài lưu lại cho tôi một bàn tay heo làm bằng chứng để tôi khuyên người đời không nên tạo nghiệp ác.

    Vua Diêm La nói: Thế cũng được!

    Thế là ông ta đầu thai vào nhà họ Lưu. Người ta vì thấy ông có một bàn tay hình thù y hệt cái móng heo nên gọi ông là "Lưu tiên sinh tay heo." Vị này chính tôi có gặp và nói chuyện rất nhiều với ông ta, nên biết ông ta nhớ được việc đời trước của mình rất rõ ràng. Ðó là nhân duyên ác thú (ác đạo) được tạo thành. Ðịa ngục là nơi rất nguy hiểm, hy vọng mọi người đừng nên tạo ác nghiệp, nếu không thì khổ báo khó tránh.

    Lại ở Hợp Nhĩ Tân (Harbin), Mãn Châu, có một vị sư, có lần Thầy bị bịnh nặng, cảm thấy mình chết. Sau khi chết, thần thức theo đường cái chạy đi, chạy đến nơi cách chùa không xa để đầu thai. Ðầu thai làm gì? Làm con heo. Khi thấy mình bị làm heo, bèn chẳng chịu bú để chết đói. Sau khi chết đói, thần thức trở về lại nơi thân Thầy. Vừa tỉnh lại, vị Pháp sư nói:

    - A, mình mới đầu thai làm heo đây mà!

    Người kế bên hỏi: Ngài đến nơi nào đầu thai làm heo thế?

    - Bây giờ tôi cảm thấy bớt bịnh nhiều! Ðể tôi đưa ông và quý Thầy cùng đến đó xem. Ở đó vừa chào đời bảy chú heo con, tôi là một trong số bảy chú heo con đó. Tôi cố ý không bú nên mới chết đây.

    Tiếp đến vị sư ấy cùng với các Thầy khác đồng đến nơi đó, quả nhiên có một gia đình kia vừa có bảy con heo nhỏ ra đời, trong đó có một con heo con vừa mới chết.

    Ðó là vị sư ấy tự nhớ được lai lịch của mình, vị này tôi cũng đã có gặp. Do đây có thể thấy, được sanh làm người thật không phải dễ, thân người của chúng ta thật rất khó được.

    Cho nên có câu:

    "Thân người khó được, Phật pháp khó nghe."

    Quý vị tính thử xem, tại nước Mỹ trong hàng ngàn vạn người có mấy ai được nghe Phật pháp? "Thiện tri thức khó gặp." Quý vị muốn gặp một vị Thiện tri thức chân chánh hiểu rõ Phật pháp cũng không dễ đâu. Có những vị tự xưng là Thầy mà ngay cả chính mình cũng không biết đạo lý, họ có giảng đạo lý cho quý vị thì cũng chỉ là nói nhăng nói cuội mà thôi.


Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts