Results 1 to 5 of 5

Thread: Nguyễn Khuyến

  1. #1
    Moderator phu ong's Avatar
    Join Date
    Nov 2006
    Posts
    1,945

    Default Nguyễn Khuyến

    Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến

    Nhà thơ Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng [1], hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông là làng Và, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ.

    Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi (1796-1853), thường gọi là cụ Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (1799-1874), nguyên là con của Trần Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê Mạt.

    Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864-1865) là bạn học ở trường cụ Hoàng Giáp Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên phẫn chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên. Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ.

    Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây.

    Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên.


    Hoàn cảnh lịch sử

    Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.

    Lúc này Nam kỳ rơi vào tay Pháp. Năm 1882, Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, chúng tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã.

    Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ.

    Tác phẩm

    Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ và nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.

    Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau . Có bài tác giả viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ngược lại, ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó xác định vì nó rất điêu luyện.

    Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuỗm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công.

    Một số bài thơ của ông được thu thập lại dưới đây:

    Thu vịnh
    Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
    Cành trúc lơ phơ gió hắt hiu.
    Nước biếc trông như tầng khói phủ,
    Song thưa để mặc bóng trăng vào.
    Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
    Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
    Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
    Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.



    Thu điếu
    Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
    Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
    Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
    Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
    Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
    Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
    Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
    Cá đâu đớp động dưới chân bèo.



    Thu ẩm
    Năm gian nhà cỏ thấp le te,
    Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
    Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
    Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
    Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
    Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
    Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy,
    Độ năm ba chén đã say nhè.

  2. #2
    Moderator phu ong's Avatar
    Join Date
    Nov 2006
    Posts
    1,945

    Default Re: Nguyễn Khuyến.

    Thơ Nguyễn Khuyến

    Anh giả điếc

    Trong thiên hạ có anh giả điếc,
    Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
    Chẳng ai ngờ "sáng tai họ, điếc tai cày",
    Lối điếc ấy sau này em muốn học.
    Toạ trung đàm tiếu, nhân như mộc (1)
    Dạ lí phan viên, nhĩ tự hầu. (2)
    Khi vườn sau, khi ao trước; khi điếu thuốc, khi miếng trầu.
    Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu;
    Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc
    Điếc như thế ai không muốn điếc?
    Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!
    Hỏi anh, anh cứ ậm à.

    (1)...(2) Khi mọi người nói chuyện và
    cười cợt thì ngây ra như gỗ ,nhưng
    đêm khuya leo trèo thì lanh lẹ như khỉ.

    Ông Phỗng đá



    Ông đứng làm chi đó hỡi ông ?
    Trơ trơ như đá, vững như đồng.
    Đêm ngày gìn giữ cho ai đó ?
    Non nước đầy vơi có biết không.


    Đại Lão


    Năm nay tớ đã bảy mươi tư,
    Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ.
    Lúc hứng, uống thêm dăm chén rượu,
    Khi buồn ngâm láo một câu thơ.
    Bạn già lớp trước nay còn mấy ?
    Chuyện cũ mười phần chín chẳng như. *
    Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa,
    Thử xem trời mãi thế này ư ?

    * Chín chẳng như...Đời thường mười phần
    không vừa ý mình đến 8,9 phần !


    Đĩ cầu Nôm


    Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ?
    Trời sinh ra cũng để mà chơi!
    Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời,
    Chơi thủng trống long dùi âu mới thích
    Đĩ bao tử càng chơi càng lịch,
    Tha hồ cho khúc khích chị em cười:
    Người ba đấng, của ba loài,
    Nếu những như ai thì đĩ mốc.
    Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc (1)
    Khá khen thay làm đĩ có tông (2)
    Khắp giang hồ chẳng chốn nào không.
    Suốt Nam Bắc Tây Đông đều biết tiếng.
    Đĩ mười phương chơi cho đủ chín,
    Còn một phương để nhịn lấy chồng.
    Chém cha cái kiếp đào hồng,
    Bạn với kẻ anh hùng cho đứng số.
    Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó,
    Mai sau ngày giỗ có văn nôm.
    Cha đời con Đĩ Cầu Nôm.

    Cầu Nôm thuộc làng Đại Đồng ở Hải Hưng.
    (1)Có lẽ ở đây nhà thơ nói đến Tư Hồng ,
    một nhân vật lúc ấy làm đĩ lấy Tây.

    (2) Có tông....có nòi.


    Bạn đến chơi nhà

    Đã bấy lâu nay bác tới nhà.
    Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
    Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
    Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
    Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
    Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
    Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
    Bác đến chơi đây ta với ta.


    Bồ tiên thi


    Chú huyện Thanh Liêm khéo giở trò,
    "Bồ tiên thi" lại lấy vần bồ. (1)
    Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ,
    Ngọng nghẹo văn chương giở giọng ngô.
    Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,
    Tiên là ý chú muốn vòi xu! (2)
    Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc,
    Không khéo mà roi nó phết cho.

    (1) Bồ tiên...Cái roi bằng cỏ bồ mà Lưu Khoan ,
    một ông quan đời Hán nổi tiếng nhân từ dùng
    để đánh tội nhân. Dựa vào điển nầy ,tên tri huyện
    đã mở cuộc thi thơ và ra đầu đề là "bồ tiên thi "
    ngầm ý khoe mình là người biết thương dân.

    (2) Tiên...nghĩa là cái roi ,đồng âm với chữ "tiên "
    nghĩa là đồng xu.


    Bóng đè cô đầu
    Bóng người ta nghĩ bóng ta,
    Bóng ta, ta nghĩ hoá ra bóng người.
    Tỉnh tinh rồi mới nực cười.
    Giấc hồ ai khéo vẽ vời cho nên ? (*)
    Cô đào Sen là người Thi Liễu
    Cớ làm sao õng ẹo với làng nho ?
    Bóng đâu mà bóng đè cô,
    Bỗng thấy sự nhỏ to thêm thắc mắc.
    Cố hữu diệc vi thân ngoại vật, (1)
    Khán lai đô thị mộng trung nhân (1)
    Sực tỉnh ra nào biết chuyện xa gần,
    Còn văng vẳng tiếng đàn lần tiếng trống.
    Quân bất kiến (2)
    Thiên thai động khẩu cần tương tống; (2)
    Dẫu bóng ta, ta bóng có làm sao,
    Thực người hay giấc chiêm bao ?

    (*) Giấc hồ...giấc mộng
    (1) Đại ý nói ở đời ,phàm những cái gì ta
    có đều là vật ngoại thân cả ,và ngẫm nghỉ
    người đời đều ở trong giấc mộng cả !
    (2) Dẫn điển Lưu Thân và Nguyễn Triệu vào núi
    Thiên Thai hái thuốc gặp và lấy tiên.Ở với nhau
    được 6 tháng ,hai chàng nhớ nhà đòi về ,hai nàng tiên ân cần tiễn ra cửa động.


    Cảm hứng

    Ngày trước cũng lên lạy cửa trời, (1)
    Lâu nay vắng vẻ bặt tăm hơi.
    Nước non man mác về đâu tá ?
    Bạn bè lơ thơ sót mấy người.
    Đời loạn đi về như hạc độc, (2)
    Tuổi già hình bóng tựa mây côi (3)
    Đã hay nhờ được hao mòn lắm,
    Một thí lòng son chửa rõ mười.(4)

    (1)Nhà thơ lúc làm quan cũng đã
    cùng với bạn vào chầu Vua ở triều đình
    (2)Hạc độc...Con hạc một mình không có bạn
    (3)Mây côi ...Đám mây lẽ loi
    (4)Một thí....Một chút


    Cáo quan về ở nhà



    Ngần ấy năm nay vẫn ở nhà,
    Nghĩ ta, ta lại chỉ thương ta.
    Bóng hiên thêm ngán hơi nồng nhỉ,
    Ngọn gió không nhường tóc bạc a!
    Thửa mạ rạch ròi chân xấu tốt, (1)
    Đấu lương đo đắn tuổi non già.(2)
    Khi buồn chén rượu say không biết,
    Ngửa mặt lờ mờ ngọn núi xa.

    (1) Chân....tức chân ruộng
    (2) Đong thóc thành sỏi


    Chế ông đỗ Cự Lộc


    Văn hay chữ tốt ra tuồng,
    Văn dai như chão, chữ vuông như hòm.
    Vẻ thầy như vẻ con tôm,
    Vẻ tay ngoáy cám, vẻ mồm húp tương.
    Vẻ lịch sự ai bằng thầy Cự Lộc,
    Vẻ cô đầu nói móc có vài câu:
    Anh chẳng sang, mà cũng chẳng giàu.
    Hầu bao ních, rận bâu quanh chiếu;
    Khăn nhuộm lờ lờ mùi nước điếu,
    Nón sơn không méo cũng không tròn.
    Quần vải thô, ngại giặt ngả màu son,
    Giày cóc gặm, nhặt dây đàn khâu lấy.
    Phong lưu ấy, mà tình tính ấy,
    Đến cô đầu, vẫn thấy lả lơi bông,
    Xinh thay diện mạo anh hùng!

  3. #3
    Moderator phu ong's Avatar
    Join Date
    Nov 2006
    Posts
    1,945

    Default Re: Nguyễn Khuyến.

    Chốn quê






    Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
    Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
    Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
    Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
    Sớm chưa dưa muối cho qua bữa,
    Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
    Tằn tiện thế mà không khá nhỉ ?
    Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho.






    Chợ đồng






    Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
    Năm nay chợ họp có đông không ?
    Dở trời, mưa bụi còn hơi rét.
    Nếm rượu, tường đền được mấy ông ?
    Hàng quán người về nghe xáo xác,
    Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
    Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.
    Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.

    Chợ Đồng họp ngay ở bên cạnh một ngôi đền. Xung quanh đền lại đắp tường đất dày bao bọc, gọi là tường đền.
    Trúc đốt trong lửa, có tiếng nổ to.






    Chừa rượu





    Những lúc say sưa cũng muốn chừa,
    Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
    Hay ưa nên nỗi không chừa được.
    Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.






    Chơi chợ trời Hương tích





    Ai đi Hương Tích chợ trời đi!
    Chợ họp quanh năm cả bốn thì.
    Đổi chác người tiên cùng khách bụt,
    Bán buôn gió chị lại trăng dì.
    Yến anh chào khách nhà mây tỏa,
    Hoa quả bày hàng điếm cỏ che.
    Giá áo, lợn, tằm, tiền, gạo đủ.
    Bán mua mặc ý muốn chi chi.





    Chơi núi non nước





    Chom chỏm trên sông đá một hòn,
    Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn ?
    Phơ đầu đã tự đời Bàn Cổ,
    Bia miệng còn đeo tiếng trẻ con.
    Rừng cúc tiền triều trơ mốc thếch,
    Hòn câu Thái phó tảng rêu tròn.
    Trải bao trăng gió xuân già giặn,
    Trời dẫu già, nhưng núi vẫn non.

    Núi Non Nước là một thắng cảnh nằm ven bờ sông Đáy ở thị xã Ninh Bình.
    Ông Bàn Cổ sinh từ lúc mới có trời đất.
    Triều vua thời trước.
    Tảng đá mà thái phó Trương Hán Siêu đã ngồi câu cá.







    Cuốc kêu cảm hứng


    Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
    Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?
    Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
    Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
    Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
    Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
    Thâu đêm ròng rã kêu ai đó.
    Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.





    Di chúc





    Kém hai tuổi xuân đầy chín chục.
    Số thầy sinh phải lúc dương cùng.
    Đức thầy đã mỏng mòng mong,
    Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy.
    Học chẳng có rằng hay chi cả.
    Cưỡi đầu người kể đã ba phen;
    Tuổi là tuổi của gia tiên,
    Cho nên thầy được hưởng niên lâu ngày.


    Ấy thuở trước ông mày chẳng đỗ,
    Hóa bây giờ cho bố làm nên;
    Ơn vua chửa chút báo đền,
    Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời.
    Sống không để tiếng đời ta thán,
    Chết được về quê quán hương thôn;
    Mới hay trăm sự vuông tròn,
    Sống lâu đã trải, chết chôn chờ gì ?
    Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt,
    Kín chân tay đầu gót thời thôi;
    Cỗ đừng to lắm con ơi,
    Hễ ai chạy lại, con mời người ăn.
    Tế đừng có viết văn mà đọc,
    Trướng đối đừng gấm vóc làm chi;
    Minh tinh con cũng bỏ đi,
    Mời quan đề chủ con thì không nên.

    Môn sinh chớ bổ tiền đặt giấy,
    Bạn của thầy cũng vậy mà thôi;
    Khách quen chớ viết thiếp mời.
    Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu.
    Chẳng qua nợ để cho người sống,
    Chết đi rồi còn ngóng vào đâu!
    Lại mang cái tiếng to đầu,
    Khi nay bày biện, khi sau chê bàn.
    Cờ biển của vua ban ngày trước,
    Khi đưa thầy con rước đầu tiên;
    Lại thuê một lũ phường kèn,
    Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng.
    Việc tống táng nhung nhăng qua quýt,
    Cúng cho thầy một ít rượu hoa;
    Đề vào mấy chữ trong bia,
    Rằng: "Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu".



    Theo ý kiến một số cụ già ở địa phương nhà thơ, thì bài này là do cụ Trần Tán Bính dịch trong buổi lễ đưa ma cụ Nguyễn Khuyến.
    ý nói nhà thơ đã đến ngày tận số.
    Ý nói: nhà thơ qua ba kì thi đều đỗ đầu bảng (tam nguyên).
    Ông cụ thân sinh nhà thơ thuở trước cũng là chân học khoa cử, nhưng không đỗ đạt cao.
    Một mảnh lụa, mảnh vải hoặc mảnh giấy đề tên hiệu, tên thụy, tuổi và chức tước, địa vị người chết trong khi đưa đám ma.
    Viết tên và hiệu người chết vào. Việc viết này thường được coi là tôn trọng, nên phải mời người có chức tước làm.
    Học trò cùng học một thầy.






    Hỏi thăm quan tuần mất cướp






    Tôi nghe khẻ cướp nó lèn ông,
    Nó lại lôi ông đến giữa đồng.
    Lấy của đánh người quân tệ nhỉ!
    Thân già da cóc có đau không ?
    Bây giờ mới khẽ sầy da trán,
    Ngày trước đi đâu mất mảy lông.
    Thôi cũng đừng nên ki cóp nữa.
    Kẻo mang tiếng dại với phường ngông!






    Hội tây






    Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo:
    Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
    Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
    Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
    Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
    Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
    Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
    Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!

    Hội mừng được thái bình, vui vẻ. ở đây ý nói hội mừng cách mạng tư sản Pháp thành công.





    Hoài cổ





    Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,
    Sự đời đến thế, thế thời thôi!
    Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm,
    Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
    Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,
    Phá tung phên giậu hạ di rồi.
    Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,
    Mấy trắng về đâu nước chảy xuôi.

    Bài này tuy đầu đề là "Hoài cổ" nhưng thực ra nhà thơ muốn nói lên cảnh thực dân Pháp bắt dân ta đi phu khai mỏ ở miền núi, đắp đường xe lửa v.v... bị chết nhiều.

  4. #4
    Moderator phu ong's Avatar
    Join Date
    Nov 2006
    Posts
    1,945

    Default Re: Nguyễn Khuyến.

    Khai bút






    Ình ịch đêm qua trống các làng,
    Ai ai mà chẳng rước xuân sang.
    Rượu ngon nhắp giọng đưa vài chén,
    Bút mới xô tay thử một hàng.
    Ngoài lũy nhấp nhô cò cụ tổng,
    Cách ao lẹt đẹt pháo thầy Nhang.
    Một năm một tuổi, trời cho tớ,
    Tuổi tờ trời cho, tớ lại càng...

    Chú thích: cụ tổng
    Tức cụ Tổng Hào ở gần nhà Nguyễn Khuyến, nhà giàu có, xung quanh nhà có lũy tre bao bọc xanh tốt um tùm, chim cò về đậu ở đây rất nhiều.
    Chú thích: thầy Nhang
    Ở cách nhà Nguyễn Khuyến một cái ao.
    Chú thích: Tuổi tờ trời cho, tớ lại càng...
    Câu này rút ý câu tục ngữ: Càng già, càng dẻo, càng dai.


    Khóc Dương Khuê



    Bác Dương thôi đã thôi rồi,
    Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
    Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
    Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
    Kính yêu từ trước đến sau,
    Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
    Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
    Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
    Có khi tầng gác cheo leo,
    Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
    Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
    Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân,
    Có khi bàn soạn câu văn,
    Biết bao đông bích, điển phần trước sau,

    Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
    Phận đấu thăng chẳng dám tham trời;
    Bác già, tôi cũng già rồi,
    Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
    Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
    Trước ba năm gặp bác một lần;
    Cầm tay hỏi hết xa gần,
    Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can,
    Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
    Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
    Làm sao bác vội về ngay,
    Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
    Ai chẳng biết chán đời là phải,
    Vội vàng sao đã mải lên tiên;
    Rượu ngon không có bạn hiền,
    Không mua không phải không tiền không mua.
    Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
    Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
    Giường kia treo những hững hờ,
    Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
    Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
    Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
    Tuổi già hạt lệ như sương,
    Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!

    Tác giả tự dịch bài Văn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư.

    Kiều bán mình




    Thằng bán tơ kia giở giói ra,
    Làm cho bận đến cụ Viên già.
    Muốn êm phải biện ba trăm lạng,
    Khéo xếp nên liều một chiếc thoa.
    Nổi tiếng mượn màu son phấn mụ,
    Đem thân chuộc lấy tội tình cha.
    Có tiền việc ấy mà xong nhỉ ?
    Đời trước làm quan cũng thế a ?

    Tú Bà

    Trăng trên trời có khi tròn khi khuyết,
    Người ở đời đâu khỏi tiết gian nan...




    Lấy Tây




    Con gái đời này, gái mới ngoan,
    Quyết lòng ẩu chiến với Tây quan.
    Ba vuông phất phới cờ bay dọc
    Một bức tung hoành váy xắn ngang.
    Trời đất khéo thương chàng bạch quỉ
    Giang san riêng sướng ả hồng nhan
    Nghĩ càng thêm ngán trai thời loạn,
    Con gái đời nay, gái mới ngoan!

    Chỉ tên người Pháp.
    Chú thích: Con gái đời nay, gái mới ngoan!
    Tác giả tỏ thái độ chua chát trước cảnh "lấy Tây" của gái Việt thời đó.






    Lời gái góa






    Chàng chẳng biết gái này gái goá,
    Buồn nằm suông, suông cả áo cơm.
    Khéo thay cái mụ tá ươm.
    Đem chàng trẻ tuổi ép làm lứa đôi.
    Chàng tuổi trẻ chơi bời quên nhọc,
    Gái già này sức vóc được bao ?
    Muốn sao, chiều chẳng được sao.
    Trước tuy sum họp, sau nào được lâu ?
    ...Lấy chồng vốn nhờ câu ăn mặc,
    Chẳng ngờ rằng đói rách hổ ngươi;
    Vốn xưa cha mẹ dặn lời,
    Tư bôn lại phải kẻ cười người chê.
    Hỡi mụ hỡi, thương chi thương thế?
    Thương thì hay, nhưng kế chẳng hay.
    Thương thì gạo vải cho vay,
    Lấy chồng thì gái goá này xin van!



    (Tác giả tự dịch bài Li phụ hành)
    Chỉ người mai mối.
    Chỉ người con gái chốn nhà đi theo trai.





    Lời vợ anh phường chèo





    Xóm bên đông có phường chèo trọ,
    Đương nửa đêm gọi vợ chuyện trò:
    Rằng: "ta thường làm quan to,
    Sao người coi chẳng ra trò trống chi ?"
    Vợ giận lắm mắng đi mắng lại:
    "Tuổi đã già sao dại như ri ?
    Đêm hôm ai chẳng biết chi,
    Người ta biết đến thiếp thì hổ thay!
    ...Ở đời có hai điều nên sợ:
    Sống chết người, quyền ở trong tay.
    Thế mà chàng đã chẳng hay.
    Còn ai sợ đến phường này nữa chăng?
    Vả chàng vẫn lăng nhăng túng kiết,
    Cuộc sinh nhai chèo hát qua thì,
    Vua chèo còn chẳng ra gì,
    Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề".



    Người đóng trò bôi mặt lem nhem.






    Lụt hỏi thăm bạn





    Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu,
    Lụt lội năm nay bác ở đâu ?
    Mấy ổ lợn con rày lớn bé ?
    Vài gian nếp cái ngập nông sâu ?
    Phận thua suy tính càng thêm thiệt,
    Tuổi cả chơi bời họa sống lâu.
    Em cũng chẳng no mà chẳng đói,
    Thung thăng chiếc lá rượu lưng bầu.






    Lên lão





    Ông chẳng hay ông tuổi đã già,
    Năm lăm ông cũng lão đây mà.
    Anh em làng xóm xin mời cả,
    Xôi bánh, trâu heo cũng gọi là.
    Chú Đáo bên làng lên với tớ,
    Ông Từ xóm chợ lại cùng ta.
    Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ,
    Có rượu thời ông chống gậy ra.







    Mẹ Mốc





    So danh giá ai bằng mẹ Mốc,
    Ngoài hình hài, gấm vóc chẳng thêm ra;
    Tấm hồng nhan đem bôi lấm xoá nhoà,
    Làm thế để cho qua mắt tục.
    Ngoại mạo bất cầu như mĩ ngọc,
    Tâm trung thường thủ tự kiên kim
    Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm,
    Giữ son sắt êm đềm một tiết.
    ...Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết,
    Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ,
    Đắp tai ngảnh mặt làm ngơ,
    Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây.
    Khôn kia dễ bán dại này!



    Chú thích: Ngoài hình hài, gấm vóc chẳng thêm ra;
    Mẹ Mốc điên, xé quần xé áo, nên chỉ trơ có tấm thân không che đậy.
    Chú thích: Ngoại mạo bất cầu như mĩ ngọc,
    Tâm trung thường thủ tự kiên kim
    Hai câu này đại ý nói: mặt ngoài không cần đẹp như ngọc, nhưng trong lòng hằng giữ bền như vàng.
    Chú thích: tiết
    Khí tiết.





    Mừng ông Nghè mới đỗ





    Anh mừng cho chú đỗ ông Nghè,
    Chẳng đỗ thì trời cũng chẳng nghe.
    Ân tứ dám đâu coi rẻ rúng,
    Vinh quy ắt hẳn rước tùng xòe.
    Rượu ngon ả nọ khôn đường tránh,
    Hoãn đẹp nàng này khó nhẽ che.
    Hiển quí đến nay đà mới rõ,
    Rõ từ những lúc tổng chưa đe.

  5. #5
    Moderator phu ong's Avatar
    Join Date
    Nov 2006
    Posts
    1,945

    Default Re: Nguyễn Khuyến.

    Mừng Đốc học Hà Nam

    Ông làm đốc học bấy lâu nay,
    Gần đó mà tôi vẫn chửa hay.
    Tóc bạc răng long chừng đã cụ,
    Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy.
    Học trò kẻ chợ trầu dăm miếng,
    Khảo khóa ngày xưa quyển một chầy.(1)
    Bổng lộc như ông không mấy nhỉ ?
    Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây.


    (1)Một chầy :Một tiền ,mỗi thí sinh khi vào
    nộp quyển khảo thi phải nộp lệ phí (60 đồng kẽm )

    Mừng con dưng được nhà

    Nghĩ ta, ta cũng sướng ru mà,
    Mừng thấy con ta dựng được nhà
    Năm mới lệ thường thêm tuổi một,
    Cỗ phe ngôi đã chốc bàn ba. (1)
    Rượu ngon đến bữa nghiêng bầu dốc,
    Chữ "dại" đầu năm xổ túi ra. (2)
    Một khóm thủy tiên năm bảy cụm,
    Xanh xanh như sắp thập thò hoa.

    (1)Bữa tiệc do phe giáp ,1 tô? chức nhỏ
    trong làng làm lễ mừng thọ cho các bậc bô lão.
    (60 tuổi trở lên ).Ở đây ý nói tác giã cũng đã
    vào bậc bô lão.

    (2)Ý nói ngâm vịnh nhiều.


    Muốn lấy Chồng

    Bực gì bằng gái trực phòng không ?
    Tơ tưởng vì chung một tấm chồng.
    Trên gác rồng mây ngao ngán đợi,
    Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông.
    Mua vui, lắm lúc cười cười gượng,
    Giả dại, nhiều khi nói nói bông.
    Mới biết có chồng như có cánh,
    Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.

    Nước lụt Hà Nam


    Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi,
    Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi
    Gạo dăm ba bát cơ còn kém,
    Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi.
    Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng.
    Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi.
    Đi đâu cũng thấy người ta nói,
    Mười chín năm nay lại cát bồi.

    Ngày Xuân dặn các Con


    Tuổi thêm, thêm được tóc râu phờ,
    Nay đã năm mươi có lẻ ba.
    Sách vở ích gì cho buổi ấy,
    áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
    Xuân về ngày loạn càng lơ láo,
    Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ.
    Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
    Sao con đàn hát vẫn say sưa ?

    (Tác giả tự dịch bài Xuân nhật thị chư nhi)


    Nghe hát đêm khuya



    Một khúc đêm khuya tiếng đã chầy,
    Nửa chen mặt nước, nửa từng mây.
    Nghĩ mình vườn cũ vừa lui bước,
    Ngán kẻ phương trời chẳng đứt dây.
    Bẻ liễu thành Đài thôi cũng xếp,(*)
    Trồng lan ngõ tối ngát nào hay ?
    Từ xưa mặt ngọc ai là chẳng,
    Chén rượu bên đèn luống tỉnh say.


    Bẽ liễu thành Đài....Hán Hoành đời Đường ,
    lấy một danh kĩ là Liễu thị ở phố Chương
    Đài ,Trường An .Sau làm quan đi xa để Liễu
    Thị lại đó 3 năm không đón đi được.Nên
    làm bài " Chương Đài Liễu " để thăm.


    Nhớ cảnh Chùa Đọi
    Già yếu xa xôi bấy đến nay,
    Làng chơi loáng thoáng lại buồn thay!
    Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá.
    Sư cụ nằm chung với khói mây
    Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy,
    Thuyền ai khách đợi bến đâu đây ?
    Chuông trưa vẳng tiếng người không biết,
    Trâu thả sườn non ngủ gốc cây.

    (Tác giả tự dịch bài Ức Long Đội sơn)

    Phú đắc

    Bà già đã bảy mươi tư,
    Ngồi trong cửa sổ gửi thư lấy chồng.

    Đã trót sinh ra kiếp má đào,
    Bảy mươi tư tuổi có là bao ?
    Xuân xanh xấp xỉ hàng răng rụng,
    Ngày vắng ân cần mảnh giấy trao.
    Chữ nhất nhi chung đành đã vậy,(*)
    Câu tam bất hiếu nữa làm sao ?
    May mà chim được ông chồng trẻ,
    Họa có sinh ra được chút nào ?

    Phú đắc là lối trình bày sự việc cụ thể.

    Nhất nhi chung....ý nói người phụ
    nữ chỉ có 1 Chồng cho đến khi chết.


    Tạ lại người cho hoa trà
    Tết đến người cho một chậu trà,
    Đương say ta chẳng biết rằng hoa.
    Da mồi, tóc bạc ta già nhỉ,
    Áo tía đai vàng bác đó a ?
    Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá.(1)
    Gió to luống sợ lúc rơi già.(2)
    Xem hoa, ta chỉ xem bằng mũi,
    Đếch thấy hơi hương một tiếng khà.

    (Tác giả tự dịch bài Sơn trà)


    (1) Những hạt mưa nhỏ dần dần có thể
    xuyên thủng lá cây.
    (2) Gió bấc thổi làm cho đài hoa rụng

    Tặng Đốc Hà Nam
    Ai rằng ông dại với ông điên,
    Ông dại sao ông biết lấy tiền?
    Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp,
    Khoét thằng mặt trắng lấy tam nguyên (1)....(2)
    Dấu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ,
    Phép nước xin chừa móng lợn đen (3)
    Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt,
    Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen.

    (1) Thằng mặt trắng....do câu "bạch diện thư sinh "
    Chỉ người học trò
    (2)Tam nguyên...3 đồng bạc ,còn đồng âm với
    chữ "tam nguyên " là đỗ đầu luôn 3 khoa Hương ,Hội
    và thi Đình
    (3)Móng lợn đen...Ám chỉ ông Đốc học nầy đã
    có lần bị Tây đá đít !

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts