Page 10 of 40 FirstFirst ... 678910111213142030 ... LastLast
Results 181 to 200 of 785

Thread: ✿ SÁCH KHAI THỊ - Các bài thuyết giảng của Thanh Hải Vô Thượng Sư

  1. #181
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (1)


    Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (1)

    Thuyết Pháp Tại Trung Tâm Tịnh Toạ Vô Lượng Quang
    Ngày 12 tháng 4 năm 1987


    Sư Phụ thường nói Phật A Di Đà chưa phải là cứu cánh , Ngài chỉ là đại diện cho một đẳng cấp hay phẩm chất của Phật . Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát cũng như thế , khi tâm từ bi chủa chúng ta được tu luyện đến viên mãn , chúng ta sẽ chứng được đẳng cấp của Quán Thế Âm Bồ Tát .

    Đẳng cấp Quán Thế Âm Bồ Tát là gì ? Là đẳng cấp mà lòng từ bi đã được phát triển đến viên mãn , có thể nghe tiếng cầu nguyện đau khổ của tất cả chúng sinh . Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát cũng như nhau , các Ngài chỉ là một phần của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác . Phật A Di Đà đại diện cho cực sáng , cực tinh , cực mỹ , cho nên chúng ta tán thán tên của Ngài là AMITABA , là Vô Lượng Quang .

    Nếu như Vô Thượng Chánh ĐẲng Chánh Giác là một địa vị toàn mỹ , thì trong đó Phật A Di Đà chỉ chuyên phóng hào quang dẫn chúng sanh đến chỗ của Ngài để tiếp tục tu hành . Quán Thế Âm Bồ Tát chỉ chuyên nghe tiếng khẩn cầu đau khổ của chúng sanh . Nếu chúng sanh đau khổ cầu Ngài là Ngài đến , chúng ta chưa chắc thấy được nhưng Ngài dùng lực lượng chiếu đến , tận lực giúp đỡ chúng ta . Đôi khi những việc Ngài giúp không hoàn toàn y theo những gì chúng ta cầu , nhưng Ngài vẫn dùng tận lực để giúp đỡ nên rất nhiều người thích cầu Ngài . Tuy rằng Ngài có lực lượng nhưng những gì chúng ta cầu được chỉ là một phần của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác . Khi chúng ta quá đau khổ nên mới cầu nguyện Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát , là vì Ngài chuyên cứu khổ cứu nạn .

    Nếu ta cầu thấy được Phật , thấy được chỗ sáng lạng của chúng ta để cho chúng ta tự biết mình là ai thì phải cầu Phật A Di Đà . Ngài sẽ phóng hào quang cho chúng ta cởi mở , minh bạch , nhận thức được Phật A Di Đà là chính ở trong ta . Còn Phật Dược Sư thì phóng hào quang giúp cho thân thể của chúng ta được khoẻ mạnh , trường thọ , tự tại ... Ngài cũng là một phần của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác . Ngoài ra còn những vị Phật khác , thí dụ như Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đại diện cho trí huệ . Nếu chúng ta muốn mở trí huệ , biết kinh điển hay muốn hiểu rõ việc gì , Ngài sẽ trợ giúp cho chúng ta mau hiểu biết . Đại Thế Chí Bồ Tát thì đại diện cho lực lượng lớn , khi chúng ta cảm thấy yếu đuối , không có lực lượng , không có cách để khắc phục nghiệp chướng hay trơ ngại , lúc đó chúng ta cầu Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát , sẽ được Ngài ban cho lực lượng .

    Các Ngài kể trên đều là một phần của Chánh Đẳng Chánh Giác mà thôi . Nếu mỗi ngày chúng ta cầu Quán Thế Âm Bồ Tát , lại quên A Di Đà , hay cầu Phật Dược Sư , lại quên Đại Thế Chí Bồ Tát . Cứ cầu tới cầu lui mà vẫn còn thiếu sót nhiều Phật , lực lượng , phẩm chất Phật khác , làm sao đây ?


  2. #182
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (1)


    Nếu như chúng ta có thời giờ , đôi khi còn niệm Phật A Di Đà , Quán Thế Âm Bồ Tát , Phật Dược Sư , Đại Thế Chí Bồ Tát , hay Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ... Nhưng đa số không có nhiều thì giờ , huống chi khi niệm Phật A Di Đà , không những chỉ niệm danh hiệu của Ngài mà còn niệm chú vãng sanh ; khi niệm Phật Dược Sư , còn phải niệm chú Tiêu Trừ Tai Nạn Viên Thọ ; Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát , Đại Thế Chí Bồ Tát , Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cũng nhiều chú và nguyện của các Ngài . Nếu như chúng ta muốn tán thán từng vị một thì vĩnh viễn làm không xuể .

    Hơn nữa , khi chúng ta cầu nguyện , nhất định phải thành tâm , thành ý mới linh ứng , nhưng rất khó . Thí dụ chúng ta cầu nguyện năm phút có thể chỉ có một giây được thành tâm hay ngay cả một giây cũng không có . Cả ngày chạy lung tung ở ngoài làm ăn , rồi vợ , chồng , con không cách nào chuyên tâm cầu nguyện cho nên cầu nhiều nhưng không cảm ứng được bao nhiêu .

    Hằng ngày chúng ta quá bận rộn , không dễ gì làm cho tâm viên ý mã lắng đọng , muốn nó ngừng mà nó cứ động . Cũng như xe gắng máy hay máy bay đang di động , muốn ngừng cũng phải cần một khoảng thời gian mới dừng hẳn . Nhưng ý niệm của chúng ta chưa kịp ngừng , lại bắt đầu làm việc khác , nên vĩnh viễn không thể ngừng được . Thời giờ có hạn , vì quá bận rộn nên đôi khi còn không có thời giờ để ăn cơm , ngay cả lúc ăn cơm cũng phải suy nghĩ , cũng có điện thoại làm phiền . Những người buôn bán đều như vậy cả , họ mời khách đi ăn là để làm thương mại , vừa ăn vừa bàn việc .

    Mình có cái thân còn lo chưa xong , nói chi đến cái 'linh thể' (trí huệ , linh hồn). Thân thể có cảm giác , thấy và sờ mó được mà có những lúc nó đau bệnh chúng ta còn chưa chăm sóc nó đàng hoàng thì làm sao chăm sóc cái linh thể cho trí huệ đây ? Cho nên đời đời kiếp kiếp tìm không ra được Phật Tánh , nhìn không ra chỗ tối cao sáng lạng , có lực lượng tột cùng của chúng ta . Đời đời kiếp kiếp bị luân hồi , bị thế giới này và các thứ vật chất ràng buộc . Cầu Phật Bồ Tát cũng không có hiệu nghiệm vì chúng ta không có chuyên tâm cầu nguyện , ngoại trừ tình trạng khẩn cấp may ra cầu còn có một chút cảm ứng .

    Tại sao như thế ? Bởi vì những lúc chín mất một còn , không còn đường để chọn lựa nên đành bỏ quên mọi việc trên thế gian mà chỉ cần cứu mạng , cầu nguyện với lòng thành nên có một chút cảm ứng .

    Thông thường khi chúng ta cầu nguyện đều chú trọng ngoại biểu mà quên hẳn nội tâm . Nhìn bức tượng Phật mà cầu giúp đỡ nên không thấy hiệu quả . Thật ra phần đông cảm ứng đến dưới trạng thái không có tượng Phật . Thí dụ như lúc bệnh nằm trên giường , mắt nhắm lại cầu Quán Thế Âm Bồ Tát lại có cảm ứng , không nhất định phải đến chùa nhìn tượng Phật mới được cảm ứng .


  3. #183
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (1)


    Vì cảm ứng không phải đến từ tượng Phật gỗ , làm sao gia trì cho chúng ta ? Vốn chỉ là một miếng gỗ được đẻo khắc thành tượng , nó không những không giúp ích mà còn cản trở không để chúng ta "phản văn văn tự tánh", làm cho ta bỏ tâm bên ngoài , trên tường gỗ , hướng ngoahi tìm cầu .

    Mọi cảm ứng đều đến từ nội tâm , Phật ở trong ta , cũng như Thượng Đế ở trong ta . Giê Su Ki Tô nói : "Thiên Quốc ở trong các ngươi", Phật Thích Ca Mâu ni nói : "Phật tại tâm", vậy mà chúng ta không chịu cầu bên trong , lại đi cầu tượng Phật ở bên ngoài , như thế làm sao được ? Cho nên đến chùa cầu Phật không có linh ứng nhiều bởi vì chúng ta bỏ tâm bên ngoài , không "phản văn văn tự tánh".

    Giả sử như chúng ta có thì giờ , mỗi ngày đều cầu nguyện tất cả các vị Phật vẫn không có lợi ích vì tâm vọng ngoại . Cho dù tượng Phật biến thành người sống cũng vẫn là giả vì Phật từ gỗ mà ra , sao có thể thành Phật được ? Từ một thân thể con người hiện ra Phật , còn chưa dám tin , nói chi đến từ khúc gỗ ? Phật như thế đều là ảo tưởng , không phải là thật .

    Sao lại nói rằng tượng Phật không thể giúp chúng ta , lại còn ràng buộc ? Bởi vì nó làm cho tâm hướng ngoại , nên tìm không ra mình . Thí dụ đầu của Sư Phụ đang đội mũ , nhưng suốt ngày cứ ngó ra ngoài nên không thấy mũ đâu , quên mất rằng mũ vẫn nằm trên đầu . Ngoại cảnh đã không giúp được Sư Phụ tìm mũ , còn lôi cuốn nhãn quang ham nhìn ngắm khiến cho Sư Phụ quên mất là nó đang ở trên đầu và quên nói lên coi có đội mũ hay không . Thí dụ khác , có người đeo mắt kính , họ cầm kính trên tay mà đi hỏi người khác có thấy kính của họ hay không . Nếu như có người nói cho họ biết : "kính nằm trên tay đó", thì họ mới sực tỉnh : "Ta sao lãng trí quá !"

    Cùng một ý đó , nếu ta muốn tìm được mình , hay muốn cầu Phật đều không nên bỏ tâm ở bên ngoài . Nếu như tâm hướng ra ngoài tức là ngoại đạo , bởi vì đạo ở bên trong , Thiên Quốc ở bên trong , Phật ở trong tâm ; có muốn tìm nên hướng vào trong mà tìm . Nói là bên trong , nhưng thật ra cũng không phải là bên trong , vì không có ngôn ngữ thích hợp để diễn tả , nên tạm gọi là bên trong . Quý vị đừng lầm là trong bụng hay cơ quan nào khác .

    Vì sao Sư Phụ phải nói là bên trong ? Bởi vì chúng ta hay ngó tới ngó lui , đều là nhìn bề ngoài , bây giờ phải xoay đầu nhìn lại mình nên mới gọi là bên trong . Nếu đã quen nhìn tượng Phật , sau này sẽ không dễ gì thay đổi , vì không thấy được tượng Phật , chịu không nổi .

    Cũng như một cặp vợ chồng ăn ở với nhau mấy chục năm đã quen rồi , có một ngày một trong hai người bỏ đi , tâm của người còn lại sẽ rất đau khổ . Nếu như chúng ta đã quen sống một mình thì có một hay nhiều người đi hay đến cũng không ảnh hưởng hay làm cho ta đau lòng được . Giống như vậy , nếu như chúng ta không quen vọng ngoại , muốn nhìn vào trong rất dễ . Còn nếu đã quen nhìn ngắm ngoại cảnh , muốn xoay đầu tìm tự tánh bên trong thì khó vô cùng .


  4. #184
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (1)


    Tu hành cũng vậy , nếu chúng ta đã để "tâm" tập trung tại một điểm nào đó rất thấp , sau này muốn sửa lại để tập trung nơi trung tâm tối cao rất là khó . Cho nên không tu thì thôi , còn nếu tu thì phải chọn pháp môn tối cao . Nếu không gặp được minh sư thì tốt nhất đừng có tu , còn không thì càng tu càng mệt , rốt cuộc sẽ biến thành chướng ngại . Bởi vì khi đã quen để tâm tại bộ phận thấp , cần trải qua một đoạn thời gian huấn luyện mới có thể sửa đổi . Đối với những người chưa tu pháp môn nào , họ rất dễ xoay vào trong tìm Phật Tánh . Vì vậy nếu tu bất cẩn sẽ biến thành chướng ngại .

    Nhiều người thích tu nhiều pháp môn khác nhau , đa số cũng đạt được thần thông , nhưng những loại thần thông đó dễ dẫn dắt chúng ta vào con đường tà đạo . Cứ bận dùng thần thông sẽ làm cho quên đi cái mục đích cứu cánh giải thoát , cho nên tu để đạt thần thông không có ích lợi , lại còn có hại .

    Chúng ta thường nghe nói có người có thần thông trị bệnh , biết được đời quá khứ , hiện tại , vị lai của con người , hay là thi triển bùa phép rất nổi tiếng . Thật ra không có gì hay , Sư Phụ chỉ cảm thấy loại người đó rất tội nghiệp , không những không được giải thoát còn tạo rất nhiều chướng ngại . Trải qua thời gian rất lâu vẫn chưa giải thoát được vì bị thần thông trong tam giới giữ lại , không bỏ được nên không thể giải thoát , vì nếu mê thần thông , thì rất khó tu hành pháp môn cứu cánh . Như trẻ em mê đồ chơi quá , bỏ học hành , không tiến cao được .

    Khi trẻ con thấy kẹo muốn ăn , ăn quá nhiều rồi không ăn được cơm , không những bị đau răng mà thân thể lại không đủ dinh dưỡng . Cũng như đứa bé thích ngậm nắm vú , khi không có , nó sẽ mút tay , càng ngày ngón tay càng teo lại , xấu xí và yếu đi . Cha mẹ của nó phải huấn luyện rất lâu mới có thể bỏ đi cái tật đó . Nó vốn không cần phải bị sự huấn luyện này vì ngón tay dùng để viết và làm việc , không phải để mút nhưng đã lỡ thành thói quen mà quên đi công việc chính của nó , nên phải cải cách lại .

    Thêm một thí dụ nữa , đứa bé nghe tiếng rao bán cà rem , tâm bị lôi cuốn nên chạy ra xem cho dù không mua . Mẹ nó đã dọn cơm nhưng đứa bé không muốn ăn , ăn vụng và ăn quà vặt đối với nó có sức hắp dẫn hơn là bửa cơm chính . Trường hợp của thần thông giống như ăn vụn hoặc ăn vặt vậy !

    Các thứ thần thông đó không có nằm trong Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác . Các vị đại sư tuy có thần thông tối cao , nhưng khi họ dùng , không ai có thể thấy được , không phải để cho người ta biết được "ta" có thần thông . Cốt yếu chỉ để cứu chúng sanh , giúp họ thoát ly sanh tử mới dùng đến thần thông , chứ không dùng để cứu bệnh nên khác hẳn với loại thần thông bình thường . Nếu muốn dùng thần thông , trước hết hãy đạt được đẳng cấp của Phật Bồ Tát rồi mới dùng , còn không thì toàn là thần thông của ma , đều là ảo tưởng và trò chơi con nít cả .


  5. #185
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (1)


    Trí óc của chúng ta có rất nhiều lực lượng , đầu óc mà Sư Phụ gọi là MIND , không phải là tim . Bất cứ tu pháp môn nào , hễ từ "mắt trí huệ" trở xuống đều năm trong phạm vi của MIND (trí óc) này , là tu tà đạo không phải Phật đạo . Thật ra gọi là tà đạo cũng không đúng , chỉ vì trong vũ trụ nó thuộc về đẳng cấp rất thấp , thứ thần thông nhỏ đó mới nhìn thì tưởng là đại thần thông , nhưng thật sự thì hoàn toàn khác hẳn .

    Trẻ nhỏ có ngũ quan và hình dạng như người lớn , nhưng nó không thể làm việc của người lớn . Sức của trẻ con có hạn , nó không biết lái xe , chỉ lái thứ xe đồ chơi mà cảm thấy tự nãn , cũng biết đọc sách nhưng chỉ đọc sách dành riêng cho trẻ em , cũng biết viết nhưng chỉ biết được một số chữ mà thôi , cho nên chúng khác với người lớn .

    Thần thông của trí óc nằm trong tam giới , còn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ngoài tam giới . Loại thần thông thông nhỏ chỉ buộc chúng ta trong tam giới , còn thần thông của các vị đại sư là thần thông của A Di Đà , Quán Thế Âm Bồ Tát , tối cao người thường không thấy được , sờ được , đoán được . Khi các vị đại sư dùng thần thông , không ai có thể biết được cho dù có thiên nhãn , người phàm phu càng không thể biết được .

    Nếu dùng thần thông mà phàm phu có thể thấy được thì xét đoán ra đó không phải là thần thông cao . Xe hơi đồ chơi của trẻ em tuy có hình dạng như xe thiệt nhưng năng lực khác xa vì nó nhỏ quá không có ích dụng .

    Các vị đại sư có đủ các thứ thần thông của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nhưng họ không phải là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác , vì họ có lực lượng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác , chứ không phải là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác . Chúng ta có thể nói rằng họ là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác , và ngược lại có thể nói là không phải , bởi vì hể còn xác thân này là không phải Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nhưng trong thân lại chứa đầy lực lượng của Phật A Di Đà , Quán Thế Âm Bồ Tát , Phật Dược Sư , Đại Thế Chí Bồ Tát , Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ... đều là của họ hết . Cho nên có thể nói là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác làm việc qua xác thân của họ .

    Thông thường chúng ta hay cầu từng vị một , như cầu Phật A Di Đà , nhưng bởi vì không thấy được Ngài , trí óc của chúng ta không thể nhận thức được nên không thấy cảm ứng . Chúng ta cũng không thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát , Phật Dược Sư và các vị thánh nhân khác nên có cầu cách mấy cũng không có cảm ứng nhiều . Nhưng nếu như có người đại diện các Ngài đến thế giới Ta Bà này , chúng ta sẽ giao thông được với các Ngài .

    Loài người cũng vậy , nếu quen , khi nào muốn ta chỉ nhắm mắt là có thể hình tưởng đến người đó ngay , còn đối với người lạ làm sao có thể tưởng tượng được . Và không thể chuyên tâm được . Mà không chuyên tâm thì không có cảm ứng . Cho nên cần phải có một số đại biểu Phật Bồ Tát đến đây . Khi ta muốn cầu Phật Dược Sư liền nhớ đến người này , và tự nhiên thu hút được lực lượng của Phật Dược Sư vào thân thể , khỏi bệnh .

    Cho nên nếu cần chữa bệnh , cầu vị minh sư tại thế đại biểu cho Phật Dược Sư mới có hiệu quả , bởi vì trong thân của người đó chứa đủ các lực lượng . Khi ta gặp khó khăn , chỉ cần cầu người đó , sẽ được ban cho lực lượng của Quán Thế Âm Bồ Tát hoặc thu hút được lực lượng của Quán Thế Âm Bồ Tát từ người đó . Vị minh sư cũng là con người giống như ta và đã quen biết nên dễ tưởng nhớ đến , dễ giao cảm . Chúng ta chỉ cần cầu vị minh sư đó sẽ được toại nguyện .


  6. #186
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (1)


    Khi chúng ta đau khổ , cần hấp thụ lực lượng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát . Nếu muốn khai ngộ , cần có ánh sáng nên hấp thụ ánh sáng của Phật A Di Đà . Muốn có trí huệ , cầu Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát . Chúng ta chỉ cần cầu có một người , nhưng cầu gì đều có đó . Có người nói Sư Phụ chữa bệnh cho người , nhưng sự thật Sư Phụ không chữa vì Sư Phụ không dùng thần thông chữa bệnh . Nhưng vì một vị chân sư có đủ các lực lượng , chỉ cần mình cầu xin , lực lượng tự nhiên đến mà Sư Phụ không cần động tay cũng không cần biết thần thông . Sư Phụ đã nói rồi , biết thần thông cũng như trẻ em chơi đồ chơi mà thôi .

    Thần thông của một vị đại sư không thể gọi là thần thông , nó là loại phép gia trì tối cao , cứu người nhưng không cứu người (không phải kiểu thường). Có người khi tọa thiền thấy Sư Phụ là Lục Tổ Huệ Năng , hay là Bồ Đề Đạt Ma , Phật Thích Ca Mâu Ni , Địa Tạng Vương Bồ Tát , Phật A Di Đà , Quán Thế Âm Bồ Tát ... Thật ra Sư Phụ chỉ là một người nhưng mỗi người thấy khác nhau . Không phải Sư Phụ hóa thành Quán Thế Âm Bồ Tát với người này , thành Phật A Di Đà với người kia , mà là lực lược lượng toàn vẹn của Sư Phụ bên trong hóa ra , nên mọi người chỉ thấy được một phần nhỏ của lực lượng đó mà thôi . Khi họ thấy được phần nào , nói Sư Phụ là vị đó ; họ không thấy được Sư Phụ nguyên vẹn , chỉ thấy được một phần nhỏ như tai hay tay , còn chân , đầu và những bộ phận khác bên trong họ vẫn chưa thấy được .

    Đó là lý do tại sao chúng ta phải tìm một vị Đại Sư . Vị Đại Sư có đủ các lực lượng . Ngài không cần làm gì mà chúng ta muốn gì được đó . Ngài có lực lượng toàn mỹ , nên tất cả đều tự nhiên như vậy . Một đóa hoa không cần cho ta mùi thơm mà tự nhiên nó thơm . Nước hoa hay dầu thơm cũng vậy , ta mới ngửi liền cảm thấy thơm , không cần bảo nó thơm đi , nó cũng thơm mà không phải suy nghĩ .

    Nước suối không cần phải phát ra tiếng reo lớn , để bảo cho chúng ta biết nó là nước , cũng không có ý niệm cho chúng ta nước uống , nó tức là nước . Chúng ta muốn uống thì đến uống , nước không cần phải mời hay để ý đến chúng ta , chỉ cần tìm ra nước thì cứ uống .


  7. #187
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (1)


    Khi ta cầu Phật Bồ Tát , chỉ cầu được một bộ phận mà thôi , nếu muốn cầu toàn bộ , tốt nhất nên tìm vị chân sư tại thế có đầy đủ các sức gia trì . Giả sử có người chỉ cầu tâm từ bi hay thoát khỏi đau khổ , đương nhiên có thể cầu Quán Thế Âm Bồ Tát , còn vấn đề có cảm ứng hay không thì phải coi quý vị có thành tâm hay không . Muốn cầu sanh cõi Tây Phương cũng có thể cầu Phật A Di Đà và có được sanh nơi đó hay không , cũng là chuyện khác nữa !

    Nếu chúng ta có thể tìm được một vị có tất cả lực lượng của Phật A Di Đà , Quán Thế Âm Bồ Tát ... thì an toàn hơn , vì vị đó không trốn đi đâu ngoài thế gian này . Khi chúng ta cầu Phật A Di Đà hay Quán Thế Âm Bồ Tát , không thể thấy được các Ngài lại không biết các Ngài có đến giúp không . Còn vị minh sư có đầy đủ lực lượng của Bồ Tát sống trước mắt , chúng ta thấy được và quen biết được nên Ngài có muốn trốn cũng không thoát , vì vậy chúng ta mới có chỗ nương tựa , an toàn . Muốn cầu Phật Bồ Tát nên tìm những người như vậy , vì họ là đại biểu của Chư Phật Bồ Tát , được lực lượng của các Ngài ban cho . Cũng như có người tội phạm sắp bị tử hình , trong giây phút cuối quốc vương sai cận vệ đem lịnh xá tội , nên không ai dám xử tội hay nói lời nào . Người đem lịnh dĩ nhiên không phải là quốc vương nhưng người đó có lịnh , đại diện cho uy quyền và lực lượng của quốc vương nên mọi người phải phục lịnh , cả tội nhân cũng nhờ lịnh mà được thoát chết .

    Muốn cứu tội nhân , nên tìm người có lịnh ân xá của quốc vương mới kịp , bởi vì không biết quốc vương ở đâu mà tìm . Nước xa không thể dập tắt lửa gần , nếu đợi cho quốc vương mến thì đã quá trễ vì đoàn người hộ tống đi rất chậm , nên mới phải có một người đem lịnh vua mới được mau lẹ hơn . Tuy rằng người cầm lịnh không phải là quốc vương nhưng đại biểu cho quốc vương đến cứu người , coi như có uy quyền của quốc vương .

    Vị chân sư tại thế cũng vậy , tuy không phải là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác , nhưng có đủ lực lượng của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác , vì Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ban cho vị đó phẩm chất và uy quyền , nên Ngài có thể cứu bất cứ người nào . Khi Sư Phụ nói : "Phật không phải là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác , nhưng Phật cũng là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác , mới nghe rất mâu thuẫn , không biết quý vị đã hiểu chưa ?


  8. #188
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (1)


    Học trò của Sư Phụ khi thiền thất đều thể nghiệm được lược lượng của mình càng lúc càng phát triển , càng ngày càng nhiều . Lực lượng từ đâu đến ? Thí dụ có một nhà phát điện , chỉ một sợi dây tiếp nối là toàn quốc có thể sáng , nấu cơm , đun nước , xem tivi đều được . Đường dây càng lớn , điện dẫn càng nhiều nhưng nếu dây quá nhỏ mà dùng điện nhiều quá dễ bị cháy . Nếu như dây điện lớn dẫn luồng điện mạnh thì sẽ làm được nhiều việc . Thí dụ nguồn điện có thể cung cấp cho toàn quốc thì điện lực của dây điện có thể cung cấp cho xóm làng . Nếu như không biết dùng điện , dù có điện lực cũng không ích lợi gì , nhà cửa vẫn tối tăm , vì không có dây dẫn điện . Mỗi ngày có ngồi cầu , điện lực cũng không thể phát cho chúng ta xài được .

    Đại để tử của một vị chân sư đến nơi nào , nơi đó sẽ có sức gia trì , vị đại để tử mới đến , chỗ đó liền đổi khác . Người đệ tử đã có lực lượng như vậy , nói chi đến Sư Phụ của họ . Cho nên bất cứ chúng ta học gì , phải biết có kết quả hay không , chứ không phải mù mờ bắt chước theo người ta niệm Phật , niệm chú , tu mật , tu thiền , chỉ tổn phí thời gian mà thôi . Đệ tử theo Sư Phụ học không bao lâu cũng có lực lượng gia trì nên tự họ cảm thấy pháp môn này hữu dụng , cảm ứng được là pháp chân chính . Nếu không , làm sao biết được công đức và sức gia trì của pháp môn này ?

    Thí dụ chúng ta làm việc cả mấy tháng mà chưa được trả lương thì làm sao chúng ta biết được là người chủ có tiền hay không ? Nói là có tiền mà không phát lương , người ta gần chết đói mà vẫn chưa được trả tiền , như vậy đâu phải là chủ ? Toàn là gạt người , biết đâu người chủ cũng sắp chết đói . Nếu cả hai bên đều nghèo mà ta còn xem họ là chủ thì có phải là khờ dại lắm không ? Muốn làm chủ nhân phải có vốn , mỗi tuần hoặc mỗi tháng đều phải phát lương để cho chúng ta sinh sống . Nếu như cứ bảo chúng ta cố gắng làm việc mà không trả tiền , thì còn kính nể và gọi họ là ông chủ để làm gì ?

    Muốn nhận định một người là Sư Phụ , đáng được tôn kính thì phải biết lực lượng của người đó , và họ cũng có thể cho mình ít nhất ban đầu một chút lực lượng , như vậy mới có tư cách làm thấy của chúng ta . Vì trí huệ của họ nhiều hơn ta , đẳng cấp cao hơn , lực lượng lớn hơn nên chúng ta mới tôn người đó làm thầy . Không phải nghe người nào đó tự xưng là thầy , liền cúi đầu đảnh lễ , quy y theo học . Rồi họ không thể cho mình cái gì hết , vẫn luân hồi , sanh tử , vô minh , thầy trò đều chịu khổ trong tam giới , như vậy tôn họ làm thầy để làm gì ?

    Khi ta gọi một người là Sư Phụ , nghĩa là xưng tôn vị đó làm thầy , đồng thời cũng là cha , vì vị đó có thể dạy dỗ chúng ta và như cho chúng ta một sanh mạng . Cho nên một vị thầy phải có thể cho chúng ta "sanh mạng", không để cho chúng ta đời đời kiếp kiếp luân hồi sanh tử , như vậy mới là thầy , còn không làm được thì đừng tự xưng là thầy . Không phải cạo đầu là có thể làm thầy , để cho người ta tôn kính cúng dường , thầy như vậy chỉ là một thứ tên xưng chứ không có lực lượng thật của một vị chân sư .

    Tôn xưng "Thầy" là vì vị đó có thể dẫn chúng ta giải thoát , chỉ cho chúng ta tìm được "Sư Phụ" của mình (hay là chủ nhân , chân thể , diện mục bản lai). Tôn xưng "Cha" là vì vị đó như người cha , sanh trở lại "Chân Thể" của chúng ta , để cho chúng ta vĩnh viễn không chết . Người cha phàm phu của chúng ta còn tối thiểu có thể cho chúng ta xác thịt . Còn người thầy tầm thường không thể cho chúng ta cái gì cả , không cho được xác thịt , càng không thể cho được chân thể . Họ còn chưa tìm được chân thể của họ làm sao có thể cho người khác ? Những người thầy đó không phải là chân sư , quý vị hiểu rõ chưa ?


  9. #189
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (2)


    Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (2)

    Thuyết Pháp Tại Trung Tâm Tịnh Tọa Vô Lượng Quang

    Ngày 19 tháng 4 năm 1987


    Quý vị có biết Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là gì không ? Nếu giáo dân của Thiên Chúa Giáo không thích hay không quen với danh từ của Phật Giáo thì có có dùng danh từ của "Thượng Đế" để thay thế , còn Lão giáo gọi là "Đạo". Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác , tiếng Phạn là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề , trong kinh Phật gọi là Bát Nhã Ba La Mật Đa . Tiếng Phạn của Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa là MAHA PRAJNA PARAMITA . Bây giờ Sư Phụ nói Phật không phải là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề . Sư Phụ nói Phật tức chỉ Phật tại thế , không phải Phật cõi Tây Phương , tuy nhiên Phật cõi Tây Phương và Phật tại thế đều không phải là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề . Bởi vì trước đây Sư Phụ đã nói rồi , một vị Phật tại thế có đủ các phẩm chất trong thân , có Phật hiện tại , quá khứ , vị lai , thập phương tam thế chư Phật , các Bồ Tát , các Long Thần Hộ Pháp và tất cả các lực lượng siêu phàm . Ngài muốn cứu người nào liền có thể cứu ngay , không cần biết người đó đã được truyền Tâm Ấn hay chưa .

    Truyền Tâm Ấn là gì ? Chúng ta gọi tắc là "ấn tâm", tức là khi truyền pháp tối cao này giúp cho "mắt trí huệ" hay "Phật nhãn" mở ra . "Phật nhãn" nằm tại đây (Sư Phụ chỉ vào mắt trí huệ). Phật tử đều biết giữa tran của Phật Thích Ca có một chấm đỏ , điểm đỏ thể hiện cho Phật nhãn hay con mắt thứ ba . Các vị thiền tông thời xưa thường nói : "Như Lai 'Chánh Nhãn Tạng' từ Ma Ha Ca Diếp truyền xuống", là lý do đó . Nhưng ngày nay đa số đều không biết , tuy rằng có rất nhiều pháp môn tu hành nhưng đều không có liên quang gì đến "Nhãn tạng". Hình như chánh pháp nhãn tạng đã bị thất truyền vậy .

    Trong Thánh Kinh có nói : "Nếu như mắt sáng của người biến thành một , toàn thân của người sẽ rất sáng". Ấn Độ giáo cũng có nói đến con mắt trí huệ , theo tiếng Phạn gọi là TISRA TIL . Thật ra tất cả các tôn giáo vốn đều như nhau . Khi họ tu đến một đẳng cấp nào đó thì họ bắt đầu đi hoằng pháp , nhưng vì đẳng cấp của họ khác nhau nên phải coi công lực tu hành của họ mà định , chứ không phải họ tu khác pháp môn (Quý vị xem lại quyển Bí Quyết Tức Khắc Khai Ngộ , Hiện Đời Giải Thoát , tập 1 , chương 8). Sư Phụ không muốn phân tách ở đây đẳng cấp của các vị tu hành thời xưa cao hay thấp , nêu muốn biết , ta chỉ cần đọc sách giáo lý của họ là có thể phán đoán ngay .

    Trong lúc Thiền Thất , Sư Phụ có nói khi Lục Tổ Huệ Năng lãnh y bát đẳng cấp của Ngài đã tới đâu rồi , những người đến thiền lúc đó đều rõ , chúng ta chỉ cần đọc bài kệ Ngài làm là biết được đẳng cấp của Ngài .


  10. #190
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (2)


    Ngày xưa các vị thiền sư khi khai ngộ hay có thể nghiệm , họ liền viết xuống , thầy của họ chỉ cần đọc một lần là biết trình đọ của họ đến đâu . Khi chúng ta thọ pháp rồi cũng vậy , có thể nghiệm phải viết xuống để Sư Phụ biết được đẳng cấp của quý vị . có sao viết vậy , vì người tu hành không nói láo , nếu như phạm giới sẽ như thế nào ? (Học trò đáp : "Xuống địa ngục"). Phải ! Sẽ xuống địa ngục . Nói láo tức là 'chưa thấy chứng nói chứng', mình chưa đạt đến đẳng cấp đó mà nói đã được , chưa thấy 'thầy bên trong' hay 'Phật Bồ Tát' mà nói đã thấy . Đó là gạt người , là đại vọng ngữ , phạm tội rất nặng , phải đọa vào địa ngục . Cho nên người tu hành không thể nói dối .

    Tuần trước Sư Phụ nói Phật tại thế là A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề , hôm nay nói thêm . Cũng có người gọi đó là "Thượng Đế" hay "Đạo".

    Bây giờ Sư Phụ vẽ một vòng tròn , trong đó có hai phần , một tối một sáng , khác hẳn nhau . Chúng ta quan sát vũ trụ sẽ thấy rõ , có ban ngày , ban đêm , có người tốt kẻ xấu , có thiên đàng , địa ngục , có chỗ đẹp , chỗ xấu ... và tất cả đều từ "Đạo" này mà ra , từ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề , đại trí huệ này đến . Nếu không phải từ đó thì từ đâu ?

    Giả sử có một vị Thượng Đế , tất cả những vật kể trên đều do Ngài tạo ra nên phải nói Ngài rất tốt và cũng rất xấu . Ngài làm thiên đường cho người hưởng khoái lạc , cũng tạo ra địa ngục để trừng phạt người . Thế giới Ta Ba này cũng từ Ngài mà ra , ở đây cũng có lúc chúng ta rất khoái lạc nhưng thời gian vui vẻ thì ít mà khổ đau thì nhiều . Cho nên A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề vốn có tốt có xấu . Trong hình Thái Cực của Đạo giáo cũng có nửa đen nửa trắng , bên đen có chấm trắng , bên trắng có chấm đen là nghĩa như vậy .

    Đen và trắng tượng trưng ho âm dương . Mặt đen tối dơ bẩn là âm , nghiệp chướng nặng nề , rất đau khổ và đầy sự áp lực . Dương tượng trưng cho sự đẹp đẽ , sáng tươi , nhẹ nhàng , khoái lạc , tự tại . Thật ra lực lượng tốt hay xấu đều đồng một ý , nên chúng ta đừng tranh luận tôn giáo nào tốt hơn . Chúng ta nên tu hành , đẳng cấp khá rồi mới hiểu được vì sao phải có âm dương .

    Bất cứ người nào có được chìa khóa thần bí , có thể giúp chúng ta mở chỗ bí mật của vũ trụ , chỉ dẫn chúng ta đạt được trạng thái âm dương quân bình , không cần biết vị đó theo Phật Giáo hay Thiên Chúa Giáo , Đạo Giáo cũng được , có được năng lực này là Đại Đạo Sư .

    A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề vốn không có gì tốt , vì đã tạo ra địa ngục và tình trạng xấu cho chúng ta đoạ vào . Rất có thể chúng ta vốn không thích tới thế giới Ta Bà này , nhưng nó lại đưa chúng ta đến đây . Có một số người không muốn đầu thai làm người , nhưng khi chào đời có ai hỏi ta có muốn được sanh ra hay không ? Vũ trụ này đương nhiên có nhiều nơi rất đẹp , rất vui nhưng cũng có nơi rất đau khổ , có sanh lão , bệnh , tử . Những trạng thái đó đều do A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tạo ra .


  11. #191
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (2)


    Bất cứ tôn giáo nào cũng đều nói Đạo sanh ra vạn vật trong vũ trụ , Thánh Kinh gọi đó là "Thượng Đế". Phật Thích Ca Mâu Ni dùng những danh từ như "A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề", "Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác", hay là "Đại Trí Huệ", "Lực Lượng Tối Cao" đều chỉ là một thứ . Vì sao gọi là đại trí huệ , vì nói biết hết mọi việc , phạn văn là MAHA PRAJNA PARAMITA là hoàn mỹ .

    Trí huệ này có thể tạo thiên đường , cho nên tốt hay xấu cũng từ đó mà ra , vậy thì nó có tốt không ? Bởi vì chúng ta đều thích vui , sợ khổ , không ai thích địa ngục và thật sự có địa ngục . Nó sẽ không hỏi chúng ta có thích hay không mà đã tạo một cái đợi sẵn ở đó , chỉ chờ chúng ta sơ ý là rơi vào .

    Nếu quý vị đọc qua Kinh Địa Tạng sẽ thấy , Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát nói : "Ngươi trên cõi Ta Bà mỗi một niệm đều tạo rất nhiều nghiệp chướng , không lẽ chúng ta vĩnh viễn không thể giải thoát ?

    Trong Thánh Kinh cũng có nói là khi chúng ta mới sanh ra là đã có tội của tổ tông rồi , vậy thì bao giờ chúng ta mới được giải thoát ? Tội của tổ tông nghĩa là gì ? Phật Giáo gọi là nhân quả luân hồi . Tổ tông là tiền thân của chúng ta , vì đời trước đã tạo nghiệp nên bây giờ sanh ra để nhận quả báo . Trong Kinh Thánh còn nói : "AS YOU SOW , SO SHALL YOU REAP". "Trồng nhân gì thì được quả đó". Đa số những người Thiên Chúa Giáo nghĩ rằng chỉ có Phật Giáo mới nói về nhân quả luân hồi , nhưng thật ra trong Kinh Thánh cũng có nói rất rõ : "Trồng nhân gì thì được quả đó", nghĩa là luân hồi . Khổng Tử cũng có nói : "Kỷ sở bất dục , vật thí ư nhân", bất cứ việc gì nếu mình không thích thì đừng làm cho người khác , như vậy sẽ tránh được những tình trạng không ưa thích đó , cũng là giáo lý của nhân quả .

    Sự thật là tôn giáo nào cũng có nói đến luật nhân quả , có tôn giáo nhấn mạnh , có tôn giáo không nói rõ lắm . Trong một đời người khó thấy được nhân quả , cho nên có nhiều người thắc mắc hay hỏi Sư Phụ , vì sao có người cả đời tạo ác nghiệp , không bố thí , không tin tôn giáo , cũng không có thầy , nhưng suốt cuộc đời đều giàu sang , thong thả .

    Có vài đệ tử đi theo Sư Phụ kiếm đạo tràng , vì nhà thuê đã bị người chủ bán , nên than phiền : "Sư Phụ ơi , họ xấu như thế , dùng bẫy bắt chim , giết gà , giết heo , mà lại ở chỗ lớn , đẹp và sang , còn chúng ta là người tu hành mà cả chỗ ở cũng không có".


  12. #192
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (2)


    Thật ra những thứ đó chỉ là phước báu nhỏ mà thôi , nếu ngày mai lửa cháy nhà , cháy sạch cả , thì có phải trở thành tay không ? Có lúc trong rừng cũng cosh ỏa hoạn , cháy rừng hay động đất sập nhà chết người , nên có chỗ tốt để ở , đời sống nhàn rỗi chỉ là phước báu của nhân thiên mà thôi . Có thể đời trước bố thí , cất chùa ... nên đời này có tiền hơn . Chúng ta tu hành được phước báu siêu thế giới , được vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử luân hồi , ở những nơi sáng lạng của "Đạo" và không còn bị liên hệ với những nơi tối tăm . Phước báu của chúng ta là có thể đến được nơi tốt trong vũ trụ , nơi đó là đất Phật . Trong "Đạo", phần trắng là cửa Phật , là nơi giải thoát ; phần đen là sanh tử luân hồi , bao gồm thiên đường , địa ngục , thiên nhân , phước báu , nhân quả ... Thế giới Ta Bà cũng là một trường học , là nơi để cho chúng sanh học tập , đợi họ học xong và biết được nơi này là đen tối thì mới trở về nơi sáng lạng .

    Trên thế giới Ta Bà , khi mình đã học xong thì tốt nghiệp ra trường , xa Sư Phụ , và không còn bị la rầy . Làm bã sĩ , luật sư , làm thương gia , chính trị gia hay là tổng thống , bất cứ ngành gì , chức vụ gì thì trước kia họ cũng đã đi học qua . Lúc họ còn ở trường họ cũng rất cực khổ , rất siêng năng trong nhiều năm mới có thể thành kỹ sư , bác sĩ ...

    Muốn thành Phật cũng vậy , phải đến thế giới Ta Bà học tập , khi đã thành Phật rồi mới có thể về nơi sáng lạng . Cho nên Phật nhập Niết Bàn không phải Ngài đã thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề , bởi vì Ngài không có phẩm chất của A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cũng như không có phẩm chất của phàm phu . Đương nhiên nếu Ngài muốn , Ngài cũng vẫn có thể đạt được toàn diện đẳng cấp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề , nhưng một vị Phật lúc còn tại thế đã là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề nhưng đồng thời cũng không phải là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề .

    Sư Phụ đã nói rồi , bởi vì A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề có lực lượng toàn năng bao gồm tốt và xấu , vị Phật tại thế tuy rằng lực lượng gì cũng có , nhưng Ngài chỉ sử dụng lực lượng tốt mà thôi , vì tâm trí và trạng thái của Ngài đều trụ trong lực lượng tốt . Vẫn có thể gọi Ngài là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề vì Ngài có uy quyền để cứu người từ nơi đên tối lên nơi sáng sủa , từ địa ngục lên thiên đường . Ma Ngài không phải là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề vì Ngài hoàn toàn dùng tới lực lượng xấu của A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề .

    Lần trước Sư Phụ cũng đã cho ví dụ là Phật tại thế cũng như sứ giả , chỉ cứu người mà thôi . Còn quốc vương có thể cứu người và giết người , tự thân là pháp luật , có thể sửa đổi pháp luật . Vị sứ giả tuy có uy quyền của quốc vương , cứu người sắp bị tử hình , nhưng không như quốc vương có thể hạ lịnh giết người .

    Một vị Phật hay một vị thầy tại thế cũng chỉ cứu người mà thôi . Ngài đạt được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (đẳng cấp tối cao), có uy quyền và lực lượng tối cao này , nhưng chỉ dùng phần tốt mà thôi . Tại Ấn Độ , một vị Phật hay minh sư tại thế rất được tán thán , không có ngôn ngữ nào để diễn tả hết được .


  13. #193
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (2)


    Trong kinh điển có nói rằng nếu như gặp được một vị chân sư hay Phật tại thế là phước báu lớn nhất , vì nếu không gặp được họ thì không có cách nào giải thoát . Tiếng Phạn gọi Phật là Buddha , tạm dịch là Phật Đà , ám chỉ một người đại khai ngộ , hay một người đã lão luyện trong trí huệ , biết và hiểu mọi việc .

    Ở Trung Hoa có vị "Lẫo Tử", tên thật của vị đó là Lý Nhĩ , người đời sau đều tôn xưng Ngài là "Lão Tử", bởi vì Ngài là một vị thầy , một linh hồn rất lão thành , cái gì cũng biết . Mọi người đều tôn kính vị thánh nhân này nên mới gọi như vậy và vì người Á Châu đều tôn kính người già . Ở Ấn Độ , nếu một người rất thông minh , có nhiều trí huệ được gọi là "Huệ Lão".

    Sư Tổ của Sư Phụ khi còn tại thế , có một đệ tử là một "Huệ Lão" cho nên đồng tu đều gọi vị đó là Buddha . Ý của họ không phải muốn nói vị đó là Phật , mà xưng rán vị đó là người già có trí huệ , nhưng thật ra vị này còn rất trẻ . Cho nên Buddha không phải chỉ để gọi Phật Thích Ca Mâu Ni mà thôi . Người đắc đạo , đại khai ngộ , được MAHA PRANA PARAMITA (Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa), người có "Đại Trí Huệ" đều là Buddaha , tiếng Trung Hoa dịch là Phật Đà , gọi tắc là Phật , Phật tử ngày nay đều tưởng rằng chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni mới là Phật , vì sao thế ? Bởi vì Ngài nổi danh nhất , dù đã trải qua hai ngàn năm .

    Thí dụ , khi nhắc đến thánh nhân , chúng ta đều nghĩ đến Lão Tử bởi vì Ngài rất nổi tiếng . Kinh Đạo Đức của Ngài cho đến bây giờ chưa có ai sánh kịp , Ngài có tài viết văn , có thể viết ra thể nghiệm , nên khi chúng ta đọc sách đó liền nghĩ rằng Ngài là thánh nhân độc nhất . Thật ra còn rất nhiều vị đạo gia khác , đẳng cấp cũng không kém Ngài , nhưng có thể họ không thích viết ra , hay không biết viết ra , hoặc không có đệ tử giỏi để truyền pháp môn , nên không nổi danh như Lão Tử .

    Thêm một thí dụ nữa , Lục Tổ Huệ Năng là vị thiền sư nổi tiếng nhất tại Trung Hoa , trong hành tổ của Thiền Tông , chỉ có Bồ Đề Đạt Ma và Lục Tổ Huệ Năng là có danh , vì sao vậy ? Bởi vì hai Ngài có điểm đặc sắc . Bồ Đề Đạt Ma là vị thiền sư đầu tiên đến Trung Hoa , lại khổ tu thiền định trong chín năm . Lục Tổ Huệ Năng lúc chưa xuất gia là một cư sĩ , đến đạo tràng của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn học thiền , mỗi ngày giã gạo trong bếp mà mới tám tháng đã lãnh y bát của thầy rồi . Là một người đốn củi không biết chữ , mỗi ngày giã gạo mà trong tám tháng đã có thể kiến tánh thành Phật , thật là kỳ lạ . Chính vì thế mà hai Ngài rất nổi tiếng .

    Thiền Tông đương nhiên vẫn còn có Tổ khác , như Tổ Huệ Khả , Tăng Xán , Đạo Tín ... nhưng vì họ không có điểm đặc biệt nên ít người biết đến . Bồ Đề Đạt Ma và Lục Tổ Huệ Năng vốn chỉ có tiếng ở các nước Á Châu , như Việt Nam và Trung Hoa mà thôi , nhưng từ khi Phật pháp truyền sang Tây Phương thì các Ngài trở nên nổi tiếng trên thế giới , Phật thích Ca Mâu Ni cũng nổi tiếng thế giới , vì Ngài vốn là một hoàng tử mà lại có thể bỏ cả ngai vàng , bỏ vợ con , danh lợi để tu hành khổ cực hơn sáu năm . Một người tuổi còn trẻ mà đã có đạo tâm cao như vậy nên rất nổi danh .


  14. #194
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (2)


    Xưa kia Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ có tiếng ở Ấn Độ thôi , đến khi vua A Dục tin Phật Giáo , Phật Thích Ca Mâu Ni mới nổi danh toàn thế giới , tại sao vậy ? Bởi vì lúc đó Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn chỉ được ba trăm năm , vẫn còn là thời chánh pháp , các đệ tử của Ngài còn có thể truyền pháp , chưa bị biến chất . Vua A Dục theo đệ tử của Phật học đạo , đương nhiên được chứng Bồ Đề và khai ngộ . Đọc những lời văn , ta biết được vua A Dục là một người rất khai ngộ , minh tâm kiến tánh . Sau này vua A Dục đem hết tâm lực làm cho Phật Giáo được tryền bá đến nhiều nơi kể cả phái con và thân nhân đi Miến Điện , Tích Lan , Thái Lan ... hoằng pháp , cho nên Phật Thích Ca mới được nhiều người trên thế giới biết đến .

    Nếu không nhờ vua A Dục , biết đâu chừng Phật Thích Ca cũng chỉ như các vị minh sư khác tại Ấn Độ . Ở Ấn Độ cũng còn những vị minh sư khác như Kabir , Tuisidas ... nhưng chỉ nổi tiếng tại Ấn Độ mà thôi , vì họ không có đệ tử như vua A Dục . Thật ra các Ngài đều nói đạo lý giống của Phật và cũng như Bồ Đề Đạt Ma và Lục Tổ Huệ Năng , không lưu lại nhiều tác phẩm . Phật Thích Ca đã nói nhiều rồi , các Ngài chỉ cần dẫn chứng lời của Phật Thích Ca Mâu Ni , rồi thêm vào một ít bình luận là đủ rồi .

    Phật Thích Ca truyền pháp trong bốn mươi năm , Ngài nói từ thiên đường đến địa ngục và thế giới A Tu La ... , đều có cả , người sau chỉ cần dẫn chứng kinh điển của Phật Thích Ca Mâu Ni là đủ . Nhưng nếu chỉ giảng kinh vẫn chưa có thể ngộ được , vì giảng kinh chỉ là giáo lý , còn phải có pháp môn và sự khổ công tu hành phối hợp mới được . Khi Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế cũng vậy , Ngài dạy các đệ tử các phép tu hành , đồng thời cũng dạy họ giáo lý , cần có hai thứ . Khi học y khoa cũng cần một bên đọc sách , một bên thực tập , nếu không thì không thể trở thành sĩ giỏi được .

    Muốn thành đạo , bất cần chúng ta tin tôn giáo nào , nếu như chúng ta không hiểu rõ kinh điển , hiểu lầm ý chánh của vị giáo chủ , chúng ta không thể tìm ra thiên đường . Muốn hiểu rõ kinh điển thì phải tìm chân sư , một vị Buddha hay một vị thầy tại thế . Phật Thích Ca Mâu Ni nói :"Nếu như không có Phật lực gia trì , chúng ta không thể tu thành Phật". Ý của Ngài là chỉ Phật tại thế , chân sư tại thế , như Sư Phụ đã nói qua , Buddha là Phật tại thế .

    Người Ấn Độ đều hiểu rõ việc đó , vì Ấn Độ đời đời kiếp kiếp là thánh địa , đi đến đâu cũng đều gặp được người tu hành . Nếu viếng thăm Ấn Độ sẽ thấy nơi nào cũng có hòa thượng áo vàng . Bây giờ có người mặc áo trắng nữa vì tông phái khác nhau . Ở Tây Tạng có Bạch Giáo , Hoàng Giáo , Hồng Giáo ... Khi vị giáo chủ của họ mặc áo nào , đệ tử vì tôn kính thầy của họ nên cũng mặc y phục giống như vậy và biến thành tôn phái khác nhau .


  15. #195
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (2)


    Ở Ấn Độ , nơi nào cũng nhìn thấy người xuất gia , họ tượng trưng cho đời sống đơn thuần nhưng cao đẹp , loại người có trí huệ . Vì truyền thống tu hành nên người Ấn Độ rất tôn kính một vị Phật tại thế . Nếu chúng ta đọc những sách nói về sự tu hành và tọa thiền của người Ấn Độ sẽ biết họ tán thán một vị Phật , chân sư tại thế như thế nào . Họ nói : "Mình muốn lên thiên đường , muốn được gặp Thượng Đế , muốn thành Phật , trở thành chúng sanh cao quý , mà không có sức gia trì của thầy mình thì không thể như ý được". Vì sao vậy ? Thí dụ như Ngài A Nan theo hầu Phật Thích Ca Mâu Ni mấy năm , mỗi ngày ở bên cạnh Phật , nghe được nhiều giáo lý , và giáo lý nào của Phật Ngài cũng đều hiểu rõ , đều ghi nhớ , nhưng Ngài vẫn không thể đạt được đại trí huệ , mãi đến khi Phật lìa đời , lần đầu tiên tăng chúng tập kết kinh điển , Ngài mới khai ngộ . Làm sao mà Ngài khai ngộ được vậy ?

    Bởi vì cuối cùng Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp Môn Quán Âm cho Ngài nên Ngài mới có thể khai ngộ , còn trước kia thì không thể được , tuy rằng Ngài trang nghiêm nhất , nghe được nhiều nhất và việc gì cũng ghi nhớ hết . Nhờ có A Nan , chúng ta mới đọc được kinh điển lưu truyền từ đời Phật Thích Ca Mâu Ni và có tài liệu tham khảo . A Nan cũng có thần thông , Ngài cũng có thể bay vào tù ngục để giảng kinh cho hoàng hậu Vi Đề Hy . Một người thông minh , văn chương giỏi , lại có thần thông , tu hành vĩ đại như thế mà vẫn chưa được khai ngộ , vẫn cần phải tu Pháp Môn Quán Âm một thời gian sau mới khai ngộ .

    Tại vì sao mà Sư Phụ nói chỉ có tu Pháp Môn Quán Âm mới có thể khai ngộ ? Bởi vì A Nan ngày ngày hầu Phật , có học qua rất nhiều pháp môn như hô hấp , niệm Phật , niệm Quán Âm Bồ Tát , niệm Phật A Di Đà ..., kinh điển gì , pháp môn nào cũng biết . Lúc Phật Thích Ca Mâu giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ , Ngài cũng có ở đó , và cùng Ma Ha Mục Kiền Liên bay vào tù bà hoàng hậu niệm Phật . Nếu chỉ niệm Phật là đủ , sao Ngài không tiếp tục niệm Phật A Di Đà ? Sao Ngài không học phương pháp Phật đã dạy trong kinh "Quán Vô Lượng Thọ", quán tưởng Phật A Di Đà ? Tại sao còn phải tu Pháp Môn Quán Âm ? Bởi vì những pháp môn đó đều không đủ dùng , không đủ tốt , chỉ có Pháp Môn Quán Âm mới là pháp môn tối cứu cánh .

    Phật Thích Ca Mâu Ni giảng bất cứ kinh , chú , pháp môn nào cũng đều có A Nan hiện diện , nếu như những pháp môn đó đã đủ tốt thì Phật cuối cùng đã không còn cần phải dạy A Nan tu Pháp Môn Quán Âm . Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm , khi hai mươi lăm vị Bồ Tát tự thuật những cách tu hành của họ , Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chỉ tán thánh Pháp Môn Quán Âm . Phật Thích Ca Mâu Ni cũng chỉ tán thán Pháp Môn Quán Âm , Ngài khuyến khích chúng sanh , nếu như muốn thành Phật thì nên tu Pháp Môn Quán Âm . Nếu Phật Thích Ca Mâu Ni không thương tưởng A Nan , chỉ để cho tu những pháp môn thấp thôi , Ngài A Nan không thể nào khai trí huệ được , nên Phật mới truyền Pháp Môn Quán Âm cho A Nan , để A Nan khai đại ngộ .


  16. #196
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (2)


    Ở Ấn Độ người cầu đạo đều biết là cần phải tìm một vị chân sư , đảnh lễ vị thầy đó và xin vị thầy đó truyền pháp môn đại trí huệ này thì mới có thể giải thoát . Họ có thể làm bất cứ việc gì chỉ cần cho thầy họ vui , thương họ và gia trì cho họ , giúp cho họ mở cửa trí huệ , để được giải thoát là đủ rồi . Cho nên họ mới tán thán thầy của họ cao hơn Thượng Đế , cao hơn A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề . Thượng Đế thì đẩy họ đến thế giới đen tối này chịu khổ , còn thầy của họ thì giúp họ giải thoát vòng sanh tử luân hồi .

    Người Ấn Độ gọi thầy của họ là "GURU", có nghĩa là người trừ đi sự tối tăm , tiếng Trng Hoa gọi là "Minh Sư", những ngươi này có thể giúp cho chúng ta minh bạch , khai ngộ . "Ngộ" có hàm ý là minh bạch , nếu như có một vị thầy có thể giúp cho chúng ta khai ngộ thì vị đó tức là minh sư , chân sư , hay GURU . Bất cứ chúng ta có làm bao nhiêu công đức , phước báu , cất chùa lớn , bố thí tài sản ... đều là vọng ngoại , nếu người thầy không cho chúng ta chìa khoá để chúng ta đi vào , làm sao có thể tu hành ? Lực lượng gia trì của chân sư chỉ là lòng thương của vị thầy , nếu như không có lực gia trì của vị thầy , chúng ta không có cách nào giải thoát được .

    Thời xưa tại Ấn Độ , có nhiều người đem hết tài sản trao cho minh sư rồi cam chịu nhiều cực khổ , trèo núi lội sông , chịu nhiều khảo nghiệm , làm bất cứ việc gì chân sư bảo họ chỉ vì muốn "cầu" pháp môn tối cứu cánh để giải thoát .

    Tôn Giả Mật Lạc Nhất Ba (Milarepa) chịu khổ cực nhẫn nhục đến bảy năm , mỗi ngày phải chịu khảo nghiệm rất gắt gao , cho đến bị đánh đập , chưởi bới vô lý . Mỗi ngày đi cất nhà , cất xong bị cố ý phá hoại , bắt cất trở lại , bất cứ Ngài làm điều gì cũng đều bị chê bai . Qua bảy năm sau vị thầy mới truyền pháp cho Ngài . Người tu hành thời xưa có "đạo tâm" như vậy mới thành đạt , mới lưu danh đến đời sau , cho nên đến ngày nay chúng ta biết tên các Ngài .

    Còn những người mới tu được một ít , rồi ra ngoài phỉ báng Sư Phụ , chê bai người khác thì vĩnh viễn chẳng được gì hết . Nếu thầy của họ có tâm từ bi lo cho họ , dẵn họ đến thế giới A Tu La ở cũng đã là quá tốt rồi , còn không họ phải đọa vào địa ngục . Người phỉ báng thầy đời đời kiếp kiếp không tìm được minh sư , cả tên cũng không nghe được , nói chi là gặp minh sư .

    Người thời nay rất khó dạy , vì bây giờ là thời mạt pháp . Có thể là các nước có phong tục , cá tính khác nhau , cho nên ở Ấn Độ , dân vẫn dễ dạy hơn . Ở đó đời đời kiếp kiếp là thánh địa tu hành , từ nhỏ người dân đã ăn chay , học kinh điển cho nên đến dạy là họ tiếp nhận ngay . Họ rất khiêm tốn , khát vọng được đắc đạo , và có đạo tâm cao . Cho nên ở Ấn Độ , mỗi lần có vị Thầy hay Minh Sư nào giảng kinh là sau đó có thể truyền pháp cho cả trăm , cả ngàn người , có lần nguyên cả làng , già trẻ lớn bé thật là đẹp mắt . Họ đã chuẩn bị tinh thần hết rồi , như người nông phu đã cầy đất , bón phân , chỉ cần gieo giống là cây mọc .


  17. #197
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (2)


    Truyền pháp tại Trung Hoa Dân Quốc , Đài Loan , Việt Nam thì hơi khổ . Khi Ngài Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa truyền pháp , gặp rất nhiều khó khăn , đối tường tọa thiền cực khổ trong chín năm , vậy mà chỉ có năm người đệ tử khá khá . Chúng ta nên biết Ngài rất vĩ đại , đẳng cấp siêu việt , thuyết pháp cao siêu nhưng lại không có bao nhiêu người đến nghe . Lương Võ Đế cũng chỉ chấp vào thiên nhân phước báu nên không hiểu thấu được pháp môn tối cao . Tuy Ngài ở trong Thiếu Lâm Tự nhưng chỉ có Huệ Khả và bốn người khác theo học mà không phải đều là người của chùa Thiếu Lâm , Huệ Khả từ nơi khác đến tìm đạo .

    Từ điểm đó quý vị có thể nhận thấy rằng dù cho có ở chung với chân sư cũng không có lợi ích gì . Người xuất gia vào chùa thiếu lâm , mỗi ngày đều thấy Ngài tọa thiền khổ cực mà không động tâm chút nào . Đối với họ , kinh điển là đủ rồi . Niệm Nam Mô A Di Đà Phật , Quán Thế Âm Bồ Tát , đọc Kinh Kim Cang , Pháp Hoa , lạy núi , lạy sông , lại nước , lạy xương , còn chân sư ở đâu thì họ không biết , chín năm toạ thiền chỉ có năm đứa học trò . Nếu Ngài ở chợ bán cá , bán thịt , người ta không nhìn ra chân sư thì có thể thông cảm được , nhưng người trong chùa mà ít biết Ngài mới là chuyện khó hiểu .

    Họ cả ngày cứ ôm lấy kinh điển , ăn , ngủ , rồi chết như những chúng sanh khác , bởi vì nới đó là Trung Hoa , không phải là Ấn Độ cho nên con người rất khó dạy . Nếu quý vị đọc lịch sử thì quý vị sẽ hiểu là các vị đại sư phần đông đều có liên hệ đến Ấn Độ . Phật Thích Ca Mâu Ni là người Ấn Độ , Giê Su Ki Tô đã từng học pháp ở Ấn Độ và Tây Tạng mười mấy năm và cũng ở núi Hy Mã Lạp Sơn tu hành một thời gian . Các vị đại sư đều từ ở Ấn Độ ra , còn không thì thầy của họ từ Ấn Độ đến , không nữa thì họ đến Ấn Độ học . Ở Trung Hoa cũng có một vị thiền sư nổi tiếng , Ngài Ngưu Đầu Pháp Dung , học từ một vị tỳ kheo Ấn Độ , sau này tu mới đạt được đẳng cấp cao như vậy .

    Phật Thích Ca Mâu Ni giảng kinh bốn mươi chín năm , hoằng du Ấn Độ , phá hủy tượng của Ấn Độ Giáo mà họ tôn thờ nhất trong thời đó . Ngài hết sức phản đối hình thức lễ bái , mê tín bề ngoài . Mỗi ngày Ngài đều nói người tu hành nên nhận biết mình , tìm Phật Tánh bên trong của mình mới thật đúng là tu hành , lạy hình Phật bên ngoài không thể nào đắc "Đạo", trừ phi vị ấy còn tại thế thì có sức gia trì .

    Tại Đài Loan , Sư Phụ mới bắt đầu truyền pháp không bao lâu thì gần bị sự công kích và phỉ báng đè chết . Người tu hành chúng ta nên lương thiện tự tại , không nên công kích phỉ báng người khác mới phải .

    Phật Thích Ca Mâu Ni truyền pháp tại Ấn Độ , phá trừ sự tôn thờ hình tượng và mê tín của thời đó , dạy người tìm Phật của mình . Khó như vậy mà Ngài vẫn an nhàn đến bốn mươi chín năm , sao có thể như vậy được ? Bởi vì Ấn Độ hiền hòa hơn , cởi mở hơn , dù không thích cũng nghe thử . Nhiều người tu ngoại đạo sau này thành đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni .


  18. #198
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (2)


    Người Ấn Độ dễ dãi hơn , có thể lúc đó họ chưa tìm được chân sư nên mới lạy tượng cốt , nhưng khi tìm được chân sư rồi , họ biết nghe , biết tự mình tu hành cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni sống đến bốn mươi chín năm không bị phương hại . Nhưng còn Ngài Giê Su Ki Tô thì sao ? Ngài mới mở miệng có hơn ba năm , liền bị đóng đinh đến chết , vì sao vậy ?

    Bởi vì Chúa Giê Su Ki Tô truyền pháp tại Do Thái , tình trạng ở đó khác với ở Ấn Độ , lòng người và phong tục đều khác biệt . Khi Phật Thích Ca Mâu Ni truyền pháp , người tin Ấn Độ Giáo cũng tôn sùng Ngài là Vishnu , một trong ba vị thần được tôn thờ nhất của Ấn Độ Giáo (ba vị thần là : Shiva , Vishnu , Phạm Thiên). Tại Ấn Độ , Vishnu đại biểu cho địa vị tối cao , là vị thần rất cao , hay Thượng Đế . Lúc Phật Thích Ca Mâu Ni truyền pháp , họ cũng gọi Ngài là Phật , tuy Ngài thuyết khác với những gì họ hiểu ; nhưng họ tin Phật Thích Ca Mâu Ni là hóa thân của Vishnu đến thế giới Ta Bà để dạy họ , cho nên họ rất tôn kính Ngài .

    Khi Chúa Giê Su Ki Tô truyền pháp , Ngài cũng có nói rằng Ngài không dạy giáo lý mới , giáo lý của Ngài giống như thời xưa , chỉ giảng cho kinh điển của thời xưa rõ ràng thêm mà thôi . Ngài nói Ngài là công cụ của Thượng Đế được phái đến đây để truyền pháp , nhưng người Do Thái đóng đinh Ngài trên thập tự giá vì họ cho rằng Ngài cuồng vọng kiêu ngạo .

    Phật Thích Ca Mâu Ni tuy truyền một thứ pháp như Giê su Ki Tô , nói cùng một chân lý , nhưng một người sống được bốn mưới chín năm và một người chỉ sống được hơn ba năm mà thôi , thật là thảm thương . Vì sao vậy , bởi vì phong tục và lòng người khác nhau . Phật Thích Ca Mâu Ni truyền pháp được cho nhiều người , còn Bồ Đề Đạt Ma , Giê Su Ki Tô , Mật Hản Mật Đức không thể truyền cho một số người nhiều như vậy được vì tình trạng và hoàn cảnh sống của họ khác nhau . Phật Giáo khi truyền đến Tây Tạng biến thể thành Lạt Ma Giáo , một số tông phái chủ trương có thể ăn thịt , uống rượu , kết hôn . Chúng ta không thể nói người Tây Tạng tin Phật Giáo , phải nói là Lạt Ma Giáo mới đúng . Phật Giáo truyền đến Nhạt Bản cũng biến chất , trà trộn vào tinh thần võ sĩ đạo nên chúng ta không thể nói Nhật Bản Giáo là Phật Giáo . Tăng sĩ ở Nhật được ăn thịt cá , uống rượu , kết hôn ...

    Tăng sĩ Phật Giáo vốn không thể làm như vậy nhưng khi truyền đến các nước khác đều biến chất thành Lạt Ma Giáo , "Samurai" Giáo . Samurai quý vị có biết không ? Qua những việc làm của họ đương nhiên không phải là Phật Giáo chân chánh . Phật Giáo tại Ấn Độ vốn rất đơn thuần , rất lương thiện , không có nhưng chuyện ăn thịt , uống rượu , giết người ... Nếu Phật Thích Ca Mâu Ni đến Nhật Bản hay các nước khác truyền pháp cũng không thể mau và dễ dàng như vậy , chưa chắc gì đã sống được bốn mươi chín năm . Phong thổ , lòng người đều khác biệt , nếu không phối hợp tình trạng của địa phương thì không thể tồn tại được .


  19. #199
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Chân Sư Có Lực Lượng Của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (2)


    Nếu chỉ có một mình Sư Phụ , Sư Phụ không cần tụng kinh tán Phật , mặc áo người xuất gia nhưng bởi vì truyền pháp tại Trung Hoa , quý vị thích như vậy , cho nên Sư Phụ cũng hằng thuận chúng sanh , nếu không , quý vị nhìn không thuận ý sẽ không chịu học . Bên ngoài bên trong đều phải cải biến , phải ăn cơm , học tiếng và mặc y phục theo phong tục Trung Hoa ... Nếu bây giờ Sư Phụ nói chuyện Ấn Độ hay Việt Nam , học trò liền có ý kiến , rằng Sư Phụ hay nói chuyện nước ngoài , không nói chuyện Trung Hoa , cho dù có nói chuyện Quan Công của Việt Nam , cũng là Quan Công của Việt Nam (Mọi người cười).

    (Có người nói : "Con không cảm thấy Sư Phụ là người Việt Nam , mà là người Trung Hoa"). Sư Phụ mặc áo Trung Hoa , ăn cơm , hoàn toàn giống như người Trung Hoa , mục đích là để giúp đỡ người Trung Hoa , cho nên bên ngoài có sửa đổi một chút cũng không sao .

    Nhưng giáo lý của Sư Phụ khác với Phật Giáo Trung Hoa . Lúc truyền Pháp , lực lượng đó không phải là lực lượng của Trung Quốc (mọi người cười) mà là lực lượng của Phật , lực lượng của Thượng Đế . Sư Phụ có dạy quý vị niệm Phật cũng khác với những gì người Trung Hoa đang dạy nên họ gọi Sư Phụ là ngoại đạo , bởi vì họ không hiểu biết . Khi Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế , không chỉ dạy người niệm Phật mà thôi , đôi khi Ngài cũng dạy người ta niệm quét nhà , đó cũng coi như là một pháp môn tạm thời . Vậy mà khi Sư Phụ dạy người ta niệm năm vị Phật lại không phải là một pháp môn hay sao ? Sao lại có thể biến thành ngoại đạo mau như vậy ? (Mọi người cười).

    Những người không thấy rõ sự thật , mở miệng là công kích người khác và cũng không muốn học pháp môn tối cao này nhưng Sư Phụ vẫn không nhẫn tâm nên vẫn truyền pháp cho họ . Vì Sư Phụ hành Bồ Tát Đạo , đối với chúng sanh không có tâm phân biệt . Nhưng họ ăn thịt quá nhiều , phước báu quá ít , không thể theo Sư Phụ tu học , không thể lạy Phật tại thế làm thầy . Pháp này có rất nhiều người tu , chỉ riêng ở Ấn Độ đã có mấy chục vạn người mà không nghe có ai bị phỉ báng gì nhưng khi truyền đến Âu Mỹ liền bị công kích , thật là mệt . Sư Phụ ở Đài Loan dạy chưa được bao nhiêu người đã bị công kích , phỉ báng .

    Bởi vì đây không phải là Ấn Độ , người biết chân lý rất ít , cộng thêm nghiệp quả nặng . Có lẽ nghiệp chướng của quý vị nhẹ hơn nhưng vì ở chung với đồng bào trong nước nên phải bị liên hệ với cộng nghiệp của nước nhà . Tuy rằng họ ăn thịt , mình không ăn thịt , nhưng chúng ta ở đây không thể tránh khỏi , vì chúng ta cần đến những người ăn thịt uống rượu để cất nhà , đắp đường , trồng lúa , trồng rau cho chúng ta ăn . Chấn động lực của họ sẽ ảnh hưởng đến rau , đường xá , núi nước , điện , nhà cửa của chúng ta ...


  20. #200
    Moderator Nhím Hoàng Kim's Avatar
    Join Date
    Apr 2007
    Posts
    14,908

    Default Các Bài KHAI THỊ


    Trong tiệm ăn chay cũng có những người ăn mặn và một bên uống rượu , hút thuốc , một bên nấu đồ chay cho chúng ta ăn . Có người một bên nấu đồ mặn , một bên nấu đồ chay cùng một lúc , có lúc quên trộn lẫn với nhau thành đồ mặn hết . Có người mở tiệm chay , nhưng làm ăn ế ẩm nên nấu thêm đồ mặn nữa . Họ cho rằng người tu hành không nên chấp nhất , nên tiệm chay biến thành tiệm mặn cũng không sao , chỉ cần kiếm ra tiềm là được . (Mọi người cười)

    Nếu chúng ta tu hành không nổ lực , không tiến bộ sẽ bị thế giới nầy ô nhiễm . Cộng nghiệp của thế giới này rất lớn , toàn cõi đâu có bao nhiêu người tu hành ? Đâu có bao nhiêu người đến nghe kinh ? Đa số còn không muốn nghe kinh , nói chỉ ăn chay tọa thiền , còn số người đi nghe kinh bao giờ cũng ít hơn số người đi nhảy đầm hay nghe hát . Có quảng cáo trên tivi đi nữa , cũng không có bao nhiêu người đi xem chương trình giảng kinh , nhưng nếu có minh tinh Hollywood , minh tinh điện ảnh sẽ có rất đông người chen chúc đi coi , bên coi , bên ăn hamburger , họ nghĩ phải y như người Âu Mỹ mới gọi là theo kịp thời đại !!!

    Giới trẻ thời nay thích nghe nhạc , không thể ngồi tọa thiền , tạo sao vậy ? Bởi vì họ quen nhảy nhót như vượn (mọi người cười), như vậy làm sao mà tu ? Vì ít người tu nên cộng nghiệp mới lớn , người tu hành chúng ta mới bị ảnh hưởng nhiều .

    Thuyết pháp ở đây không phải là chuyện dễ , ở Ấn Độ dễ giảng hơn . Tuy rằng khí hậu ở đó rất nóng , nhưng tâm của họ nguội , nên Phật Thích Ca Mâu Ni mới trường thọ , còn Chúa Giê Su Ki Tô thì lại chết sớm . Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc truyền pháp cũng không dễ . Lục Tôt Huệ Năng truyền pháp tại miền nam Trung Hoa cũng không dễ dàng , bây giờ Ngài được nổi tiếng là nhờ để lại quyển Lục Tổ Đàn Kinh , nếu không chúng ta cũng không biết Ngài là ai , vì chỉ có một nhóm nhỏ tôn bái Ngài mà thôi .

    Nhóm người đó tọa thiền có được thể nghiệm , biết được lực lượng của Lục Tổ Huệ Năng nên mới sùng bái Ngài , nếu không sao lại tôn thờ Ngài ? Nếu chỉ cầm y bát là có thể chứng minh trình độ của mình , thì người nào đánh cắp y bát là thành sư tổ rồi . Cho nên họ nhất định phải biết được lực lượng bất khả tư nghị của Lục Tổ Huệ Năng thì mới sùng bái . Lúc đó cũng có rất nhiều người phỉ báng Ngài , đệ tử của Thần Tú tại Bắc phương dùng mọi cách để nói xấu Ngài , gọi Ngài là ngoại đạo . Thật ra Thần Tú cũng thọ pháp từ Ngũ Tổ , cùng học một thầy , một giáo lý , một pháp môn mà lại phê bình là ngoại đạo , tại sao ?

    Bởi vì đó là ở Trung Hoa , không phải ở Ấm Độ , không những chỉ ở Trng Hoa , muốn thuyết pháp ở Việt Nam cũng không dễ đâu . Nhưng ở Việt Nam có rất nhiều người tu hành , họ cởi mở hơn , có nhiều Phật tử đến nhà thờ và cũng có nhiều tín đồ Thiên Chúa Giáo đến chùa .

    Khi Sư Phụ còn ở Đức , được mời làm trụ trì ở một chùa nhỏ , Sư Phụ mới ở đó có mấy tháng thôi , quý vị đã liên miên gọi điện thoại hối thúc Sư Phụ mau trở lại Đài Loan . Lúc đó ở Đức có tổ chức pháp hội nào , tín đồ Thiên Chúa Giáo cũng có đến dự , khi nhà thờ tổ chức pháp hội , Phật tử cũng ghé đến . Mọi người ăn uống vui cười với nhau . Nhưng Sư Phụ nhận thấy họ không có tinh thần khao khát tu hành , cho nên mới rời khỏi , chứ không phải bởi vì quý vị gọi thỉnh Sư Phụ , một phần là bởi vì thấy họ rất khó dạy cho nên Sư Phụ mới đến đây . Bởi thế dạy người không phải dễ dàng đâu , dạy người ở Ấn Độ thì Sư Phụ thấy dễ dàng hơn .


Page 10 of 40 FirstFirst ... 678910111213142030 ... LastLast

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts