Ý Nghĩa Của "Hoa Khai Kiến Phật"
Ý Nghĩa Của "Hoa Khai Kiến Phật"
Hôm nay , Sư Phụ nghe nói mía và khoai lang ở đây rất ngon , nghe rồi mừng quá không muốn bỏ đi (đại chúng cười) , chỉ cần có khoai lang và mía thì Sư Phụ có thể ở lại (đại chúng cười) . Ở Đài Nam cũng như quê nhà , quê hương Việt Nam của Sư Phụ cũng có mía ngọt . Ba của Sư Phụ là 1 đông y sỹ , hằng năm chữa bệnh rất nhiều người , ba của Sư Phụ có biệt tài chữa bệnh , những bệnh nhân mà các y sỹ khác không thể chửa được đưa đến ông , cho dù bệnh nhân không có tiền , ông cũng tận lực cứu chữa . Ông dùng thuốc rất đơn giản , tự mình bào chế , hình như pha trộn thuốc tây và thuốc bắc với nhau cho người bệnh uống thì bệnh mau khỏi . Cả năm , thường có rất nhiều bệnh nhân đến tạ ơn , tặng cho những thứ trái cây theo từng mùa , thí dụ như mía và khoai lang hoặc đường mật ; đối với Sư Phụ thuở nhỏ những món quà này là những lễ vật tốt nhất trên đời .
Cho đến bây giờ Sư Phụ vẫn còn ưa thích , nghe nói Đài Nam có mía và khoai lang ngon , Sư Phụ liền cảm thấy như là ở quê nhà vậy , vì vậy hôm nay giảng kinh có thể rất hay (đại chúng cười) . Sư Phụ rất thích sự thông minh của người Đài Loan , thủ công nghệ của họ rất giỏi , làm cái gì cũng rất đẹp . Lúc Sư Phụ còn ở bên Đức , cũng thường mua những thứ công nghệ của Đài Loan vừa rẻ vừa đẹp lại vừa thích hợp , cho dù đồ giả cũng giống như là đồ thật , khiến cho người ta không thể nào phân biệt được .
Sau khi đến Đài Loan thấy họ nấu ăn đều tốn rất nhiều thời giờ , Sư Phụ nghĩ rằng không phải là người Đài Loan háu ăn , nếu họ háu ăn thì bất cứ món gì cũng ăn hết nhưng người Đài Loan bỏ ra rất nhiều thời giờ để nấu ăn , làm cho thức ăn đầy đủ mùi vị và màu sắc , không những chỉ là để ăn mà còn để ý đến nghệ thuật ăn , đó cũng là 1 quan niện thích làm đẹp . Đài Loan và Nhật Bản đều nổi tiếng về nghệ thuật cắm hoa nhưng tâm của người Nhật hình như không được "rộng lượng" . Sư Phụ không có thành kiến với họ vì Sư Phụ thấy họ cắm hoa , họ cắm rất ít , chỉ cắm một hai nhánh hay là một hai cây , còn người Đài Loan thì cắm rất nhiều . Ở Đài Loan bất cứ đồ gì cũng đều được trang trí rất đầy đủ , điều đó biểu lộ tâm của họ đã tràn đầy .
Cũng như 1 ly nước đầy quá sẽ tràn ra , tại sao như thế ? Việc đó biểu rộ rằng : họ sinh ra từ mảnh đất tốt . Cho nên ở Đài Loan chùa chiền đều cất rất lớn , nếu có Pháp hội thì bất luận vị pháp sư nào có nổi tiếng hay không ? Có biết giảng kinh hay không ? Đều có rất nhiều người đến tham dự để nghe thuyết giảng , nghe những chuyện đạo đức . Bởi vì quí vị đã chuẩn bị hết rồi , đẳng cấp bên trong đã cao rồi cho nên mới ưa thích những việc đó , nó có liên quan đến đẳng cấp cao hay thấp .
Chúng ta nghe nói Thiên Đàng rất đẹp và chỗ ngự của Đức Phật A Di Đà cũng rất đẹp , chúng ta rất có thể từ nơi đó xuống trần cho nên đến nay chúng ta vẫn ưa thích những đồ tốt như thích bông đẹp , thức ăn cũng trang trí cho có mỹ thuật đẹp mắt , 1 miếng đậu hũ cũng được quí vị nấu ngon và làm đẹp mắt , đó là vì quí vị có cái quan niện thẩm mỹ . Người Đài Loan đều ưa thích những đồ đẹp lộng lẫy , mặc áo quần cũng rất đẹp , cho dù người nghèo cũng ăn mặc tươm tất sạch sẽ . Điều này biểu lộ rằng đời trước nếu như quí vị không phải là vua chúa hoặc là quí nhơn hay quan lớn thì cũng là ở cõi trên xuống . Cho nên ở Đài Loan người tu hành rất nhiều . Theo truyền thống của Phật Giáo mà nói Đài Loan bây giờ coi như là 1 nước còn lưu lại tính chất cổ truyền của Phật Giáo , còn như Phật Giáo ở những nơi khác đều bị suy tàn và biến chất , không còn giữ theo nguyên bản Phật Giáo cổ truyền .
Ý Nghĩa Của "Hoa Khai Kiến Phật"
Ở Đài Loan bất cứ ai tu theo Mật Tông , Tịnh Độ Tông , tu Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều gọi là tỳ kheo hay tỳ kheo ni . Những vị này đều ăn chay trường , không có kết hôn . Phật Giáo nguyên thủy vốn là như vậy . Lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế thì truyền thống đó đã như thế , bây giờ chỉ có Đài Loan là còn duy trì truyền thống đơn thuần của Phật Giáo . Nếu như quí vị đọc sách sẽ biết được Phật Giáo ở những nước khác , ăn thịt uống rượu cũng được , xuất gia kết hôn cũng không sao nhưng tại Đài Loan vẫn chưa có tình trạng này . Sư Phụ nghĩ đó là vì Đài Loan có đầy phước báu mới có thể tiếp tục duy trì được truyền thống Phật Giáo đơn thuần này .
Sư Phụ đến các nước khác , thí dụ như ở Miến Điện mới nhìn qua cũng là 1 quốc gia mà Phật Giáo rất phát triển , có nhiều người xuất gia hơn ở Đài Loan , nơi nào cũng đều có người xuất gia mặc áo nâu sòng , Đại Hòa Thượng , Tiểu Hòa Thương rất nhiều , nhìn họ đều rất vui tươi . Sư Phụ thấy Phật Giáo nơi này có nhiều người xuất gia như vậy nên rất mừng , rốt cuộc khi thấy tình trạng của họ khác hẳn lúc Phật Thích Ca còn tại thế . Vì ở Miến Điện ai muốn xuất gia bao lâu cũng được , hai ba tháng cũng được , cả vợ lẫn chồng mới thành hôn nếu như giận nhau , ly thân hay vì 1 vấn đề gì đó liền tới chùa , liền cạo đầu phát nguyện xuất gia 3 tháng , mỗi ngày cũng đi khất thực , cũng giống như người xuất gia vậy , 3 tháng sau lại trở về , rồi lại tiếp tục làm vợ chồng như trước . Đứa trẻ 7 tuổi cũng đi xuất gia , một hai năm sau lại hoàn tục cho nên mới nhìn thì thấy có rất nhiều người xuất gia . Đương nhiên , như vậy cũng có công dụng , cũng có ảnh hưởng nhưng họ đều không ăn chay , không được thuần túy như ở Đài Loan .
Ngày nay tình trạnh ở Tích Lan , Thái Lan , Miến Điện , Nhật Bản , Đại Hàn cũng tựa như nhau , chỉ còn Phật Giáo ở Đài Loan là được thuần túy 100% , trong lúc này Sư Phụ chỉ thảo luận đến người xuất gia , còn tình trạng của người tại gia như thế nào Sư Phụ không được rõ .
Sư Phụ vẫn thấy rằng , Phật Giáo ở Đài Loan ít nhất cũng thuần túy hơn ở những chỗ khác . Bởi vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có nói trong Kinh Lăng Nghiêm :" Bất cứ người nào (xuất gia hay tại gia) nếu như không ăn chay mà lại đi ăn thịt cho dù họ tu Thiền Định rất tốt cũng có Ma Chướng , sẽ không thành Bồ Tát . Thư người tu Thiền Định mà ăn thịt , cùng lắm chỉ thành Ma Vương , thấp hơn thì làm Ma , tệ nhất là Ma Nữ , bởi vì ăn thịt sẽ bị đoạn hạt giống Từ Bi , đoạn hạt giống Bồ Tát . Cho nên theo Kinh Lăng Nghiêm mà nói thì chỉ còn người xuất gia ở Đài Loan là tuân theo cái giáo lý của Đức Phật dạy nhất .
Hôm nay là ngày giảng kinh cho quí vị cho nên Sư Phụ mới chuyện trò với quí vị trước , lúc bình thường Sư Phụ giảng kinh cũng như vậy mà thôi , đối với Sư Phụ việc giảng kinh rất thông thường , Sư Phụ không có đọc sách giảng kinh , trước khi giảng kinh cũng không soạn trước , Sư Phụ nói "Kinh Tự Nhiên" , dùng lời nói dễ hiểu nhất , không dùng lời khó hiểu hay là cổ văn làm cho người nghe không hiểu biết gì ngay cả Sư Phụ cũng không hiểu gì (mọi người cười) , đã là giảng Kinh thì nên giảng cho mọi người nghe đều hiểu , không cần học vấn của họ cao hay thấp . Cho nên Sư Phụ giảng Kinh rất đơn giản dị , rất minh bạch , ai muốn hỏi những vấn đề gì thì Sư Phụ nói cái đó , nếu như bảo Sư Phụ vừa coi kinh vừa giảng như vậy càng làm cho mình quên hết phải nói gì , Sư Phụ để cho kinh điển trong đầu óc tự nhiên chạy ra , muốn nói về đề tài gì thì nói liền ngay cái đó . Bây giờ bắt đầu giảng kinh nhưng cũng giống như từ trước tới giờ , không có cái gì đặc biệt , quí vị thích nghe Kinh gì ? (Mọi người đáp :" Kinh A Di Đà") .Tốt ! Không thành vấn đề . Quí vị đừng có tưởng rằng Sư Phụ tu thiền thì không thích Kinh A Di Đà , thật ra Sư Phụ rất thích Kinh A Di Đà . Xưa kia lúc Sư Phụ chưa đi Ấn Độ , đều là niệm Kinh A Di Đà , niện A Di Đà Phật . Niệm Phật A di Đà rất đơn giản đứa nhỏ cũng biết niệm cho nên Sư Phụ thấy cách dễ nhất là dạy người ta niệm A Di Đà Phật .
Ý Nghĩa Của "Hoa Khai Kiến Phật"
Bây giờ , Sư Phụ muốn nói cái lợi ích của niệm A Di Đà , A Di Đà tiếng Phạn là AMITABHA , cái chữ này vốn không có chữ Phật ở trong đó nhưng dịch qua chữ Tàu biến thành A Di Đà Phật , thêm 1 chữ Phật . Ý của tiếng Phạn AMITABHA là Vô Lượng Quang , AMITAYUS là Vô Lượng Thọ .
"Vô Lượng Quang" là gì ? Chúng ta thường nghe "Phật Quang Thường Chiếu" , nếu như Phật A Di Đà có Vô Lượng Quang , tại sao chúng ta không có được ? Cho nên chúng ta sẽ tự hỏi :" Phật Quang Thường Chiếu là gì ? Chiếu ở đâu ? Khi nào mới chiếu ? Chúng ta làm sao mới có thể thấy được cái thường chiếu của Phật Quang này ?" Trong Kinh A Di Đà , Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói :" Chư Phật luôn luôn có Vô Lương Quang " , cho nên mới nói "Phật Quang Thường Chiếu" .
Chúng ta nghe nói khi vãng sanh nếu như tu hành tốt , Phật sẽ phóng hào quang đến rước chúng ta , có phải vậy không ? Nhưng bây giờ nếu như chúng ta không thấy được ánh sáng sẽ không khỏi có 1 chút hoài nghi , bởi vì chúng ta không biết được lúc vãng sinh có phải sẽ thấy được ánh sáng không ? Phật Quang sẽ chiếu hay không ? Bây giờ chúng ta đã mù như thế , không thấy được ánh sáng Phật , lúc vãng sinh không biết được mắt chúng ta có mở hay không ? Có thấy được ánh sáng của Phật hay không ?
Vì lúc phiên dịch , thêm 1 chữ Phật , kết quả chúng ta đã bị nhốt vào đó , nếu như ban đầu chỉ phiên dịch AMITABHA thì người ta sẽ không nghĩ A Di Đà "Phật" . AMITABHA là Vô Lượng Quang , AMITAYUS là Vô Lượng Thọ , chúng ta không phải là cái xác thân này nhưng bây giờ chúng ta đã đứt đoạn với Vô Lượng Quang này , bị cái thân thể này bao lại , tình trạng này cũng giống như lấy 1 ly nước úp trong biển , nước trong ly tưởng rằng mình ít như vậy , tưởng rằng mình khác với nước biển nhưng nếu như có người lấy cái ly này đi , nước ở trong ly và nước ở ngoài ly chỉ là một , nó sẽ hòa hợp lại thành 1 thể , bởi vì chúng nó vốn đồng 1 phẩm chất .
Bản Lai Diện Mục là gì ? Cái bản tánh chính của chúng ta tức là "Ánh Sáng" . Nếu như có người dùng cái pháp môn nào đó để mở ra cái thân mình này , dĩ nhiên Sư Phụ không phải lấy dao để mở ra mà là chỉ dùng pháp môn bất khả tư nghì nào đó làm cho cái "Hữu Lượng Quang" trong thân thể mình này lìa khỏi sự bó buộc của nhục thể và dính liền với "Vô Lượng Quang" ; cũng như sau khi lấy đi cái ly ở trong biển , nước ở trong ly tự nhiên sẽ hòa hợp với nước biển và nước sẽ trở lại y như cái lúc chưa bị chia ra vậy . Lúc đó chúng ta sẽ biết rằng , chúng ta tức là "Vô Lượng Quang" .
Ngoài Vô Lượng Quang ra , tại sao lại nói "Vô Lượng Thọ" ? Là vì chúng ta vốn không sinh cũng không diệt cho nên trong Bát Nhã Tâm Kinh có nói các pháp không hình không tướng , không sinh không diệt , không sạch không dơ , không thêm không bớt ... ý nghĩa câu này với Vô Lượng Quang , Vô Lượng Thọ đều giống nhau . Đức Phật Thích Ca giảng kinh nào cũng dùng rất nhiều thí dụ , dùng rất nhiều cách để cho chúng sanh hiểu được cái bản tánh của họ , tùy theo trình độ của chúng sanh , Ngài dùng những thí dụ hợp tương với trình độ của họ . Cho nên không phải là Tâm Kinh hay Kinh A Di Đà có cái gì khác nhau , thật ra vốn hoàn toàn như nhau .
Trong Kinh Pháp Hoa , Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng , Phật xuất hiện ở đời là bởi vì muốn cho chúng sanh hiểu được cái biết , cái thấy của Phật ; muốn cho chúng sinh cũng thành Phật . Ngài đến đây không phải dạy người ta tôn sùng hay bái Ngài , đảnh lễ Ngài , đời đời kiếp kiếp xưng tán Ngài là con người vĩ đại nhất trên thế giới . Ngài nói : Chư Phật xuất hiện là muốn chúng sinh thành Phật , muốn chúng sinh hiểu biết được trí huệ của Phật , tức là đã thành Phật rồi . Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì mục đích đó mới đến thế giới Ta Bà này . Cho nên bất cứ kinh điển nào , bất cứ thí dụ gì , đều là vì muốn cho chúng sinh thành Phật , bất cứ là Tâm Kinh hay Kinh A Di Đà , mục đích tối cao nhất cũng đều như nhau , sự giống nhau ở điểm nào , chút nữa Sư Phụ sẽ nói .