Results 1 to 8 of 8

Thread: Hoàng Cầm

  1. #1
    Senior Member delta's Avatar
    Join Date
    Oct 2007
    Posts
    1,697

    Default Hoàng Cầm

    Hoàng Cầm: Tôi đã làm đúng thiên chức thi sĩ của mình


    Anh vừa trải qua mấy ngày thật hạnh phúc. Lễ mừng anh bước vào tuổi 80 như một dịp để ông Trời chứng tỏ rằng việc kết thúc "có hậu" cũng thường xảy ra cho những bi kịch ở đời. Con cháu thương, bạn bè yêu, người đọc ngưỡng mộ, nếu thiếu thì có lẽ chỉ còn thiếu một nàng "Anna" cụ thể để anh được"ngủ đằm bên gối" giống như ông Dos mà anh có chút ganh tị [1] . Nhưng ngược lại, có thể chính cái thiếu ấy mới cho anh tiếp tục làm thơ, những bài thơ tình mê đắm nhất của anh lại được viết ra ở tuổi 60 – 70. Cuộc đời nhuốm màu huyền thoại của người con sông Ðuống đã được báo chí khai thác nhiều lắm rồi (tuy mới chỉ nặng về những mối tình "chị em" này nọ). Vì vậy tôi chủ bụng: trong cuộc nhìn lại đời thơ của anh vào dịp "bát tuần khánh hạ" này chỉ tập trung vào những vấn đề của thơ anh và thơ Việt Nam mà anh tâm huyết...

    Liệu anh có nghĩ là câu chuyện "nửa đêm có ai đọc cho mình những dòng thơ ấy, mình chỉ việc ghi ra" mà anh hay kể sẽ tạo nên một huyền thoại khiến lao động thơ bị thần bí hoá? Thực ra trong lịch sử thơ Việt Nam, hầu như chưa có tập thơ trữ tình nào có tính cách một "cuốn sách thơ" ("un livre de poèmes" chứ không phải "un recueil", tập họp ngẫu nhiên), như "Về Kinh Bắc": nó được thiết kế với 7 nhịp "tuần du", huy động tổng lực ký ức và tưởng tượng về một vùng văn hoá, "nhất khí" về cảm xúc và bút pháp. Nó làm ta nhớ đến tập "Cante Hondo" của F. G. Lorca cảm hứng trên nền dân ca Andalusia Tây Ban Nha. Một tập thơ như vậy phải có "nhiều mùi dầu đèn" lắm chứ?

    Hoàng Cầm: "Về Kinh Bắc" ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt, tôi như xa lìa thế giới thực tại để chìm đắm rất sâu vào kỷ niệm quê hương, kỷ niệm thời thơ ấu... Tôi viết cả tập thơ trong vòng hơn năm tháng, bắt đầu trước Tết năm Canh Tý tức là cuối 1959 đầu 1960. Vợ tôi rất hiểu nỗi băn khoăn sáng tạo của chồng, trong cảnh nghèo túng khổ sở bà ấy vẫn tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn toàn rảnh rang, không có một người vợ như thế chưa chắc tôi đã làm xong tập thơ. Nhiều đêm tôi thức trắng, và trong những lúc ấy, quả thật đôi khi như có giọng người nữ nào đọc lên những câu thơ, đặc biệt là bài "Lá diêu bông". Nhưng đó chẳng qua vì khi mình sống hoàn toàn với những gì đã ăn sâu nhất vào lòng mình, đã biến thành tế bào của mình thì tự nhiên nó bật ra. Nhìn chung thì lao động cả tập "Về Kinh Bắc" khổ lắm chứ, có khi cả đêm loay hoay với một bài, cân nhắc từng chữ từng câu, cân nhắc sự phối hợp ý trước ý sau, câu trước câu sau, cân nhắc hiệu quả của nhịp điệu, âm hưởng. Như bài "Tam cúc", câu kết của nó đến bây giờ tôi vẫn băn khoăn. Lúc đầu tôi viết: "Một chiếc xe đen đi chân trời". Thời gian sau tôi bỗng nghĩ: câu thơ này sẽ vận vào mình, thế này thì khác gì một cái xe tang đưa xác mình? Thế là tôi suy nghĩ để tìm câu kết khác. "Em đứng nhìn theo em gọi đôi" thì lạc quan hơn, nó có chiều mở ra. Nhưng cho đến nay vẫn có những bạn làm thơ và kể cả sinh viên bảo vệ câu thơ cũ của tôi, cho là hay hơn, ám ảnh hơn. Vì vậy trong một lần xuất bản tôi phải chú thích: Bài này còn một câu kết khác: Một chiếc xe đen... tác giả phân vân, còn tùy độc giả chọn.

    Ba bài "Cây, lá, quả" (Cây tam cúc, Lá diêu bông, Quả vườn ổi) có số mệnh thật lạ lùng. Ðược hoặc bị coi là có tư tưởng chính trị này khác, nên nơi thì đày đoạ nơi thì tôn xưng. Sau đó có lần anh công khai cải chính đó chỉ là những bài thơ tình thuần túy không hàm ý gì khác. Bây giờ xã hội đã cởi mở, vào tuổi chẳng còn gì phải "nhìn trước nhìn sau", anh có thể có "một phút nói thật" về những bài này?

    Hoàng Cầm: Chân lý chung của thơ là tổng hợp tất cả mọi sinh hoạt của xã hội, của cá nhân, của một chế độ nữa vào người mình rồi thoát ra bằng thơ. Ở nước ta cái gì cũng là chính trị. Không thể nói là trong mấy bài ấy không có đời sống chính trị. Người ta nói những bài thơ ấy là "biểu tượng hai mặt", hay ba mặt cũng đúng, có điều mình không có chủ định, do cảm xúc bị dồn nén mà vọt ra thôi. Bảo là ám chỉ chính trị cũng đúng, bảo là tâm trạng của người bị đè nén đau khổ mất mát cũng đúng, hoặc bảo là một mối tình tuyệt vọng cũng đúng. Khi thơ thật chân thành với chính mình, và làm bằng lao động hết sức nghiêm chỉnh để từng chữ, từng chữ loé ra một cái gì, tất nhiên nó mang rất nhiều ý nghĩa.

    "Về Kinh Bắc" có một thi pháp rất riêng, khác hẳn trào lưu chung, mặc dù ai cũng thấy là nó lấy chất liệu từ văn hoá Kinh Bắc. "Bên kia sông Ðuống" cũng là Kinh Bắc, nhưng "Về Kinh Bắc" đã ở một tầng khác. Trong khi làm, anh có quan tâm đến vấn đề thi pháp "mới, cũ"? Anh có ảnh hưởng ở thơ Pháp sau chủ nghĩa lãng mạn? Lúc ấy những người bạn cùng số phận với anh như Trần Dần, Lê Ðạt, Ðặng Ðình Hưng đều có quyết tâm cách tân thi pháp, Trần Dần thường nói "phải chôn tiền chiến", anh có nghĩ như các ông ấy?

    Hoàng Cầm: Khi viết "Về Kinh Bắc" tôi không hề có ý định cách tân gì hết, mà chỉ viết trung thực với tâm hồn mình. Tâm hồn tôi lúc bấy giờ khác hẳn thời kỳ "Bên kia sông Ðuống", cũng là kỷ niệm quê hương, nhưng chìm sâu trong ẩn ức. Tôi không thấy mình ảnh hưởng trường phái thơ nào, nhưng từ trước tôi đọc khá nhiều thơ Pháp và thơ các nước dịch qua tiếng Pháp. Sau này ngẫm nghĩ thì thấy mình có ảnh hưởng của Rimbaud, Verlaine, Mallarmé, Bréton, các nhà thơ tượng trưng và siêu thực. Cùng năm 1959, không ai bảo ai, cả Trần Dần, Lê Ðạt, Ðặng Ðình Hưng, đều chìm đắm vào sáng tác, và cũng không ai bảo ai, cùng hướng vào một hướng là phải đổi mới thơ đi, cứ "Tự lực văn đoàn" mãi thì khổ lắm, cứ làm theo những giọng Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, nhất là Nguyễn Bính, kéo dài quá, thế thì giết chết nền thơ mất. Tôi cho là những nỗ lực của các anh ấy trong giai đoạn ấy thực sự có giá trị. Riêng tôi, tôi rất chăm chú về thi pháp, tôi không chịu theo một thi pháp cũ. "Bên kia sông Ðuống" vẫn còn nhiều vương vấn cái cũ, khi làm "Về Kinh Bắc" tôi cố thoát cái cũ đi, ngay cả bài "Lá diêu bông" dù là viết ra một mạch từ đầu đến cuối như có người đọc cho, nhưng sau đó tôi vẫn xem lại xem có vương vấn cái cũ không, nếu có là tôi bỏ.

    Trước "Về Kinh Bắc", anh có những tác phẩm nào có thể coi là "sự kiện"?

    Hoàng Cầm: Ðầu tiên là vở kịch thơ "Kiều Loan" mình viết lúc 20 tuổi (1941 – 1942) ở Bắc Giang. Ðịnh diễn ở đó, nhưng chánh xứ Pháp Luciani xoá gần hết kịch bản vì cho rằng có hàm ý chống chính phủ bảo hộ, đưa về Hà Nội thì Cousseau chủ nhiệm Phòng Thông tin Tuyên truyền Báo chí của Phủ Thống sứ dùng chì đỏ xoá bốn màn. Mãi đến năm 1946, trong không khí tưng bừng cách mạng, vở kịch mới ra mắt được. Nhưng chỉ diễn đúng một đêm ở Nhà hát Lớn thì giặc Pháp khiêu khích, thế là phải đem về diễn ở mấy làng Phù Lưu, Ðình Bảng, Ðông Hồ bên Bắc Ninh. Trong kháng chiến chống Pháp, hai bài "Bên kia sông Ðuống" và "Giữ lấy tuổi trẻ" rất được chiến sĩ yêu thích. Riêng bài "Giữ lấy tuổi trẻ" có kỷ niệm đặc biệt với Ðại tướng Võ Nguyên Giáp và chiến dịch Ðiện Biên Phủ. Nguyên bài thơ ấy được in trên tờ báo Quân Ðội Nhân Dân số đặc biệt phục vụ chiến dịch Ðiện Biên Phủ, do Trần Dần và Từ Bích Hoàng phụ trách, nhưng ký tên là "em Vân", vì bài thơ là lời một cô gái vùng tạm chiếm bị địch làm nhục, gửi thư cho các chiến sĩ xin các anh trả thù. Tướng Giáp đọc rất xúc động, hỏi ông Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Lê Quang Ðạo ai là tác giả bài thơ. Ông Ðạo trả lời: đó là thơ quần chúng. Tướng Giáp không chịu, nói chắc chắn phải là nhà thơ chuyên nghiệp, và sẵn sàng đánh cược đó là Hoàng Cầm. Sau việc ấy, tôi được thưởng Huân chương Chiến sĩ hạng 2, những buổi liên hoan có mặt tướng Gíap là ông đòi tôi ngâm bài "Giữ lấy tuổi trẻ".

    Anh là một trong số không nhiều nhà thơ thuộc loại rất được lòng quần chúng. Hình như các bạn thơ của anh cũng coi anh là nhà thơ "polulaire" theo ý không cao lắm. Quả thực có những bài của anh như "Ðêm liên hoan", "Giữ lấy tuổi trẻ" rất phổ biến một thời nhưng giá trị không thực sự lâu bền. Trong khi đó, các bạn thơ của anh không may mắn thế. Các lối thơ "cách tân" của họ rất khó vào ngay cả làng thơ chứ đừng nói công chúng. Vậy sự "may mắn" của anh, anh thấy nó có lợi gì thực sự cho thơ mình?

    Hoàng Cầm: Tôi thấy khi mình bị dồn nén, chèn ép hoặc thế nào đó khiến mình phải tự lấy hết sức chống chọi thì khi ấy thơ được lợi hơn, còn sự chào đón, ngưỡng mộ thì làm cho mình hạnh phúc, tự hào, thấy đời đáng sống, chứ hầu như không lợi cho thơ. Tất nhiên nhà thơ cũng là con người, chẳng ai muốn bị khổ sở, nhưng nhiều khi những cái làm cho mình thiệt thòi, đau khổ lại làm tốt cho thơ mình.

    Phải ba mươi năm sau,"Về Kinh Bắc" và những tập thơ cách tân của nhóm các anh mới được biết đến rộng rãi nhờ "đổi mới". Mười năm đổi mới cũng xuất hiện một thế hệ thơ mới, theo anh thế hệ này có đóng góp được gì cho sự tiến lên của thơ Việt Nam không?

    Hoàng Cầm: Thế hệ mà độ tuổi đã chững chạc vào cuối những năm 80 có ghi được một vài cái mới... Thế hệ thực sự của thời đổi mới, sinh ra từ ngày thống nhất đất nước, bắt đầu có những cái mới rất đáng khích lệ, mới thật sự chứ không phải giả tạo, mới trong cách biểu hiện, ngôn ngữ, trong nhịp điệu, hình tượng... Nó là những cái mầm, trắng nõn hoặc xanh non, hoặc hồng hồng, khá là đẹp mắt. Không ít đâu, rất đáng mừng, nhưng chỉ cần một trận mưa to là mất thôi. Rất tiếc là thiếu những "bà đỡ", thiếu người bảo vệ, thật là vô cùng thiệt thòi cho họ. Hồi trước, khi Ðặng Ðình Hưng mới viết được bài thơ "Cửa Ô", chính Trần Dần, người làm thơ đi trước, với tình bạn chân thành đã chỉ ra cho Hưng chỗ hay, chỗ dở, chỗ mới, chỗ cũ. Hưng theo chỉ dẫn ấy mà thành một tác giả rất độc đáo. Tóm lại phê bình phải là người bạn đồng hành với những gì mới manh nha, làm người bạn của tác giả, giúp cho tác giả tự phát hiện mình thêm mà tiếp tục hoàn thiện trên con đường mới. Tiếc rằng đời sống văn học của ta không có được điều ấy.

    Nói đến phê bình, người trong nghề dễ nhận ra sự lúng túng của các nhà phê bình trước những hiện tượng thơ mới. Phải chăng lâu nay lý luận về thi pháp thơ đã quá lạc hậu, kiến thức và thói quen cảm nhận thơ của các nhà phê bình quá cũ?

    Hoàng Cầm: Có phần đúng. Có một nhà phê bình nổi tiếng thú thật với tôi là ông không đủ điều kiện để đánh giá cái mới trong thơ. Ngay tập "Về Kinh Bắc" viết từ 40 năm trước, sinh viên bây giờ đọc thấy thích lắm nhưng đề nghị thầy phân tích rõ cái hay của nó thì thầy chịu! Một số vị có thiện chí tìm hiểu, cố vượt qua cái ngưỡng "Bielinski" [2] , nhưng họ cũng nhiều tuổi quá rồi, lực bất tòng tâm. Một số nhà phê bình còn trẻ như Ðỗ Minh Tuấn, Phạm Xuân Nguyên, Ðỗ Lai Thúy... rất thành tâm nghiên cứu nhưng họ chưa làm việc được bao nhiêu, mà đã có cái gì đó khiến họ như co lại. Cả một nền thơ đang sôi nổi, vận động mà không có cơ chế thẩm định, hướng dẫn đáng tin cậy, đó là điều phải nói là đau xót chứ không chỉ là đáng buồn nữa. Tờ báo Văn Nghệ thì không nêu lên những vấn đề của thơ, một tờ báo riêng cho thơ thì bàn mãi rồi mà không ra được, thế thì làm sao được kia chứ [3] ?

    Nhìn lại một đời thơ của mình ở tuổi 80, anh có thể tóm tắt cái vui cái buồn của nó trong vài câu được không?

    Hoàng Cầm: Ðời thơ của tôi, kể từ năm tôi 14 tuổi cho đến nay, nếu nói về thiên chức của một người được trời phú cho làm thi sĩ thì tôi cũng tự hào là mình đã làm đúng. Còn với hoài bão của mình thì tôi chưa thoả mãn. Lúc tôi sung sức thì bị hoàn cảnh hạn chế nhiều thứ. Mươi năm lại đây, đất nước đổi mới, bao nhiêu vấn đề đặt ra cho người làm thơ, tôi cảm thấy mình có những rung động mãnh liệt còn hơn ngày trước. Vậy mà tôi già mất rồi, sức lực không cho phép nữa. Tôi tiếc lắm.

    Mới năm năm trước, anh còn có thể ngồi "Suzuki tống ba" chạy một vòng Kinh Bắc "đóng phim". Năm nay có xe hơi rước mà anh cũng phải lỗi hẹn với anh em chuyến về làng quan họ. Nhưng nói đến chuyện thơ thì anh vẫn sang sảng, say sưa như không biết mệt. Vậy chắc chắn anh còn ôm ấp những dự định về thơ.

    Hoàng Cầm: Về sáng tác thì mặc dù tự biết đã đuối sức, nhưng khi một ý thơ, một tứ thơ đến, mình vẫn phải cố gắng theo đuổi nó để ra được bài thơ. Mình còn muốn tự đặt cho mình một nhiệm vụ: khi thấy loé lên những tia tốt đẹp trong thơ của anh em trẻ, mình phải viết để bảo vệ, để họ vững lòng đi theo hướng của họ. Mình không biết như thế có tác dụng gì không, nhưng ít ra mình cứ làm theo cái lòng thành của mình. Mình sắp tập họp những bài thơ làm từ 1995 đến nay mà chưa in, để in thành tập, độ 50 bài, trong đó có những bài thể nghiệm về thi pháp, có thể người hoan nghênh người đả đảo, song chuyện đó mình không quan tâm.

    Xin chúc anh vẫn đủ sức để còn nghe được tiếng "chị Thơ"sai đi tìm chiếc "lá diêu bông" của vĩnh cửu.

  2. #2
    Senior Member delta's Avatar
    Join Date
    Oct 2007
    Posts
    1,697

    Default Re: Hoàng Cầm:

    Anh đi và em đi

    Hoàng Cầm


    Anh đi về phía không em
    Em đi về phía dài thêm bão bùng
    Anh đi sắp đến vô cùng
    Em đi sắp đến cánh hồng đang rơi

    Bảy mươi đứng phía ngoẹn cười
    Tám mươi đứng khóc nẻo đời chưa khô
    Trăm năm nhào quyện hư vô
    Biết đâu em vẫn lửng lơ hát buồn.



  3. #3
    Senior Member delta's Avatar
    Join Date
    Oct 2007
    Posts
    1,697

    Default Re: Hoàng Cầm:

    Bao Giờ Nói Hết

    Hoàng Cầm


    Dẫu anh biết diêu bông không thực
    Sao diêu bông cứ thức hồn em
    Cứ sao băng mãi đường đêm
    Cứ trăng lên đậu cành mềm xuân quê
    Cứ lơi áo cởi trưa hè
    ngực trần vỗ yếm gọi về tuổi hoa
    Cứ hương thiên lý đường xa
    Cứ lưng chừng đợi ngọc ngà hồ ly
    Cứ môi hôn yên chi chụm cánh
    dẫn anh về chuốt mảnh chiếu gon
    Hương nhu xoải tóc lưng tròn
    cái đêm hôm ấy mắt mòn men tê

    Diêu bông gọi mãi không về
    Cứ ngồi canh một giấc mê mặn nồng
    Lá - em tuyệt sắc thành không
    Tòa sen tỏa rọi bềnh bông kiếp người
    Gọi đôi dế hát đôi hồi
    Nhớ con bướm trắng dập vùi mà thương
    Chuyện đời ư? - Vạn nẻo đường
    Cứ lang thang mãi biết phương nào về
    Ùn ùn phố phố xe xe
    Cứ trông lốc bụi cứ nghe thét gào
    Chợt nhìn hẻm hẹp xi xao
    Ai vui đã cất cánh vào hư vô
    Ai buồn mà hát líu lo
    Chớm say ai tỉnh đúng giờ hóa thân

    Diêu bông biệt chẳng cần em tiễn
    Cứ chập chờn ẩn hiện tháng năm
    Sao - em trằn trọc nỗi nằm
    Một pho cẩm thạch ôm chằm trắng đêm
    Xuân Hương gọi tên em mờ tỏ
    Càng long đong phận nhỏ vành khuyên
    Tầm cao thánh giá thánh hiền
    Em dang tay đứng lâu bền đợi anh

    Khổng phu tử muốn thành em bé
    Thả diều bay Kinh Lễ Kinh Thư
    Hoãn vần thơ nhé Nguyễn Du!
    Nghe hồn rêu đá vọng phu ngút rừng

    Diêu bông dẫu tận cùng chuyện kể
    Cũng không bằng con trẻ nghêu ngao
    Rằng... xưa... ai biết vì sao
    Lá gì lại gọi thế nào...
    Diêu bông...!
    (H.C)




  4. #4
    Senior Member delta's Avatar
    Join Date
    Oct 2007
    Posts
    1,697

    Default Re: Hoàng Cầm:

    Bên Kia Sông Đuống

    Hoàng Cầm


    Em ơi! Buồn làm chi
    Anh đưa em về sông Đuống
    Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
    Sông Đuống trôi đi
    Một dòng lấp lánh
    Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

    Xanh xanh bãi mía bờ dâu
    Ngô khoai biêng biếc
    Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
    Sao xót xa như rụng bàn tay

    Bên kia sông Đuống
    Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
    Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
    Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
    Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
    Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

    Ruộng ta khô
    Nhà ta cháy
    Chó ngộ một đàn
    Lưỡi dài lê sắc máu

    Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
    Mẹ con đàn lợn âm dương
    Chia lìa đôi ngả
    Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
    Bây giờ tan tác về đâu ?

    Ai về bên kia sông Đuống
    Cho ta gửi tấm the đen
    Mấy trăm năm thấp thoáng
    mộng bình yên
    Những hội hè đình đám
    Trên núi Thiên Thai
    Trong chùa Bút Tháp
    Giữa huyện Lang Tài
    Gửi về may áo cho ai
    Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
    Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
    Những cụ già phơ phơ tóc trắng
    Những em xột xoạt quần nâu
    Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?

    Ai về bên kia sông Đuống
    Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
    Những cô hàng xén răng đen
    Cười như mùa thu tỏa nắng
    Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
    Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối
    Những nàng dệt sợi
    Đi bán lụa mầu
    Những người thợ nhuộm
    Đồng Tỉnh, Huê Cầu
    Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?

    Bên kia sông Đuống
    Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
    Dăm miếng cau khô
    Mấy lọ phẩm hồng
    Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
    Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
    Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
    Xì xồ cướp bóc
    Tan phiên chợ nghèo
    Lá đa lác đác trước lều
    Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

    Chưa bán được một đồng
    Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
    Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
    Có con cò trắng bay vùn vụt
    Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ?
    Mẹ ta lòng đói dạ sầu
    Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

    Bên kia sông Đuống
    Ta có đàn con thơ
    Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
    Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
    Lấy mẹt quây tròn
    Tưởng làm tổ ấm
    Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
    Ú ớ cơn mê
    Thon thót giật mình
    Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

    Đã có đất này chép tội
    Chúng ta không biết nguôi hờn

    Đêm buông xuống dòng sông Đuống
    -- Con là ai ? -- Con ở đâu về ?

    Hé một cánh liếp
    -- Con vào đây bốn phía tường che
    Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
    Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
    Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
    Những chuyện muôn đời không nói năng
    Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
    Bộ đội bên sông đã trở về
    Con bắt đầu xuất kích
    Trại giặc bắt đầu run trong sương
    Dao loé giữa chợ
    Gậy lùa cuối thôn
    Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
    Ăn không ngon
    Ngủ không yên
    Đứng không vững
    Chúng mày phát điên
    Quay cuồng như xéo trên đống lửa
    Mà cánh đồng ta còn chan chứa
    Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
    Gió đưa tiếng hát về gần
    Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
    Tiếng bà ru cháu buổi trưa
    Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
    "À ơi... cha con chết trận từ lâu
    Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"
    Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
    Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
    "Thân ta hoen ố vì mày
    Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."

    Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
    Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
    Cánh đồng im phăng phắc
    Để con đi giết giặc
    Lấy máu nó rửa thù này
    Lấy súng nó cầm chắc tay
    Mỗi đêm một lần mở hội
    Trong lòng con chim múa hoa cười
    Vì nắng sắp lên rồi
    Chân trời đã tỏ
    Sông Đuống cuồn cuộn trôi
    Để nó cuốn phăng ra bể
    Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
    Bao nhiêu nước mắt
    Bao nhiêu mồ hôi
    Bao nhiêu bóng tối
    Bao nhiêu nỗi đời


    Bao giờ về bên kia sông Đuống
    Anh lại tìm em
    Em mặc yếm thắm
    Em thắt lụa hồng
    Em đi trảy hội non sông
    Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.

    -- Việt Bắc, tháng 4, 1948




  5. #5
    Senior Member delta's Avatar
    Join Date
    Oct 2007
    Posts
    1,697

    Default Re: Hoàng Cầm:

    Cây Tam Cúc

    Hoàng Cầm


    Cỗ bài tam cúc mép cong cong
    Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
    Chị gọi đôi cây!
    Trầu cay má đỏ
    Kết xe hồng đưa Chị đến quê Em

    Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm
    Em đừng lớn nữa Chị đừng đi
    Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa
    Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì

    Đứa được
    chinh truyền xủng xoẻng
    Đứa thua
    Đáo gỡ ngoài thềm
    Em đi đêm tướng điều, sĩ đỏ
    Đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em

    Năm sau giặc giã
    Quan Đốc đồng áo đen, nẹp đỏ
    Thả tịnh vàng cưới Chị
    võng mây trôi
    Em đứng nhìn theo, Em gọi đôi.



  6. #6
    Senior Member delta's Avatar
    Join Date
    Oct 2007
    Posts
    1,697

    Default Re: Hoàng Cầm:

    Chuyện Lâu Rồi

    Hoàng Cầm


    Lần thứ nhất gặp anh, em nói:
    -Chỉ xin làm em gái của anh

    Lần thứ hai gặp em, anh nói:
    -Muốn xin em làm vợ của anh

    Lần trước, anh cười chẳng nói
    Lần sau, em cười quay đi

    Hôm nay
    Họ xa nhau từ lâu
    Còn lại tiếng mưa ngâu
    Gõ nhịp giọt phanh thềm đêm vắng
    Và một dòng thơ
    trang trải nợ ban đầu



  7. #7
    Senior Member delta's Avatar
    Join Date
    Oct 2007
    Posts
    1,697

    Default Re: Hoàng Cầm

    Chuyện Trăm Năm

    Hoàng Cầm


    Tặng Trịnh Công Sơn

    Anh đứng đây là đâu
    Em cười như lá mỏng
    Khép cửa vào chiêm bao
    Anh đứng đây là đâu
    Em nói như gió nghẹn
    Chiều nghiêng mây Thị Mầu

    Anh đứng đây là đâu
    Em nhìn như mưa trắng
    Năm năm bay ngang đầu

    Anh đứng đây là Em.

    -- Sài Gòn, 1985



  8. #8
    Senior Member delta's Avatar
    Join Date
    Oct 2007
    Posts
    1,697

    Default Re: Hoàng Cầm

    Cỏ Bồng Thi

    Hoàng Cầm


    Chị đưa Em đến bến này
    Cheo leo mỏm đá

    Trước vực
    Sau khe
    Thòng lọng tơ gì quấn gót
    Tua khăn buông còn buộc búp hoa lan


    Ù ù gió thổi
    Em vọng ai đâu mà hóa đá


    Không trói mà không đi
    không canh gà
    không thu không
    Mắt không mở
    đừng khép
    Kìa dây muốn dại kín Em rồi


    Lắc đầu hoa tím rụng
    ngó rừng xanh Em hỏi ngọn nguồn


    Biết rồi
    Thôi

    nghe hoa tím hát

    Ngày mười bảy tuổi
    Chót chơi đố cỏ Bồng Thi
    Cỏ Bồng Thi phải cheo leo mỏm đá
    Ù ù gió thổi
    Không canh gà
    Không thu không



Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts