Các Pháp Môn Tu Hành Đều Là Pháp Môn Quán Âm
Nói thí dụ hôm nay Sư Phụ tán thán Pháp Môn Quán Âm , nói cả tiếng đồng hồ , đều là nói Pháp Môn Quán Âm , nói rõ cho người ta hiểu nếu như có người biết Quán Âm , sẽ có vô lượng , vô biên công đức . Ý của Sư Phụ là chỉ có Pháp Môn Quán Âm , sẽ có vô lượng công đức , nếu như về nhà chỉ nghe băng giảng kinh của Sư Phụ , tuy cũng có phước báu , nhưng không phải cứu cánh giải thoát . Cho nên phải "trì" Pháp Môn Quán Âm , "trì" Quán Âm , "trì" phẩm Phổ Môn , "trì" cái gì ? Là tu hành .
Nói thí dụ "niệm giới" không có dụng , "trì giới" mới có dụng , năm giới là :" Không sát sanh , không uống rượu ..." Chúng ta ở nhà niệm năm giới này , có công dụng không ? Không ! Cho nên nhiều người nói họ là Phật tử , họ đi qui y mười người , mười lăm người , năm chục người Hòa Thượng , có năm chục cái pháp danh , thu thập các thứ pháp danh , nhưng cứ vẫn ăn thịt , uống rượu bởi vì không hiểu "không sát sanh" là gì ? Có dù có thọ giới với năm chục vị pháp sư , về nhà nếu không trì giới , cũng không có ích lợi , phải đốt cái chứng chỉ qui y đi , mới coi cho được là người chân thật , còn không chỉ là gạt người , như vậy còn xưng là Phật tử để làm gì ? Phật rất từ bi , Ngài thấy chúng sinh đang chơi trò tu hành Ngài sẽ cười . (mọi người cười) Ngài sẽ nói :" Chúng nó đang làm trò gì ? Không hiểu được năm giới , đùa đi đùa lại , tìm pháp sư thu thập pháp danh làm gì ? Có ích lợi gì ?" Có hiểu chưa ? Nhiều người thọ giới rồi vẫn còn ăn thịt . Hôm qua Sư Phụ nói đến vấn đề ăn thịt , ăn thịt là gián tiếp sát sinh , gián tiếp giết mà thấy vui , cũng là sát sinh , không có người ăn thịt thì không có người giết để bán . Trong Kinh Lăng Già có nói rất rõ , Phật nói :" Đại Huệ , phàm là người sát sinh , phần nhiều là vì có người muốn ăn , nếu không có người ăn , thì không có chuyện sát sanh , cho nên ai ăn thịt và sát sinh đồng một tội ."
VẤN : Tu pháp môn này cần điều kiện gì không ?
ĐÁP : Hôm qua Sư Phụ có nói , không có điều kiện gì đặc biệt , người nào cũng có thể tu , nhưng cần phải trì giới , trì giới cũng không phải là giới , vốn không có giới gì phải trì , trên pháp luật đã có qui định , không có thể trộm cướp , chứ không phải tu hành rồi mới không có thể trộm cướp . Không sát sinh vốn cần phải giữ lấy . Khổng Tử nói :" Cái gì mình không muốn thì đừng để cho người khác phải chịu ." Xưa kia ở Trung Quốc đã có những lời đó rồi , không cần phải tu hành mới biết .
Chúng ta đã không muốn bị giết , sao còn kích thích người khác sát sinh cho chúng ta ăn ? Lúc bị giết hại đau khổ đến thế nào , động vật nó cũng tham sống sợ chết , điều đó chúng ta rất rõ , chúng ta làm sao nhẫn tâm thấy chúng đau khổ ? Hưởng thụ cái kết quả đau khổ của chúng ? Cái đau khổ của chúng biến thành cái hưởng thụ ngon miệng của cá nhân chúng ta . Vốn đã không nên sát sanh rồi , cho nên không sát sinh cũng không phải là giới gì . Khi thân nhân của chúng ta chết , chúng ta cũng không dám ăn cái thây đó , sao lại dám ăn cái thây của chúng sinh khác ?
Động vật vốn rất là dơ , thông thường chúng ta không thể tưởng nổi , ôm hôn chó , bò , gà , dê hay ngủ chung với chúng nó , làm sao có thể lấy thây xác bỏ vào miệng cao quí của chúng ta ? Miệng vốn là để nói chuyện đạo đức , dùng để học tập thư tự cao sang , sao lại trở ngược biến thành cửa lớn của mồ mả ? Làm cái xác thân cao quí của chúng ta biến thành mồ mả chôn thây xác ; có người không dám ngủ tại nghĩa địa nhưng cả ngày ngủ với cái mồ mả ở tại cái bụng mình mà không biết sợ . Động vật cũng có lòng tham sống sợ chết ; nếu mà chúng nó không tham sống sợ chết , chúng ta còn có thể giết nhưng mà chúng nó không muốn chết , chúng ta cứ cưỡng bách chúng nó chết , như vậy thật không công bình .
Cỏ cây rau cỏ không có biết nói , nếu như mắt trí huệ của chúng ta mở ra , chúng ta sẽ biết , nó muốn mình đến ăn , nó nói :" Tôi đã chuẩn bị rồi , hái tôi về nấu ." Nhưng động vật hoàn toàn không muốn chết , không muốn bị giết hại nhưng chúng ta cứ cưỡng bách chúng nó chết , làm như vậy không đúng , như vậy là dùng bạo lực . con người chúng ta thông minh hơn , cường trán hơn , có thể bắt động vật nhỏ yếu đuối , rọc xác nó , nhưng mình làm như vậy không phải là thái độ của người quân tử .
Các Pháp Môn Tu Hành Đều Là Pháp Môn Quán Âm
Quí vị có biết binh pháp không ? Khi đánh giặc , lực lượng của đôi bên đều cần phải như nhau , mới có thể đánh , nếu như bên yếu thế đã bị bại trận rồi , chúng ta cũng không giết họ , nhưng chúng ta lại giết hại động vật bé nhỏ , động vật còn yếu hơn bên quân bại trận , nó không thể tự bảo hộ , gặp người sợ muốn chết , lật đật chạy trốn mà chúng ta cứ tiếp tục đuổi giết , cá sống trong biển , không có quan hệ đến mình , chúng ta lại kéo lưới bắt nó . Động vật ở trên núi không có liên hệ đến mình , mình lại săn bắn đuổi giết , rồi đem về nhà ăn , như vậy là không đúng , không có hợp lý "đạo" .
Rau cải nó không có tham sống sợ chết , nó không có thứ cảm giác , hơn 90% trong rau là nước , thành phần cảm giác rất ít , ý thức rất ít . Trái lại , ý thức của động vật rất nhiều , không thua gì con người , cho nên chúng ta thấy ngựa , chó , rất trung thành , nó biết nhận chủ nhân của nó , rất có ái tâm , nên nói rằng động vật có cảm giác như con người . Đôi khi chủ của nó chết , nó rất đau buồn , không muốn ăn , qua vài ngày sau có lẽ nó cũng vãng sanh . Có nhiều ngựa và chó thật tình trung thành như vậy .
Cho nên chúng ta đừng có ăn chúng , cái ý thức và sự thông minh của động vật rất giống con người , cho nên chúng ta không thể cưỡng bách chúng , giết hại chúng , cũng không nên thấy người ta giết chúng mà tâm vui mừng ăn thịt của chúng , hưởng thụ cái đau khổ của chúng . Vì sao muốn làm Bồ Tát ? Bởi vì muốn giải thoát đau khổ , đồng thời cũng muốn độ chúng sinh liễu thoát đau khổ , hiện giờ nếu còn muốn độ chúng sinh đau khổ trước mắt , vậy phải chờ đến phút nào mới có thể độ ? Đợi cho mình thành Bồ Tát thì chúng sinh đã bị "giải thoát vào bụng" hết rồi . (mọi người cười)
Cho nên làm Bồ Tát nhất định phải phát tâm từ bi , coi chúng sinh như là thân nhân của mình vậy , như vậy mới có thể thành Bồ Tát , nếu như bây giờ không thể học làm Bồ Tát từ bi , sau này làm sao đi Tây Phương ? Cõi Tây Phương chỉ có Bồ Tát đại công đức , đại từ bi mới có thể ở . Trong kinh A Di Đà cũng có nói , không có thể dùng cái phước báu nhỏ sanh cõi Tây Phương , tu hành nên lấy từ bi làm trọng , mỗi tôn giáo đều nhấn mạnh điểm đó . Sao chúng ta lại không phát tâm từ bi để có thể vãng sanh tịnh độ Tây Phương ?
Thuở nhỏ Sư Phụ có trồng một loại bông , chúng ta gọi nó là bông vạn thọ , nếu muốn nó đẹp , thì đợi cho nó lớn cho đến độ cao nào đó , nhổ cái tim của nó , như vậy bông vạn thọ mới mọc sai , ra bông mới nhiều , còn không thì nó mọc rất nhỏ chỉ có hai ba cái bông , hai ba cái nhánh mà thôi . Nhưng nếu mình ngắt tim nó đi , nó sẽ mọc rất lớn , rất mập , có nhiều bông , có phải không ?
Còn như rau thơm và cải , mình ngắt một cành , nó ra hai ba bốn cành , có phải không ? Nhiều loại cải đều như vậy . Cho nên mình dùng mắt thịt cũng có thể thấy , mình ăn nó , nó thích lắm , nó mọc càng nhiều , mình không ăn nó , nó sẽ buồn bực , rất có thể chỉ mọc một cây một trái , ăn hết rồi nó chết luôn . Nếu quí vị không tin Sư Phụ , ngày mai ở nhà trồng cây bông vạn thọ , ngắt đi đọt giữa , sau này nó mọc rất lớn . Quí vị có thể trồng hai cây , một cây thì ngắt tim , một cây thì để nguyên , quí vị sẽ thấy có cái gì khác biệt .
Cho nên rau cải , cây cỏ nó thích người ta hái ăn , quí vị chặt một nhánh cây , không bao lâu , nó sẽ mọc ra nhánh mới , nhưng nếu như chúng ta chém gà , giết bò , chúng nó không thể tiếp tục sinh trưởng , chém một cái là nó chết tươi . cho nên không nhất định phải mở con mắt trí huệ , dùng mắt thịt chúng ta cũng có thể quan sát được , cũng có thể có biết được rau cải cỏ cây thích người ta ăn nó hay không ? Động vật có thích người ta chém nó , giết nó hay không ?
Nếu như tu Pháp Môn Quán Âm , mỗi ngày cần phải "quán âm tọa thiền" hai tiếng rưỡi đồng hồ , mới có thể đủ sức rửa sạch cái nghiệp chướng của chúng ta , mới có thể đi Tây Phương . Nghiệp chướng của chúng ta nhiều như thế , không có thể nào muốn đi là đi , cần phải "niệm" Phật đến nhất tâm bất loạn . Nhưng nếu như không có phương pháp , niệm cách nào cũng là nhất tâm rất loạn , cho nên muốn nhất tâm bất loạn , cần phải tọa thiền hai tiếng rưỡi đồng hồ mới có thể như ý . Như vậy mới thật sự là "niệm Phật" .
Niệm là tưởng niệm , chúng ta có thể nói hai tiếng rưỡi đó là chính thật tưởng niệm Phật , như vậy mới là "niệm" Phật , "niệm" của nhất tâm bất loạn . Bởi vì lúc tọa thiền bỏ hết những việc trên đời , hai tiếng rưỡi đó , đều là dùng thân , khẩu , ý thật để cúng dường Phật . Mỗi ngày chúng ta có hai tiếng rưỡi đồng hồ , cúng dường Phật hai tiếng rưỡi đồng hồ , chỉ chiếm có một phần mười của một ngày mà thôi , nhưng đa số người lại có quá nhiều lý do như : Tại vì quá bận , vì là người tại gia , vì là người có chồng , vì có vợ , vì có con , vì có công việc ...
Tu Pháp Môn Quán Âm , cần phải dùng thân , khẩu , ý cúng dường Phật hai tiếng rưỡi đồng hồ , dùng cái "ta" thật ngồi tưởng "niệm" Phật , cho nên có thể "niệm" Phật nhất tâm bất loạn , chứ không phải đợi cho chúng ta nhập định mới có thể nhất tâm bất loạn .
Đó là quy củ tu hành Pháp Môn Quán Âm của chúng ta , cần phải ăn chay , nên tọa thiền hai tiếng rưỡi đồng hồ , chỉ vậy thôi . Khi tọa thiền "niệm" Phật , nhưng muốn "niệm" cũng phải có phương pháp , cần phải biết "tưởng niệm" như thế nào mới có ích dụng . Những gì Sư Phụ đã nói cho quí vị nghe ở đây , vẫn còn là ở bên ngoài , vẫn còn là mô tả bánh , ly đựng nước mà thôi , nước vẫn ở trong đó , quí vị còn chưa có uống được nước và cũng chưa có ăn được bánh .
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Ngày 16-2-1987
Peng Hu
Hôm nay , Sư Phụ giảng về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni , Ngài nói chúng sinh đều có Phật Tánh , nhưng tại sao chúng ta lại tìm không được ? Cũng như chúng ta nghe nói "Phật tại tâm" nhưng tại sao chúng ta không cảm nhận ? Đức Phật nói tất cả chúng sinh đều là Phật , nhưng tại sao lại có nhiều người xấu và có nhiều người tốt ? Hôm nay Sư Phụ muốn nói về vấn đề này .
Vài ngày trước , Sư Phụ có nói về đất Tịnh Độ và đất Uế Độ , quí vị còn nhớ không ? Giữa đất Tịnh Độ và đất Uế Độ còn có một thế giới nằm giữa hai vùng đó . Thế giới đó rất là đen tối , không có đường lối , không có ánh sáng . Chúng ta nghe nói đất Tịnh Độ do Đức Phật A Di Đà làm chủ , nơi đó không có ác nghiệp , không có nam , không có nữ , không có địa ngục , không có ác tánh . Thiên Chúa Giáo gọi đó là Thiên Quốc , Đức Phật Thích Ca Mâu Ni gọi đó là Phật Tánh , hay Bản Lai Diện Mục . Chúa Giê Su Ki Tô cũng nói về Thiên Quốc , Ngài nói :" Thiên Quốc ở bên trong chúng ta ", nhưng tại sao chúng ta tìm không ra ? Nếu như Thiên Quốc ở bên trong người đó , thì người đó phải là người lương thiện có phải không ? Nhưng chúng ta thấy nhân loại không phải ai cũng là người lương thiện , chúng ta tự hỏi tại sao vậy ? Cái lý do là bởi vì cõi Uế Độ và Tịnh Độ không tiếp thông được với nhau .
Trong vũ trụ bao gồm cả Tam Giới . Trong Tam Giới có sáu cõi luân hồi là : Người , Trời , A-Tu-La , Ngạ Quỉ , Địa Ngục và Súc Sanh . Bên trên Tam Giới là cõi Tịnh Độ , là nơi cư ngụ của Phật . Chúng ta thường nói "Phật quang thường chiếu", ý nói là "Vô Lượng Quang" có khắp mọi nơi , nhưng tại sao trong Tam Giới của chúng ta lại không có Phật Quang này ? Tại sao thế giới này gây ra loạn lạc ? Lý do là ở giữa đó bị một thế giới rất là đen tối ngăn cách ra mà thôi . Khi Sư Phụ nói vũ trụ , quí vị đừng có cho rằng nó chỉ ở bên ngoài . Thế giới này ở bên trong chúng ta . Chúng ta là vũ trụ nhỏ , vũ trụ ở bên ngoài như thế nào , thì ở bên trong chúng ta cũng y như vậy , do đó thế giới đen tối đó cũng ở bên trong chúng ta .
Từ đầu đến tứ chi của chúng ta có một nơi rất là đen tối , nơi đó che lấp sự tiến bọ của trí huệ chúng ta , không để cho trí huệ của chúng ta thông qua , nếu có thông qua , cũng trở thành không chính xác . Cho nên có lúc đầu óc của chúng ta nghĩ chuyện rất tốt , nhưng đến khi hành động , thì trở thành kết quả xấu . Cái nơi đen tối đó cũng như một cánh cửa đóng kín , chúng ta phải mở nó ra thì trí huệ mới chạy thông suốt được . Khi mở lớn ra được thêm chút nữa thì mới có thể thấy được "Phật Quang" , Phật Quang này tức là Trí Huệ chủa chúng ta .
Cho nên có người gọi chỗ này là "mắt Trí Huệ" , "mắt thứ ba" hay gọi là "mắt Phật" (Sư Phụ chỉ lên trán) . Nhưng phải chú ý cẩn thận vì chỗ này có hai cánh cửa , một cánh cửa chỉ có thể thông đến một nơi cao nhất trong Tam Giới , Phật Giáo gọi nơi đó là "Phạm Thiên" (cõi trời) , nếu như hai cánh cửa đó mở ra được thì chúng ta cũng có được một số trí huệ và phước đức . Còn cánh cửa kia thì có thể thông ra ngoài Tam Giới , đến Cực Lạc , đến cảnh giới vô lượng vô biên . Sư Phụ nói "con mắt trí huệ" là chỉ đến cánh cửa thông ra ngoài Tam Giới này .
Hai cánh cửa này của đa số mọi người đều bị đóng kín , vài người thì có thể mở được cánh cửa trong Tam Giới ra được một chút . Nếu cánh cửa này được mở lớn ra thì cũng thấy được ánh sáng hay là cảnh giới , nhưng tất cả đều nằm trong Tam Giới . Chỉ riêng người tu Pháp Môn Quán Âm mới mở được mắt trí huệ , hào quang Phật mới luôn luôn chiếu sáng bên họ . Nếu cánh cửa thông ra Tam Giới hoàn toàn đóng kín , thì Phật Quang từ nơi Tịnh Độ không thể chiếu đến chúng ta được , cho dù thông qua được cũng sẽ bị nơi đen tối này nhiễm đen (bị dơ mất) . Cho nên chúng ta có thể nói , từ trán trở xuống là đất Uế Độ , từ trán trở lên là đất Tịnh Độ , hay là Thiên Quốc . Mình gọi nó là gì cũng được , đó chỉ là sự phân biệt ngôn ngữ mà chúng ta đặt ra mà thôi . Những người tu Pháp Môn Quán Âm mắt trí huệ sẽ mở , Phật Quang luôn luôn che chở họ , càng tu hành càng có ánh sáng , chúng ta lần lần trở thành chủ nhân của mình , trí huệ sẽ khai mở không còn bị chỗ đen tối này làm nhiễm dơ , và không có những nhận thức sai lầm (trí huệ tà) .
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Cho nên Tịnh Độ là Tịnh Độ , Uế Độ là Uế Độ , không giao thông được với nhau là vì bị bức tường đen tối này ngăn cách , không cho người trong Tam Giới thoát ra được , không để cho chúng ta biết được Tịnh Độ là gì ? Không để cho chúng ta biết được Thiên Quốc thật sự như thế nào ? Trong Tam Giới ví như cái tù , thế giới đen tối tức là bức tường cao (không thể leo qua được) ngăn cách thế giới tự do và ngục tù .
Tịnh Độ có liên hệ mật thiết với trí huệ và thân thể , thí dụ như đất Tịnh Độ ở phần trên trí óc . Từ chỗ này (Sư Phụ chỉ con mắt trí huệ trên trán) trở xuống là Uế Độ , nếu có một người rất thông minh chúng ta thường nói rằng họ rất có "trí huệ" , có phải vậy không ? Trí óc là bộ tổng tư lệnh của thân thể , nếu như mệnh lệnh phát ra từ đầu óc này mà không thể truyền xuống được , chúng ta sẽ làm sai rất nhiều việc . Cho nên chúng ta thường nói , người này không có đầu óc (kém trí huệ) , hay là đầu óc không rõ ràng ... Từ con mắt trí huệ trở lên là đất Tinh Độ , là Phật Tánh , là Thiên Quốc , là ngoài Tam Giới ; từ con mắt trí huệ trở xuống là đất Uế Độ , là trong Tam Giới , là luân hồi sanh tử . Chúng ta thấy có người rất thông minh , chỗ này (Sư Phụ chỉ ngay trán) của họ sẽ rộng hơn , còn tất cả phần dưới trán đều không có liên quan gì với trí huệ , đó là hệ thống bài tiết .
Nếu như có minh sư chỉ đạo , người tu hành trí huệ sẽ dần dần mở rộng ; không có minh sư chỉ đạo có thể sẽ tu trật , bởi vì họ có thể mở sai cửa . Nếu như có người tự tu , họ cũng có thể có thần thông , bởi vì trong người của chúng ta có rất nhiều "trung tâm" . Ở đây (Sư Phụ chỉ vào mắt trí huệ) là tổng tư lệnh , xuống nữa là cổ họng , tim , đơn điền ... Có một số người cho rằng khi họ cuốn lưỡi để ở hàm trên họ sẽ có được nước Cam Lồ thật . Chúng ta là người tu Pháp Môn Quán Âm , không cần "uốn lưỡi" , cũng sẽ có nước Cam Lồ thật . Nếu như chúng ta tu luyện những trung tâm ở phần dưới con mắt trí huệ , chúng ta cũng có thần thông , nhưng những thần thông đó đều ở trong Tam Giới , còn chưa ra khỏi giai đoạn "thành trụ hoại không" . Cho nên tu các trung tâm từ mắt trí huệ trở xuống , chúng ta không thể siêu thoát khỏi Tam Giới , không thể vĩnh viễn giải thoát . Nếu như chúng ta muốn siêu thoát khỏi Tam Giới , chúng ta phải bắt đầu tu từ con mắt trí huệ , nhưng mà có một số người lại bắt đầu từ trung tâm thấp nhất và tu lên từng cấp một , như vậy thật quá chậm . Họ mất cả một đời người tu luyện để tiến lên đến mắt trí huệ , đối với họ đây là cao nhất , nhưng phương pháp của chúng ta thì lại bắt đầu từ mắt trí huệ . Xưa kia bên Ấn Độ , người ta tu tập Yoga là vì họ có rất nhiều thời giờ , có họ thể thực hành những cách thức đó . Nhưng người tại gia thời nay không có nhiều thời giờ như vậy , một mặt họ tu hành , còn một mặt họ kiếm tiền để nuôi gia đình . Nếu như chúng ta tu theo cách thức chậm chạp như bò kéo xe đó , thì khi chúng ta vãng sanh cũng chưa chắc đạt đến chỗ cao nhất này . Như vậy chúng ta phải tìm phương pháp tốt mà tu .
Nếu như một người tự tu hành và không có thầy chỉ dẫn , họ có thể khởi đầu tu nơi đơn điền , liên tục như thế huyệt đạo sẽ mở ra và người này sẽ phát tánh nóng , tánh tình biến đổi . Mạnh hơn thì cơ thể họ có thể biến thái . Khi trung tâm nào đó mở ra rồi , tự họ không thể đóng lại và sẽ bị ảnh hưởng của những linh hồn xấu (âm-ma) đi vào trung tâm đó . Chúng chiếm lấy toàn thân , bởi vì tự chúng ta không thể bảo vệ được những trung tâm đó . Do đó khi chúng ta tu hành thì cần có một vị minh sư biết cách bảo hộ , dạy chúng ta một pháp môn an toàn thì chúng ta mới có thể tránh được sự phiền phức và nguy hiểm .
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Có nhiều người đến hỏi Sư Phụ một số câu hỏi như là , trước đây họ mới bắt đầu học thiền , hình như họ không có ma chướng theo , nhưng sau này họ thấy có nhiều trở ngại , nhiều ma chướng và cảm thấy có nhiều linh hồn chạy vào khuấy rầy họ , đó là bởi vì họ mở bậy một trung tâm nào đó , hay là người thầy của họ không đủ lực lượng . Dĩ nhiên khi chúng ta tu hành thì một số trung tâm trong người sẽ tự nhiên mở . Thí dụ khi chúng ta tọa thiền cách nầy cũng mở được một số trung tâm nào đó , nếu như kiềm chế hít thở không khí cẩn thận , chúng ta sẽ động đến bánh xe lửa (đan điền) , đó là "trung tâm phát nhiệt". Động đến trung tâm này có thể tăng dần sự bực bội và rất dễ phát giận , hay là phát sinh tình dục thái quá ... , mà không thể tự mình kiềm chế .
Nếu như quí vị muốn thiền để kiểm soát hơi thở , quí vị nên hít hơi từ mũi vào và dẫn hơi đến rốn là ngưng , rồi để hơi đi thật chậm từ rốn dẫn lên trán , và rồi mới thở ra . Nếu như quí vị dẫn hơi không chịu ngưng tại rốn , cái luồng hơi đó sẽ chạy xuống phía dưới và động đến bánh xe lửa (đan điền) , sẽ gây ra nhiều phiền phức . Tuy nhiên đây chỉ là sự cắt nghĩa và hướng dẫn một cách tổng quát , đây chưa phải phương cách hoàn mỹ , do đó khi quí vị về nhà đừng có vội thử qua .
Tây Phương Tịnh Độ có nhiều quan hệ với chúng ta . Mỗi người chúng ta là một vũ trụ nhỏ , ở bên ngoài là vũ trụ lớn . Phần bên trên con mắt trí huệ chúng ta có Tịnh Độ , phần bên dưới là Uế Độ (trong Tam Giới) . Bởi vì trí huệ nằm tại đây (Sư Phụ chỉ ngay trán) , bất cứ chúng ta nghĩ cái gì hay làm cái gì , chúng ta đều dùng trí óc . Đôi khi chúng ta nghĩ không thông việc gì thì sẽ nhăn mày , thí dụ như ráng hồi tưởng đã gặp người này trước đây tại đâu , lúc đó chân mày sẽ nhíu lại phải không ? Lúc đó chúng ta tập trung tư tưởng tại con mắt thứ ba , hay là con mắt trí huệ , như vậy mọi vấn đề giải quyết dễ dàng . Chỗ đó tức là chỗ trí huệ của chúng ta , cho nên có người nói chỗ đó là con mắt Trí Huệ , con mắt Thư Ba , con mắt Pháp , con mắt Phật , con mắt Bồ Tát ...
Chúng ta thấy giữa trán của Phật Thích Ca Mâu Ni cũng có một dấu đỏ tượng trưng cho con mắt trí huệ , bởi vì Ngài đã mở được huệ nhãn rồi . Người phàm phu chúng ta nếu như không tu hành , không có minh sư mở cho thì con mắt đó nó khép kín . Như ban nãy Sư Phụ đã nói , nó có nhiều quan hệ đến cái cảnh giới đen tối trên vũ trụ . Sự tác dụng của bức tường đen này là để phân cách Tịnh Độ và Uế Độ , không thể cho cái Vô Lượng Quang của Tịnh Độ chiếu xuống phía dưới , nhưng mà chỉ cần con mắt Trí Huệ của chúng ta đã mở rồi , thì Vô Lượng Quang (tức là Phật Quang) liền có thể thuận lợi chiếu xuống . Giống như con đường , trước kia tuy đã có nhưng bị cản trở không thể đi qua , bây giờ đã được mở thông .
Nếu như con mắt trí huệ chúng ta mở được , trí huệ có thể từ trên trực tiếp truyền xuống đến tứ chi và toàn thân thể , cho nên bất cứ chúng ta làm gì cũng rất chính xác , rất rõ ràng , rất minh bạch , bởi vì lúc đó trí huệ đã giao thông với toàn thân , không còn bị chướng ngại gì .
Do đó quí vị nên tu tập trung tâm tối cao của trí huệ , còn các trung tâm khác trong thân thể đều chỉ là những hệ thống bài tiết . Quí vị cũng biết rằng , đôi mắt thì chảy nước mắt hoặc ra ghèn , hai lỗ mũi thì chứa đầy chất dơ và nước mũi , lỗ tai thì có rỉ tai , miệng thì có nước miếng , có đàm , càng ở phía dưới thì càng dơ . Tất cả có chín lỗ trên thân mình của chúng ta đều cung cấp ra thứ đồ dơ , bởi vì nó đều là hệ thống bài tiết , đều là "thành , trụ , hoại , không" . Cho nên tu tại những trung tâm bài tiết này rất là nguy hiểm , không an ổn , không có vĩnh viễn tồn tại được .
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Lúc này , Sư Phụ chỉ nói đại khái bên ngoài , khi Sư Phụ truyền pháp mới giải thích rõ ràng hơn và giải thích những cành giới nào có những gì . Nhưng tại đây thì không thể công khai cống hiến nói pháp môn này , cho dù có nói công khai cũng không có ích , quí vị về nhà thử tu bậy sẽ bị ma nhập . Lúc truyền pháp Sư Phụ sẽ truyền rõ ràng , nhưng trước nhất quí vị phải chuẩn bị thân , khẩu , ý cho thanh tịnh ; rồi sau đó , Sư Phụ sẽ giải thích mọi vấn đề mà quí vị cần hiểu biết về sự tu tập . Chuyện này quí vị cũng đều hiểu rõ , bây giờ chúng ta không nên nói nhiều về lối tu hành , hồi nãy Sư phụ chỉ cắt nghĩa có một chút cho quí vị nghe mà thôi .
Đôi khi quí vị biết có người rất thông minh , bởi vì đời trước họ có tu luyện trí huệ nhiều một chút , cho nên đời nay vẫn còn lưu lại một chút ít . Mắt trí huệ của họ vẫn còn hé mở và chưa có bít hẳn , vì vậy bây giờ họ rất thông minh và là người có đạo đức . Nếu đời trước họ tu càng cao , con mắt trí huệ của họ sẽ càng mở lớn hơn một chút . Những người có mắt trí huệ có thể thấy được , chỗ nào được mở , chỗ nào bị đóng . Cho dù con mắt trí huệ hoàn toàn đóng kín cũng không sao , chỉ cần tìm được minh sư thật , họ sẽ mở cho mình . Họ có một "chìa khóa" , lúc đó họ chỉ cần tra chìa khóa vào ổ khóa và xoay một vòng là mở ra được . Chỉ cần có chìa khóa là được rồi , quí vị sẽ không bị trở ngại .
Cho nên từ xưa đến nay , những vị tu hành , bất luận Đông Phương hay là Tây Phương , đều có nhấn mạnh về vị minh sư tại thế . Chúng ta thường đi lễ bái những vị minh sư đời quá khứ , bởi vì chúng ta có lòng tôn kính họ , xùng bái họ , kỳ vọng có một ngày , chúng ta cũng có thể trở thành như Phật Thích Ca Mâu Ni , Phật A Di Đà , Chúa Giê Su vậy , nhưng các Ngài qua đời đã lâu rồi và không thể mở cửa cho chúng ta , cái chìa khóa của các Ngài đã truyền lại cho minh sư khác còn tại thế , nếu như quí vị muốn mở cửa , thì đi tìm cho được người nào bây giờ còn giữ chìa khóa này , người đó chưa có vãng sanh , thì mới có thể giúp cho chúng ta được .
Không có sự liên lạc giữa hai cõi Tịnh Độ và Uế Độ , nếu như quí vị muốn liên lạc được , thì cần phải có một người ở cõi Tịnh Độ đem cái chìa khóa này đến cõi Uế Độ . Bởi vì cái chìa khóa không thể trực tiếp từ Tịnh Độ rơi xuống , cho dù có rơi xuống , nó cũng sẽ bị mất tại thế giới đen tối này . Thế giới này Sư Phụ đã nói qua . Cũng như Phật Quang cũng sẽ bị tiêu mất tại cõi đen tối đó vậy . Nếu như con mắt trí huệ không có mở , mắt trí huệ không cách nào truyền đạt đến những hệ thống bên dưới của thân thể quí vị , và quí vị cũng không thể kiềm chế những hành động của quí vị , cho nên có lúc quí vị không muốn tức giận mà cũng tức giận , quí vị muốn làm việc cho tốt , nhưng lại làm không tốt , những lý do đó bởi vì quí vị bị mất trí huệ thật , nó bị thế giới đen tối này cản trở .
Cũng y như vậy , quí vị muốn đem ánh sáng Phật trong sạch đến thế giới Ta Bà này , quí vị cũng phải dùng một phương tiện . Giống như sợi dây dẫn điện , nếu như không có sợi dây này , điện không thể đến đây , quí vị không thể có điện , ngoại trừ trường hợp quí vị có dụng cụ gì bảo vệ và lưu giữ điện này . Thêm một thí dụ nữa , như nước từ trên núi chảy xuống mà không có ống nước bảo hộ , nước sẽ bị dơ không thể xử dụng được . Như vị minh sư tại thế , giống như ống nước vậy , dẫn nước từ đầu nguồn đến nhà của chúng ta , đã an toàn , sạch sẽ , lại còn đơn giản .
Miễn sao quí vị chỉ cần mở cái con mắt trí huệ này ra (Phật Nhãn , Pháp Nhãn ...) , chúng ta liền thành Phật . Cho nên nói là "Hoa khai kiến Phật" (hoa nở sẽ thấy được Phật) hay là "Kiến tánh thành Phật" (thấy được bản tánh tức là thành Phật) . Sự thật nó đơn giản như vậy , không có cái gì phức tạp . Nhưng đối với đa số mọi người , họ không tin có thể thành Phật dễ như vậy ? Sao lại không dễ ? Phật Thích Ca Mâu Ni có phải đã nói là Phật tại tâm ? Phật tại tâm cũng như tiền bỏ trong túi , quí vị chỉ cần biết được túi ở đâu , quí vị liền có thể lấy được tiền ngay . Phật tại tâm cũng như vậy , quí vị biết được tâm ở đâu , thì quí vị có thể tìm được Phật rất nhanh chóng .
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Chúa Giê Su cũng nói Thiên Quốc ở bên trong chúng ta , nếu như những lời đó không đúng , vậy hai vị này đã phỉnh gạt người hay sao ? Nhưng làm gì có chuyện đó , hai vị đó là hai vị minh sư vĩ đại nhất từ xưa đến nay . Nếu như các Ngài gạt người thì chúng ta sẽ không sùng bái các Ngài như thế cho đến nay . Hai vị đại sư đó và Lão Tử đều là nổi tiếng nhất . Tuy rằng đã trải qua hai ba ngàn năm , các Ngài vẫn nổi tiếng . Càng ngày càng có nhiều người tin , càng ngày càng có nhiều người sùng bái . Điều đó cho thấy rằng giáo lý của các Ngài nhất định là chính xác . Không phải người nào cũng dốt hết , có người tu hành , có người khai ngộ , họ sẽ hiểu rõ ràng đạo lý của Phật Thích Ca Mâu Ni và Chúa Giê Su Ki Tô có đúng có sai . Nếu như là sai thì họ cũng phải có phản ứng gì chứ ! Nhưng từ hai ngàn năm nay , bất cứ chúng sinh nào , bất cứ người tu hành nào , lớn nhỏ đều sùng bái các Ngài . Điều đó chứng tỏ rằng các Ngài nói gì cũng đúng .
Lúc đầu mới giảng kinh Sư Phụ nói , tại sao có người rất thông minh ? Có người lại rất dốt ? Có người thì rất là lương thiện ? Có người lại hung ác ? Những điều đó có liên quan đến mắt trí huệ hay không , có liên quan tới sự giao thông giữa Tịnh Độ và Uế Độ hay không ? Có người sẽ hỏi , vì sao chúng ta phải tu hành ? Lý do là con người chúng ta là vũ trụ nhỏ , nó có liên quan tới vũ trụ lớn . Nếu như vũ trụ nhỏ của chúng ta không an ổn thì đời sống bên ngoài cũng loạn theo . Nếu như vũ trụ nhỏ mà giao thông được với vũ trụ lớn , hợp thành "một" thì mọi sự sẽ được hòa hợp . Phật Giáo gọi đó là "Tất cả đều do tâm tạo" . Giê Su Ki Tô nói là "Ta và phụ thân ta là một thể" . Lão Tử cũng có nói "Đạt được mục đích khi chúng ta trở thành 'một' " (hợp thành một) .
Cho nên tu hành là để sửa chữa cái vũ trụ nhỏ của mình , làm cho nó trở thành chủ nhân của mình . Chúng ta thường gặp cái trường hợp như không muốn tức giận cũng không được . Luôn cả cái miệng này , chúng ta cũng không thể kiềm chế được , có lúc chúng ta muốn lời nhu hòa , nhưng khi nói ra những lời làm cho người khác đau lòng , làm cho người khác khó chịu . Cánh tay này không muốn đánh người nhưng có lúc hành động đánh người còn mau hơn sự phản ứng của trí huệ của chúng ta ; rất có thể trí huệ bảo cánh tay đừng có đánh người nhưng mà khi cái trí huệ xuyên qua bức tường đen tối đó lại biến thành hành động tay đánh người , làm bậy , cho nên chúng ta không thể tự mình kiềm chế , mất đi cái chủ quyền của mình .
Nếu như chúng ta không thể tự mình kiềm chế thì thế giới bên ngoài cũng loạn bậy . Nếu như có thể tự mình kiềm chế thì thế giới sẽ rất nhu hòa , tất cả đều do tâm tạo là ý nghĩa đó . Cho nên chúng ta thường nói :"Tâm tịnh thì quốc độ tịnh" . Chứ không phải là chúng ta kiềm chế chồng mình thì gia đình mới hòa bình . Cũng không phải đánh vợ , gây cho vợ nhiều áp lực , gia đình mới hòa bình . Muốn hòa bình thì chúng ta nên cải biến mình trước , như vậy vợ mình mới cải biến , cho dù vợ không cải biến , tâm của chúng ta cũng không động . Giê Su Ki Tô từng nói :"Nếu như có người vả má bên phải thì để cho họ vả má bên trai nữa ". Bởi vì tâm không có hận , tâm không muốn đánh người nữa , tâm hoan hỷ , bị đánh mắn một chút cũng không có gì khó chịu .
Cùng là một hành động , nếu như lúc còn chưa tu hành , người ta đánh chúng ta một cái , chúng ta liền đánh trả lại một cái . Nhưng sau khi tu hành , họ có đánh chúng ta bên này , chúng ta còn nói còn một bên kia , phải đánh cả hai bên mới công bằng . Trường hợp người bị đánh cũng như nhau nhưng tâm trạng lại khác xa , tuy rằng cái thế giới này vẫn vậy . Trong tâm của chúng ta an định thì thế giới đó không có liên quan đến chúng ta , nó không ảnh hưởng được chúng ta . Chúng ta hoàn toàn làm chủ lấy mình , muốn giận thì giận , không muốn giận thì thôi ; không có bị lục căn (mắt , tai , mũi , lưỡi , thân , ý) , lục trần kiềm chế , cũng không bị chỗ đen tối kiềm chế ; tự mình kiềm chế mình , làm chủ lục căn của mình .
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Cho nên Ngài Lục Tổ Huệ Năng nói Tịnh Độ không có xa , Tây Phương cũng không xa . Tây Phương ở nơi đây (Sư Phụ chỉ giữa trán) , nếu như chúng ta tu pháp môn tốt , chúng ta sẽ thể nghiệm được . Tất cả cảnh giới nào cũng ở tại đây (Sư Phụ chỉ con mắt trí huệ) , không phải chúng ta trèo cao , hay là bay lên , mới gặp được thế giới Cực Lạc . Trên thực tế , không có chỗ nào , không có chỗ nào phải đến . Cho nên mới nói :"Tâm tịnh thì quốc độ tịnh", , bởi vì vũ trụ nhỏ có liên quan đến vũ trụ lớn . Lão Tử cũng có nói :"Người tu hành , cho dù không có ra cửa cũng biết được mọi chuyện trên thế gian", bởi vì sau khi tu hành , vũ trụ nhỏ giao thông với vũ trụ lớn , cho nên họ có thể biết được bất cứ nơi nào , không có chỗ nào không có họ .
Cho nên người thành Phật , chúng ta xưng họ là "Như Lai" . Như Lai tức là không đi không lại , người đó tuy ở tại đây nhưng bất cứ chỗ nào cũng có họ , lúc đó , chúng ta nói họ đã thành "Phật" , hay thành "Như Lai" . Không phải chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni mới có thể thành Như Lai , người đời này cũng có thể thành Như Lai , chúng ta đều có thể thành Như Lai . Không phải Sư Phụ nghe người ta nói có thể thành Như Lai , mới nói với quí vị như vậy , mà nói ra từ thể nghiệm của Sư Phụ , cho nên rất bảo đảm .
Cái tình trạng chính thật của Như Lai là như vậy . Thí dụ , một người "đắc đạo" ngồi ở nhà , những người chỗ khác thấy người này truyền pháp đó đây hay là dạy người trên Thiên Đàng ... Cho nên chúng ta xưng Phật là "Thiên nhân đạo sư" , "Tứ sanh từ phụ" là ý nghĩa đó . Cho dù đến Tịnh Độ cũng gặp người đó , hay là có ngày nào nổi hứng , muốn xuống dạo địa ngục , không biết chừng cũng gặp người đó , bởi vì là Như Lai cho nên bất cứ ở đâu cũng có thể thấy được , người đó không có đi cũng không có lại . Người đó không phải là cái thể xác này mà đã biến thành đồng nhất thể cùng với Pháp Giới , họ và chúng sinh không còn phân cách bởi không gian và thời gian . Bởi vì lúc đó người này và chúng sinh đều đồng một thể , chúng sinh ở đâu cũng có thể thấy được người này nhưng mà vị ấy không phải là chúng sanh .
Cảnh giới của Tây Phương nếu như không thể giao thông với cảnh giới trong Tam Giới thì những cảnh giới trong Tam Giới rất loạn . Cũng như vậy , nếu như trí huệ của chúng ta không thể giao thông với các bộ phận ở bên dưới sẽ tạo ra tình trạng hỗn loạn . Giống như người chủ đi vắng để các thầy tớ ở nhà , họ đã kém thông minh , thường ngày lệ thuộc vào chủ ; nay đột nhiên chủ đi vắng , điện thoại không thông , thư từ không biết viết nên họ sẽ hành động vô tổ chức , không đúng theo qui tắc .
Chúng ta nghe nói , có người tọa thiền lúc nhập định sẽ đi du hành thế giới , đi xem nước Mỹ ra sao ? Đi xem tình trạng hỗn loạn trên thế giới như thế nào ? Đó chỉ là thần thức tầm thường xuất du mà thôi , không phải là Như Lai . Tiếng Anh gọi là Astral Projection (xuất hồn) , hoàn toàn khác hẳn với tình trạng Như Lai . Bây giờ Sư Phụ dùng cái hình vẽ đơn giản để chỉ . thí dụ đây là một người , bên trong nhất là Bản Lai Diện Mục , là chủ nhân của chúng ta , hay là chân thể của chúng ta , Phật Tâm , Thiên Quốc , linh hồn ... , gọi tên gì cũng được . Cái Phật tâm của chúng ta bị bao ở trong cùng , không thể thoát ra được . Nhưng nếu như có người xuất hồn (Astral Projection) , cũng có thể đi ra được , điều đó không có thể nói rằng họ tìm được Phật tâm , họ chỉ sử dụng Astral Body (Trong đó có nhiều tầng lớp thân thể và chân thể) đi ra , chỉ để lại cái xác thịt . Cái từng thân thể đó gồm cả 7 lớp , thiên Chúa Giáo nói là 7 tầng trời , Hồi Giáo cũng nói giống như vậy .
Vì vậy xuất hồn vẫn chưa phải là Như Lai , vẫn chưa phải là Phật tâm . Bởi vì dùng Phật tâm không cần phải đi , ngồi ở nơi đây cũng có thể biết được tất cả mọi chuyện . Mình cũng vẫn cứ ăn cơm , ngủ , đi , trò chuyện nhưng cái gì cũng biết , ở đâu cũng có mình . Thí dụ bây giờ Sư Phụ đang nói chuyện tại đây , người ở Đài Bắc tọa thiền hay không tọa thiền (Điều này phải coi theo đẳng cấp tu hành của họ) , đều sẽ thấy Sư Phụ ở đó . Họ cần gì , hóa thân của Sư Phụ đều sẽ giúp đỡ họ , cái tình trạng này khác hẳn với tình trạng xuất hồn . Bởi vì "xuất hồn" thì phải đem theo hết những tầng lớp thân thể , chỉ để lại xác thân ; khi trở về , sẽ trở vào lại cái thể xác . Cũng như mắc cái áo treo trên tường , hay mở cửa về nhà vậy . Cái nhà này vẫn còn đó , khi ra đi hành lý được đem theo ; khi trở về thì hành lý , tiền và các thứ đều đem theo hết về .
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Nhưng mà cái tình trạng này không phải là Như Lai . Cái tình trạng của Như Lai , không phải lợi dụng lúc tọa thiền mới có thể ra đi . Bởi vì họ là Như Lai , không có chỗ nào không có họ , cho nên khi người đó đi đứng , ăn cơm , ngũ nghỉ , trò chuyện , giảng kinh ... làm các hành động tầm thường , nhưng chỗ nào cũng có người đó , việc gì cũng đều giải quyết được . Người đó có thể giúp đỡ các chúng sinh khác , giúp đỡ các đồng tu ...
Trong Kinh Phổ Môn cũng có nói đến tình trạng Như Lai đó . Phổ là gì ? Là phổ biến , phổ độ , chỗ nào cũng có . Môn là pháp môn , ý của Phật Thích Ca là tu Pháp Môn Quán Âm rồi , chỗ nào chúng ta cũng đều biết , chỗ nào cũng có chúng ta , cho nên trở thành "Như Lai". Tự mình biến thành cái Phổ Môn này , biến thành Quán Thế Âm Bồ Tát , bất cứ ở chỗ nào chúng sinh cầu điều gì , cũng đều nghe được , đều thấy được ; là dùng con mắt trí huệ của mình để ngó , nhưng mà đừng có lầm với thiên nhã thông , thiên nhĩ thông .
Thiên nhĩ thông hay là thiên nhã thông không phải là Phổ Môn , cũng không phải là đẳng cấp của Như Lai , hoàn toàn khác hẳn . "Như Lai" là dùng cái tâm Như Lai của họ , dùng Phật tâm của họ mà giác biết được , cho nên nói là "Phổ" . Nếu như chúng ta tu Pháp Môn Quán Âm , chúng ta cũng sẽ biến thành Quán Thế Âm Bồ Tát , cho nên cái cửa này gọi là "Phổ Môn". Phổ môn tức là nói đến cái pháp môn phổ độ , bảo cho chúng ta làm sao biến thành Quán Thế Âm Bồ Tát . Nhưng bộ kinh đó chỉ giới thiệu Pháp Môn Quán Âm mà thôi , trong đó không có chỉ dạy pháp môn này . Nếu như chúng ta hiểu được cái hàm ý chính của cái danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát , chúng ta cũng sẽ trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát . Chúng ta thường tụng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát , kỳ thật cái đó không phải là cái danh hiệu của Ngài . Cái danh iệu của Ngài phải dùng đến cái năng lực đặc biệt mới có thể nghe được . Bởi vì "Danh khả danh , phi thường danh", không phải dùng cái ngôn ngữ của phàm phu mà có thể nói cái tên này được . Cái danh hiệu chính thức của Ngài không phải là Quán Thế Âm Bồ Tát , cần phải tu hành Pháp Môn Quán Âm mới biết được , những gì mà dùng ngôn ngữ nói ra được , viết ra được , đều không phải là cái tên thật .
Các vị minh sư từ xưa đến nay đều nói những sự việc như nhau cho nên chúng ta đừng có tranh chấp trên ngôn ngữ . Chúng ta chỉ cần lo sao cho chúng ta trở thành con người tốt và học theo cái giáo lý của các Ngài là được rồi , không cần phải vì cái đạo nào tốt hơn đạo nào mà khởi tâm tranh chấp . Chúng ta vốn cũng không biết "Đạo" là gì , cho nên không hiểu rõ các tôn giáo khác như thế nào , vì "Đạo khả đạo , phi thường đạo". Đợi cho khi nào chúng ta tìm được cái đạo này rồi thì chúng ta mới có thể nói , còn chưa tìm được thì còn là người vô minh , chỉ có đoán bậy , tạo khẩu nghiệp . Chỉ có sau khi biết được "đạo" là gì rồi , thì mới hiểu rõ cái đạo nào không tốt , còn như chưa hiểu rõ , tốt nhất đừng có nói . Lão Tử nói :" Người biết được đạo không có nói , người nói đạo thì không biết được đạo ". Cho nên nếu có người thích tranh luận nhiều , biện luận nhiều , nói rằng "đạo" nên như thế này , không phải như thế nọ , thì chúng ta có thể khẳng định rằng người đó còn chưa biết "đạo" là gì . Mà "đạo" làm sao có thể nói ra được ?
Lúc Sư Phụ truyền pháp cũng không có nói chuyện , bây giờ nói cho quí vị nghe vẫn chưa phải là truyền pháp , chỉ có giới thiệu pháp môn , giới thiệu một chút tình trạng bên trong , nhưng mà đó cũng không phải là thể nghiệm . Thể nghiệm chỉ thuộc về cá nhân của Sư Phụ , chỉ có tự mình Sư Phụ biết được , quí vị không thể nào biết được . Bởi vì "Đạo khả đạo , phi thường đạo , danh khả danh , phi thường danh". Do đó mà biết được Quán Thế Âm Bồ Tát không phải là cái danh hiệu chính thật của Ngài , cái tên chính thật của Ngài rất đẹp , là "Thắng Bỉ Thế Gian Âm" đó . Chúng ta dùng cái nhĩ căn phàm phu thông thường này không thể nào nghe được . Cho nên Phẩm Phổ Môn không phải là "Pháp" Phổ Môn . "Pháp" Phổ Môn phải có người truyền mới biết được vì Phẩm Phổ Môn chỉ có giới thiệu một số thể nghiệm của Pháp Phổ Môn mà thôi . Hôm nay có người nói với Sư Phụ , người đó coi Kinh A Di Đà , trong đó mô tả cảnh giới Tây Phương Tịnh Độ , có đất bằng vàng , cây là bằng châu báu , có chim hót ca , có nước Tám Công Đức , có liên hoa ... Người đó nói cái cảnh giới đó đối với người đó không có ý nghĩa gì , người đó không thích đi nơi đó . Sư Phụ cũng đồng ý , nếu như Sư Phụ thấy được đất nước của A Di Đà chỉ có thế thôi thì Sư Phụ cũng không tham cái cảnh giới đó . Đất bằng vàng hay đất bằng cát cũng không có nhằm nhò gì với Sư Phụ . Sư Phụ không tham vàng , cũng không tham châu báu , ở cõi đời này đã không tham rồi thì còn tới Tịnh Độ để tham châu báu để mà làm gì ? Cho nên phải hiểu rõ , không phải vì chúng ta tham châu báu , hay là tham cái cảnh giới đẹp nào đó thì mới đi Tịnh Độ .
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ giới thiệu cái Tịnh Độ này thôi , để cho chúng sinh có đến đó cũng biết được đó là nơi nào , nhưng tuyệt đối không phải vì chúng ta tham cái cảnh giới đó mới tu hành . Tu hành tới Tây Phương Tịnh Độ chúng ta sẽ rất an vui , sẽ trở thành một chúng sanh rất có ích lợi , ích lợi cho mình , ích lợi cho thế giới ; có cái lực lượng lớn có thể cứu các khổ nạn của chúng sinh và mình trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát , Đại Thế Chí Bồ Tát , Vô Lượng Quang A Di Đà Phật . Cho nên chúng ta phải tu đến cái đẳng cấp đó , chứ không phải vì tham cầu cái cảnh của Tây Phương Tịnh Độ rồi mới tu . Lẽ tất nhiên , đất nước của Phật đều rất trang nghiêm , không lẽ nào đến coi cái thế giới Tây Phương Cực Lạc , mà còn thấy đất bùn hay là cung điện lợp bằng tranh (mọi người cười) , hay là dơ như cái chợ bán cải ở đây , chỗ đó rất trang nghiêm , rất đẹp đẽ , rất sạch , rất kỳ diệu , rất sáng lạng và còn có nhiều đồ mỹ diệu khác nữa .
Phật Thích Ca Mâu Ni tuy rằng cũng có nói , nhưng Ngài mô tả vẫn còn chưa đủ . Dùng cái ngôn ngữ phàm phu làm sao có thể nói ra được Tịnh độ ? Nhưng mà nói ra chút ít cũng giúp được cho người thế gian hiểu biết một chút . Thật ra thì cũng không phải là nói ra , mà là đệ tử của Ngài lúc đó ngồi thiền đã có thể nghiệm được , bởi vì Phật Thích Ca Mâu Ni đem đệ tử lên cõi Tịnh Độ coi chơi , khi đệ tử trở về mới viết ra . Phật nói Kinh A Di Đà cũng không phải nói tại cái thế giới Ta Bà này . Nếu như chúng ta đọc Kinh Phật Quán Vô Lượng Thọ thì sẽ hiểu . Hoàng Hậu Vi Đề Hy thấy được cảnh Tây Phương Tịnh Độ là bởi vì Phật Thích Ca Mâu Ni dùng hóa thân đem bà lên đó . Chúng ta tu hành nên biết được , nếu như lúc tọa thiền mà thần thức không ở cảnh giới cao thì không thể nào có thể nghiệm được . Cái này không phải là đẳng cấp của phàm phu , bởi vì Hoàng hậu Vi Đề Hy tu hành tọa thiền đã đạt đến đẳng cấp cao cho nên mới có thể theo hóa thân của Phật đi đến cảnh giới rất cao và khi trở về mới ghi lại cái thể nghiệm đó .
Có người giải thích rằng Phật dùng xác thân bay vào ngục tù dạy bà , cách nói đó sợ không hợp lý . Điều thứ nhất , Phật có trăm ngàn ức hóa thân , Ngài không cần dùng thể xác của Ngài . Điều thứ hai , đệ tử của Phật quá nhiều , Ngài không có thời giờ chỉ vì một người mà đích thân đi đến đó . Hồi nãy Sư Phụ nói cấp bực của Như Lai ở đâu cũng có là ý nghĩa đó . Chỉ cần chúng ta thành tâm thì sẽ thấy được hóa thân của minh sư (Như Lai) . Khi đó coi theo cái đẳng cấp tu hành của chúng ta , hóa thân của minh sư sẽ đem chúng ta đến cảnh giới mà ta đạt được . Cái tình trạng trong Kinh A Di Đà cũng như vậy , là do đệ tử của Phật đến Tịnh Độ , sau khi về rồi mới viết lại những thể nghiệm của mình vào nhật ký tu hành .
Thí dụ khi Sư Phụ truyền pháp , quí vị có thể nghiệm gì , thấy được cảnh giới gì đều viết ra hết . Trong lúc truyền pháp nó thuộc về thể nghiệm của cá nhân , cho nên quí vị không biết chừng viết ra như thế này , ngày nào tháng nào , Pháp Sư Thanh Hải giảng Pháp Môn Quán Âm , Pháp Môn Tịnh Độ , thấy được Phật A Di Đà , cảnh giới Tịnh Độ , hồ Bát Bửu , nước Tám Công Đức ... hết thảy đều ghi xuống hết , sau này để cho những người không tu Pháp Môn Quán Âm thấy được , thì đối với họ những thứ thể nghiệm này không có ý nghĩa gì , bởi vì nước Tám Công Đức không phải viết như vậy mà có thể hiểu được . Thấy được Tịnh Độ là cái giây phút vui sướng nhất của chúng ta , người thường phàm phu không có cách nào thấy được . Có thể thấy được Tịnh Độ tượng trưng cho cái cấp bực của chúng ta đã cao lắm rồi , đã trở thành Bất Thối Bồ Tát , có ích lợi cho chúng ta , cũng có rất nhiều ích lợi chó chúng sinh , lúc đó chúng ta có cái lực lượng lớn , muốn cứu người rất dễ dàng .
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Cho nên không phải tham cầu Tịnh Độ rồi mới lên đó . Đạt được Tịnh Độ là đạt được cái quả vị Bồ Tát của chúng ta . Cái quả vị Bồ Tát này mới là cái mà chúng ta cần có . Được cái quả vị Bồ Tát , đương nhiên ở nơi trang nghiêm . Thí dụ như mình đã tốt nghiệp đại học , trở thành y sĩ rồi , lúc đó mình còn ở trong căn nhà đen tối nhỏ hẹp nữa không ? Hiện giờ đã thành y sĩ , đương nhiên phải ở chỗ đẹp đẽ hơn , vệ sinh hơn , như vậy mới thích hợp cái địa vị của mình . Nhưng bởi vì chúng sinh , vì bệnh nhân nên mình mới đi học bác sĩ , chứ không phải vì cái nhà đẹp này mới đi học . Sau khi học thành tài rồi , có nhà tốt để ở cũng là lẽ đương nhiên .
Thí dụ như lúc Sư Phụ truyền pháp , có người thấy được cái cảnh giới đẹp đẽ của Tây Phương Tịnh Độ rồi viết ra , người khác đọc cũng không thấy có cái gì đặc biệt . Nhưng người mà thấy thể nghiệm đó , lúc thấy được rồi thì cái tình trạng hoàn toàn khác hẳn , cái trạng thái biến khác , cấp bậc cũng khác , tự cảm thấy rất thanh thoát , rất vui sướng , trí huệ mở lớn , điều đó mới là quan trọng , những cái thứ trạng thái đó chúng ta không cách nào thể nghiệm được , cũng không hiểu biết được . Vì sao người mà thấy được cảnh giới đối với họ quan trọng như thế ? Bởi vì tự họ đã biến đổi , lúc thấy được Tây Phương Tịnh Độ sẽ rất vui sướng , rất khác thường , có lực lượng rất lớn , có thần thông , có nhiều trí huệ ... Chúng ta nếu chỉ thấy được cái thể nghiệm trong nhật ký của người ta , đương nhiên cảm thấy không có ý nghĩa gì , đọc lại cái gì chép về thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng không có cảm giác gì bởi vì chúng ta chưa có thể nghiệm qua cái đẳng cấp đó .
Thí dụ như có một người trong lúc truyền Tâm Ấn , nói rằng tự mình thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát nhưng rất có thể có người sẽ nói ai muốn xem Quán Thế Âm Bồ Tát làm gì ? Đối với người này thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát không có ý nghĩa gì . Nhưng người thấy được sẽ nói không phải chỉ vậy mà thôi , thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát ngoài ra còn có cung điện rất đẹp . Ngài ở nơi rất đẹp đẽ , lúc thấy được Ngài toàn thân và ý thức đều khác hẳn , cái tình trạng này không thể nói ra được . Không phải thấy Quán Thế Âm Bồ Tát được là đủ mà là khi thấy được Ngài toàn thân và ý thức đều cải biến , trí huệ cũng khác . Cái biến đổi bên trong của mình mới là điều khiến cho ta vui mừng .
Khi trí huệ khai mở khiến cho ta vui mừng , bởi vì "Hoa nở gặp Phật ngộ vô sanh" . "Vô sanh" tức là không sanh không diệt , ý nói là không có luân hồi sinh tử . Kiến tánh thành Phật cũng vậy , không phải chúng ta muốn kiến tánh để làm gì , mà là chúng ta muốn thành Phật , vì sao chúng ta muốn thành Phật ? Bởi vì muốn có trí huệ , muốn có lực lượng , có thể giúp những chúng sinh khác bớt đau khổ . Nếu như chúng ta có được lực lượng để giúp đỡ chúng sinh đau khổ , có phải nghĩ vui mừng lắm không ? Cảm thấy đó là trách nhiệm của mình , có cái quan niệm chánh đáng này mới có thể thành Phật , mới nên thấy Phật , thấy Bồ Tát , hay theo học Phật .
Tuyệt đối không phải vì chúng ta tham thấy cái đẹp của Tịnh Độ , hay là tham được cái quả vị Phật , tham cầu thần thông , tham cầu lực lượng , tham cầu trí huệ mới muốn thành Phật . Chúng ta muốn làm một công dân tốt , một công cụ tốt trong vũ trụ , để giúp đỡ vũ trụ lớn và vũ trụ nhỏ hòa hợp với nhau , bởi vì chúng ta thấy thế giới này rất rối loạn . Đáng lẽ ở trên thế giới này nhân loại là cao quí nhất nhưng đại đa số đều uổng phí thời giờ ăn nhậu , chơi bời ; mỗi ngày làm việc , ăn cơm , ngủ nghỉ ; rồi lại làm việc , ăn cơm , ngủ nghỉ , rồi vãng sanh , như vậy có ý nghĩa gì ?
Trên thực tế đời sống cũng không có giản dị như vậy , có nhiều người sống rất đau khổ , cãi lộn , đánh lộn , ăn ở với nhau không hợp , có người phá sản , có người bị giết , có người bị vu cáo , người nào cũng không thoát ra sự kiềm chế của sanh , lão , bệnh , tử . Đời người không phải đơn giản như ăn uống , vui chơi rồi phủi tay ra đi . Nếu như được như vậy thì quá tốt , cũng không cần cầu giải thoát làm chi . Trên thực tế sanh , lão , bệnh , tử kiềm chế chúng ta . Mình thấy đời sống con người không khác gì đời sống của loài vật ; loài vật nó cũng ăn , ngủ , nuôi con . Chúng ta thông minh hơn loài vật nhưng chúng ta không có hoàn toàn sử dụng trí huệ của mình , cho nên chẳng khác chi loài vật , rất là đáng tiếc ! Oan uổng cả đời sống trăm năm .
Nếu như có được đời sống trăm năm , chúng ta lấy thời gian ấy cố gắng tu hành để có thể trở thành đại Bồ Tát thì cả cái vũ trụ đều biến thành của mình hết . Muốn làm gì thì làm , muốn cứu ai cũng được , muốn đi đâu cũng như ý , không cần mua vé máy bay ; lẽ tất nhiên cái thể xác này vẫn cần có vé máy bay , giả sử Sư Phụ có thần thông , có thể bay lên trời , bay đến đây để thăm quí vị , bay đến chỗ khác để coi các đồng tu khác , nếu được như vậy , Sư Phụ nghĩ chắc cũng không sống được lâu , bởi vì có người tưởng rằng Sư Phụ là con chim sẽ sẽ dùng súng bắn để ăn .(mọi người cười)
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Cho nên có thần thông cũng không có ích lợi gì lắm . Nếu không dùng thần thông cũng có thể đi được , tuy rằng cái thể xác ở đây , nhưng ở đâu cũng đều có hóa thân , cho nên nói Phật Thích Ca Mâu Ni có trăm ngàn ức hóa thân như Như Lai vậy . Các Ngài không giống như Tôn Ngộ Không , cần phải nhờ một sợi lông thổi một hơi , mới hóa ra nhiều Tôn Ngộ Không khác , như vậy không phải trăm ngàn ức hóa thân , đó chỉ là thứ thần thông gạt người ; bởi vì Tôn Ngộ Không dùng sợi lông hay sợi tóc biến ra các Tôn Ngộ Không kia , chỉ trong hai , ba phút đều tiêu tan mất , trở lại thành lông tóc , cho nên đó không phải là trăm ngàn ức hóa thân , đừng có hiểu lầm .
Trăm ngàn ức hóa thân là Như Lai Như Khứ , tuy rằng người ở đây , nhưng chỗ nào cũng có họ , việc gì cũng biết hết , họ không cần phải cố ý làm việc gì , mỗi ngày cũng ăn cơm , ngủ nghỉ , trò chuyện y hệt như người thường . Quí vị muốn làm Tôn Ngộ Không ? Hay là làm Phật Thích Ca Mâu Ni ? Đương nhiên phải thành Phật mới là cứu cánh , mới là vĩnh viễn ; còn Tôn Ngộ Không vẫn còn ở trong Tam Giới , không thoát ra bàn tay của Phật Như Lai được .
Nhưng mà sau khi thành Phật rồi , không cần phải ăn cơm , không cần nghĩ ngơi , bề ngoài của Phật ngó như người phàm phu , cũng ăn cơm , cũng ngủ , làm việc ; nhưng trong lúc họ ăn cơm , ngủ nghỉ , đều lợi ích cho chúng sinh , trong khi họ tọa thiền , trò chuyện , cũng là lợi ích cho chúng sinh . Còn chúng ta thiền , trò chuyện , không có lợi gì ; đối với mình còn chưa đủ ích lợi , huống chi là cho người khác .
Cho nên sau khi thành Phật , bề ngoài nhìn cũng như các chúng sinh nhưng sự thật thì khác nhau . Tuy Phật cũng ăn cơm , ngủ nghỉ , làm việc nhưng đồng một giây phút đó , cái công việc vô hình của Phật rất nhiều , chúng ta không có thấy được . Chúng ta ăn cơm , ngủ nghỉ , trò chuyện tức là ăn cơm , ngủ nghỉ , trò chuyện , không có cái gì khác . Người của chúng ta ở đây , không có trăm ngàn ức hóa thân , không thể đi đến như ý , không thể thành Quán Thế Âm Bồ Tát , không thể phổ độ chúng sinh , cho nên giữa chúng sinh và Bồ Tát có nhiều chỗ khác nhau ? Bất cứ chúng sinh nào cũng đều có thể thành Như Lai , nếu biết chìa khóa nằm ở đâu , mở cửa rồi , lo tu hành thì cũng sẽ tới lúc thành tựu . Phật Thích Ca Mâu Ni tu hành sáu năm , Lục Tổ Huệ Năng tu hành 16 năm rồi các Ngài thành Phật , cho nên chúng ta cũng có thể thành Phật .
Phật Thích Ca Mâu Ni nói :" Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh ", ý của Ngài nói động vật cũng có Phật tánh nhưng tại sao chúng nó không thành Phật được ? Chỉ có người mới có thể thành Phật . Bởi vì con người chúng ta có "ý thức" và "hạ ý thức" , có thể phán đoán , có cái mãnh lực phán đoán cao , có cái trí huệ cao . Tuy rằng động vật cũng có thể phán đoán nhưng nó chỉ có thể phán đoán chỗ nào nguy hiểm , chỗ nào có nhiều đồ ăn , chỗ nào có nước uống , nó ngửi mùi thính hơn người nhưng nó không biết phán đoán chuyện đạo đức và ác nghiệp ; nó không biết cái gì là thiện là ác ; nhưng con người có thể phán đoán , chúng ta có thể lựa chọn đi thiên đàng hay đi địa ngục , hay là ở lại cái thế giới Ta Bà này . Nhưng bởi vì trí huệ của con người không thuần nhất , muốn lựa chọn lên thiên đàng , rốt cuộc xuống địa ngục ; muốn chọn đường giải thoát , rốt cuộc lẩn quẩn trong vòng luân hồi sanh tử .
Cho nên nếu như chúng ta không hiểu được thì nên tìm thiện trí thức chỉ dẫn . Nhưng chỉ dẫn cũng là lúc ban đầu , còn sau này chúng ta cũng nên tự mình đi , tự mình trở thành thiện trí thức , tự mình trở thành Minh Sư . Bởi vì chúng ta đều là minh sư của mình , cũng như người nào cũng có thể học thành y sĩ vậy , mình theo một vị y sĩ học , sau này cũng sẽ trở thành y sĩ .
Thành Phật cũng như vậy , cho nên Phật Thích Ca Mâu ni nói :"Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh". Con người chúng ta có thể một đời thành Phật . Phật không có nói láo , đó là chuyện có thật , Sư Phụ có đủ kinh nghiệm cá nhân để bảo chứng lời của Phật là thật . Nếu như không thể một đời thành Phật , ít nhất cũng sẽ thành Bồ Tát , bảo chứng nhất định có thể thành Bồ Tát Ma Ha Tát .
Vấn : Nếu như có người tu thành Phật , Phật đó với "Phật Thích Ca Mâu Ni" là đồng một Phật , hay là hai Phật khác nhau ?
Đáp : Cấp bực của họ như nhau , nhưng không phải là một người , cũng không phải là hai người .
Vấn : Nếu như có người không có Thọ Tâm Ấn , cũng không có tu hành , người đó có thể nghe được thứ âm thanh kỳ diệu đó không ? Nếu như có cái tình trạng giống như vậy thì làm sao phân biệt cảnh giới thật hay giả ?
Đáp : Rất có thể nghe được nhưng nó không phải là âm thanh thật , cũng không phải lúc nào cũng nghe được , người đó cũng không biết âm thanh đó đại diện cho cảnh giới gì . Còn pháp môn của chúng ta là hoàn toàn viễn thông , có thể phân biệt thật hay giả , có đầy đủ sức lực bảo hộ , không có ma chướng đến quấy rối , tu hành nhiều thì cảnh giới sẽ càng lên cao .
Người tu Pháp Môn Quán Âm , cái tiếng bên trong này bất cứ giờ phút nào cũng có , cảnh giới cũng có hoài . Không phải hôm nay thấy được , mai lại không thấy được . Nếu như cảnh giới mà không thể duy trì thì không phải là cảnh giới thật . Cảnh giới thật là hôm nay thấy được , ngày mai cũng thấy được . thí dụ như cái miếu này nó có thật ở đây , không phải là hư ảo , cho nên lúc nào đến nhìn nó , nó cũng y như vậy , nếu như không thì trong mộng hay là ảo tưởng , thì hôm nay thấy được , ngày mai sẽ không còn thấy nữa .
Theo học với một vị minh sư , vị minh sư biết được cảnh giới nào có thứ âm thanh nào , vị minh sư truyền pháp cho người đệ tử rồi , người đệ tử mỗi ngày đều có thể nghe được âm thanh , lúc nào muốn nghe đều có âm thanh đến . Truyền pháp tức là bảo đảm có thể nghe được âm thanh bên trong , nếu như chúng ta tiếp tục tinh tấn tu hành , thì sau này cái cảnh giới nó càng lần càng cao , từ cái âm thanh mà mình nghe được , có thể biết được cái cảnh giới của chúng ta như thế nào , cái cấp bực cao đến đâu ; bởi vì trước khi truyền pháp , Sư Phụ đã giảng rất rõ và minh bạch , cũng như một tấm bản đồ , mỗi chỗ đều có dấu hiệu , đi đến đâu liền nhận thức đến đó . Cho nên thân người rất quí báu , bởi vì Sư Phụ không thể truyền pháp cho nó , tuy nó cũng có Phật tánh nhưng cũng gần như không có . Cho dù có truyền pháp cho nó , nó cũng không thể nhận thức được . Nhưng con người chúng ta có thể dùng , bởi vì nghe được ngôn ngữ , nếu như không biết ngôn ngữ cũng không sao , có cái hạ ý thức nó biết được . Sư Phụ không nói chuyện cũng có thể truyền pháp , lúc truyền pháp hoàn toàn không có nói chuyện , nói chỉ bất quá là để giới thiệu trước khi truyền pháp mà thôi , kỳ thật không có giới thiệu cũng được , chỉ cần Sư Phụ làm gì , quí vị cứ làm theo là được rồi , như vậy quí vị cũng được cái pháp môn này , một lời cũng không cần nói , một cử động cũng không cần động , bởi vì "chư pháp không tướng" , Ngài Lục Tổ Huệ Năng truyền cái "pháp vô tướng" , hoàn toàn giống y cái pháp truyền của Sư Phụ .