Page 33 of 40 FirstFirst ... 31323293031323334353637 ... LastLast
Results 641 to 660 of 785

Thread: ✿ SÁCH KHAI THỊ - Các bài thuyết giảng của Thanh Hải Vô Thượng Sư

  1. #641
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default SƯ PHỤ TẠI HY-MÃ-LẠP-SƠN




    Ông đối với Sư Phụ như một người bạn tốt , nhưng Sư Phụ không muốn những thứ thuốc quý như vậy , Sư Phụ dùng thuốc để làm gì ? Về sau Sư Phụ lại đem cho người khác , Sư Phụ không dùng , bởi vì trong thuốc vẫn còn có thành phần động vật . Thật đáng tiếc , tuy là của Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma cho mà Sư Phụ cũng không uống được . Nhưng Sư Phụ cũng tiếp nhận , bởi vì ông muốn cho Sư Phụ . Rất nhiều người thích thuốc này . Những người khác phải tốn rất nhiều tiền mới có thể mua được một viên , đặc biệt là thuốc của Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma cho ; họ nghĩ rằng bên trong nhất định phải có nhiều lực lượng gia trì . Sư Phụ lại không muốn có lực lượng gia trì gì , tự Sư Phụ đã đủ dùng rồi , cho nên Sư Phụ đem cho người khác . Nhưng khi cho , Sư Phụ cũng tìm những người đáng cho , chứ không phải ai Sư Phụ cũng cho . Nếu như họ không biết đó là thuốc quý thì Sư Phụ không cho , vì cho cũng vô ích .

    Những viên thuốc nhỏ bên ngoài dùng lụa quý bao lại , mỗi tháng uống một viên , ông cho Sư Phụ mười mấy viên . Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma rất khả kính , ông còn cho Sư Phụ sách , trên ấy còn được ông ký tên tặng Sư Phụ nữa (Sư Phụ giơ lên cao quyển sách cho đồng tu xem). Ngay cả người Tây Tạng , cũng không bao nhiêu người được vinh hạnh như vậy . Nếu như có ai được chính Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma ký tên tặng sách , họ sẽ đem về thờ hoặc là mỗi ngày đặt trên đỉnh đầu đem ra cho mọi người xem . Mọi người sẽ biết họ có quan hệ đặc biệt với Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma . Đối với họ , Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma là một vị Phật sống .

    (Thưa Sư Phụ , Ngài học Mật Tông trước hay là Thiền trước ?) Từ nhỏ Sư Phụ đã bắt đầu học rồi , học rất nhiều pháp môn . Trước đây Sư Phụ đã học qua Mật Tông . Lúc đó Sư Phụ sống tại Hy-Mã-Lạp-Sơn , có một lần Sư Phụ sống tại một khu Tây Tạng , bình thường không có gì đặc biệt để làm , Sư Phụ đến thư viện của người Tây Tạng đọc kinh sách , sau đó về ngồi thiền , đói thì kiếm thức ăn , ăn xong đi tắm ; mỗi ngày đều như vậy , không có một chuyện gì khác , nếu như có ai giảng kinh thì đi nghe .

    Nơi Sư Phụ ở không cách xa nơi Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma ở bao nhiêu , chỉ đi hai ba phút là tới . Nhưng nơi ở của Sư Phụ tương đối kín đáo , bên ngoài nhìn không thấy , các khu núi xung quanh nơi Sư Phụ ở tương đối cao một chút , bốn bề đều có những cây tùng bao quanh , bên trong lại có những hang đó nhỏ giản dị . Họ không dùng đất để làm mà chỉ dùng những tảng đá xây lại để thành một căn phòng nhỏ . Từ căn phòng này có thể nhìn sang căn phòng khác , không cần cửa sổ , mưa có thể tạt vào , gió cũng có thể thổi vào , buổi sáng thỉnh thoảng có những tảng đá rơi xuống . Sống ở những nơi ấy không biết bây giờ là thời đại gì , những ánh sao sáng , mặt trăng , rắn rít , côn trùng đi lại rất tự do , ai muốn đến thì đến .

    Từ nơi của Sư Phụ ở có thể nhìn thấy nơi trú ngụ của Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma , nhưng ông lại không nhìn thấy được nơi ở của Sư Phụ . Lúc đó Sư Phụ bạo dạn hơn bây giờ , có những lúc từ thư viện trở về , trời đã tối , nhưng Sư Phụ vẫn đi tìm những người tu hành để đàm luận về kinh điển . Một mình từ dưới núi leo lên , không có đèn pin , chỉ có một cây gậy , giống như người mù vậy , men theo con đường mòn trên núi tối tăm mù mịt . Tuy cuộc sống không đầy đủ , nhưng rất an vui ; chỉ cần có niềm tin thì nơi nào cũng có thể vượt qua , trong lòng không có điều gì đáng sợ .

    Nói đến đây , Sư Phụ lại muốn trở về Hy-Mã-Lạp-Sơn . Ở nơi ấy quả thật sung sướng quá , thật an lành , một mình muốn ăn thứ gì thì ăn , muốn ngủ thì ngủ , muốn đi thì đi . Nơi đó có rất nhiều nhà tu hành , tuy tu các pháp môn khác nhau , rất có thể đẳng cấp cũng khác nhau , nhưng chẳng hề gì , mọi người đều có đạo tâm thâm hậu .

    Thỉnh thoảng Sư Phụ và một vài người ra ngoài dạo chơi . Hai ba người ngồi dưới gốc cây , uống một ít nước suối , ăn một vài miếng bánh mì Tây Tạng . Bánh mì Tây Tạng khác với bánh mì của chúng ta ở đây . Họ lấy lúa mạch làm bánh , rất có dinh dưỡng , sau đó thoa lên một ít sữa thực vật . Có thể tìm một nơi ngồi xuống , lấy một chiếc lá lớn làm bàn , bánh mì để lên trên ấy , một bình nước , sau đó vừa ăn vừa đàm luận kinh điển hoặc là những chuyện tu hành . Đó là một địa điểm tu hành rất tốt . thời gian Sư Phụ ở nơi ấy một phút còn sướng hơn bây giờ ở đây một năm (Nhưng đây là cảm giác của Sư Phụ từ tâm mà ra).

    Sống tại Hy-Mã-Lạp-Sơn , quý vị sẽ cảm thấy bất luận là loài vật hay cây cỏ cũng đều phát ra một bầu không khí rất lương thiện và nhu hòa . Bầu trời có một màu sắc thanh thản tự tại , cây tùng cũng rất hiền lành . Nơi ở của Sư Phụ cũng rất cao , cho nên cảm thấy như mây đang bay qua người vậy ; lúc đó giống như mình đang đi trên mây . Không phải Sư Phụ đằng vân giá võ , nhưng mây trắng tự nhiên bay qua . Thỉnh thoảng quý vị nhìn thấy , những bức hình người ta đang ở trên mây . Những hình ấy không khác gì hình ảnh Sư Phụ vừa mới kể , cảnh giới đó không phải là ở thiên đường , mà ở tại Hy-Mã-Lạp-Sơn của trần gian .

    Hằng ngày , mỗi buổi chiều Sư Phụ đi chiêm bái Phật một hai lần , sau đó về nhà . Về nhà rồi thì làm gì ? Có thể nói chuyện với người láng giềng , nếu không thì ngồi thiền , ngủ , nghỉ ; ngày mai muốn thức dậy lúc nào cũng được , còn không cả ngày ngồi thiền cũng không ai đến quấy rầy , không có điện thoại hoặc chuông reo , đói thì tự mình nấu ăn , cũng có thể mua một cái lò dầu . Nếu không thì củi cũng rất nhiều , dùng ba viên đá rồi đốt lửa lên , tất cả các rau cải đều bỏ vào nấu chung , thêm một chút muối là có thể ăn được . Nếu làm biếng thì có thể ăn sống . Có lúc Sư Phụ nấu , nhưng bình thường ăn sống thì nhanh hơn , hái một ít cải dại , thêm vào chút muối là có thể ăn được .



  2. #642
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default SƯ PHỤ TẠI HY-MÃ-LẠP-SƠN


    Lúc Sư Phụ ở tại Hy-Mã-Lạp-Sơn , có nơi không thể nấu cơm hoặc canh được , bởi vì nơi ấy không khí rất mỏng manh , nấu nửa ngày cũng không sôi . Chỉ cần đem đến sông Hằng rửa sạch , sau đó ăn uống , cũng rất ngon . Cá nhân Sư Phụ thì không sao , nhưng có người ăn vào lại bị đau bụng .

    Hy-Mã-Lạp-Sơn là nơi rất tốt , không có nước nóng cũng chẳng hề gì ; tắm nước lạnh . Tắm nước lạnh rất vui , bởi vì lạnh quá , cả thân người dường như co rút lại , sau đó Sư Phụ đếm một , hai , ba , bốn rồi từ nước đông lạnh nhảy lên , sau đó cảm thấy cả thân thể hết sức thoải mái dường như có trăm ngàn đóa hoa nở ra từ các tế bào . Sư Phụ thấy trò này rất vui , cho nên thường hay làm như vậy .

    Không phải lúc nào Sư Phụ cũng bế quan ở một nơi . Lúc Sư Phụ bế quan ở nơi lạnh ấy là gần với khu của người Tây Tạng , tương đối ít nguy hiểm , còn có nơi để mua đồ vật , cũng có điện để nấu đồ ăn ; không khí không loãng lắm , cũng có thể nấu cơm canh , mùa đông tuyết rơi tương đối ít . Còn những nơi cao hơn , tuyết rơi rất nhiều , nơi ở của Sư Phụ thì ít tuyết . Nhưng không phải ngày nào cũng có thể đến đó , mùa hạ mới có thể lên trên ấy , mùa đông mà muốn lên trên đó rất khó khăn .

    Có những nơi tương đối cao hơn , mỗi năm có nhiều người đến thăm viếng ; họ đi bằng ngựa , hoặc có người dắt , hoặc có người hướng đạo . Chỉ có Sư Phụ là đi bộ . Họ đều chạy đến nhìn Sư Phụ , cảm thấy rất kỳ lạ . Bởi vì ở Ấn Độ thường không thấy người nữ đi đơn độc trên đường , nhất là dáng người Sư Phụ nhỏ trông giống như một đứa bé , sao lại một mình đơn độc đi bộ vậy ? Lúc đó Sư Phụ mặc rất ít , bởi vì đi đường quá nóng nực , mồ hôi ra nhiều , cho nên cả áo khoác bên ngoài cũng không mặc . Họ tỏ vẻ rất khâm phục Sư Phụ , bởi vì họ mặc những bộ quần áo chống tuyết thật dầy , trên lưng ngựa lại mang đầy những đồ vật phụ tùng , còn Sư Phụ một mình mặc một bộ đồ thật mỏng , hành lý lại giản dị . Cho nên khi Sư Phụ lên núi có rất nhiều người vây quanh Sư Phụ nói chuyện và còn muốn làm bạn với Sư Phụ nữa .

    Năm nay Sư Phụ đi Ấn Độ truyền Tâm Ấn cho hai người , một người là bác sĩ , một người là đứa con gái của bà ta . Sư Phụ quen biết họ lúc còn ở Ấn Độ , khoảng bốn năm năm về trước . Năm nay Sư Phụ đến Ấn Độ , thì lại thăm họ , bởi vì họ có viết thơ mời Sư Phụ , và nói nếu đến , nhất định Sư Phụ phải gặp họ . Lúc Sư Phụ đến họ rất vui mừng , cả gia đi đình đều rất tốt , người chồng và đứa con trai là luật sư , mẹ làm bác sĩ , đứa con gái vẫn còn đang đi học .

    Lẽ ra cả nhà đều thọ Tâm Ấn , nhưng vì Sư Phụ chỉ có thể ở lại một , hai ngày , Sư Phụ dặn họ năm giờ sáng thức dậy , nhưng hai người đàn ông dậy không nổi , cho nên chỉ truyền Tâm Ấn cho hai người . Cũng chẳng sao , về sau họ có thể tìm những vị "Guru" khác để học , ở Ấn Độ việc này không phải là việc khó khăn .

    Họ còn nói với Sư Phụ : "Ngài nhất định phải trở lại thăm chúng tôi , bởi vì bây giờ Ngài là Thầy của chúng tôi , cần phải trở lại gặp học trò". Sư Phụ nói ở Ấn Độ có rất nhiều "Guru", Sư Phụ đưa quý vị đến đó là được rồi , vẫn có thể tu hành với họ được như thường . Những người bạn ở Hy-Mã-Lạp-Sơn thật khả ái , trước là bạn , bây giờ là học trò .


    ★★★★★


    Vấn : Người Ấn Độ gọi một số người tu hành là "Babaji" nghĩa là gì vậy ?

    Đáp : Babaji có nghĩa là vị vua lớn , Maharaji cũng vậy , đó là danh xưng tôn kính nhất của người Ấn Độ , cũng như chúng ta gọi là Thế Tôn , Phật , Như Lai , đều do tiếng Ấn Độ phiên dịch ra cả .

    Vấn : Ở Ấn Độ vừa nghèo vừa loạn , tại sao Sư Phụ nói nơi ấy là một nơi có phước báu lớn ?

    Đáp : Nghèo thì nghèo , nhưng họ vẫn đủ ăn , phước báu không nhất định phải là tiền ; phước báu là những thứ mà tiền không mua được . Phật Thích Ca cũng không có tiền , tuy ông là một vị hoàng tử , nhưng ông đã rời bỏ cuộc sống giàu sang , về sau biến thành một người khất thực , ngày ngày đi thọ bát , không lẽ nói ông không có phước báu sao ?

    Họ không màng có phước báu và cũng không màng có bao nhiêu tiền . Phần lớn mọi người đều rất giản dị , rất đơn thuần , nếu không họ cũng có thể cố gắng đi kiếm tiền , người Ấn Độ cũng giống như người Đài Loan vậy , sao họ không biết kiếm tiền ?

    Đối với họ tiền không quan trọng , đủ dùng là được rồi . Sư Phụ nói cho quý vị hay , tại Ấn Độ người nghèo cũng tu hành , thậm chí kẻ ăn mày cũng tu hành . Có một vị Minh Sư mà Sư Phụ biết đi đến một thôn trang , khoảng năm ba trăm người đều được truyền Tâm Ấn , nam nữ lão ấu , gà bò mèo chó đều đến (Mọi người cười). Đó là một nơi rất nghèo , không có những kiến trúc đồ sộ , nhà cửa đều làm bằng đất sét không có phòng vệ sinh , không có những thiết bị tiện nghi , mọi người đều ngủ dưới đất , dùng những mảnh vải thô sơ đắp lên là đủ , nhưng lúc đoàn thể của vị Sư Phụ này đến đó , họ lại cất phòng vệ sinh và phòng tắm để cho mọi người dùng .

    Lúc Sư Phụ đến , thứ gì họ cũng không có , bò và người ở chung với nhau , nhưng họ rất sạch sẽ , mặt đất dọn dẹp khang trang ; nhưng ở những thành phố lớn cũng không sạch sẽ , không phải chỉ có Ấn Độ mà thôi . Nhưng các thôn xóm của Ấn Độ rất sạch sẽ , Sư Phụ đi qua rất nhiều thôn xóm nhỏ , trên mặt đất không có rác rưới , dưới gốc cây cũng có thể trải vải nằm ngủ . Nhưng tại các thành phố lớn thì rất dơ dáy , người thì nhiều mà nước lại không thông , ống nước bị ô nhiễm , rất nhiều mùi vị , ăn uống thì không hợp vị sinh , tại thôn trang lại không có những vấn đề này .

    Tuy họ rất nghèo , nhưng họ sạch sẽ , đơn thuần , thích tu hành , đem lại bầu không khí hòa bình cho mọi người . Từ nhỏ các em bé đã bắt đầu học tọa thiền , lớn lên trở nên những người tốt , thánh hiền , những cao tăng , đại sĩ , đó là đời sống của họ .

    Còn chúng ta ở đây lớn tuổi rồi cũng chưa chịu tu hành , hoặc là tu hành vài ngày thì bỏ đi mất , một năm , hai năm , không còn thấy ai nữa . Có người tham gia Thiền Thất một lần rồi chịu không nổi , không còn dám gặp Sư Phụ nữa , bởi vì sợ Sư Phụ rầy la , chịu không nổi sự khổ cực của sự hành thiền .



  3. #643
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default SƯ PHỤ TẠI HY-MÃ-LẠP-SƠN


    Vấn : Tại Ấn Độ tiếng Anh có thông dụng không ?


    Đáp : Tiếng Anh , tiếng Ấn Độ đều có , nhưng phần đông mọi người đều nói tiếng Ấn Độ , và tiếng địa phương cũng rất nhiều . Phần lớn những người Ấn Độ đều biết tiếng Anh , cho dù không biết họ cũng cứ bảo quý vị "straight ahead" (đi về phía trước), hoặc là "very good" (rất tốt). Quý vị nói chuyện với họ nửa ngày , họ chỉ trả lời cho quý vị "straight ahead" rồi sau đó cười cười , quý vị không hiểu cũng chẳng sao . Thiên hạ cũng vô sự , quý vị đi đường của quý vị , họ đi đường của họ (Mọi người cười).

    Nếu như quý vị hỏi thăm một nơi nào đó ? Họ trả lời : "Straight ahead", dù cho có cần phải quẹo trái hoặc là quẹo phải , họ cũng chẳng cần để ý . Nếu quý vị nghe lời họ thì sẽ không tìm được , hỏi người khác họ cũng trả lời "straight ahead" (mọi người cười), rồi càng lúc quý vị đi càng xa nơi quý vị muốn đến , lẽ ra muốn đi phương Bắc lại biến thành đi phương Nam , cuối cùng phải ngồi xe lửa trở về .

    Cho nên ở Ấn Độ cần phải cẩn thận , cần phải hỏi người ta có biết tiếng Anh hay không . Nếu như người đó trả lời : "Straight ahead", "ok", "very good", tốt nhất là đừng tin họ , những người không biết tiếng Anh đều nói như vậy . Tại Ấn Độ rất vui , mọi người đều nói ok , very good , how are you , trẻ con cũng vậy , dù cho có quen biết hay không , gặp người là mở miệng cười cười .

    Các cô tiểu thư ở đây muốn đi đến đó làm gì ? Quý vị sống tại Đài Loan lâu , quá thoải mái rồi , ngồi xe tắc xi phải có máy lạnh , mùa hè tắm rửa còn dùng nước nóng , như vậy đi Ấn Độ chừng hai ngày sẽ chịu không nổi , đi đường bộ hai cây số là ngã xuống . Nếu như đem quá nhiều hành lý thì vác không nổi , bởi vì có những nơi không có xe , cũng không có ngựa phải đi bộ , tự mình mang hành lý . Nếu không có bạn bè đi chung thì thật phiền phức , có thể tìm hai người bạn gái đi chung với nhau cũng được . Một vị đại sư không thể tùy tiện hiện thân cho mọi người gặp ; ngay cả lúc họ đứng trước mặt quý vị , cũng phải có duyên rất lớn mới biết được . Họ tu hành không phải để cho quý vị xem . Nếu quý vị nói là từ Đài Loan đến , rất có thể họ chẳng thèm nhìn ; họ nghĩ rằng quý vị ăn thịt , sẽ làm ô nhiễm nơi ở của họ , ngay cả những nhà thường dân cũng không muốn quý vị bước vào . Còn những người tu hành đều trốn rất kỹ , chúng ta tìm không thấy . Có những nơi họ đi chúng ta không đến được ; họ thì dùng thần thông để đi , còn những người bình thường dùng "nhân thông" nên không thể nào đến được . Họ tu hành không phải là để cho chúng ta gặp , để có được nhiều đệ tử , họ sống rất ẩn náu để được thanh tịnh tu hành , không có ngu xuẩn như Sư Phụ , đi ra ngoài sống chung với chúng sanh để chịu khen chê (Mọi người vỗ tay).

    Quý vị có muốn đến đó không ? (Đệ tử đáp : Sư Phụ nói nghe thật là ly kỳ , cho nên chúng con muốn đến đó). Nhưng những gì Sư Phụ thấy có thể sẽ rất khác với những gì quý vị sẽ gặp . Quý vị đi Ấn Độ chỉ nhìn thấy những gì dơ dáy , quý vị sẽ nghĩ rằng nước sông Hằng dơ như vậy làm sao mà uống được ? Tuy nhiên Sư Phụ rất thích những nơi này .


    Vấn : Sư Phụ nói tọa thiền không nhất định phải xếp bằng , nhưng hầu hết tất cả các nhà đại tu hành đều xếp bằng , xếp bằng có phải dễ nhập định hơn không ?


    Đáp : Đại Sư Huệ Năng đâu phải lúc nào cũng xếp bằng đâu , nhưng cũng không thể nói là không nên xếp bằng . Quý vị muốn ngồi tư thế nào cũng được , về sau quen rồi có thể ngồi thiền xếp bằng . Nhưng mới lúc đầu không nên quá ép buộc lấy mình , những người có bệnh không thể xếp bằng không lẽ không tu hành được sao ? Có những người không có chân , không lẽ cũng không tu hành được sao ? Mọi người đều bình đẳng , mỗi người đều có thể tu hành .

    Có những người không dám ngồi ở chỗ cao , ngồi ở trên cao sẽ không dễ nhập định , sợ rớt xuống , cho nên Sư Phụ để cho quý vị ngồi thiền xong rồi mới âm thầm lên lầu . Ngồi những chiếc ghế cao cần phải có dựa , nếu không lúc nhập định té xuống thì sao ? Nếu như phải ngồi ghế tọa thiền mà lưng vẫn giữ thẳng thì không sao . Nằm xuống cũng có thể tọa thiền được , chỉ cần tư thế thoải mái là có thể nhập định .

    Nếu như ép buộc lấy mình quá làm sao nhập định được ? Thân thể ở chỗ nào đau , tâm của quý vị sẽ chạy đến đó . Lẽ ra không cảm thấy có chân mình tồn tại , nhưng lúc ngồi thiền hai chân nó kêu réo rất dữ , thậm chí biến thành cả ba chân (mọi người cười), cảm thấy chỗ này đau , chổ kia nhức như kim châm ; lẽ ra không cảm thấy có chân , bây giờ biến thành rất nhiều "châm", như vậy là không được . Tốt nhất là không nên đem sức chú ý của mình đặt vào chân của mình , mà đặt vào trí huệ .

    Lúc Thiền Thất , đồng tu cũng không ngồi tư thế nào nhất định , có người ngồi tư thế này , có người ngồi tư thế nọ , nhưng thể nghiệm của họ rất cao . Còn có những thiền đường học trò ngồi thiền rất thẳng , động cũng không dám động , nhưng không có chút thể nghiệm gì . Trước đây Sư Phụ có tham dự qua một vài kỳ Thiền Thất như vậy , cho nên Sư Phụ biết . Thật ra chẳng có ích lợi gì cả , thường chỉ là đau đớn mà thôi .

    Con người có một quan niệm sai lầm , nghĩ rằng tu hành cần phải khổ cực . Sự thật không cần phải khổ cực như vậy , chúng ta vốn là Phật , làm sao mà khổ cực ? Sư Phụ đã chịu khổ qua rồi , bởi vì đó là nghiệp chướng của Sư Phụ (mọi người cười), chỉ cần một người chịu khổ , thì những người khác không cần phải chịu những sự khổ cực đó . Phật Thích Ca tu khổ hạnh sáu năm , rất cực khổ , nhưng các đệ tử của Ngài không nhất định phải tu cực khổ như vậy mà cũng có thể thành A La Hán , Bất Thối Bồ Tát , vẫn có thể một đời thành Phật , chứ không phải người nào cũng phải chịu những nổi đau khổ như Phật Thích Ca vậy , bởi vì Ngài có đủ phước báu để tặng cho học trò của Ngài . Tu hành không phải cực khổ , trước đây Phật Thích Ca tu khổ hạnh , tu ngoại Đạo , cho nên mới cực khổ ; bởi vì lúc đó Ngài không biết , nhưng khi Ngài hiểu rồi thì đi tìm những con đường sáng lạng nhất để dẫn dắt những người khác nhập định . Một người , khi mới bắt đầu tu hành , rất có thể họ không tìm thấy đường đi , cho nên mới tu cực khổ một chút . Nhưng người thứ hai thì có thể thoải mái hơn , đi theo con đường của người trước vạch ra , chẳng hề gì . Cho nên quý vị đến Hy-Mã-Lạp-Sơn cũng vô ích , theo học với Sư Phụ là được rồi .



  4. #644
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default TÂM ẤN TỨC ĐÃ THÀNH PHẬT






    Quyển 5 : Bài 4

    TÂM ẤN TỨC ĐÃ THÀNH PHẬT

    Sư Phụ Thanh Hải giảng tại Đài-Loan

    Ngày 1 tháng 1 năm 1988


    Tâm Ấn tức đã thành Phật , chỉ tội nghiệp là mọi người chưa biết rằng mình đã thành Phật . Ở đây không có ai là chưa thành Phật , nhưng bởi vì chưa tin tưởng cho nên vẫn chưa biết mình là Phật . Hơn nữa , quý vị không có tự tin , nếu không lúc Tâm Ấn là đã thành Phật rồi .

    Vấn đề là chúng ta có nhận thức được mình có phải là Phật không ? Làm thế nào để nhận thức được điều này ? Trước hết chúng ta cần phải có kinh nghiệm , sau đó từ từ có nhiều nhân duyên hợp lại sẽ khiến chúng ta hiểu rõ rằng chúng ta đã là Phật . Cho nên chúng ta rất là quan trọng , nếu không có chúng sanh tức là không có Phật . Ví dụ có một người ở trong sơn động tu hành , một ngày kia đột nhiên khai ngộ biết rằng dường như mình là Phật . Nhưng sau này vì không có kinh nghiệm bản thân cũng như hoàn cảnh khảo nghiệm nên không có phương tiện duy trì niềm tin tưởng vào sự khai ngộ đó . Cho nên mới nói nếu không có chúng sanh thì không có Phật .

    Tâm Ấn tức là đã thành Phật . Chúng ta càng tu càng hiểu rõ điều này , vì vậy càng phải tiếp tục tu hành . Nếu không thì chỉ thành Phật có một ngày mà thôi . Ngày mai lại không còn là Phật nữa vì quên mất mình đã là Phật rồi . Ví dụ một bác sĩ tuy đã tốt nghiệp nhưng nếu không cứu bệnh nhân , không có kinh nghiệm chữa trị , hoặc chưa từng sử dụng qua các dụng cụ y khoa hay thuốc men để thăm bệnh , thì mấy mươi năm sau có lẽ sẽ quên mất tất cả . Bất luận người bác sĩ này đã học tập bao lâu đi nữa , cuối cùng chỉ còn lại một và kỷ niệm trong ký ức của mình mà thôi . Hoặc có người đã từng đàn một bản nhạc rất hay nhưng nếu mười mấy năm qua ngưng đàn không sử dụng đến nhạc cụ thì khi có dịp đàn trở lại sẽ không được rõ ràng và tiếng đàn nghe không hay và không được lưu loát . Học Anh văn cũng vậy , có người học Anh văn rất giỏi , nhưng ba mươi mấy năm không sử dụng thì sẽ không còn nói lưu loát nữa . Tuy Sư Phụ sanh trưởng ở Việt Nam , nói tiếng Việt , nói tiếng Việt suốt mười mấy năm liền nhưng bây giờ nói lại cũng không còn hay như trước nữa , không còn văn chương nữa , và cũng không còn làm thơ Việt Nam được nữa . Bây giờ nếu muốn viết thì Sư Phụ phải viết bằng tiếng Anh trước , sau đó mới phiên dịch sang tiếng Việt Nam . Thậm chí có những từ ngữ Việt Nam mà Sư Phụ đã quên mất rồi . Tuy nhiên cũng không phải là hoàn toàn quên hẳn bởi vì thỉnh thoảng Sư Phụ cũng còn dùng tiếng Việt Nam . Cũng vậy , nếu có một người Việt Nam bị nhốt nơi hải đảo , cô lập với thế giới bên ngoài , mấy mươi năm không nói tiếng Việt , người ấy rất có thể không còn nói được tiếng Việt Nam nữa , có phải như vậy không ? Chúng ta học Anh Văn hoặc những ngôn ngữ khác , ở trường học có thể nói một chút , nhưng khi rời khỏi lớp , không có cơ hội thực hành thì sẽ dần quên lãng , hiểu không ?

    Pháp môn đốn ngộ có thể lập tức kiến tánh thành Phật không sai . Khi nhìn thấy Ánh Sáng của Phật là cùng với Phật đồng một thể , là thành Phật . Nghe được Phật âm , bất luận ít nhiều cũng đã cùng với Phật đồng một thể rồi . Ví dụ , quý vị chạm vào tay , chân , hoặc đầu Sư Phụ cũng là chạm vào thân thể của Sư Phụ . Bởi vì những bộ phận ấy là một phần thân thể của Sư Phụ . Cũng cùng một tình trạng như vậy , chúng ta nghe âm thanh thấp của Phật âm thì cũng là Phật Âm . Nhìn thấy Ánh Sáng ở đẳng cấp thấp của Phật cũng là Ánh Sáng của Phật . Chúng ta đụng vào chân của Ngài cũng được kể là thành Phật , thấy được Phật , chỉ có điều là chúng ta chưa hoàn toàn được diện kiến Ngài , nên không đủ tự tin . Cũng giống như nhóm người mù sờ voi vậy . Người sờ vào tai thì nói voi giống một cái quạt ; người sờ vào mũi thì nói voi giống ống nước ; người đụng vào chân thì nói voi giống như cái cột . Mọi người đều đụng vào con voi , nhưng mỗi người lại có sự diễn tả khác nhau .

    Chúng ta , những người tu hành cũng vậy . Lúc Tâm Ấn là đã thành Phật rồi , nhưng vì chúng ta chưa hoàn toàn nhận thức được Phật lực của mình , lực lượng vạn năng của mình , nên không tin rằng mình đã thành Phật . Vì vậy không cần chờ đợi đến bao giờ mới thành Phật mà Tâm Ấn tức đã thành , chỉ vì chúng ta không có kinh nghiệm và thiếu tự tin mà thôi . Đến khi chúng ta tu hành giỏi một chút , có đủ định lực để độ chúng sanh , chúng ta sẽ hiểu rõ Phật là gì . Nhưng muốn độ chúng sanh phải có biện tài và có trí huệ . Trí huệ và kinh nghiệm bên trong đương nhiên cần phải được trang bị , nhưng trí thức và kinh nghiệm bên ngoài cũng không thể thiếu sót . Nếu chỉ thành Phật thì không có ích lợi gì như Phật Độc Giác không có pháp môn để truyền cho mọi người bởi vì Ngài không có thầy và tự ngộ Đạo lấy . Hoặc giả có một người cùng với vị mình học Pháp Môn Quán Âm , lúc Tâm Ân được khai ngộ ; nhưng sau này vị thầy bỏ đi , người ấy tiếp tục tu hành , rồi một ngày nào đó , vị này được chứng ngộ . Nhưng vì không có thầy chỉ dạy , nên không có hệ thống giáo dục chúng sanh cũng như kinh nghiệm truyền pháp bằng miệng . Dùng miệng truyền pháp có thể thu hút chúng sanh đến nghe kinh , thu hút sự chú ý cũng như lòng tôn kính của họ . Vì vậy , cho dù chúng ta có khai đại ngộ , nhưng nếu không có biện tài vô ngại thì cũng không thể nào đem trí huệ của mình để diễn đạt cho những người chưa khai ngộ hiểu . Đây không phải là một chuyện dễ dàng . Phật Thích Ca khi thành Phật , Thập Phương Tam Thế Phật tán thán Ngài hết lời ; bảo rằng Ngài ở trong đời Ngũ trược , ác thế , mà vẫn độ được chúng sanh . Bởi vì dùng ngôn ngữ của thế giới này không dễ diễn đạt Phật tính và đẳng cấp tu hành bên trong . Khả năng sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt là một điều rất quan trọng . Nếu không dùng ngôn ngữ để bày tỏ thì chỉ những chúng sanh có trí huệ cao , có thiện căn sâu , có phước báu lớn mới có thể hiểu nổi . Còn những chúng sanh khác thì không . Cho nên chúng ta cần phải tu hành bên trong , trưởng dưỡng lực lượng chúng ta cho cao cường , đồng thời bên ngoài cũng cần có minh sư , có thiện tri thức chỉ đạo .



  5. #645
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default TÂM ẤN TỨC ĐÃ THÀNH PHẬT


    Phần lớn mọi người đều dựa vào bản thân mình để tu hành , ví dụ niệm Phật , niệm kinh hay niệm chú , rất có thể cũng có thể nghiệm âm thanh bên trong . Nhưng rồi ngày có ngày không , hoặc một hay hai ngày có thể nghiệm , rồi về sau không còn nữa . Dù mỗi ngày có thể nghiệm cũng vô ích . Tại sao ? Bởi vì như vậy không có phương pháp để phân biệt âm thanh nào là tốt , cảnh giới nào là xấu , và cũng không có ai để hỏi , nên cuối cùng bị ma quỷ lường gạt , bị ma kéo đi , chuyện này rất đáng buồn . Nhiều người lúc tu hành bị lầm đường , biến thành ngoại Đạo cũng bởi nguyên do này .

    Lúc Tâm Ấn còn được gọi là lúc "đốn ngộ", là lập tức khai ngộ , hoặc "Hoa khai kiến Phật", là lập tức kiến tánh thành Phật , điều này không sai . Nhưng vì chúng ta chưa có trí huệ , chưa có tự tin , cho nên ngộ đã mở rồi mà lại không biết . Bất cứ Đại Sư nào cũng nói : "Chúng sanh đều có Phật tánh", nhưng vì chính họ không nhận thức được cho nên cũng vô ích . Bò cũng có Phật tánh , nhưng nó không nhận thức được nên cũng chỉ vô ích mà thôi . Cũng giống như một người tuy đã có một kho tàng quý báu nhưng nếu như không biết rõ kho tàng này ở đâu thì cũng vẫn là một kẻ nghèo nàn . Vì vậy thành Phật hay không là tùy thuộc vào tâm của chúng ta , dựa vào lực lượng và niềm tin của chúng ta . Không phải ngồi nhiều là có thể thành Phật . Ngồi nhiều trở thành "Phật ngồi", nằm nhiều thì thành "Phật nằm" chứ không phải "Phật Khai Ngộ". Tuy Sư Phụ nói : "Tâm Ấn tức đã thành Phật", nhưng chúng ta cần phải tu hành nhiều , cần phải tịnh tâm , để tâm chúng ta lắng xuống , để biết được mình là ai . Chúng ta không cần phải đợi thọ ký rằng trăm ngàn vạn kiếp sau này sẽ thành một vị Phật gì đó , ở tại một quốc gia nào đó , dạy dỗ chúng sanh . Loại thọ ký này thật là một chuyện đáng cười . Trong Kinh Pháp Hoa , Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng thọ ký nói : "Một người nào đó , trăm ngàn vạn kiếp về sau , hoặc là vô lượng vô biên A Tăng Tỳ kiếp sẽ được thành Phật , tên gì đó , và sẽ trú ngụ tại một quốc gia nào đó". Nếu như Sư Phụ là đồ đệ của Ngài , Sư Phụ sẽ nói : "No , Thanks". Bởi vì quá sức viễn vông , phải đợi đến vô lượng vô biên A Tăng Tỳ kiếp mới có thể thành Phật thì ai có thể sống lâu như vậy để đợi ? Rồi trong thời gian chờ đợi ấy chúng ta phải làm gì ? Thật là lãng phí thời gian , và với sự chờ đợi ấy chắc chúng ta sẽ biến thành hưu cao cổ mất !

    Người đã Tâm Ấn tức đã thành Phật . Về điểm này Sư Phụ có thể bảo đảm cho quý vị . Nếu như Sư Phụ không phải là Phật , thì ai là Phật ? Nếu như Sư Phụ không thể thành Phật , thì không ai có thể thành Phật . Bởi vì bất cứ người nào cũng đều có thể thành Phật . "Phật" là người đại khai ngộ , đại trí thức , đại minh sư , vậy thôi . Nếu chúng ta hoàn toàn hiểu rõ mọi việc , thì chúng ta ở trong đẳng cấp của Phật , đẳng cấp của minh sư hoặc là đẳng cấp của giải thoát .

    Mỗi ngày quý vị tọa thiền , đi thế giới Tây Phương rồi trở về , có lúc còn nhớ , có lúc lại quên , đó là ý nghĩa của vãng sanh . Chúng ta đi gặp Phật , lúc đó chúng ta là Phật , chỉ có Phật mới sống tại đất nước của Phật , hay ít nhất cũng có một phẩm chất giống như Phật mới có thể sống chung với Phật . Cho nên có thể đi đến đất Phật tức đã là Phật rồi , thấy được Phật quang tức là thành Phật . Phật chỉ là vậy mà thôi .

    Phật không phải chỉ có ngàn mắt ngàn tay , trăm mắt trăm tay , hoặc có rất nhiều mắt . Ngài có vô số mắt , vô số tay , không phải ngàn tay ngàn mắt mà thôi . Nhưng khi chúng ta nói với một người nào đó : "Quán Âm Bồ Tát có vô số tay , vô số mắt", họ sẽ không hiểu rõ , không sao tưởng tượng được , nên phải nói ngàn mắt ngàn tay , như vậy họ mới tưởng tượng được ; đối với họ ngàn mắt ngàn tay là quá nhiều rồi .

    Một người nào đó có "ba đầu sáu tay" phải là người có bản lãnh cao cường rồi , nếu như người ấy có ngàn tay ngàn mắt , thì thật bất khả tư nghị . Cho nên khi nghe chúng ta tả như vậy thì họ rất thỏa mãn , sẽ gật đầu nói : "Lực lượng của Quán Âm Bồ Tát thật bất khả tư nghị". Hiểu không ? Đối với họ , ngàn tay ngàn mắt là quá nhiều rồi . Thật ra Quán Thế Âm Bồ Tát không phải chỉ có ngàn tay ngàn mắt , chúng sanh nhiều như vậy ngàn tay ngàn mắt thì không đủ dùng .



  6. #646
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default TÂM ẤN TỨC ĐÃ THÀNH PHẬT


    Khi nói đến thành Phật , không phải Sư Phụ thừa nhận rằng bây giờ quý vị thành Phật , quý vị vốn đã là Phật rồi . Tâm Ấn xong ít nhất quý vị có thể câu thông với lực lượng của Phật , trở về nguồn gốc của Phật . Chỉ cần trở về nguồn là đủ rồi , không cần phải đợi thêm một thời gian nào đó mới có thể thành Phật . Tuy bây giờ quý vị chưa thể dùng lực lượng của Phật , vẫn còn ở trong giai đoạn học hỏi , nhưng không sao , hãy tạm gát điều này qua một bên , sau này quý vị sẽ hiểu rõ .

    Ví dụ một người chỉ cần bắt đầu làm việc là có tiền ngay , phải không ? Bởi vì người chủ để tiền qua một bên , đợi đến cuối tháng sẽ phát cho người ấy . Từ ngày bắt đầu làm việc người ấy đã trở thành nhân viên của công xưởng , không phải đợi đến cuối tháng lãnh được tiền mới được gọi là nhân viên xưởng đó .

    Phần người chủ , kể từ ngày thứ nhất người ấy đã là người chủ rồi , không cần phải làm việc mấy mươi năm sau mới thành chủ . Khi người ấy vừa bắt tay vào việc , đương nhiên chưa có cảm giác rằng mình là chủ vì chưa quen biết người làm việc , chưa hiểu rõ hết mọi góc cạnh , mọi chi tiết của công xưởng .

    Có những lúc người chủ này hỏi thăm nhân viên của ông , về máy móc về công việc của người khác trong xưởng như một người học trò vậy ; ông chưa có phong độ của một người chủ . Tuy nhiên không thể vì vậy mà nói rằng ông không phải là chủ . Khi ông bước vào công nghiệp ký tên xuống , ông đã là chủ rồi , nhưng vì hãy còn mới nên ông còn phải học hỏi rất nhiều , cần phải quen biết hệ thống làm việc cũng như những hoàn cảnh đặc biệt xảy ra trong công xưởng . Từ từ ông sẽ nhận thức được vai trò của mình , càng ngày càng có niềm tin và cuối cùng cảm giác và phong độ của một chủ nhân sẽ càng ngày càng phát triển , có phải như vậy không ?

    Cũng cùng một ý nghĩa đó , Tâm Ấn tức đã thành Phật , chỉ vì chưa có dịp dùng đến lực lượng của Phật . Ở đây chỉ có Sư Phụ là sử dụng qua , quý vị tạm thời không dùng cũng không sao , hãy cất lại , về sau tự nhiên sẽ biết : "À ! Ta tức là Phật", hiểu không ? Nếu lúc đó cả thế giới nói quý vị không phải là Phật , quý vị cũng không tin . Đây không hẳn là thái độ kiêu ngạo , nhưng vì cảm giác lúc thành Phật rất tự nhiên giống ăn uống nghỉ ngơi , không có gì đáng nói . Nếu có người cho rằng Sư Phụ kêu ngạo , Sư Phụ cũng không biết kiêu ngạo nghĩa là gì ?

    Thành Phật cũng giống như tốt nghiệp một trường y khoa , hoặc tốt nghiệp đại học vậy , học xong đại học thì tốt nghiệp , có gì đâu mà kiêu ngạo ? Nếu có người học một môn nhạc khí nào đó đã lâu , sau khi học xong , mỗi ngày luyện tập đàn , chỉ cảm thấy vui , mà không có cảm giác kiêu ngạo , hiểu không ? Trên thế giới này có rất nhiều người biết đàn các loại nhạc khí khác nhau , mọi người khi học xong đều có thể đàn , đó là chuyện đương nhiên , họ không cảm thấy kiêu ngạo , và cũng không có gì để kiêu ngạo .

    Trên thế giới rất ít người hiểu được Chân Lý giản dị này , cho nên nếu có một người nào đó tự xưng là Phật , người ta sẽ nói : "Người này bị ma nhập , kiêu ngạo quá , khùng rồi". Nhưng đối với một người đã thành Phật thì không cảm thấy có gì đáng nói ; đó là một chuyện rất tự nhiên .

    Lúc trước Sư Phụ có kể cho quý vị nghe , trong số đồng tu của chúng ta có một người có được thứ năng lực kỳ diệu là chỉ cần sự hiện diện của cô ở nhà , thì bệnh tình của ông nội cô liền thuyên giảm . Những đồng tu khác cũng vậy , khi đến bệnh viện toạ thiền , con của họ cũng được giảm bệnh . Ngoài ra có người đến nghe Sư Phụ giảng kinh hoặc đọc sách của Sư Phụ thì được khai ngộ ... đây chỉ là những chuyện nhỏ nhặt và rất bình thường .

    Đó chỉ là đẳng cấp của A La Hán hoặc Bồ Tát . Chúng ta thường nghe nói trước đây có một vị Phật , hoặc một vị A La Hán nào đó có năng lực chữa bệnh , chỉ cần sống chung với họ , tự nhiên chúng ta sẽ có phước báu đó . Thân nhân đồng tu của chúng ta , tuy chưa Tâm Ấn , không tu Pháp Môn Quán Âm , họ cũng được siêu sanh . Điều này cho thấy rằng những đồng tu của chúng ta đã là các vị Phật Bồ Tát , hoặc đạt đẳng cấp của a La Hán , cho nên mới có những phước báu đó , chỉ cần ở chung với họ thì có thể siêu sanh .

    Vừa rồi Sư Phụ nói đến cô đồng tu đó , tự cô ta không có cảm giác kiêu ngạo , đối với cô đây là một chuyện rất tự nhiên ; chính cô cũng không biết mình là Bồ Tát , hoặc cảm thấy cô là một vị A La Hán gì , hiểu không ? Trong Kinh Kim Cang có nói : "Nếu một vị A La Hán hoặc Bồ Tát cảm thấy mình là Bồ Tát thì người đó không phải là Bồ Tát". Theo trong kinh điển thì một vị Bồ Tát sẽ không hiểu Phật Bồ Tát là gì ? Họ không kiêu ngạo , cũng không nói mình đã là Bồ Tát . Họ không có thái độ đó , cũng không kiêu ngạo gì cả , nhưng họ biết họ là ai . Biết nhưng không biết , chỉ biết rằng mình trở thành một thứ công cụ , chỉ còn thân xác mà thôi . "Ngã chấp" phàm phu của họ đã tiêu trừ đâu mất , bây giờ chỉ có lực lượng của Phật ngự trị bên trong , lực lượng này muốn làm gì thì họ làm điều ấy , không có gì ngăn chận nổi .



  7. #647
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default TÂM ẤN TỨC ĐÃ THÀNH PHẬT


    Vừa rồi Sư Phụ nói Sư Phụ là Phật , Sư Phụ cũng không giảng Phật là gì ? Nếu nói rằng Sư Phụ không phải là Phật cũng không được , nói như vậy là không đúng . Còn nói Sư Phụ là Phật cũng sai . Theo kinh điển thì người ấy là Bồ Tát , là Phật , hoặc đã thành Phật . Dùng ngôn ngữ không thể diễn tả được , điều này rất khó giải thích , hiểu không ? Nếu không hiểu thì Sư Phụ cũng không có cách nào hơn .

    Cũng như Phật Thích Ca nói Ngài là Như Lai , Ngài đã thành Như Lai , Ngài nói với cha của Ngài rằng : "Con bây giờ không phải là đứa con phàm phu nữa , con đã thành Phật rồi , xin phụ vương gọi con theo truyền thống". Bởi vì Ngài sợ cha của Ngài hiểu lầm , rồi bắt tay Ngài , ôm ắp Ngài mà nói : "Con là con của ta". Như vậy sẽ mất đi phong độ trang nghiêm , nên Ngài phải nói rõ ràng là Ngài đã thành Đạo rồi , Ngài đã thành Phật rồi . Ngài có nói như vậy không ? (Mọi người đáp : Có). Ngài nói như vậy không phải là Ngài muốn phụ vương của Ngài đảnh lễ Ngài , hoặc muốn có những nghi thức gì long trọng cho Ngài , Ngài chỉ nói một Chân Lý rất bình thường , một sự thật .

    Cũng như một vị bác sĩ nói với người khác rằng ông đã tốt nghiệp , hoặc giống như một người xuất gia nữ trên đầu có chấm ba chấm , rồi nói : "Tôi là Tì Khưu Ni". Chỉ thế thôi , không có gì là lạ lùng cả . Sau khi trở thành Tì Khưu Ni cũng giống như trước khi trở thành Tì Khưu Ni , cũng là một con người , không có gì đặc biệt , phải không ?

    Thành Phật cũng vậy , nếu chúng ta dùng ngôn ngữ thì chỉ có thể diễn đạt như vậy mà thôi , không có gì kêu ngạo . Có người tuy chưa nói rằng mình là Phật , nhưng thái độ lại rất kiêu ngạo , phải không ? Bảo người này , bảo người kia đãnh lễ , lạy ba lạy , lạy bốn lạy , lại nhận bao nhiêu tiền cúng dường , đó mới là kiêu ngạo . Còn một vị đã thành Phật và nói rằng mình đã là Phật thì không có gì kêu ngạo cả . Người ấy chỉ muốn nói lên một sự thật , một chuyện thật giản dị tự nhiên cũng giống như nói : "Tôi ăn no rồi". Ăn no rồi thì nói "Tôi ăn no rồi", có gì là kiêu ngạo đâu ?

    Thành Phật thì nói : "Tôi thành Phật rồi". Bởi vì tự mình nhận thức được Phật Tánh của mình , biết được mình là Phật , và biết được tất cả các chúng sanh đều là Phật . Lúc đó còn có gì để kiêu ngạo ? Ta và chúng sanh chỉ khác nhau có một điểm mà thôi , ta nhận biết mình là Phật , còn chúng sanh không nhận biết họ là Phật . Nhưng đối với người đã thành Phật ấy thì mọi người đều bình đẳng , nên họ không kiêu ngạo , bởi vì họ cũng giống như chúng sanh vậy , không có gì đáng để kiêu ngạo ? Có hiểu không ?

    Cho nên thành Phật là chuyện rất bình thường , Tâm Ấn rồi tức đã thành Phật , đã cùng câu thông với đại hải của Phật để chúng ta trở thành nước của biển cả . Khi nào một giọt nước rớt vào lòng biển cả , hòa với biển và trở thành nước biển , không lẽ lúc đó còn hỏi rằng : "Bao giờ tôi sẽ được hòa vào trong biển ?" Đã ở trong biển rồi , hiểu không ? Từ từ cái ngăn cách của chúng ta sẽ tiêu tan rồi sau đó sẽ không còn gì nữa , chúng ta biến thành biển cả .

    Cũng vậy , lúc chúng ta thọ Tâm Ấn là chúng ta đã được hòa vào biển cả của Phật , là chúng ta đã biến thành Phật , lực lượng của chúng ta bất khả tư nghị , chỉ vì chúng ta chưa có dịp dùng đến mà thôi . Đợi thời gian đến rồi , chúng ta sẽ dùng , và chúng ta sẽ biết rõ lực lượng của mình . Bây giờ cho dù quý vị muốn dùng cũng không thể nào đạt được , cho nên quý vị mới chưa biết rằng mình đã là Phật . Khi thời gian đến , trường hợp cần phải sử dụng , tự nhiên quý vị sẽ biết được lực lượng của quý vị như thế nào . Bây giờ muốn biết cũng chưa được . Bây giờ vì còn đang trong thời kỳ học hỏi nên chưa cần thiết phải dùng đến . Sự thật thì lực lượng muốn dùng lúc nào cũng được , chỉ tại vì quý vị không biết mà thôi . Lúc ngồi thiền , quý vị có thể giúp ích cho rất nhiều chúng sanh , chấn động lực của chúng ta phát ra , có thể làm cho cả một quốc gia sáng lên , nâng cao ý thức của toàn vũ trụ . Nhưng tốt nhất là chúng ta không nên biết tới , bởi vì biết rồi chúng ta sẽ sinh "ngã chấp". Chúng ta phải tu hành lâu mới trở thành minh sư , bởi vì chúng ta cần huấn luyện ngã chấp của chúng ta , cá tánh của chúng ta , điều luyện ngã chấp của chúng ta ; khi ngã chấp của chúng ta được tiêu trừ xong , chúng ta có thể sử dụng lực lượng vốn đã có của chúng ta , như vậy mới không bị nguy hiểm .

    Ví dụ như cha mẹ tuy cho đứa bé rất nhiều tiền , nhưng vẫn để trong ngân hàng , chờ khi đứa bé đến mười tám tuổi mới được đem tiền ra dùng . Tại sao vậy ? Bởi vì tiền tuy là của đứa bé , nhưng trước mười tám tuổi ; nó không biết cách dùng tiền . Có thể nó sẽ lãng phí bằng cách tiêu xài vào những thứ không đáng , hoặc đi cờ bạc , hoặc bị người ta cướp mất ... Cho nên cha mẹ mới không để cho nó tùy nghi sử dụng . Nhưng sự thật là số tiền này đã thuộc về đứa trẻ rồi , chờ đến khi thành nhân hoặc khi nó đã lập gi đình , thì tất cả tài sản sẽ được cha mẹ giao cho hoàn toàn . Lúc ấy nó đã trưởng thành , đã được huấn luyện kỹ càng trong việc sử dụng đồng tiền và nó sẽ không tiêu xài lãng phí hoặc bị người ngoài lường gạt .



  8. #648
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default TÂM ẤN TỨC ĐÃ THÀNH PHẬT


    Bây giờ quý vị cũng giống như Sư Phụ vậy , không có gì khác biệt cả . Sư khác biệt duy nhất là quý vị chưa biết cũng như chưa hiểu cách xử dụng lực lượng này . Nói một cách khác , quý vị vẫn chưa biết được lực lượng của chính mình . Từ từ nhân duyên đến , có thể độ chúng sanh , lúc đó quý vị sẽ hiểu ra rằng tiền của chúng ta dùng mãi không hết , lực lượng của chúng ta là bất khả tương nghị , chúng ta thành Phật rồi , và an tâm rồi .

    Khi nói đến tám mươi tám danh xưng của Phật không phải chỉ có tám mươi tám vị Phật , đó chỉ là các danh xưng tán thán mà thôi . Ví dụ nói Sư Phụ có thân thể trong suốt , sáng lạng , những phẩm chất ấy chỉ là những danh từ tán thán mà thôi . Các đệ tử sẽ nói : "Tôi quy y với vị Lưu Ly Phật , quy y với vị Vô Lượng Quang minh Phật". Đó là vì đối với Sư Phụ của họ ; họ có một sự ca tụng hoặc tán thán một vị Phật , một vị thầy có rất nhiều phẩm chất , vừ từ bi , vừa quang minh , lại vừa có thân thể lưu ly ... và còn có rất nhiều phẩm chất khác nữa . Cho nên tám mươi tám danh xưng Phật không phải là chỉ có tám mươi tám vị Phật , hiểu không ? Bởi vì một vị sư Phụ có rất nhiều phẩm chất , cho nên chúng ta mới nói : "Sư Phụ , Ngài là đại từ bi , đại rực rỡ , đại lực lượng , đại tự tại".

    "Nam Mô" có nghĩa là : Con tán thán , tán thán Sư Phụ đại từ đại bi , tán thán Sư Phụ vô lượng vô biên công đức , tán thán Sư Phụ vô lượng quang . Gọi Sư Phụ là ám chỉ Phật , cho nên mới nói : "Nam Mô Đại Quang Phật", cũng có nghĩa là : "Con tán thán Sư Phụ của con , đại quang đại lượng", chỉ có ý nghĩa như vậy mà thôi . Cho nên dù có bao nhiêu danh xưng của Phật , cũng chỉ là tán thán một vị Phật mà thôi . Bỉ Lư Giới Na là vị Phật đại biểu tối cao , đừng nghĩ rằng niệm nhiều danh hiệu Phật là có nhiều vị Phật , không phải như vậy . Ví dụ danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát , có người gọi Ngài là Quán Thế Âm , có người gọi Ngài là Quán Tự Tại , hoặc Thí Vô Úy Bồ Tát . Cho nên chúng ta đều có thể niệm rằng : Nam Mô Thí Vô Úy Bồ Tát , Nam Mô Quán Tự Tại Bồ Tát , Nam Mô Cổ Đà Lưu Ly Bồ Tát , Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát , Nam Mô Thiên Thủ Thiên Nhãn Bồ Tát ..., thật ra chỉ là Quán Âm Bồ Tát mà thôi . Cũng vậy , tám mươi tám vị Phật , chẳng qua là dùng nhiều danh từ để xưng tán .

    Ví dụ chúng ta muốn ca ngợi một người con gái đẹp , chúng ta cũng dùng nhiều danh xưng khác nhau ; người Mỹ khi muốn gọi người yêu của họ , họ không nói rằng : "Cô là người yêu của tôi", mà gọi là : "Em là mật ong , là kẹo của anh", hoặc là : "Cưng", phải vậy không ? Tuy có rất nhiều danh từ , nhưng tất cả đều ám chỉ người đẹp , người bạn gái của họ . Thời xưa các vị hoàng đế Trung Quốc gọi người yêu của họ là : "Mỹ nhân , ái phi , ái khanh , hoàng hậu ..." thật ra vị hoàng đế chỉ muốn gọi người vợ của ông mà thôi .

    Cũng vậy , rất có thể trước đây các vị đệ tử muốn ca ngợi sư Phụ của họ nên dùng nhiều danh từ để tán thán ; từ đó mới có Đại Quang Phật , Phổ Minh Phật , Vô Hậu Phật ... Tám mươi tám vị Phật . Cho nên tám mươi tám vị Phật không phải là một , cũng không phải là tám mươi tám vị khác nhau . Một ngàn một vạn vị Phật cũng vậy , đều chỉ dùng tán thán một vị Phật cao cả nhất , phẩm chất của Ngài rất nhiều , Ngài là vạn năng , lực lượng của Ngài là bất khả tư nghị , mỗi danh xưng đại biểu cho mỗi năng lực của Ngài , vì vậy có rất nhiều danh xưng , chỉ thế mà thôi .

    Thượng Đế cũng vậy , có người gọi Ngài là Allah , có người gọi Ngài là Jahowak , có người gọi Ngài là Thượng Đế , là Ngọc Hoàng Thượng Đế ... Bởi vì con người thích gọi những tên ấy . Người sau không rõ , thường thường vì danh xưng mà tranh chấp : "Tên của tôi hay hơn tên của anh". Chúng sanh thật là dễ thương , chỉ vì một hai cái tên mà có thể đánh nhau .

    Vừa rồi Sư Phụ có nói không phải là tám mươi tám người , một vị Phật có rất nhiều danh xưng , Phổ Minh Phật , Phổ Tịnh Phật , Đa Ma La Đà Viên Đàn Dương Phật , Chiên Đàn Quang Phật , Nhất Thiết Thế Gian Lạc Kiến Thượng Đại Tinh Tiến Phật ... Dù cho chúng ta gọi là gì đi nữa , cũng không có chi khác biệt , giống như Quán Âm Bồ Tát có ba mươi hai ứng vậy . Phật A Di Đà còn được gọi là Vô Lượng Quang , hay Vô Lượng Thọ , hoặc gọi Amitabha , cũng cùng một ý cả . Sau này người ta lại còn đánh nhau , hoặc tranh cải nhau chỉ vì danh xưng . May mà bây giờ chúng ta có tự điển để tra cứu và biết được Amitabha có nghĩa là A Di Đà Phật .



  9. #649
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default TÂM ẤN TỨC ĐÃ THÀNH PHẬT


    Lúc Sư Phụ mới đến Đài Loan , thấy họ tổ chức Thiền Thất , Sư Phụ cũng tham dự một hai lần . Mỗi lần niệm Phật chỉ nghe niệm : "Nam Mô A Di Đậu Hũ" (tiếng Đài Loan). Sư Phụ thầm nghĩ : "Thật lạ ! Tại sao niệm Phật không niệm , lại cứ niệm đậu hũ , đậu hũ ?" (Mọi người cười). Có đúng là họ niệm Nam Mô A Di Đậu Hũ không ? Lúc đó Sư Phụ chưa biết nói tiếng Trung Hoa , tiếng thổ ngữ Đài Loan lại càng không biết . Nhưng theo lời họ niệm thì tiếng Việt Nam có nghĩa là Đậu Hũ (phát âm rất giống như tiếng thổ ngữ Đài Laon), cho nên Sư Phụ nghĩ thầm : "Kỳ lạ ! Tại sao lại niệm chữ đậu hũ tiếng Việt Nam ?" vì nghe họ niệm Nam Mô A Di Đậu Hũ , Sư Phụ nghĩ : "Chưa đến bữa trưa mà sao họ lại đói như vậy ?" (Mọi người cười).

    Tóm lại những tranh chấp đều do danh từ mà ra . Ví dụ tiếng Trung Hoa gọi là "suey", tiếng Đức gọi là "wasser", tiếng Pháp gọi là "l'eau", thật ra đều ám chỉ "nước". Trước đây không có tự điển , nên mới tranh nhau dữ dội như vậy , bây giờ khá hơn một chút . Cho nên Thượng Đế , Phật Tổ đều là một . Khi có người nghe Sư Phụ nói Thượng Đế thì cảm thấy bất mãn nên hỏi : "Tại sao cô lại nói Thượng Đế ?" Sư Phụ trả lời : "Sư Phụ nói như vậy , nếu quý vị không muốn nghe cũng không sao". Những người như vậy thật là kém cỏi , chỉ vì một vài danh xưng mà cứ tranh luận mãi thôi .

    Lúc Sư Phụ ở Mỹ , có một vị pháp sư muốn tham khảo với Sư Phụ nên mời Sư Phụ đến nơi ở của ông . Được hai hôm , Sư Phụ không còn muốn lưu lại nữa bởi vì trong lúc đàm đạo , Sư Phụ đề cập đến Thượng Đế , ông tỏ vẻ bất mãn và nói : "Tại sao cô lại nói Thượng Đế ?" Thái độ của ông làm cho Sư Phụ có cảm tưởng là mình đã phạm một trọng tội vậy . Sư Phụ liền nói : "Vậy thì Sư Phụ không nói nữa , ông không có Thượng Đế là chuyện của ông , nhưng tôi thì có ..."

    Thật là ngu xuẩn , một sự tranh chấp ngu xuẩn , một bức tường đầy thành kiến , điều này quả thật không nên có mới phải . Tuy chỉ cần phá vỡ bức tường này là được , nhưng lại không cách nào làm được . Quý vị thử tưởng tượng xem một chuyện giản dị như vậy mà ông cũng không hiểu , thật đáng buồn . Thật ra đối với chúng ta , việc này rất giản dị , quá rõ ràng , nhưng đối với một số người , bên trong còn quá nhiều thành kiến , nhiều ràng buộc không cách nào thoát nổi , như vậy thì làm sao mà còn đòi hoằng pháp ? Cho nê họ càng tu càng thấy yếu đuối , càng tu càng thấy cô đơn , làm cho người bàng quang phải lắc đầu thương hại .


    Vấn : Tâm Ấn tức đã thành Phật , nhưng tại sao có người Tâm Ấn rồi lại làm phiền kẻ khác ?


    Đáp : Đó là khuyết điểm , cũng là cá tánh và thói quen , không phải chỉ vì lòng ác độc . Bởi vì chúng ta không rõ , cho nên chúng ta mới nghĩ rằng người đó lòng ác độc , thật ra đều là có quan hệ nhân quả cả . Sau khi thành Phật , không thể nói rằng đã kết nhân quả với chúng sanh , vì nhân quả vẫn còn tồn tại . Cho nên có người muốn giết Phật , muốn ném đá vào Phật , hiểu không ? Phật Thích Ca cũng bị đau đầu , Ngài kể rằng trước đây chỉ vì dùng chân đá một con cá sắp chết , Ngài bị quả báo đau đầu . Phật Thích Ca cũng có nhân quả , Ngài đi đến một nơi thọ bát ba tháng , không cách nào thọ được thức ăn , bởi vì những người ngoại Đạo khác phỉ báng Ngài , nhưng Ngài nói rằng đó là nhân quả của Ngài . Trước đây trồng nhân gì , bây giờ gặt quả ấy , câu chuyện này trong kinh điển kể rất rõ ràng . Có những lúc Ngài cũng giận dữ với học trò của mình , Ngài mắng A Nan , la rầy La Hầu La , không phải vì Ngài dữ dằn , cũng không phải vì Ngài thích chửi mắng , mà vì La Hầu La và A Nan quá ngu , hiểu không ? Đó là vì quan hệ nhân quả , nghiệp chướng của chúng sanh . Đối với Phật , không có người ác , cũng không có người xấu . Nhưng không thể nào nói rằng "không xấu", cho nên phải nói "xấu", đó là vì đẳng cấp của chúng sanh nên mới nói như vậy . Đối với Phật , không có tội , không có ác , không có thiện . Không ác , không thiện , không tội , tính tình giống như đứa bé vậy . Đứa bé có biết tội là gì không ? Có biết ác là gì không ? Không có ! Chúng rất thiện rất chân , có câu nói "Cải lão hoàn đồng" là ý nghĩa này .

    Sau khi thành Phật , con người không còn thiện , không còn ác nữa . Lục Tổ huệ Năng cũng nói : "Bất tư thiện , bất tư ác , đó là Phật tính". Hiểu không ? Cho nên Phật vĩnh viễn không phạm tội , dù Ngài làm gì cũng không phạm tội . Nhưng Ngài không làm , bởi vì Ngài sợ chúng sanh ngộ nhận , sợ chúng sanh không hiểu , tuy Ngài khai ngộ , nhưng chúng sanh chưa khai ngộ , cho nên Ngài làm việc gì đều rất hợp pháp .



  10. #650
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default TÂM ẤN TỨC ĐÃ THÀNH PHẬT


    Vấn : Những người chưa thọ Tâm Ấn cũng có Phật tánh , cũng là Phật , nhưng tại sao khi họ làm chuyện xấu , ví dụ giết người , kết quả người bị giết và kẻ giết người đều oán hận lẫn nhau ?


    Đáp : Vâng , bởi vì cả hai không hiểu rõ trọng điểm , họ nghĩ rằng chính bản thân họ làm , và người bị hãm hại kia , cũng nghĩ rằng người kia làm thương hại đến mình , cho nên hai bên hợp lại tạo nên một bầu không khí hận thù , hiểu không ? Họ tìm cơ hội để trở lại báo thù , vì vậy nhân quả cứ mãi xoay vòng .

    Phật Bồ Tát làm gì cũng không có tội , không có nhân quả , bởi vì họ hiểu mọi việc rất rõ ràng , họ nhìn thấy nhân duyên rất minh bạch , cho nên các Ngài không có chấp vào việc làm của các Ngài , hiểu không ? Ngài hiểu rằng Ngài không có làm , Ngài hiểu rất rõ , cho nên Ngài mới không bước vào vòng nhân quả , đầu óc của Ngài không ghi trở lại , hiểu không ? Ngài hiểu rõ rằng không phải Ngài làm , đối với Ngài không có chuyện gì . Nhưng vì chúng sanh không hiểu , họ nghĩ rằng chính họ làm ra , vì vậy mới có nghiệp chướng , cho nên mỗi ngày cần phải dùng âm lưu để rửa những quan niệm ấy .

    Ví dụ hôm nay quý vị làm điều sai quấy , quý vị không thể nào nói rằng mình không có phạm , cho nên cần phải làm Quán Âm để rửa sạch những cảm giác tội lỗi ấy , ngoài ra , không còn cách nào khác . Chúng ta rửa đến một thời gian nào đó thì không còn gì để rửa nữa . Chúng ta phải rửa hoài rửa hoài rửa mãi thì chỉ còn âm lưu tồn tại mà thôi . Đến lúc đó mặc cảm tội lỗi chưa có dịp tiến vào thì đã bị rửa sạch rồi , cho nên đến lúc đó chúng ta không còn mặc cảm tội lỗi nữa , chỉ còn âm lưu của Quán Âm ở bên trong . Mặc cảm tội lỗi không thể tiến vào , chưa có tiến vào đã bị rửa sạch rồi , hiểu không ?

    Vì chúng ta bây giờ tu hành chưa đủ , chúng ta vẫn còn giữ lại mặc cảm tội lỗi của quá khứ , tuy âm lưu đã bắt đầu hiện diện , nhưng nó đến không kịp để rửa hết mọi thứ . Sau khi chúng ta rửa được nhiều rồi , âm lưu nhiều hơn mặc cảm tội lỗi , đến lúc đó mặc cảm tội lỗi vừa mới tiến vào , thì liền bị tiêu hóa ngay , cũng giống như một người rất đói , khi ăn một chút đồ ăn , thấy dường như không có ăn vậy ; hoặc là đối diện với mặt biển mênh mông , chúng ta đổ rác hoặc nước dơ xuống biển cũng giống như không có vậy , hiểu không ?

    Tự mình đã khai ngộ lại nói mình ngu , cả ngày cứ theo hỏi Sư Phụ : "Tại sao con ngu quá vậy ? Tại sao con không có thể nghiệm ?" Nếu như một người không có thể nghiệm , nhưng lại hoàn toàn tin tưởng Sư Phụ , điều này có lúc lại còn tốt hơn là có thể nghiệm . Có những người có thể nghiệm , ngược lại đã bỏ trốn đi đâu mất . Không có thể nghiệm nhưng luôn luôn tin tưởng Sư Phụ biểu lộ một đẳng cấp rất cao , cũng như hạ ý thức rất sáng suốt , nên mới tin tưởng Sư Phụ được , hiểu không ? Còn những người tuy có chút thể nghiệm , nhưng vẫn còn ở nơi A Tu La , hoặc là thế giới thứ hai mà thôi , trí huệ vẫn chưa đủ để phán đoán . Tuy Sư Phụ không có làm điều gì sai , cũng không phải họ bị Sư Phụ la mắng , nhưng họ đã bỏ chạy rồi . Điều này chứng tỏ rằng đẳng cấp của họ không cao và tí huệ cũng không được sáng suốt nên mới không đủ sức tin tưởng Sư Phụ . Ngoại trừ những đệ tử bị Sư Phụ trách mắng nên bỏ đi là trường hợp khác , còn có thể hiểu được .

    Vì vậy không nên xem cảnh giới của người khác . Cảnh giới không nhất định đại diện cho đẳng cấp cao , ở những nơi A Tu La tràn đầy những thể nghiệm . Thế giới A Tu La có hơn một trăm năm mươi cảnh giới , phân chia rất rõ ràng , mỗi một cảnh giới lại có rất nhiều những cảnh giới nhỏ hơn . Nếu như quý vị đi chơi thì trăm ngàn vạn kiếp cũng không đi hết cảnh giới A tu La , đừng nói chi những cảnh giới cao hơn .

    Cho nên cảnh giới không là gì , mà cần phải có trí huệ . Có trí huệ hay không rất dễ dàng nhận ra . Nếu như một người nào đó tin tưởng Sư Phụ , thì biết rằng nhân duyên của người ấy rất sâu , đời trước có tu hành , trí huệ rất cao , mới có thể hiểu được đạo lý của Sư Phụ , và tin tưởng Sư Phụ . Cũng giống như Milarepa vậy , quý vị có biết không ? Khi ông mới đi học Đạo , không có chút thể nghiệm gì , bởi vì Sư Phụ của ông không dạy cho ông , mỗi ngày chỉ đánh chửi , và đuổi đi hoặc dùng những biện pháp khó khăn để đối đãi ông , nhưng ông vẫn một mực tin tưởng Sư Phụ của ông . Bảy năm ròng rã trôi qua , ông vẫn nhẫn nhục chịu đựng những hoàn cảnh khó khăn ấy .

    Nếu như ông là kẻ phàm phu , hoặc là người có trí huệ thấp thỏi sẽ lập tức bỏ đi . Nếu không đi liền thì ba bốn năm sau ông cũng sẽ bỏ đi . Nhưng Milarepa bảy năm trời vẫn nhẫn nhục : mỗi ngày xây nhà rồi lại tháo ra , cất lên rồi lại giở xuống , bị đánh , bị mắng , bị đuổi , bất cứ ông làm chuyện gì cũng đều bị xem là không đúng , chưa bao giờ ông được Sư Phụ của ông khen thưởng . Thật ra ông cho rằng thầy mình không trách mắng là may lắm rồi hà tất nghĩ đến chuyện được khen thưởng . Sống trong hoàn cảnh như vậy , ông vẫn nhẫn nhục chịu đựng , thể nghiệm lại không có , bởi vì Sư Phụ của ông không dạy cho ông pháp môn nào . Mỗi ngày thể nghiệm của ông là làm việc cho đến chảy máu , toàn thân đầy thương tích , một lời cũng không được nói , muốn gặp Sư Phụ cũng rất khó . Thậm chí đến hỏi han Sư Phụ điều gì ông cũng không được trả lời , ngay cả pháp môn ông cũng không được truyền . Nhưng cuối cùng rồi Milarepa cũng được trở thành một bậc đại sư nổi tiếng cho đến ngày nay .

    Cho nên chúng ta cần phải hiểu rõ , không phải có thể nghiệm là đủ , là tốt , nhưng người có đại trí huệ trong lòng hiểu rõ ràng , rất minh bạch và luôn luôn tin tưởng Sư Phụ của họ , cho dù có thể nghiệm hay không , họ cũng không màng đến . Bởi vì ở thế giới Ta Bà này cần phải có một số người ở lại làm việc chung với Sư Phụ . Nếu như họ có quá nhiều thể nghiệm , họ sẽ không thể nào làm việc , họ sẽ say sưa trong đó mà không chịu làm gì cả . Hiện giờ đây Sư Phụ đôi khi chỉ bảo quý vị một vài điều , quý vị còn không hiểu nổi , chờ đến khi quý vị có nhiều thể nghiệm , quý vị đều say sưa uống nước cam lồ , không ai chịu làm việc , cuối cùng chỉ còn lại một mình Sư Phụ làm việc . Bây giờ chưa có thể nghiệm mà còn như vậy , Sư Phụ bảo mở cửa lớn lại mở cửa sổ , bảo mở cửa sổ lại mở cửa lớn . Nếu như cả ngày say sưa trong thể nghiệm thì sẽ như thế nào ?

    Cho nên những người tu hành , không phải lúc nào cũng cần có nhiều thể nghiệm , bởi vì chúng ta còn phải làm việc ở đây , hiểu không ? Nếu chúng ta cần phải nấu cơm cho người khác ăn , lúc nấu cơm chúng ta không thể hưởng thụ những món sơn trân hải vị , bởi vì chúng ta bận rộn lo cho người khác ăn trước , cho nên có những lúc ngay chính chúng ta cũng không biết mùi vị là gì , chỉ vội vã làm cho người khác ăn . Đợi đến khi người ta ăn "no nê" rồi thì ở trong bếp chúng ta cảm thấy rất lạ lùng : tại sao người ta có nhiều "thể nghiệm ngon miệng" như vậy ? (Mọi người cười). Nếu như quý vị muốn hưởng thụ , muốn mặc nhưng bộ đồ đẹp , ngồi ở bàn , để người khác chăm sóc thì không thể nấu cơm ; trái lại muốn nấu cơm thì không thể ngồi ở bàn ăn với thái độ cao nhã thưởng thức , hoặc là hưởng thụ thức ăn ngon , để người khác tiếp đãi , hiểu không ?

    Cũng vậy , hôm qua quý vị đến nơi của vị sư già nọ ăn cơm , người ta tiếp đãi quý vị ; quý vị hưởng thụ cơm chiều ở đấy , sau đó về nhà . Khi hai vị sư phụ già ấy tiếp đã quý vị , họ không ăn , họ không cảm nhận và cũng không hưởng thụ được khẩu vị ấy , lúc quý vị thưởng thức bữa ăn , họ không biết tình trạng thoải mái của quý vị như thế nào ? Hiểu không ? Bổn phận của chúng ta là làm việc chứ không phải hưởng thụ , đến khi hoàn thành nhiệm vụ mới hưởng thụ , cũng như chúng ta nấu cơm cho người khác ăn , đợi đến khi họ ăn no rồi , thì chúng ta mới có thể ngồi xuống ăn chung với nhau .

    Chúng ta đi Tây Phương rồi mới ăn , nếu như bây giờ ăn , thì không còn ai nấu cơm nữa . Cần phải có người nấu cơm cho người khác ăn , nếu như mọi người đều muốn hưởng thụ , vậy thì ai nấu ? Hiểu không ? Những người muốn làm việc rất ít , những người phát tâm Bồ Tát rất ít , chúng sanh đều muốn ỷ lại vào Phật Bồ Tát , không chịu dựa vào bản thân mình , cũng không dũng cảm làm việc , bởi vì lúc làm việc thì không thể hưởng thụ . quý vị cần phải hiểu rõ hoàn cảnh này , những người làm việc rất ít có cơ hội hưởng thụ . Quý vị nhìn thấy Sư Phụ có bao nhiêu cơ hội để có thể được nhập định ? Vừa nhập định , liền có người làm "đùng" một tiếng , náo động để Sư Phụ phải tỉnh dậy , như thế rất nguy hiểm , vì vậy cho nên Sư Phụ không dám nhập định sâu , bởi vì khi đột nhiên xuất ra có khi rất nguy hiểm , đối với thân thể không tốt , có thể sẽ bị đau đớn .

    Sư Phụ ngồi ngủ cũng không ngủ được , lẽ ra vào lúc Thiền Thất , cần phải nghỉ ngơi một chút , nhưng không có cơ hội nào để nghỉ ngơi , một bên săn sóc quý vị , một bên lại bị người khác bước vào quấy nhiễu , không để cho quý vị vào thì không được , mỗi lần Thiền Thất đều có rất nhiều chuyện phiền toái . Lúc kiết hạ an cư , mỗi tuần lễ mọi người đều chạy đến , càng kiết hạ càng đến nhiều , làm cho Sư Phụ càng ngày càng mệt mỏi . Lúc nào cũng thấy Sư Phụ làm việc , không có một ngày nào Sư Phụ có thể nghỉ ngơi , ngay cả lúc Thiền Thất , Sư Phụ cũng vẫn phải làm việc . Vừa rồi đã nói qua , lúc quý vị ngủ , Sư Phụ cũng phải làm việc . Lúc quý vị ăn cơm , cho dù Sư Phụ không muốn ăn , cũng phải đi gia trì cho quý vị , làm Sư Phụ thật không phải dễ dàng !



  11. #651
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Ý NGHĨA MỚI VỀ BÁT KÍNH PHÁP






    Quyển 5 : Bài 5

    Ý NGHĨA MỚI VỀ BÁT KÍNH PHÁP

    Sư Phụ Thanh Hải giảng tại Tân-Điếm , Đài Loan

    Ngày 29 tháng 12 năm 1987


    Quý vị có biết cha mẹ nghĩ thế nào về con cái không ? Cho dù quý vị là một nhân vật như thế nào , ngay cả là một vị vua cũng vậy , họ vẫn nghĩ rằng quý vị là những đứa con nhỏ của họ , họ vẫn cứ vỗ về ôm ấp , hoặc có những cử chỉ âu yếm . Phật Thích Ca hiểu rõ tâm lý này , nên lo ngại người Dì của Ngài sau khi xuất gia sẽ có những cử chỉ như vậy với Ngài . Ngài đã là Phật , là Thiên Nhân Đạo Sư , nên không thể để một người mẹ bình thường kiềm tỏa . Không phải Ngài không hiếu thảo , nhưng nếu để xảy ra như vậy sẽ khó khăn cho việc truyền pháp của Ngài . Đi đâu cũng cảm thấy không thuận tiện và không thoải mái , lúc nào cũng có một người ở một bên quan sát , hỏi han , chỉ bảo . Như vậy sẽ không được tự tại thì làm sao hoằng pháp được ? Do đó Ngài mới có ý định không để người Dì của mình xuất gia .

    Nhưng A Nan đã giúp bà cầu xin Ngài mấy lần , Phật Thích Ca cuối cùng đã chấp thận cho người Dì của Ngài được xuất gia . Bát Kính Pháp rất có thể do Phật Thích Ca giảng , vì muốn làm người Dì của Ngài thối tâm mà trở về nhà . Nếu Ngài nhận cho người Dì của Ngài xuất gia , sau này sẽ có nhiều người nữ khác bắt chước . Do đó Ngài rất lo lắng vì nam nữ ở chung với nhau sẽ gây ra nhiều vấn đề . Xưa kia nam nữ chưa bao giờ cùng nhau tu hành như vậy .

    Ngày xưa và ngày nay khác nhau , lúc này ra ngoài đi đâu cũng gặp phái nữ , trước kia không có tình trạng như vậy , hiểu không ? Nữ phái phải ở trong nhà ; nếu có chuyện phải ra đường , cần có người đi cùng và người ngoài không được đến gần . Trước khi lập gia đình , cũng không biết bản lai diện mục người vợ tương lai ra sao ! Cưới về nhà rồi , nếu có xấu cũng phải ráng mà chịu . Trong hoàn cảnh xã hội như vậy , Phật Thích Ca biết rằng nhận các Tì Khưu Ni sẽ xảy ra nhiều phức tạp , phải chống lại quan niệm xã hội , cũng như sẽ ảnh hưởng tới sự tu hành của nam chúng , cho nên Ngài không muốn cho người Dì của mình xuất gia . Không phải Tì Khưu Ni tu hành không bằng Tì Khưu , sự thật không phải như vậy .

    Hơn nữa , lúc ra ngoài giảng kinh , Ngài sống cùng với các vị Tì Khưu , nếu có Tì Khưu Ni đến , ví dụ như người Dì của Ngài , hoặc là các cung nữ trong hoàng cung theo Ngài xuất gia , có thể họ chưa quên được thói tiền hô hậu ủng , khi đến lại chỉ huy các vị Tì Khưu cách làm việc , hoặc la rầy các vị này . Để phòng ngừa những trường hợp như vậy có thể xảy ra , Phật Thích Ca mới quy định rằng các vị Tì Khưu Ni phải đảnh lễ các vị Tì Khưu . Các vị Tì Khưu đã sống chung với Phật một thời gian lâu dài , còn các vị Tì Khưu Ni , dù từ đâu đến , cũng là người mới đến , do đó phải đảnh lễ các vị Tì Khưu là một việc làm đúng , hiểu không ?

    Phật Thích Ca còn sợ các vị nữ chúng cho rằng mình có quan hệ huyết thống với hoàng gia , đều là những người quý tộc đến tăng đoàn , không biết sự cực khổ của đời sống xuất gia , không biết những vị Tì Khưu cùng với Ngài tu hành , không phải từ hoàng gia , không phải từ những vị cao sang trong xã hội , trái lại họ rất nghèo , hoặc có những địa vị rất thấp . Phật Thích Ca sợ rằng bà Dì hoặc bà vợ của Ngài , khi đến xuất gia , sẽ coi thường những vị Tì Khưu đó ; Ngài lo rằng các vị nữ tăng này sẽ nghĩ rằng mình là người thân của Phật Thích Ca , mượn sự quan hệ này mà đối xử không tốt với các vị Tì Khưu , không tôn kính họ , rồi gây nghiệp chướng cho chính mình .

    Rất có thể vì những nguyên do này , Phật Thích Ca mới nghiêm khắc như vậy . Ngài hỏi người Dì của Ngài rằng : "Dì có thể chấp nhận những điều kiện vô lý đó không ? Nếu được , ta sẽ nhận Dì". Ngài nói vậy dụng ý muốn dùng sự nghiêm khắc làm cho bà cảm thấy khó khăn vô lý mà nản chí bỏ cuộc . Nhưng không ngờ đạo tâm của bà vô cùng kiên cố và khiêm tốn , nên đã chấp nhận bất cứ điều kiện gì . Lúc đó Phật Thích Ca không còn cách nào để từ chối bà được .

    Bát Kính Pháp rất có thể được Phật Thích Ca đặt ra vì hoàn cảnh đặc biệt đó . Ngày hôm nay chúng ta không nên chấp nhất điều này , hiểu không ? Hoàn cảnh hiện đại đã đổi khác , Phật Thích Ca đã qua đời rồi và chúng ta đang học với những vị Phật tại thế khác , họ sẽ thay đổi điều kiện ; bởi vì thời đại thay đổi thì các điều kiện cũng phải thay đổi cho phù hợp , mặc dù các giới luật vẫn giữ nguyên vẹn , không đổi ; cũng giống như pháp luật của quốc gia . Mỗi quốc gia có những điều luật khác nhau , và ở mỗi thời đại , luật pháp đó cũng cần được thay đổi , có phải như vậy không ? (Mọi người đáp : Phải).

    Trước đây không có xe , đương nhiên không có luật lệ giao thông , cũng không cần quy định cách lái , đường dành riêng cho bộ hành và cũng không có đèn xanh đèn đỏ . Nhưng bây giờ chúng ta có đèn lưu thông , có xe gắn máy , xe đạp , máy bay , xe hơi , xe lửa ... Nếu chúng ta vẫn còn dựa vào luật bộ hành của thời xưa thì giao thông sẽ không thuận lợi .

    Vào thời đại Nghiêu Thuấn , nếu chúng ta đánh rớt đồ vật ngoài đường cũng không có ai lượm ; tối đến không cần đóng cửa . Nhưng bây giờ nếu quý vị không đóng cửa cẩn thận sẽ có nhiều phiền phức . Thời buổi này không những cửa đã đóng , mà còn phải khóa nữa , bên ngoài còn gắn thêm những song sắt , cửa sắt . Vậy mà vẫn chưa đủ an toàn . Quý vị không thể nói pháp luật của thời Nghiêu Thuấn như vậy , tại sao bây giờ chúng ta phải đóng cửa ? Quý vị cần phải giữ gìn ví bóp của mình cho cẩn thận , đừng cố ý để trên đường rồi và nghĩ rằng người ta không nhặt . Ví bóp của quý vị bỏ trong túi đàng hoàng , người ta còn móc lấy đi , huống chi là để trên đường ? (Mọi người cười). Quý vị để tiền ở nhà hoặc là ở ngân hàng , người ta vẫn có thể cạy cửa vào lấy đi , huống chi để hớ hênh mà không ai nhặt ?



  12. #652
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Ý NGHĨA MỚI VỀ BÁT KÍNH PHÁP


    Thời đại đã đổi khác , giới luật cũng đổi khác , không thể chỉ dựa vào những pháp luật của ngày xưa . Đương nhiên , những giới luật căn bản chúng ta cũng còn giữ lại để dùng , ví dụ không trộm cướp , nếu như tăng đoàn mà đi trộm cướp thì có phải là khó coi lắm không ? Ngay cả pháp luật quốc gia cũng không đồng ý điều này . Tất cả các giới luật đều bao gồm những luật pháp của quốc gia . Giới luật qui định : "Chúng ta không thể sát sanh", đương nhiên chúng ta cũng không thể giết người . Nhìn thấy sự đau khổ của con vật lúc bị giết chúng ta còn không đành lòng , huống chi là chuyện giết người , chúng ta làm sao nhẫn tâm làm được ? Đây là những chuyện bình thường , không cần dùng giới luật cũng có thể biết được , thì làm sao các tăng nhân có thể sát sanh được ? Yêu thương tất cả chúng sanh là một chuyện rất bình thường .

    Không tà dâm cũng là chuyện đương nhiên , người xuất gia rất bận rộn làm sao có thì giờ mà tà dâm ? Nếu có vợ hoặc chồng thì bao giờ mới có thể độ cho chính mình được ? Bao giờ mới có thể độ chúng sanh được ? Hơn nữa , lỡ sanh ra vài đứa con , rồi từ sáng đến tối bận săn sóc cho chúng thì không thể nào tu hành được , lại biến thành một người tại gia . Cho nên tì khưu , tì khưu ni không được kết hôn là một chuyện rất hợp lý . Nếu họ phải ra ngoài thọ bát , một bên cầm bình bát , một bên ẵm con , ngoài việc thọ bát cho chính mình ăn , còn nhân tiện hỏi thêm : "Quý vị có sữa không ?" (Mọi người cười). Như vậy đương nhiên là mệt lắm .

    Bây giờ Sư Phụ sẽ giảng bộ giới luật nổi tiếng Bát Kinh Pháp , bởi vì có rất nhiều vị Tì Khưu Ni nói với Sư Phụ : "Bất luận chúng con đi đâu , đều có những vị Tì Khưu dùng Bát Kinh Pháp để chèn ép Tì Khưu Ni . Vừa mở miệng ra là Bát Kính Pháp , bảo các vị Tì Khưu Ni phải đảnh lễ họ . Có những vị Tì Khưu tu hành không tốt , kinh điển cũng không biết , lại cứ một mực bảo người khác đảnh lễ , làm cho chúng con không chịu nổi". Điều này cũng chẳng sao , đảnh lễ Tì Khưu cũng giống như đảnh lễ cục đá vậy , đảnh lễ Phật đá hoặc đảnh lễ Phật gỗ đều được cả , sao không đảnh lễ một vị Phật sống ? Tất cả chúng sanh đều là Phật , nếu như chúng ta đều có thể nghĩ như vậy , thì không sao .

    Bây giờ chúng ta hãy đàm luận , Bát Kính Pháp này có phải do Phật Thích Ca giảng không . Nếu là "phải", tại sao Ngài nói như vậy ? Thế giới của chúng ta xưa nay vẫn trọng nam khinh nữ , bất cứ quốc gia nào cũng vậy , các quốc gia Á Châu càng khắc khe hơn . Quan niệm trọng nam khinh nữ này đã được khắc sâu từ mấy ngàn năm rồi , bây giờ muốn thay đổi cũng rất khó . Một người con gái tại sao ra ngoài đường không được dễ dàng ? Tại sao lại ít khi ra đường ? Bởi vì khi ra đường thường hay bị những người phái nam gây phiền phức , rất nguy hiểm , cho nên phái nữ đơn độc ra ngoài hoằng pháp , làm ăn buôn bán , hoặc làm những chuyện mạo hiểm không được dễ dàng .

    Cho nên từ xưa đến nay , rất ít người nữ nổi tiếng , ngay cả việc đi lính cũng phải cải trang thành nam chúng , ví dụ như Hoa Mộc Lan hoặc những nữ anh hùng khác . Tại Việt Nam trong bộ truyện Quán Thế Âm Bồ Tát , Quán Thế Âm Bồ Tát phải giả trang làm nam chúng để đi thọ giới . Vấn đề lớn lao nhất của thế giới này là vấn đề nam nữ . Cho đến bây giờ , rất nhiều quốc gia có chiến tranh cũng chỉ vì đàn bà , phải vậy không ? Có rất nhiều vị vua bị mất ngôi cũng chỉ vì nữ sắc , nhiều người bị tán gia bại sản , bỏ mạng , hoặc tiêu tan danh dự cũng chỉ vì nữ sắc , cho nên nam chúng rất sợ nữ giới .

    Chúng ta thường nói : "Sau lưng một bậc vĩ nhân nhất định phải có một người đàn bà vĩ đại". Điều này ý nói : "Nếu không có một người đàn bà vĩ đại giúp đỡ thì nam phái không thể nào phát triển tốt đẹp , cũng không thể nào nổi tiếng". Sư Phụ không biết tại sao có người quan niệm như vậy , nhưng thôi chúng ta miễn bàn vấn đề này .

    Tại sao giới luật lại chèn ép nữ chúng ghê gớm như vậy ? Rất có thể bởi vì lực lượng của nữ chúng quá lớn , hoặc nam chúng khi nhìn thấy nữ sắc thì vui thích , nhìn một lần là có chuyện ngay ; còn nữ chúng không dễ dàng bị mê hoặc như vậy , ít khi gặp người con trai một lần rồi về nhà tương tư phải không ? Cho nên ban đầu Phật Thích Ca chỉ thu dụng nam đồ đệ mà thôi , và thời đại trước đó chỉ có nam chúng xuất gia cho đến khi Phật Thích Ca xuất hiện sau này mới bắt đầu có Tì Khưu Ni , trước đó không có .

    Hôm qua Sư Phụ đã giảng qua , tại Ấn Độ người nữ ra đường không được dễ dàng . Tại Đài Loan , Việt Nam , Trung Quốc , Đại Lục ..., các quốc gia Á Châu cũng trọng nam khinh nữ , địa vị của nam nữ không được bình đẳng , nhưng một người con gái đi trên đường cũng không đáng quan tâm lắm như tại Ấn Độ ; đối với Ấn Độ thì đây là một vấn đề to lớn , nữ chúng vĩnh viễn không được ra đường một mình , đến bây giờ cũng vậy .

    Lúc Sư Phụ đi Ấn Độ , dù mặc y phục xuất gia , vẫn có trở ngại như thường . Trước khi Sư Phụ mặc tăng phục xuất gia , đương nhiên có rất nhiều người chú ý , có rất nhiều người nam đến nói chuyện với Sư Phụ , nhưng Sư Phụ đều lo liệu được cả , nên không xảy ra chuyện gì . Sau khi mặc tăng phục xuất gia , vẫn còn có vấn đề như thường .

    Cho nên ngày xưa thâu nhận nữ chúng làm đồ đệ là một việc rất lớn , cũng giống như một hành động cách mạng vậy . Phật Thích Ca biết rằng sẽ gây nên nhiều phiền phức , nên mới không thích thu dụng nữ đệ tử . Những người nữ đầu tiên đến học với Ngài lại là Dì của Ngài , còn có sự trợ giúp cầu xin của A Nan , khiến Phật Thích Ca không có cách nào từ chối , mới bất đắc dĩ thâu nhận nữ chúng xuất gia . A Nan nói chuyện rất khéo , ông nói : "Phật ơi ! Dì của Ngài từ nhỏ thương yêu săn sóc Ngài , sao Ngài không báo đáp cho bà ?" A Nan nói vậy , đương nhiên Phật không thể nào từ chối được . A Nan là người đệ tử mà Ngài thương yêu nhất . Ông đã thỉnh cầu mấy lần , Phật cuối cùng đã chịu chấp nhận nữ chúng xuất gia . Bây giờ có rất nhiều chùa của các vị Tì Khưu Ni , để kỷ niệm A Nan , đã treo hình của A Nan để cung phụng , biểu lộ lòng tôn kính , bởi nếu như không có A Nan , thì không có Tì Khưu Ni .



  13. #653
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Ý NGHĨA MỚI VỀ BÁT KÍNH PHÁP


    Bây giờ chúng ta hãy xem xét điều luật thứ nhất của Bát Kính Pháp : "Tì Khưu Ni dù đã thọ giới được một trăm năm , nhưng khi gặp một vị Tì Khưu vừa mới thọ giới cũng phải cung kính đảnh lễ và mời ngồi". Tại sao Phật Thích Ca nói như vậy ? Bởi vì lúc Dì của Phật Thích Ca đến nơi ở của Ngài , bà thật tâm muốn xuất gia và Phật Thích Ca nhìn thấy quyết tâm của bà , biết rằng không có cách nào làm cho bà trở về . Ngài còn nhìn thấy bà đi chân không , thân thể dính đầy bụi , quần áo rách nát vì bà đã đi bộ từ một nơi xa xôi đến . Phật Thích Ca lấy làm lo sợ , biết rằng bà nhất định muốn xuất gia .

    Tại sao Phật Thích Ca lại sợ Dì của Ngài xuất gia ? Thứ nhất : Vì bà có huyết thống hoàng gia , là bậc quốc mẫu , không quen với đời sống cực khổ , sợ rằng sau này bà sẽ chịu không nổi . Cuộc sống của hoàng cung có tiền hô hậu ủng , có bộ hạ , có nhiều người săn sóc quen rồi ; bây giờ tuổi đã lớn , làm sao gia nhập đoàn thể của tăng chúng được ? Tăng đoàn của Phật đều là nam chúng , sẽ không có ai săn sóc bà . Nam chúng không thể săn sóc nữ chúng được . Họ lại quen nếp sống độc thân , tự mình chưa chắc đã săn sóc được mình , huống chi còn phải chăm lo thêm một người già ? Dì của Phật Thích Ca lại là người của hoàng gia , những gì bà muốn có thể không dễ tìm . Trước đây khi bà ra lệnh , thì lập tức có mấy trăm người thi hành ; bây giờ đến đây , nếu bà muốn có một cuộc sống như vậy thì không thể nào thực hiện được . Nếu Ngài đối đãi bà không tử tế thì sẽ thành bất hiếu , tạo nên không khí bất hòa , cho nên Phật Thích Ca không muốn nhận bà .

    Còn nữa , vì bà là Dì của Phật , đương nhiên khi đến đây mọi người đều tôn kính bà , kể cả Phật ; như vậy sau này việc kiểm thảo và dạy dỗ bà sẽ không dễ dàng , lại e rằng ngã chấp của bà quá lớn , rồi dựa vào uy quyền của mình , muốn Phật làm theo ý mình mà quên mất Ngài đã là Đấng Thế Tôn , mà nghĩ rằng Ngài là phàm phu hoặc là đứa con của bà nữa , bây giờ Ngài là công dân của vũ trụ , là bảo vật của vũ trụ . Cho nên Phật Thích Ca không chấp nhận người Dì của Ngài một cách dễ dàng , về điểm này Sư Phụ rất hiểu .

    Thêm vào đó bà đã nuôi dưỡng Ngài đến lớn khôn cũng như là mẹ của Phật vậy ; về sau rất có thể bà đối xử với các vị A La Hán khác không cung kính , luôn luôn đòi hỏi thứ này , thứ kia và chỉ huy họ mãi , như vậy thật là phiền phức . Những người xuất gia khác sẽ nhận ra sự bất công này và cảm thấy khó chịu . Nếu nhận người Dì thì sau này những cung phi mỹ nữ đều đến xin xuất gia thì sao ? Họ đều là những mỹ nhân , và rất có thể những vị tì khưu sẽ bị lung lạc , quý vị có thể tưởng tưởng được không ? Những cung phi mỹ nữ trong hoàng cung đã được nuông chiều hư hỏng rồi , họ vừa xinh đẹp lại vừa được cưng chiều , vạn nhất khi họ đến tăng đoàn "đá lông mi" với những vị tì khưu , những người này và cả A La Hán cũng sẽ bị lung lạc hết . Họ sẽ bị hồn phi phách tán hết vì xưa nay chưa bao giờ nhìn thấy nhiều người đẹp như vậy .

    Ngoài ra , nếu Dì được xuất gia , khi bà bị bịnh , các cung phi mỹ nữ thương nhớ bà , sẽ đổ xô đến thăm bà ; không phải vì muốn xuất gia , mà chỉ vì muốn thăm viếng người Dì mà thôi . Việc làm này sẽ gây nên vấn đề , gây nên phiền phức . Một đoàn mỹ nữ đến thăm viếng một tập đoàn tăng chúng , quần áo rực rỡ , thoa hồng thoa xanh , mỗi ngày ở đó chăm sóc bà Dì , cả ngày cùng với bà nói chuyện huyên thuyên ; như vậy đối với các vị A La Hán , Tì Khưu có phải là nhiều phiền phức không ? Phật Thích Ca sợ rằng hậu quả sẽ là như vậy , nên không muốn nhận người dì của Ngài , nhưng vì A Nan năm lần bảy lượt khẩn cầu , cho nên Ngài phải chấp nhận cho người Dì của mình xuất gia .

    Lúc đầu Ngài không muốn , cho nên cố ý đặt ra tám điều rất nghiêm khắc và vô lý , gây khó khăn cho Dì của mình , để bà phải trở về , hiểu không ? Người Dì của Ngài vốn có huyết thống của hoàng gia , phong cách rất cao quý , được mọi người dân trong nước kính trọng , vì bà là quốc mẫu . Điều thứ nhất trong giới luật quy định "phải đảnh lễ Tì Khưu"coi thử bà có làm được hay không . Lẽ ra mọi người đều phải đảnh lễ bà , bây giờ bước vào tăng đoàn , chưa mở miệng đã phải đảnh lễ các vị Tì Khưu , bất chấp tuổi tác của họ .

    Phật Thích Ca nghĩ rằng nếu là người bình thường thì sẽ thối tâm và sẽ nghĩ rằng tại sao Phật Thích Ca lại làm những chuyện vô lý như vậy ? Tại sao lại không nói những chuyện hợp lý ? Tại sao lại qui định một vị Tì Khư Ni 100 tuổi phải đảnh lễ một vị Tì Khưu 20 tuổi ? Nhất định họ sẽ sinh lòng hoài nghi , biện luận . Nếu bà mở miệng ra biện luận là xong , Phật sẽ trả lời : "Được ! Dì không thích thì có thể ra đi , quy luật của ta là như vậy , Dì có tiếp nhận thì mới có thể ở lại , còn không chấp nhận thì xin ra đi". Đó là lý do Phật Thích Ca viết ra Bát Kính Pháp .

    Ý của Sư Phụ muốn nói là nếu Ngài thật sự quy định như vậy , thì đó là một sự cố ý làm cho người Dì của Ngài thấy khó mà thối tâm . Nhưng người ngày nay đều nói rằng Phật Thích Ca lập ra Bát Kinh Pháp như một quy luật để mọi người tuân theo , Sư Phụ không muốn tranh luận với mọi người . Điều thứ nhất của Bát Kinh Pháp giải thích như vậy có hợp lý không ? (Mọi người đáp : Có). Phật Thích Ca cố ý qui định như vậy để sau khi người Dì thọ giới xong , Ngài mới có cách khống chế bà , đặt bà bình đẳng với các tăng chúng khác , để bà không nghĩ rằng mình là đặc biệt , hiểu không ?

    Bà vốn đã đặc biệt rồi , sau khi làm Tì Khưu Ni , bà lại càng đặc biệt hơn . Là Dì của Phật , là mẹ của một vị sư phụ vĩ đại , đương nhiên rất đặc biệt , cho nên Phật Thích Ca nghĩ rằng cần phải hạ ngã chấp của bà xuống trước , cho bà cảm thấy mình không là gì , không phải chỉ đảnh lễ Phật mà thôi , còn phải đảnh lễ các vị Tì Khưu trẻ tuổi , như vậy bà sẽ hiểu thân phận của mình . Ý của Ngài là muốn bà hiểu rõ rằng không phải đến với tăng đoàn để làm vua , và Ngài muốn dẹp ngã chấp của bà xuống . Từ thái độ của người Dì , chúng ta có thể thấy rõ bà là người thành tâm cầu đạo , nếu không bà đã bỏ đi , phải không ?



  14. #654
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Ý NGHĨA MỚI VỀ BÁT KÍNH PHÁP


    Bây giờ Sư Phụ giải thích điều thứ nhì : "Không được la mắng Tì Khưu". Điều thứ ba : "Không được vấn tội Tì Khưu , nhưng Tì Khưu có thể vấn tội Tì Khưu Ni". Bởi vì người Dì có huyết thống hoàng gia , chỉ dạy người khác quen rồi , bây giờ đến đây , rất có thể sẽ đem đến phiền phức cho người khác , ví dụ như phê bình vị Tì Khưu này ăn cơm khó coi , vị Tì Khưu khác thì dơ dáy , không có phong độ của hoàng gia . Phật Thích Ca sống với người Dì hơn hai mươi năm , biết rõ cá tánh của Dì mình cho nên mới nói như vậy , hiểu không ? Nếu không tại sao lại quá nghiêm khắc vậy ?

    Đối với một số người khác , nếu như chính mẹ mình đến xin thọ giáo , chúng ta sẽ từ từ nói rằng : "Mẹ , mẹ cần phải biết , mẹ xuất gia con rất hoan nghênh , nhưng mẹ cũng nên hiểu rõ địa vị của con . Con không thể nào dùng tư cách của một người con đối đãi với mẹ được . Mẹ sẽ rất khổ cực , sẽ rất đau lòng , bởi vì con sẽ đối xử với mọi người như nhau . Bây giờ con không phải là đứa con riêng của mẹ nữa".

    Chúng ta sẽ từ từ nói như vậy , sẽ không thể làm giống như Phật được . Vừa gặp là Ngài đã nghiêm khắc quy định : "Tì Khưu Ni phải đãnh lễ Tì Khưu , bất phân tuổi tác . Không nói những lỗi lầm của Tì Khưu , nhưng ngược lại Tì Khưu có thể phê bình Tì Khưu Ni mà không sao cả". Rất có thể Phật Thích Ca biết tánh của Dì mình còn nặng phần chấp nhất và Ngài không thích tánh ấy . Phật Thích Ca không phải là con ruột của bà , mà là con của người chị của bà . Sống lâu với nhau , cá tính bất đồng , khó tránh được xảy ra nhiều chuyện . Ngay cả giữa mẹ con hoặc chị em cũng có thể xảy ra chuyện bất hòa . Cho nên khi người Dì vừa đến , Phật Thích Ca phải nói rõ ràng : "Dì nên biết , Dì đến đây không phải để gây phiền phức".

    Đó là chuyện giữa hai người , Sư Phụ quan sát một cách khách quan . Nếu không , tại sao Phật Thích Ca lại nghiêm khắc đối với người mà Ngài kính yêu nhất ? Tóm lại , Ngài biết cá tánh của bà , nên phải dùng phương cách như vậy để dạy dỗ bà , để có thể dẹp bỏ ngã chấp của bà , giúp bà tiến bộ , tu hành khá , và sớm thành Phật .

    Nội dung của điều lệ thứ hai và thứ ba không khác nhau mấy . Có thể Phật Thích Ca biết người Dì của mình hay phê bình người khác , có thói quen phê bình thuộc hạ hoặc là con dâu ..., những người này không dám nói gì . Nhưng sống với tăng đoàn thì khác , lúc đó những Tì Khưu theo học với Phật Thích Ca tu hành rất khá , và đã xuất gia từ lâu , chịu cực khổ tu hành ; có người đã thành A La Hán , có người đã thành Bồ Tát , có người đã đạt quả vị Tư Đà Hàm . Nếu như người Dì đến đây dùng tâm phàm phu để xét đoan họ , hoặc đem thái độ phê bình áp dụng vào đoàn thể của tăng chúng lại càng không được . Ngài sợ Dì mình tạo nên nghiệp chướng , tạo nên khẩu nghiệp .

    Phàm phu không thể phê bình bậc A La Hán hay Bồ Tát , cho nên Phật Thích Ca mới nói rõ ràng với bà , để bà biết thân phận của mình ; vừa mới xuất gia , đương nhiên không có bao nhiêu công đức , nếu hay phê bình người , thì rất dễ tạo nên khẩu nghiệp . Vì vậy Ngài mới nói rõ rằng : "Cho dù Dì trở thành Tì Khư Ni , Dì cũng không được tự tiện nói những lỗi lầm của Tì Khưu , nhưng họ nói về lầm lỗi của Dì thì không sao". Tại sao vậy ? Không phải Phật Thích Ca không công bình , ý của Ngài là các vị Tì Khưu đã thành A La Hán hoặc thánh nhân , cách nhìn của họ tương đối rõ ràng hơn , họ dùng cặp mắt của thánh nhân , dùng tâm công bình , mà không dùng lòng phân biệt để nhìn sự việc .

    Ví dụ Dì của Ngài có thể làm chuyện gì sai , Tì Khưu sẽ nói với bà : "Bà không nên làm như vậy". Họ có thể thay Phật dạy dỗ bà , cho nên Phật mới cho phép các vị Tì Khưu được nói những khuyết điểm của bà , hiểu ý của Sư Phụ không ? Còn người Dì vừa mới đến , chưa học được bao nhiêu , không biết quy luật , đương nhiên sẽ gây ra nhiều điều sai trái . Người già thì hay lẫn lộn , làm không rõ , không chịu cố gắng , lại hay rầy rà người , vì ở hoàng cung đã quen rồi . Cho nên Phật Thích Ca mới nói : "Sau khi Dì thành Tì Khưu Ni cũng không được nói lỗi lầm của những Tì Khưu , nhưng các vị Tì Khưu có thể nói những lỗi lầm của Tì Khưu Ni".

    Đây là điều Sư Phụ khách quan mà quan sát . Nếu quả thật như vậy , Sư Phụ cũng đồng ý , bởi vì các vị Tì Khưu đã tu hành với Phật Thích Ca lâu rồi , trình độ tu hành rất khá , bây giờ đột nhiên có thêm một người nữ , lại là một bà già có huyết thống của hoàng gia , đến đây phê bình họ , khống chế họ và coi thường họ , đương nhiên là không được . Cho nên Phật Thích Ca mới ghi lại những giới luật nghiêm khắc ấy . Những giới luật này , vào thời đại của bà Dì này rất đúng và đúng cho cá nhân của bà nữa . Nhưng đối với thời đại hiện nay , hoặc là đối với các vị tín đồ của Phật giáo , chưa chắc là đúng , không nhất định mọi người đều phải như vậy ; giới luật này chỉ thích ứng vào thời đại ấy mà thôi .



  15. #655
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Ý NGHĨA MỚI VỀ BÁT KÍNH PHÁP


    http://www.suprememastertv.com/au/

    Thứ tư : "Thọ giới giữa tăng chúng". Đây là chuyện đương nhiên , lúc đó chưa có Tì Khưu Ni , bà sẽ phải đi đâu để thọ giới Tì Khưu Ni ? Ý của Phật là , Ngài không thể dùng tình cảm cá nhân , hoặc quan hệ cá nhân đặc biệt thọ Tì Khưu Ni giới riêng cho bà . Bởi vì giới Tì Khưu Ni có liên quan đến vấn đề của phụ nữ , Ngài không tiện nói riêng với bà ; nói trước mặt mọi người , để mọi người đều biết , giữa Ngài và bà không có vấn đề gì , không có quan hệ gì .

    Về sau các vị Tì Khưu Ni cũng vậy , không thể đơn độc thọ giới với một vị Tì Khưu , cần phải hợp chung với những người cùng thọ giới , hiểu không ? Có gì nói nấy , dù là có những điều lẽ ra không được nói trước mặt nữ chúng , hoặc trước mặt nam chúng ; nói trước mặt mọi người sẽ không còn gì thần bí nữa . Vì nguyên do này , Phật mới quy định như vậy , hiểu không ?

    Ý của Ngài là cần phải thọ giới trước đám đông , bởi vì có rất nhiều việc khi nói ra sẽ đỏ mặt , hoặc gây những ngộ nhận . Có rất nhiều vấn đề sinh lý , nếu nói riêng với một người , thì tình cảm hoặc dục vọng sẽ nổi dậy . Cho nên Phật mới nói : "Các vị Tì Khưu Ni cần phải thọ giới trước các tăng chúng". Về điểm này Sư Phụ cũng đồng ý .

    Thứ năm : "Nếu Tì Khưu Ni phạm giới trong vòng nửa tháng ở trong hai bộ tăng (Tì Kheo và Tì Kheo Ni), nên làm phép Mana Đóa (vui lòng sám hối để trừ tội)". Cứ mỗi nửa tháng một lần , họ sám hối trước mặt các tăng chúng , sau đó mọi việc không còn nữa . Đây là chuyện đương nhiên , bởi vì các vị thọ Tì Khưu và Tì Khưu Ni đã cùng nhau cộng tu , cho nên có sinh hoạt gì cũng phải làm công khai . Sư Phụ ở đây la rầy ai cũng công khai , để cho mọi người cùng chia nhau gánh đỡ nghiệp chướng của quý vị . Sư Phụ la rầy xong , quý vị sẽ trở nên tốt hơn , nhưng mọi người sẽ xấu đi một chút , bởi vì họ đã lãnh một phần sự xấu của quý vị .

    Cho nên Sư Phụ la rầy giữa công chúng rất hữu ích , đừng trách Sư Phụ tại sao không gọi quý vị vào trong phòng riêng để la rầy , đừng phiền Sư Phụ lần nào cũng la rầy nơi công chúng . La rầy ở chỗ đông người thì mọi người sẽ phân chia gánh vác nghiệp chướng của quý vị ; mỗi người lãnh một chút , về sau quý vị sẽ được sạch sẽ . Sư Phụ sám hối dùm cho quý vị trước công chúng . Ý nghĩa là vậy , bây giờ hiểu chưa ? (Nhưng nếu vì muốn tiêu trừ nghiệp chướng mà cố ý làm phiền Sư Phụ , để Sư Phụ phải la rầy , nghiệp chướng sẽ rất nặng). Mỗi nửa tháng phải đứng trước mặt công chúng sám hối việc làm của mình . Bây giờ quý vị có nghiệp chướng hay không , chỉ âm thầm viết vào nhật ký để Sư Phụ đọc mà thôi , có phải là đã đem toàn bộ nghiệp chướng giao cho Sư Phụ không ? (Mọi người cười).

    Thứ sáu : "Mỗi nửa tháng các Tì Khưu Ni phải đến giáo hội Tì Khưu để thỉnh một vị đến thuyết pháp". Nếu chúng ta sống trong một đoàn thể , đương nhiên sẽ có người mới đến , hoặc có người không hiểu rõ một vấn đề nào đó , cho nên mỗi một tháng cần có người đến nhắc nhở . Cũng giống như chúng ta ở đây , Sư Phụ thường nhắc nhở quý vị một việc nào đó không nên làm , việc nào đó không nên nói . Quý vị cứ phạm lỗi hoài , cho nên Sư Phụ phải nhắc nhở luôn , chỉ vậy thôi .

    Thứ bảy : "Chẳng nên kiết hạ an cư ở những nơi không có Tì Khưu". Vừa rồi Sư Phụ có giảng qua , tại Ấn Độ , nữ chúng ở chung với nhau không thuận tiện , cần có nam chúng để tránh những nam chúng ở bên ngoài sẽ đến tìm và gây phiền phức . Ở chung với các nam xuất gia tương đối an toàn hơn , những người đàn ông khác không dám đến , chỉ vậy thôi .

    Thứ tám : "Kiết hạ an cư xong , nên theo trong hàng tăng làm phép tạ tứ (xưng ra tội mình), và hỏi các vị Tì Khưu ba việc , chỗ nghe , chỗ thấy , chỗ hoài nghi của mình". Đây cũng là chuyện đương nhiên , bởi vì các vị Tì Khưu Ni đều vừa mới xuất gia , còn các vị Tì Khưu đã xuất gia với Phật Thích Ca lâu rồi , đương nhiên có thể làm thầy của các vị Tì Khưu Ni , đây là chuyện rất đơn giản . Nhưng không phải bây giờ mỗi vị Tì Khưu đều làm thầy các vị Tì Khưu Ni , thời đại đã đổi khác , hiểu không ? Về giới luật này , hiện nay nhiều người đã hiểu lầm ; nên hiểu rằng không phải các vị Tì Khưu nào cũng có thể làm thầy các vị Tì Khưu Ni .

    Các vị Tì Khưu theo học với Phật Thích Ca mới có thể làm thầy các vị Tì Khưu Ni thời đó . Trước khi có Tì Khưu Ni , các vị Tì Khưu đã học với Phật Thích Ca rồi , có nhiều người đã thành A La Hán , thành Thánh Nhân , đương nhiên họ có quyền , có lực lượng , có trí huệ , có thể dạy dỗ các vị Tì Khưu Ni mới đến , chứ không phải chỉ dạy Tì Khưu Ni mà thôi ; đây là một chuyện rất dễ hiểu .

    Nếu như đem giới luật này áp dụng vào thời đại bây giờ thì không được . Không phải vị Tì Khưu nào ngày nay cũng có thể dạy được Tì Khưu Ni , có rất nhiều vị Tì Khưu Ni trí huệ còn cao hơn các vị Tì Khưu , bởi vì thời đại đã đổi khác , có những vị Phật khác .

    Nếu như ngày nay có một vị Tì Khưu vừa nhập vào tăng đoàn của chúng ta , họ cần phải học hỏi với các vị Tì Khưu Ni trước . Ý của Sư Phụ nói là các vị Tì Khưu chưa được chính thức thọ giới ở đây , nên cần phải học với các vị Tì Khưu Ni . Các vị Tì Khưu Ni này đã biết quen nhiều việc , hiểu rõ các quy luật và đã được truyền dạy giáo lý của Sư Phụ , các cô tương đối hiểu rõ ràng hơn , đương nhiên cần phải theo học với các cô . Bát Kính Pháp bây giờ cần phải đổi ngược lại mới đúng (Mọi người cười).

    Lời giải thích của Sư Phụ về Bát Kính Pháp là như vậy , có phải là đơn giản không ? (Mọi người đáp : Phải). Thời đại thay đổi , giới luật cũng cần phải thay đổi . Trước hết phải tìm một vị Phật , sau đó mới nói chuyện giới luật , bởi vì vị Phật ấy sẽ quy định ra những giới luật . Vị Phật ấy có thể rất khiêm tốn , rất ôn hòa , cũng giống như đại chúng vậy , nhưng nếu như đại chúng quá ngu muội , Ngài có thể qui định ra một giới luật khác . Trước Phật Thích Ca không có giới luật của Tì Khưu Ni , mà tự Ngài tạo ra giới luật này , hiểu không ?

    Cùng một hoàn cảnh nhưng khác thời đại , nên rất có thể sau này sẽ có những giới luật Tì Khưu Ni mới . Xuất gia cần phải rời bỏ gia đình , không còn tình cảm cá nhân ; nếu có , cũng nên vì đại chúng mà cắt bỏ . Bất cứ người nào muốn tu hành với tăng đoàn đều phải tiếp nhận giới luật này , rời bỏ tình cảm cá nhân .

    Phật Thích Ca đã lập tức cắt bỏ thâm tình mà nói với người Dì rằng : "Nếu như Dì muốn xuất gia thì phải đảnh lễ Tì Khưu , phải công bình , phải hòa mình với đại chúng , không được nghĩ rằng Dì là Dì của con , muốn làm điều gì cũng được". Vì bà là thân nhân của Phật nên Ngài mới nghiêm khắc như vậy , quý vị hiểu không ? Nếu bà chỉ là một phụ nữ bình thường , không có quan hệ với Phật Thích Ca , đến thỉnh cầu được xuất gia , rất có thể sẽ không có Bát Kinh Pháp này .

    Bất cứ một kinh điển nào , một giới luật nào được đặt ra cũng đều có lý do . Chúng ta cần phải hiểu cho rõ ràng , không được mê tín , ai nói gì cũng nghe theo , không chút nghi ngờ . Tin mà không hiểu là không có trí huệ . Phật Thích Ca không muốn chúng sanh ngu muội nên có nói ngay cả Phật cũng không nên vội tin . Chúng ta cần có chứng minh , rồi tự kiểm chứng , sau đó mới tin .

    Sư Phụ rất thực tế nên không thích những chuyện không hợp lý . Nếu thấy vô lý , Sư Phụ sẽ theo hỏi đến cùng , cho ra lý lẽ thì mới thôi ; bằng như không , Sư Phụ sẽ không bao giờ tin , bất luận người nói là người nào . Nếu không , càng tu chúng ta sẽ càng ngu , người ta nói gì chúng ta cũng tin mà không hiểu chút nào cả . Giới luật ngày xưa không còn thích ứng với thời nay nữa , tại sao chúng ta vẫn cứ đem ra dùng ?

    Cũng giống như ngày hôm qua Sư Phụ giảng , thời đại Thần Nông hoặc Nghiêu Thuấn , đồ đạt vất trên đường cũng không ai nhặt . Nhưng ngày nay , dù quý vị đã cất kỹ trong bao vẫn có thể bị lấy mất ; thậm chí để trong ngân hàng , để ở nhà , cũng có người lén vào cướp , huống chi là để trên đường ? Ngày trước không có xe hơi , không có xe đạp , xe gắng máy , đương nhiên không có luật giao thông . Nhưng bây giờ , nếu chúng ta đem những quy luật từ hai ba trăm năm hoặc là năm ngàn năm về trước ra áp dụng , nhất định sẽ sinh hỗn loạn , phải không ?

    Giới luật cũng vậy , nếu có thể dùng được thì chúng ta dùng , không dùng được thì bỏ đi ; nếu không chúng ta sẽ không tiến bộ . Nếu như chúng ta không theo thời đại , mê tín một cách mù quáng , là một điều rất đáng tiếc vì chẳng được một chút ích lợi gì . Lời giải thích của Sư Phụ về giới luật là như vậy , quý vị có đồng ý không ? (Mọi người đáp : Đồng ý !)



  16. #656
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU






    Quyển 5 : Bài 6

    TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN
    VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU


    Thanh Hải Vô Thượng Sư giảng tại
    Đạo-Tràng Thất-Cổ , Đài-Nam , Đài-Loan


    Ngày 4 tháng 12 năm 1988


    Khi nói đến xuất hồn một số người cho rằng đó là lúc thân thể A Tu La của chúng ta xuất ra . Nhưng nếu chúng ta tu Pháp Môn Quán Âm đến một đẳng cấp nào đó , sẽ được vô sở bất tại , nơi nào cũng có thể đến được . Như vậy sẽ thuận tiện hơn , muốn đến địa cầu thì đến , có thể đi cứu người , giúp người , hoặc thăm viếng một người nào đó , mà chúng ta vẫn ở trên cảnh giới cao , vẫn rất tự tại . Thiên vạn ức hóa thân thì cao hơn , hiểu không ?

    Hôm qua Sư Phụ dạy quý vị pháp môn xuất hồn để linh thể của quý vị có thể ra đi . Linh thể là một thân thể như thế nào ? Đó là lúc chúng ta rời bỏ lớp thân thể ngoài cùng nhất , cũng như cởi bỏ lớp áo quần bên ngoài vậy ; nhưng thân thể của chúng ta còn rất nhiều bộ y phục chưa được cởi bỏ , hiểu không ? Trong quyển Tức Khắc Khai Ngộ - Hiện Đời Giải Thoát ; Khai Thị IV (Chương 3 : Hắc Bạch Thần Thông), Sư Phụ đã giảng rất rõ ràng , xuất hồn không phải là quả vị của Như Lai , cũng không phải là lữ hành cao cấp của linh hồn . Hành trình cao cấp nhất của linh hồn là đẳng cấp Như Lai , bất cứ nơi nào cũng hiện diện . Thiên đàng cũng có mặt , địa ngục cũng có mặt , thế giới Ta Bà cũng có mặt , bất cứ nơi Phật thổ nào cũng đều có mặt , lúc đó là "Phổ Môn", biến thành Quán Âm Bồ Tát , bất cứ nơi nào cũng có thể nghe được , và nơi nào cũng có thể đến được .

    Có nhiều người nói : "Tôi học pháp môn nào đó với một người nào đó , linh hồn cũng có thể xuất ra đi gặp người khác". Thật ra đây là một chuyện rất bình thường , không có gì đáng nói . Chúng ta cũng thường nghe nói , ở Đài Loan có người nào đó tự xưng là Phật sống , có thể xuất hồn đi đến một nơi nào để gặp một người nào đó ..., đây là loại xuất hồn mà Sư Phụ đã chỉ cho quý vị ngày hôm qua . Ngày hôm qua quý vị đã thấy được ở đây có mấy người biết rõ linh hồn xuất ra như thế nào ?

    Chúng ta có một vị xuất gia cũng có thể xuất hồn được , điều này chẳng có gì lạ , anh ấy có thể từ đây đến chỗ nhà vệ sinh kia (mọi người cười), có thể đi ra chợ , hoặc đến nước Mỹ , đi quan sát thế giới này , chỉ vậy thôi .

    Tuy nhiên , lợi dụng pháp môn xuất hồn để đi vòng quang thế giới , mà không cần vé máy bay cũng có thể trở nên nguy hiểm . Bởi vì xuất hồn để đi chơi , không những dễ mà còn nhẹ nhàng nên về sau thành thói quen . Mỗi lần nhắm mắt lại là muốn xuất hồn ra ngoài chơi , quên cởi bỏ những lớp quần áo khác còn lại của thân thể , để đến những cảnh giới cao hơn , quên tìm những quả vị cao hơn , có hiểu ý của Sư Phụ không ? Làm như vậy chúng ta chỉ có thể ở thế giới Ta Bà này đi tới đi lui mà thôi , chẳng có ích lợi gì .

    Vì lẽ đó , Sư Phụ không dạy pháp môn xuất hồn , chứ không phải Sư Phụ không biết . Sư Phụ biết rất nhiều pháp môn , nhưng những pháp môn ấy không có ích lợi nhiều . Mục đích tu hành của chúng ta rất quan trọng , nếu chúng ta chỉ vì muốn có những chuyến "du hành" rẻ tiền , không muốn mua vé máy bay thì có thể tu pháp môn xuất hồn mà Sư Phụ giảng hôm qua . Nhưng nếu chúng ta muốn được giải thoát , muốn có được quả vị cao , thì cần phải tu Pháp Môn Quán Âm .

    Nhiều lúc người tu Pháp Môn Quán Âm , có thể đến những thế giới rất cao , nhưng vì đầu óc của chúng ta không thể ghi lại nên lúc trở về đều quên hết tất cả , chỉ nhớ rằng hình như mình có đi đến một chỗ nào đó , trên thân dường như vẫn còn lưu lại một thứ gì , nhưng không biết . Tình trạng đó biểu lộ rằng chúng ta đã đến một thế giới rất cao .

    Có người hỏi Sư Phụ : "Con tu hành lâu rồi nhưng không thấy gì cả , chỉ nghe được âm thanh mà thôi". Nghe được âm thanh là khá lắm rồi , bởi vì âm thanh chính là nước cam lồ của chúng ta . Nếu như không có âm thanh này thì cũng như chúng ta không có nước cam lồ vậy , chúng ta sẽ chết khô chết héo . Chúng ta có thể không có ánh sáng , nhưng nếu chúng ta không có âm thanh , thì linh hồn của chúng ta rất khó sống . Có lúc chúng ta đến những cảnh giới rất cao , khi về nhà không nhớ gì cả , nhưng có khi có đồng tu đi theo sẽ thấy được linh hồn của chúng ta .

    Ví dụ ở Đài Bắc có một người cha của một vị đồng tu bị bệnh ung thư rất nặng , đã mấy năm rồi ; lúc bệnh của ông trở nặng , chết thì cũng không chết , sống cũng không sống nổi , rất là đau đớn . Lúc đó đồng tu khẩn cầu Sư Phụ giúp đỡ . Cha của cô không có tu hành gì , lại không ăn chay , nhưng vì cô rất hiếu thảo , khóc lóc khẩn cầu Sư Phụ , xin được giúp đỡ . Rồi Sư Phụ dạy cô những gì phải làm , lúc về nhà cô cứ thực hành y theo lời chỉ thị của Sư Phụ . Quả nhiên cha của cô đã ra đi rất an nhiên bình thản .

    Lúc cha của cô qua đời , lại có một vị đồng tu khác , cô này chỉ mới học với Sư Phụ hơn hai năm mà thôi và cũng không tu hành nhiều gì . Cô là một người rất bận rộn , hàng ngày phải ra ngoài làm việc , không có nhiều thời giờ tu hành . Nhưng trình độ của cô cũng rất khá , mỗi lần ngồi thiền nhắm mắt lại là thần thức có thể xuất ra , đến rất nhiều cảnh giới , cho nên cô hiểu được lực lượng của Sư Phụ .

    Hôm đó , trong lúc ngồi thiền , cô nhìn thấy vị đồng tu có người cha vừa mới mất dẫn linh hồn của cha mình đến một cảnh giới cao hơn . Cô giúp Sư Phụ làm việc này mà chính cô cũng không biết , Sư Phụ đã chỉ dạy linh hồn của cô làm thế nào để dẫn linh hồn của cha cô đến một nơi an toàn , ví dụ thế giới thứ nhất hoặc là thế giới thứ hai , để cha cô ở trên ấy tu hành với Sư Phụ ; nhưng chính cô cũng không biết điều này , chỉ có vị đồng tu ngồi thiền kia mới biết .



  17. #657
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU


    Ý của Sư Phụ về câu chuyện này là gì ? Là muốn nói với quý vị rằng , có nhiều lúc tuy chúng ta đắc Đạo mà không biết là chúng ta đã đắc Đạo , hiểu không ? Trong kinh Kim Cang nói rất rõ ràng : "Nếu Phật , Bồ Tát , A La Hán nghĩ rằng bây giờ mình đã đạt được quả Phật hay là A La Hán , thì người đó không phải là Phật , không phải là A La Hán . Nghĩ rằng mình đã đạt được quả vị của Bồ Tát , thì người đó không phải thật sự là Bồ Tát". Tại sao vậy ? Bởi vì đầu óc của chúng ta rất hạn hẹp , phạm vi hiểu biết đầu óc của chúng ta là ở một nơi rất thấp của thế giới vật chất này , cao nhất chỉ có thể đến được thế giới Thứ Hai mà thôi .

    Thế giới Thứ Hai là thế giới của nhân quả , còn được gọi là thế giới của tri thức . Thế giới này vẫn còn trong phạm vi tri thức ; vượt qua thế giới tri thức thì đầu óc không còn biết gì nữa , tất nhiên cũng không ghi lại được gì .

    Ví dụ , máy bay đương nhiên là tốt hơn xe hơi ; máy bay có thể bay rất cao và là công cụ giao thông tốt nhất của thế giới này ; nhưng công cụ này không thể nào hiểu nổi tình trạng của đĩa bay , bởi vì đĩa bay đã vượt qua tầng khí quyển , vượt qua được vận tốc âm thanh , cho nên mặc dù những chiếc máy bay nhanh nhất , bay nhanh nhất , cũng không thể nào đuổi kịp , thậm chí cũng không thể nào theo sau đĩa bay , có phải như vậy không ? Nếu chiếc đĩa bay này tiếp tục đến những nơi rất cao , sau đó trở lại , thì có thể nhìn thấy chiếc máy bay nọ trong không trung , phi hành gia có thể vẫy tay chào chiếc máy bay ấy nữa ; nhưng người trong chiếc máy bay kia không thể nào hiểu chiếc đĩa bay đang làm gì ?

    Cũng cùng một hoàn cảnh , nếu chúng ta muốn dùng một vật gì , hoặc hy vọng lúc trở về có thể nhớ được nhiều thì cần phải dùng đầu óc để ghi lại , sau đó dùng ngôn ngữ để viết ra hoặc để giải thích , bởi vì ở những cảnh giới cao dùng ngôn ngữ nói không thông . Ví dụ khi chúng ta đi đến thế giới thứ tư hoặc thế giới thứ năm , không phải chúng ta không biết nơi đó ra sao , nhưng những gì chúng ta biết ở nơi đó khác với sự "biết" của thế giới này .

    Nếu chúng ta có thể đến được thế giới của A Tu La , nơi đó công cụ của họ sử dụng cũng không khác gì của thế giới chúng ta , cảnh giới ở nơi ấy cũng như ở đây . Ví dụ ở thế giới này chúng ta mặc âu phục , khi chúng ta đi đến thế giới thứ nhất , chúng ta cũng nhìn thấy họ mặc âu phục . Lúc chúng ta đến nơi đó , chúng ta chỉ phải cởi bỏ lớp linh thể ngoài cùng mà thôi , không phải cởi hết . Nếu chúng ta cởi bỏ hết những bộ y phục của linh thể cho đến lúc không còn một bộ y phục nào nữa , linh hồn của chúng ta sẽ là một vùng ánh sáng bao la ; không có thân , khẩu , ý ; không có mắt , tai , mũi , lưỡi , thân , ý . Cảnh giới này là một cảnh giới rất cao .

    Khi chúng ta lên đến những cảnh giới cao , không nhất định chúng ta phải nhìn thấy người nơi ấy mặc những bộ đồ như thời cổ vậy , hoặc là mắt của họ trông sáng quắc , mang một bộ râu trắng dài ra đón tiếp chúng ta . Rất có thể họ mặc những bộ đồ cao bồi đến đón chúng ta , bởi vì các vị thiên sứ bây giờ cũng rất kiểu cách . Trước đây người Trung Hoa mặc những bộ đồ khác nhau , lúc họ qua đời , thành thiên sứ , cũng mặc những bộ y phục ấy . Bây giờ kiểu mới là mặc quần áo cao bồi , lúc chết cũng như vậy .

    Trước đây có một quốc vương , làm người cũng tốt , nhưng ông rất ít bố thí . Trong hoàng cung của ông có rất nhiều tài sản , nhưng ông không chịu phân phát cho người ngoài và bá tánh , chỉ để hưởng thụ lấy một mình mà thôi . Rồi một ngày ông chết đi cũng như một số người khác , có một ngày rồi tất cả chúng ta đều sẽ chết . Khi vị vua chết đi , đến một nơi có một căn nhà trống , bên trong không có gì cả , chỉ là một cung điện bằng vàng rất đẹp đẽ . Ông nhìn thấy bàn ghế trong cung điện rất đẹp , giường cũng rất là thoải mái , bèn leo lên giường ngủ . Lúc tỉnh dậy , đến ngồi thử những chiếc ghế và ra hoa viên dạo quanh chơi . Một lúc sau ông thấy vừa mệt mỏi vừa đói khát , muốn ăn uống nhưng ông không tìm được một thứ gì có thể ăn được . Ông đi tới đi lui , vừa mệt vừa khát , muốn uống cũng không có nước để uống . Quý vị đã biết khi một người sắp chết đói hoặc chết khát , thì đau khổ vô cùng và tính khí rất hung hăng .

    Vị vua này liền đi tìm vị thiên sứ và phàn nàn rằng : "Kỳ lạ ! Căn nhà của ta sao không có gì để ăn , để uống cả ? Những cung điện đẹp đẽ này có ích lợi gì ? Đây là chuyện gì vậy ? Có phải là gạt ta không ?" Vị thiên sứ trả lời : "Ông vào kiếm thử xem". Vị vua nói : "Ta kiếm đã nửa ngày , không tìm được một thứ gì cả , bên trong đều trống rỗng". Vị thiên sứ hỏi ông : "Lúc ông còn sống có bố thí cho ai điều gì không ? Ví dụ có những người ăn mày sắp sửa chết đói đến xin ăn , ông có cho họ thứ gì không ?" Vị vua trả lời : "Ai cho họ ăn để làm gì ? Họ làm những kẻ ăn mày là tại nghiệp chướng của họ , là Trời phạt họ , họ có tội thì phải chịu . Tại sao ta phải cho họ ăn ? Khi họ đến , ta đuổi họ đi . Không để cho bầu không khí nghiệp chướng đó làm ô nhiễm nơi ta ở". Vị thiên sứ nói tiếp : "Đương nhiên vì ông không cho ai ăn thứ gì , nên bây giờ cũng chẳng có ai cho ông ăn lại".



  18. #658
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU


    Lúc đó vị vua nói : "Chết rồi ! Bây giờ ta phải làm sao ?" Vị thiên sứ nói : "Ông trồng nhân gì thì gặt quả nấy . Bây giờ ông đừng phàn nàn chi cả ? Pháp luật nhân quả rất rõ ràng , đây không phải do chúng tôi muốn mà do nhân quả của ông tạo ra".

    Vị vua nghĩ ngợi một hồi , vừa mệt , vừa đói , vừa khát , ông hỏi vị thiên sứ : "Có cách nào giải quyết không ?" Vị thiên sứ trả lời : "Không có cách gì cả . Ông cần phải đợi một thời gian , trở về làm người hãy cố gắng bố thí đồ vật cho người khác , lúc ông trở lại , mới có thực phẩm để ăn . Ở dương gian cho người khác thứ gì , hoặc làm được điều gì tốt , khi lên đây sẽ nhận được quả báo đó gấp trăm ngàn lần , hiểu không ?"

    Lúc đó vị quốc vương chịu không nổi sự đói khát , khổ sở , ở thiên đàng mà không có gì ăn , cũng giống như địa ngục vậy . Những căn nhà tuy đẹp đẽ , nhưng không có thức ăn thì thật là đau khổ . Vị vua nói : "Xin Ngài giúp cho tôi trở về một lát được không ? Tôi chỉ cần hai tuần lễ thôi . Tôi xin phép nghĩ hai tuần lễ". Vị thiên sứ nói : "Sao ông phải xin phép đi ?" Vị vua trả lời : "Tôi muốn trở về đem hết tất cả tài sản của tôi ra bố thí , xong rồi tôi sẽ trở lại . Nếu không , tôi sẽ bị chết đói ở đây , như vậy cũng đâu có ích lợi gì ! Ở thế gian tài sản của tôi nhiều như vậy , nhưng nơi đây lại không dùng được , vậy có ích lợi gì ?"

    Lúc đó vị thiên sứ thấy hoàn cảnh của ông cũng tội nghiệp , thấy ông cũng dễ thương và lương thiện , không làm điều gì xấu nên cho phép ông được nghỉ hai tuần lễ .

    Khi vị quốc vương trở về dương thế , ông đem hết tất cả tài sản của ông ra bố thí : Hoàng cung , trâu châu , mã não , vàng bạc ... Tất cả những trân kỳ bảo ngọc ông đều đem bố thí hết . Các thức ăn sơn trân hải vị cũng đem cho . Ai thích có gì thì ông cho nấy . Ví dụ ở Đài Loan , những người ăn chay thích đậu hũ , mì căn , ông đều đem cho họ rất nhiều . Như vậy , khi trở lại thiên đàng , ông mới có thể hưởng .

    Đây chỉ là một thứ nhân thiên phước báu nhỏ nhặt , nhưng nếu chúng ta không cho ai niềm vui vậy thì chúng ta sẽ không có niềm vui . Cho nên bất cứ vị minh sư nào cũng đều nói : "Thương người tức là thương mình . Ghét người tức là đem phiền phức đến cho mình , hành hạ lấy mình !" ý nghĩa là như vậy .

    Còn một câu chuyện nữa : Có một vị thiên sứ hỏi Diêm Vương : "Tôi thấy địa ngục của ông đầy người . Nếu hỏi quốc gia nào đông đúc nhất , thì tôi sẽ nói đó là địa ngục của ông . Làm sao ông có thể cai trị quốc gia của ông một cách hữu hiệu như vậy ?" Diêm Vương trả lời : "Tôi đâu có làm gì . Mỗi phạm nhân khi đến đây , họ đem theo thế giới riêng của họ , hoàn cảnh của họ , căn nhà của họ , tội ác cùng phước báu của họ . Họ tự tạo ra hoàn cảnh sống của họ , họ tự khống trị , tự săn sóc lấy họ và sống trong lao tù nghiệp lực của họ , tôi không phải đụng đến , dù chỉ là một móng tay".

    Thiên đàng ngày trước khác với thiên đàng ngày nay . Những người lên thiên đàng ngày trước đều mặc y phục cổ xưa , bây giờ chúng ta mặc những y phục kiểu mới . Cũng giống như vị quốc vương nọ , ông bố thí những thứ nào , khi lên đó sẽ được thứ nấy . Thiên đàng của chúng ta bây giờ rất tân tiến , có truyền hình , có máy thâu âm , có máy quay phim , máy gì cũng có . Thiên đàng bây giờ cũng rất văn minh , không giống như thiên đàng ngày xưa phải đi bộ , bây giờ thì có xe hơi , có máy bay (Sư Phụ và mọi người cười). Nếu quý vị đọc những câu chuyện ngày xưa hoặc những kinh điển ghi lại từ cổ xưa , một người lên đến thế giới Hoa Nghiêm , nhìn thấy cảnh giới này ra sao ; nếu bây giờ quý vị lên trên ấy sẽ rất ngạc nhiên vì cảnh giới này đã đổi khác , quý vị sẽ nghĩ rằng : "Kỳ thật ! Mình đang đi đâu vậy ?"

    Rất có thể bây giờ chúng ta lên trên ấy , nhìn thấy Phật A Di Đà mặc áo cao bồ (mọi người cười), Phật Dược Sư thì dùng kim chích (mọi người cười), còn Hoa Đà thì dùng máy để đo huyết áp , hoặc dùng ống nghe để nghe nhịp tim của chúng ta đập ; rất có thể Phật Dược Sư và Hoa Đà làm những việc như vậy ở trên đó . Y khoa và dược khoa ngày càng tiến bộ , phát minh rất nhiều điều , cho nên Dược Sư Phật cũng phải ráng theo , nếu không sẽ thành lạc hậu .

    Cũng cùng một trường hợp , những người tu hành trước đây đều lên núi , tìm một góc núi hoặc một sơn động nào đó , mỗi ngày ăn một bữa , sống một cuộc đời như Phật Thích Ca , tu khổ hạnh và lại không lập gia đình . Nhưng đệ tử của Sư Phụ ngày nay đều có gia đình , có con cái , và đi làm việc . Thời đại đã đổi khác , việc tu hành của chúng ta cũng phải thay đổi . Cho nên quý vị tại gia cũng có thể tu hành , không nhất định phải xuất gia . Trước đây nếu không xuất gia , tu hành rất khó khăn , muốn gặp sư phụ cũng không dễ , nên phải xuất gia , và mỗi ngày đi theo sư phụ của mình . Nhưng ngày nay tại gia cũng có thể tu , nếu hoàn cảnh gia đình của chúng ta thuận lợi , yên tĩnh , và chúng ta có thời giờ tu hành . Theo Sư Phụ xuất gia tương đối cực khổ , các đệ tử đều ở chung với nhau , ngủ trong một căn nhà nhỏ , nếu sợ thì đừng nên xuất gia . Sư Phụ đi đến đâu cũng chỉ vì sự tiện lợi chung , giảng kinh vì lợi ích cho chúng sanh , vì lợi ích cho bạn bè của Sư Phụ , nên Sư Phụ không cần có một nơi ở tốt đẹp mới đi giảng kinh ; Cũng không cần bảo học trò phải tìm một lữ quán hoặc một ngôi chùa lớn mới chịu đi giảng kinh . Mọi việc đều tùy cơ ứng biến , bất cứ hoàn cảnh nào cũng có thể ở được . Cho nên các đệ tử theo Sư Phụ xuất gia sẽ không có một cuộc sống thoải mái , phải không ?



  19. #659
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU


    Khi các vị pháp sư khác đi giảng kinh , mọi việc đều phải được sắp xếp chu đáo , nếu không có chùa lớn để ở thì ít nhất cũng phải có một căn phòng rộng hoặc một đại lữ quán . Đệ tử của họ cũng ở một phòng hay là hai người một phòng . Nhưng ở đây có lúc cả hai trăm người ở chung một căn phòng . Cho nên muốn theo Sư Phụ xuất gia cần phải suy nghĩ cẩn thận , đời sống không có dễ chịu lắm đâu .

    Ở Đài Loan , phần đông các chùa chiền đều rất lớn , phòng ốc nhiều , ở không hết , chỉ có Sư Phụ là không có chùa , đệ tử thì nhiều , phòng ốc lại nhỏ . Sư Phụ mới nhận đệ tử được một năm mà bây giờ đã có rất nhiều vị xuất gia rồi ; thật ra cũng chẳng nhiều chi nhưng so với các chùa khác thì tương đối khá hơn . Một số chùa chỉ có một hai người ở , ông quản lý cũng là người trụ trì , đệ tử cũng ông , tín đồ cũng ông luôn (mọi người cười), phải vậy không ?

    Nơi Sư Phụ ở rất nhỏ , quý vị đều biết , nhưng có rất nhiều người muốn đến xuất gia . Sư Phụ đã từ chối rất nhiều người , bởi vì Sư Phụ cần phải xem xét rõ ràng hoàn cảnh của mỗi người , xem họ có con nhỏ hoặc có vợ , có chồng không ? Có rẩt nhiều hoàn cảnh Sư Phụ không thể tiếp nhận được .

    Không phải Sư Phụ không muốn nhận người xuất gia , nhưng nơi ở của Sư Phụ quá nhỏ , vả lại nếu có người có con cái quá nhỏ thì cần phải ở nhà săn sóc , không được xuất gia . Nếu muốn xuất gia cũng giống như tại gia , cũng có thể đem con nhỏ vào , khiến cho mọi người phải giúp đỡ chăm sóc con nhỏ , như vậy thì Sư Phụ không thể nào đi giảng kinh được . Bởi vì khi đến nơi nào cũng phải mang theo bình sữa , núm vú , tã (mọi người cười), xe đồ chơ , còn phải đem theo những đồ chơi đủ màu sắc , thật là phiền phức . Cho nên những người có con nhỏ nên tu tại gia là được rồi , tâm xuất gia mới thật sự là xuất gia .

    Đại Sư Duy Ma Cật tuy không xuất gia , nhưng trí huệ của Ngài so với trí huệ của các vị đệ tử của Phật Thích Ca còn cao hơn nhiều , các vị đệ tử xuất gia của Phật Thích Ca đều sợ Đại Sư Duy Ma Cật . Có một ngày Ngài bị bệnh , Phật Thích Ca bảo đệ tử cao đẳng của Ngài đến thăm Đại Sư Duy Ma Cật , nhưng không ai dám đi . Ngài hỏi rất nhiều người nhưng cũng không một ai chịu đi , bởi vì mỗi người đều bị Đại Sư Duy Ma Cật hỏi bí , biện không nổi với Ngài . Đại Sư Duy Ma Cật có biện tài vô ngại , thần thông quảng đại . Thần thông của Ngài là đại thần thông , thần thông giải thoát , thần thông tự nhiên , thần thông vô ngã , có thể đi đến thiên đàng , hoặc đưa người lên trên đó ngay tức khắc , rồi cũng trong tức khắc đưa người trở về ... Trường hợp này không phải là thứ xuất hồn nhỏ nhặt , chỉ có thể đi từ nơi này đến nơi khác , quanh quẩn trong địa cầu . Nếu không Đại Sư Duy Ma Cật lúc nhuốm bệnh nằm nhà , có thể dùng pháp môn xuất hồn nhỏ nhặt mà Sư Phụ đã dạy cho quý vị ngày hôm qua , đến nơi của Phật Thích Ca thăm là được rồi , tại sao phải ở nhà đợi đệ tử của Phật Thích Ca đến thăm ? Hiểu ý của Sư Phụ không ? Phật Thích Ca cũng có thể dùng phương pháp xuất hồn mà Sư Phụ dạy cho quý vị , đi thăm Đại Sư Duy Ma Cật được rồi . Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hoặc là A Nan , La Hầu La , Xá Lợi Phất ..., cũng có thể dùng pháp môn xuất hồn để đi thăm Ngài , hà tất phải đi đến làm gì ?

    Pháp môn xuất hồn Sư Phụ dạy quý vị ngày hôm qua khác với Pháp Môn Quán Âm là pháp môn cứu cánh giải thoát . Khác chỗ nào vậy ? Ví dụ ngày hôm qua có vị xuất gia của chúng ta tu pháp môn này , được Sư Phụ dạy cho và anh ấy lập tức biết được ngay . Anh có thể từ chỗ này chạy đến chỗ kia và gặp những người ở nơi ấy ; khi thần thức của anh ta trở về với thân thể ; anh liền kiểm chứng lại . Kết quả sự phát hiện mà anh nhìn thấy trong lúc xuất hồn đều giống với hiện tại , biểu lộ rằng vừa rồi anh thật sự có đi đến nơi đó .

    Ngoài ra còn có một vị đã được truyền Tâm Ấn , trước đây tu theo Đạo Gia , có kể với Sư Phụ rằng : "Phương pháp này con biết , việc linh hồn xuất ra ngoài chẳng có gì đáng nói . Trước đây con tu Đạo Gia , có thể xuất hồn được . Từ nhà , con có thể đi ra ngoài đường , nhìn thấy tiền rớt ở ngoài đường , nhưng không lấy được bởi vì không có thân thể ; lúc đó con tưởng là giả , đến khi linh hồn trở về với thân thể , con dùng nhục thể đến nơi đó coi mới phát hiện là sự thật , tiền cũng còn ở đó". Cho nên anh nói rằng pháp môn xuất hồn anh biết .

    Nhưng Pháp Môn Quán Âm và pháp môn xuất hồn khác nhau . Tu Pháp Môn Quán Âm có thể được giải thoát . Quý vị đừng nghĩ rằng mỗi ngày Sư Phụ đều dùng thân thể A Tu La đến nơi quý vị ở , coi thử nhà tắm quý vị có sạch không hoặc vào nhà bếp của quý vị , coi thử quý vị có ăn vụn thịt hay không (Mọi người cười). Không phải vậy , Sư Phụ cần phải thoát ly khỏi tất cả các thân thể , phải vô sở bất tại , mới có thể gặp tất cả mọi người , để giải quyết mọi trường hợp , hiểu không ? Nếu Sư Phụ vẫn còn ở trong một thân thể , cho dù là thân thể của A Tu La , cũng vẫn xem như là Sư Phụ còn bị nhốt ở một nơi , và như vậy Sư Phụ chỉ có thể dùng một thân thể mà thôi . Thân thể của A Tu La cũng không khác gì nhục thể của chúng ta , bản lai diện mục của chúng ta vẫn bị nhốt trong thân thể đó , cho nên chỉ có thể dùng thân thể đó để đi lại mà không được vô sở bất tại .

    Nếu chúng ta muốn nhìn thấy toàn cõi vũ trụ , thì phải đến một nơi rất cao , hoặc nới rộng "chân thể" của chúng ta đến khắp mọi nơi để có thể bao trùm mọi vật . Tùy theo trình độ tu hành của chúng ta , linh hồn của chúng ta , hay còn gọi là người chủ của chúng ta , có thể là thật nhỏ , nhưng cũng có thể là thật lớn như vũ trụ vậy . Nếu chúng ta chưa tu hành , chúng ta vẫn bị thân thể này ràng buộc ; khi chúng ta chưa giải thoát thì linh hồn của chúng ta chỉ nhỏ như thế này mà thôi , rất có thể còn bị nhốt trong tâm . Không phải Sư Phụ ám chỉ đến trái tim trong thân thể , mà muốn nói đến trái tim của linh thể . Điều này cũng giống như thân thể A Tu La thì có trái tim A Tu La , hiểu không ?



  20. #660
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU


    Bình thường linh hồn hoặc "chân thể" của chúng ta rất có thể bị nhốt nơi đỉnh đầu , nếu chúng ta lên được cao hơn một chút , rất có thể đến được nơi có vòm tròn , nhưng vẫn còn dính liền với thân thể của chúng ta , cho nên chúng ta vẫn chưa được tự tại . Khi chân thể của chúng ta biến thành Như Lai , chúng ta sẽ được vô sở bất tại . Lúc đó bản lai diện mục của chúng ta đã được mở rộng rồi , chúng ta không cần dùng nhục thể để đi lên , cũng không phải dùng thân thể của A Tu La đi lên .

    Khi chúng ta vẫn còn trong Tam Giới , hoặc vẫn còn trong thế giới Thứ Tư , thế giới Thứ Năm , chúng ta vẫn chưa đạt được cứu cánh , vẫn còn phải tiếp tục học lên , cho đến khi chúng ta biến thành vũ trụ , nơi nào cũng có mặt ; đó mới là Như Lai . Đến lúc ấy chúng ta không cần phải đi đâu cả , hiểu không ? Nếu chúng ta vẫn còn muốn ra đi , hoặc muốn vãng sanh đến một nơi nào , điều đó chứng tỏ rằng chúng ta vẫn còn ở trong năm giới . Khi ra ngoài năm giới , chúng ta mới có thể tràn đầy giống như vũ trụ vậy , nhưng chúng ta vẫn chỉ là một người .

    Ví dụ như Phật Thích Ca trở thành Như Lai , Ngài vẫn là Phật Thích Ca , vẫn còn ở thế giới Ta Bà , vẫn là Thiên Nhân Đạo Sư . Tuy Phật Thích Ca ngồi dưới cội bồ đề giảng kinh , vẫn ngồi thiền ở đạo tràng của thế giới Ta Bà , nhưng ở thế giới của A Tu La (thế giới Thứ Nhất), Ngài đang dạy cho thiên nhân , còn ở thế giới Nhân Quả (thế giới Thứ Hai) hoặc thế giới Thứ Ba , Ngài cũng hiện diện dạy dỗ cho thiên nhân . Thiên sứ trên ấy cũng nhìn thấy Ngài đang giảng kinh , nhưng không phải nhìn thấy Ngài đang giảng cho toàn cõi vũ trụ . Chủ nhân thật sự của Ngài có mặt trong toàn cõi vũ trụ , đó là trường hợp của Như Lai . Điều này khác với pháp môn xuất hồn mà ngày hôm qua Sư Phụ giảng cho quý vị rất nhiều phải không ?

    Chúng ta tu Pháp Môn Quán Âm là muốn đạt được trình độ Như Lai , không cần phải để nhục thể này ở lại , sau đó dùng thân thể A Tu La đi đến chỗ này chỗ kia xem xét . Tuy có rất nhiều người dạy những pháp môn tương tự như vậy , thoạt trông cũng khá hay , nhưng sự thật chẳng có gì . Quý vị cần phải hiểu rõ kết quả của pháp môn đó có thật sự là cứu cánh hay không ?

    Tình trạng của một người lúc vãng sanh , cũng giống như lúc Sư Phụ chỉ cho quý vị xuất hồn vậy , là đem cả cái thân thể A Tu La của mình ra đi . Khi con người xuất hồn , người ấy biết , lúc trở về cũng biết , và tất cả sự tình trong lúc xuất hồn người ấy điều biết hết . Nhưng người đó chỉ có thể dùng một thân thể ra đi mà thôi , không được thiên vạn ức hóa thân , hiểu không ? Cho nên Sư Phụ không có dạy quý vị làm điều đó , quý vị đừng nhầm Pháp Môn Quán Âm với pháp môn xuất hồn du lịch này .

    Ở Đài Loan có một vài người có thể xuất hồn đi du lịch , trong đó có một vị pháp sư rất nổi tiếng . Có một ngày , bà nhập định hai tuần lễ , học trò của bà tưởng bà đã chết , nhưng vì thi thể vẫn còn nóng , cho nên chưa đem bà đi chôn . Sau hai tuần lễ , bà xuất hồn trở về , đệ tử của bà hỏi : "Ngài đi đâu mà lâu vậy ? Làm chúng con sợ quá !" Bà nói : "Thế giới này loạn quá ! Ta đi xem xét một vòng". Đó là tình trạng xuất hồn của A Tu La , chuyện này rất đơn giản , không cần phải tu hành cao mới có thể làm được .

    Các vị xuất gia theo Sư Phụ chưa được một năm , hôm qua được Sư Phụ chỉ dạy , lập tức có thể xuất hồn và có thể đi rất nhanh . Thật ra chỉ cần chuyên tâm một chút là có thể xuất hồn , nhưng vị pháp sư xuất hồn ấy lại trở nên rất nổi tiếng . Còn có một số người nữa , vì có thể xuất hồn đến được nhiều nơi , cũng trở nên nổi tiếng . Nhưng khi họ xuất hồn trở về , lại rất khoa trương . Không phải Sư Phụ nói đến vị pháp sư vừa rồi , vị pháp sư ấy không có khoa trương . Nhưng nghe nói những người khác , vì có được khả năng xuất hồn mà trở nên kiêu ngạo , đã từng nói với người khác rằng ông đã thành Phật rồi , từ đó về sau làm những chuyện không hợp với giới luật .

    Khi nói đến không giới luật , không phải nói là ông ăn thịt hoặc lập gia đình . Đây không phải là chuyện lớn , nhưng ông làm những chuyện ghê gớm hơn , Sư Phụ không muốn nói đến những chuyện không hay đó , nhưng quý vị có quyền hoài nghi những người ấy , hiểu không ? Cho nên ngày hôm nay Sư Phụ mới nói cho quý vị nghe tình trạng của linh hồn ra đi , ngày hôm qua Sư Phụ có nói xuất hồn chẳng có ích lợi gì , cũng không phải là chuyện lớn , con nít cũng có thể làm được .

    Khi chúng ta còn nhỏ , có những người tuy không học Pháp Môn Quán Âm , cũng không tu một pháp môn nào khác , nhưng linh hồn của họ vẫn có thể ra đi . Lúc còn nhỏ , chúng ta cũng đã từng có nhiều lần để cho linh hồn ra đi , ví dụ lúc chúng ta ngủ nằm mơ , cũng là một thứ xuất hồn . Có những lúc chúng ta mơ thấy một chuyện nào đó sau này trở nên sự thật , hoặc mơ thấy một nơi nào đó có tai nạn xe , hoặc có những tai nạn gì ; ngày hôm sau quả nhiên những chuyện đó xảy ra ; đây là một trong những ví dụ của xuất hồn . Cho nên xuất hồn chẳng có ý nghĩa gì , giúp mọi người được giải thoát mới là pháp môn chân chánh .

    Giải thoát là chúng ta cởi bỏ tất cả những y phục linh thể của chúng ta , để cho linh thể của chúng ta mở rộng đến toàn cõi vũ trụ , biến thành Như Lai . Bất cứ nơi nào người nào ở đâu , chỉ cần nghĩ đến chúng ta , thì chúng ta lập tức xuất hiện , như câu nói : "Ngàn nơi cầu nguyện , ngàn nơi hiện", đó mới là mục đích cứu cánh của chúng ta .

    Trong lịch sử có một số tướng lãnh nổi tiếng , họ cũng có năng lực xuất hồn , nên họ mới có thể bách chiến bách thắng . Nghe nói trước khi đánh giặc , họ xuất hồn đi quan sát tình hình của quân địch , cho nên họ mới biết nơi nào có người nào , và họ có thể nghe quân địch đang bàn bạc chuyện gì , đương nhiên họ đánh thắng trận , bởi vì "tri kỷ tri bỉ , bách chiến bách thắng". Còn nữa , lúc đánh giặc họ có thể để thân thể của họ ở một nơi , sau đó dùng linh thể A Tu La xuất ra , lên trên quan sát , sau đó trở về chỉ huy quân đội của họ cần phải tấn công chỗ nào . Như vậy là không công bình (Mọi người cười). Vì họ đem năng lực xuất hồn dùng vào việc không tốt , cho nên cuối cùng họ cũng chẳng đạt được điều gì , vẫn bị chết thảm .



Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts