Yêu Tinh Xanh và Yêu Tinh Đỏ
Yêu Tinh Xanh và Yêu Tinh Đỏ
Có một câu chuyện nói về hai người nửa quỷ , nửa thần ; có lẽ là nửa tiên , nửa yêu tinh . Hai người sống với nhau . Một người thì xanh , còn người kia thì đỏ , (Sư Phụ cười) giống như đèn xanh , đèn đỏ ngoài kia . Màu xanh là tượng trưng cho hòa bình , không trục trặc . Màu đỏ là tượng trưng cho chiến tranh , sự cản trở , bế tắc . Nhưng hai người sống với nhau rất là hòa thuận trên một ngọn núi , không bận rộn , lo nghĩ hay ham muốn gì cả .
Họ sống với nhau nhiều trăm năm như vậy . Và những khi không có gì làm , họ hay ngồi với nhau trên núi , nhìn xuống trần gian , thế giới của loài người . họ thấy đủ thứ chuyện bận rộn , người đi ngược , kẻ đi xuôi ... Họ thấy thế giới luôn luôn biến chuyển . Con xanh nói với con đỏ : "Anh thấy không , chúng ta đã sống trên nhiều trăm năm nay rồi , đời sống không bao giờ có gì thay đổi , ngày nào cũng như ngày nấy . Nhưng tại sao thế giới dưới kia , thế giới của loài người , mỗi ngày đều có thay đổi vậy ?"
Con đỏ đáp : "Ừ nhỉ , anh nói đúng , cũng hay , đời sống của họ cũng hay đấy".
Nhưng con xanh nói : "Tại sao đời sống của họ chuyển biến hoài vậy ?"
Con đỏ nghĩ một hồi rồi đáp : "Ồ , chắc tại vì họ hay đánh nhau . Họ xây nhà thật đẹp , thật lớn , hôm sau lại đánh nhau rồi phá hoại hết . Rồi họ xây cái khác , rồi chiến tranh nữa , phá hoại nữa . vì vậy mà thế giới luôn luôn có công chuyện để làm (Sư Phụ cười), luôn luôn thay đổi . Đối với hai đứa mình bây giờ , thế giới này quá yên ổn , quá chán . Tôi nghĩ chúng ta nên đánh nhau đi". Con đỏ nói như vậy .
Con xanh nói : "Không , đừng đánh nhau . Chúng ta là bạn tốt , đã là bạn bè với nhau nhiều trăm năm nay rồi , sao lại đánh nhau chứ ?". Nhưng con đỏ nói : "Nếu không đánh nhau , chúng ta sẽ không có gì thay đổi . Cuộc đời sẽ cứ như vầy hoài . Chán quá ! Không có gì tiến bộ cả . Tụi mình đánh nhau đi !".
Con xanh nói : "Không , không , không ! Tôi không làm vậy đâu . Không , tụi mình là bạn mà".
Con đỏ nhất định và nói : "Kể từ hôm nay , anh là kẻ thù của tôi . Đừng nói gì thêm nữa".
Nó tuyên bố ngay tại đó , rồi bỏ đi . Nó không sống với con xanh nữa , mà dọn về phía bên kia núi , ngồi một mình ở đó chuẩn bị chiến tranh . Con xanh ở lại , trong lòng buồn bả cô đơn , nó nhớ con kia .
Yêu tinh là một nửa thiên thần , họ có phép thần thông . Ngoài việc biết bay , hóa phép ra đồ vật , nhìn được rất xa , nghe được rất xa , họ cũng có thể biến cái mũi của họ mọc ra dài vô tận .
Một ngày kia , con xanh ngồi đó trong lòng chán nản , bỗng nhiên thấy thế giới loài người dưới kia có một cái gì đó luôn luôn sáng lóng lánh . Nó tò mò quá , bèn xử dụng cái mũi của nó , (cười) làm dài ra , nói : "Dài nữa , dài nữa , dài nữa".
Thế là mũi nó mọc dài , dài , dài vào tới thế giới bên dưới , đến chỗ có cái vật sáng lóng lánh kia . Ánh sáng lấp lánh này phát ra từ xiêm y của công chúa trong thành phố đó . Lúc bấy giờ mấy người tỳ nữ đang phơi đồ của công chúa ngoài sân . Những bộ đồ này được kết vàng , có cái kết kim cương , ngọc thạch ... sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời .
Tỳ nữ nói chuyện với nhau rằng : "Ồ , quần áo công chúa đẹp thiệt , nhưng nhiều quá không có đủ tre để phơi . Phải làm sao đây ?"
Lúc đó , mũi con yêu tinh này cũng vừa đến (cười). Mấy người tỳ nữ nghĩ : "Ồ , có cái cột tre dài đủ để phơi những bộ đồ còn lại rồi nè".
Thế là họ treo số quần áo công chúa còn lại trên cái cọc xanh đó , rồi vui vẻ vào nhà ăn bánh chapati .
Con xanh bỗng nhiên cảm thấy có cái gì nặng trĩu trên mũi . Nó sợ hãi quá , tức thì kéo cái mũi lên trở lại bình thường , kế tiếp là một đống quần áo lóng lánh đổ xuống chân nó .
Nó nghĩ bụng : "A ! Ô ! Hôm nay hay quá !". Nó liền mặc vào thử , coi đẹp như thế nào . Nó hãnh diện đi qua đi lại một mình . Đúng lúc đó con đỏ đến gây sự muốn đánh nhau , đề tiến bộ .
Nhưng con xanh nói : "Nhìn nè ! Tôi có quần áo mới , đẹp không ? Tôi nhường cho anh một nửa .
Con đỏ nhìn tỏ vẻ coi thường , nói : "Tao không mặc mấy thứ đồ vô duyên này , chỉ những người điên như mày mới mặc". Nó muốn gây lộn , nên cứ nói bậy nói càng .
Con xanh lúc nào cũng xanh , rất điềm tĩnh , cũng không bắt bẻ gì hết . Nó nói : "Cũng được . Anh không mặc cũng không hại gì . Cứ để lại đó , không sao hết".
Con đỏ không biết làm cách nào khác , đành về nhà .
Anh ta thật ra rất , rất là ganh tỵ với con xanh ; cho nên sau đó cũng rán kiếm một ít quần áo cho nó . Nó cũng thả cái mũi dài xuống cung điện , đợi người treo quần áo . Nhưng đúng lúc đó đang có vài kiếm sĩ tập đánh gươm với nhau . Họ nhìn thấy một vật gì dài từ đâu đến , bèn hỏi nhau : "Cái gì vậy ?"
Một người đáp : "A ! Chắc là phát minh mới của kẻ địch muốn tấn công chúng ta đó . Hãy phá hủy nó trước".
Người kia nói : "Phải đó".
Rồi họ dùng gươm "pa!" (Sư Phụ bắt chước tiếng chém). Con đỏ bỗng nhiên cảm thấy đau nhói , kéo chiếc mũi ngắn lại như cũ , máu chảy ròng ròng ; nó khóc ngất lên .
Con xanh nghe tiếng khóc của con đỏ lập tức chạy lại hỏi : "Chuyện gì vậy ? Chuyện gì vậy ?"
Con đỏ vừa mắc cở vừa tức , không biết nói sự thật làm sao , trả lời : "Kệ tao . Đừng có làm phiền tao".
Con xanh nói : "Không , tôi không làm rộn anh đâu , tôi chỉ muốn giúp thôi . Nó đang chảy máu kìa . Coi nè , tôi biết thuốc trị . Tôi bôi nó vào là hết chảy máu liền . Mũi của anh sẽ đẹp lại như trước . Nếu không , anh sẽ có theo bự lắm , thành một cái lỗ ngay đó , xấu lắm . Tôi chỉ muốn giúp anh thôi".
Cuối cùng con đỏ thấy cảm động nói : "Thôi được , thôi được". Rồi bắt đầu khóc thảm thiết : "Ai da ! Đau quá . Làm mau lên , mau lên ! Làm nó khỏi mau lên đi".
Dĩ nhiên họ giảng hòa với nhau vì bị đánh như vậy đủ rồi . Nó thấy đánh nhau không tốt và học được bài học hòa bình . Từ đó về sau , họ mặc quần áo đẹp , mỗi ngày uống trà với nhau , và không gây chiến tranh nữa .
Không Nên Bắt Chước Hành Động Bên Ngoài Của Minh Sư
Không Nên Bắt Chước Hành Động Bên Ngoài Của Minh Sư
Có một vị minh sư kia huấn luyện đệ tử về phương diện trí huệ . Có người đến gặp vị minh sư để xin học về trí huệ . Vị minh sư nói rằng : "Ừ , được , muốn làm minh sư tương lai , vị Phật tương lai , dĩ nhiên chúng ta phải có tối thiểu là hai khả năng . Phật tương lai cần phải có nhiều phẩm chất quan trọng , nhưng đây là hai khả năng quan trọng mà họ phải có để tiến bộ nhanh chóng trên con đường tu hành".
Những người đệ tử nghe vậy liền hỏi : "Đó là cái gì ? Sư Phụ ? Hai tài năng này là gì ?"
Ông thầy trả lời : "Tài thứ nhất là khả năng chịu đựng . Chịu đựng có nghĩa là quý vị phải chịu đựng được những gì mà người khác không thể chịu được . Tài thứ hai là khả năng quan sát ; nhìn , nhìn , nhìn".
Để làm thí dụ điển hình , ông thầy gọi thị giả mang lại một cái tô đựng đầy những thứ dơ bẩn , mới ngửi đã muốn nôn rồi . Nhưng ông thầy không động tâm chút nào . Ông để ngón tay vào trong cái tô đựng đồ dơ bẩn , kinh tởm đó , những thứ mà quý vị cũng không muốn nhìn , có lẽ vừa lấy thẳng từ trong nhà cầu ra . Ông chấm ngón tay vào , rồi lấy ra đưa lên miệng nếm . Mặt ông vẫn tỉnh lặng như bức tường trước mặt tôi và quý vị vậy .
Những vị Phật tương lai chung quanh ông hăng hái muốn tỏ cho sư phụ của họ thấy rằng họ rất đủ điều kiện để làm đệ tử , cho nên , người nào cũng tới gần , chấm ngón tay vào tô , rồi đưa lên miệng nếm , cố gắng giử cho nét mặt không thay đổi . Họ cố không tỏ vẻ gì là ghê tởm cả .
Vị thầy cười nói rằng : "Chúc mừng quý vị đã qua được bài thi , nhưng chỉ qua được một bài thôi , không phải hai . Bài thi quý vị đậu đó là tính chịu đựng . Nhưng bài thi thứ hai thì quý vị rớt , vì không có khả năng quan sát".
Các đệ tử hỏi : "Tại sao vậy ?"
Vị thầy trả lời : "Ta chấm ngón tay này vào tô , nhưng ta đưa ngón tay khác lên nếm". Ông chấm ngón tay trỏ vào trong cái tô hôi hám kia , nhưng lai nếm bằng ngón tay giữa (Cười). Các đệ không trông thấy điều đó , cho nên họ đưa lên miệng nếm cùng ngón tay họ chấm vào tô .
Bây giờ quý vị thấy chưa ? Đây là những người đệ tử ngu . Có rất nhiều đệ tử giống như vậy . Họ chỉ bắt chước minh sư thôi ; cái gì , việc gì cũng bắt chước ; biến họ thành một người ngố . Cái khổ là ở chổ đó ! Cho nên chúng ta đừng bắt chước ai cả . Ngay cả minh sư cũng không bắt chước ai , cho nên nếu muốn được như minh sư , thì đừng bắt chước người nào cả . Mọi việc đều là nguyên bản , bởi vì mỗi người đều được trời phú cho khả năng sáng tạo . Mọi người đều có thể sáng tạo mọi vật , tùy theo khả năng và khuynh hướng nghệ thuật của người đó .
Chúng ta không cần phải bắt chước người nào , kể cả Đức Phật , Minh Sư , hay Đấng Tạo Hóa của cả thế giới . Vì vậy quý vị thấy có rất nhiều minh sư nhưng không ai giống ai cả . Lục Tồ Huệ Năng nhìn không giống như Đức Phật , hành động cũng không giống Đức Phật . Chúa Giê Su không hành động giống như Lão Tử . Lão Tử cũng không làm điều gì giống Krishna , ... Cho nên , nếu chúng ta bắt chước một vị minh sư , hoặc đòi hỏi minh sư đó phải giống như vị minh sư trong kinh thánh hoặc như chúng ta tưởng tượng trong đầu , thì không bao giờ chúng ta tìm thấy được . Chúng ta không nên tìm bản sao , mà phải tìm bản chính . Minh sư luôn luôn là bản chính . Chúng ta đâu có muốn bản sao , đúng không ?
Vì vậy trong khi tu hành , chúng ta phri luôn luôn thận trọng . Minh sư có cách đặc biệt để làm việc , đôi khi rất , rất là đặc biệt . Chúng ta cứ nhìn theo rồi nghĩ rằng mình làm được , sờ đầu , nhìn mắt , cho kẹo ; chúng ta còn có thể mua nhiều kẹo hơn như vậy , chẳng hạn như vậy . Chúng ta không thể chỉ dựa vào hành động bên ngoài để phán đoán một người có phải là Minh Sư hay không . Chúng ta phải nhìn vào bên trong .
Người Tu Hành Phải Tự Lực Cánh Sinh
Người Tu Hành Phải
Tự Lực Cánh Sinh
Có một người nọ , thường đi lang thang vào trong rừng sâu , có lẽ ông ta đi ngắm cảnh hay làm chuyện gì đó . Một hôm , ông tình cờ trông thấy một con chồn cụt chân . Ông tự hỏi con chồn này bị cụt chân như vậy làm thế nào sống được trong cánh rừng này . Rồi ông để ý quan sát . Ông trông thấy một con hổ đen đem mồi về ăn , những gì còn thừa lại thì con chồn ăn . Bây giờ ông mới biết con chồn này sống bằng cách đó .
Ngày hôm sau , một lần nữa , Thượng Đế lại dùng con hổ để nuôi con chồn . Người đó xem được như vậy nên nghĩ rằng bây giờ ông ta được khai ngộ hơn một chút . Ông tự nhủ rằng : "À , mình phải nương tựa vào Thượng Đế , phải tin vào Thượng Đế thì Ngài sẽ cung ứng mọi thứ cho mình".
Thế là ông bỏ việc làm , bỏ vợ con , cũng không đi đạo tràng Tây Hồ để cộng tu nữa (Mọi người cười). Ông chỉ ngồi trong rừng và hoàn toàn hàng thuận Thượng Đế , hy vọng Ngài sẽ mang thức ăn lại cho ông . Rồi ông ngồi đó thiền quán Thượng Đế . Ông cũng không thèm niệm Phật hay niệm Nam Mô Thanh Hải Vô Thượng Sư nữa (Mọi người cười).
Ông nói : "Ta chỉ tin tưởng vào Thượng Đế . Sao phải lại niệm tên ai ? Ta tin Thượng Đế , ta thương Thượng Đế , ta phục và kính trọng Thượng Đế , thế là đủ rồi . Ta hoàn toàn hàng thuận Thượng Đế".
Nghĩ vậy ông ngồi đó . Có lẽ ông đợi bơ , bánh ngọt , bánh mì , phó mát , đậu hũ tới . Ngày đầu tiên , không có gì đến cả , ông tiếp tục ngồi đó , nói rằng : "Thượng Đế đang khảo lòng tin của ta".
Rồi ông ngồi đó sang ngày hôm sau .
Ngày thứ hai , cũng chẳng thấy đậu hủ nào xuất hiện và cũng không có cây cải nào mọc lên từ mặt đất trước mũi ông . Không thấy gì xảy ra , ông nghĩ rằng : "Ồ , Thượng Đế chắc là muốn thử lòng can đảm của ta , đức tin của ta . Dĩ nhiên ta sẽ cho Ngài biết lòng tin của ta , khả năng dâng hiến và đức tin bất thoái chuyển của ta". Ông ngồi đó nữa và cứ chờ hoài .
Đến ngày thứ ba . Chẳng có gì xảy ra . Không bơ , không bánh mì , không phó mát , không đậu hũ , không rau cải , không cà rốt , ngay cả giọt mưa cũng không có nữa ! (Nuốt) ực ... ực !! Bây giờ ông mới cảm thấy khảo nghiệm tử cổ họng , từ dạ dày , từ tứ chi , không nhất thiết là từ Thượng Đế , mà từ khắp thân thể của ông . Mọi bộ phận trong cơ thể của ông bắt đầu (Sư Phụ và mọi người cười) hành hạ ông . Cho nên ông vô cùng đau khổ và cố gắng nghĩ coi chuyện gì đã xãy ra . Ông cầu Thượng Đế : "Xin Ngài đừng khảo con nữa , con hoàn toàn tin tưởng nơi Ngài . Con thật sự dâng hiến cho Ngài . Lòng tin của con đối với Ngài không lai chuyển , không bao giờ tàn".
Rồi một giọng nói từ trên trời vọng xuống , hay có thể là từ bao tử của ông ta cũng không biết nữa (Sư Phụ và mọi người cười) nói như vầy : "Nhà ngươi thật là đần độn . Tại sao nhà ngươi lại học lối sống của con chồn tật nguyền ? Hãy đứng dậy ! Hãy bước mạnh dạn như con hổ kia vậy".
Chúng ta cũng có thể xuất gia , nhưng cũng nên làm việc , làm một chút gì đó để nuôi thân . Vì vậy tôi mới dạy quý vị là chúng ta phải tự mình tìm cách mưu sinh , bởi vì chúng ta được ban cho những công cụ và trí thông minh . Chúng ta không phải là những con chồn tàn tật . Nếu chúng ta thật sự tàn tật , có lẽ Thượng Đế sẽ cung cấp cho chúng ta . Nhưng nếu chúng ta không tàn tật thì tại sao lại phải làm như một con thú tật nguyền ? Chúng ta nên bước mạnh dạn như sư tử , hổ , voi , ngựa . Chúng ta nên làm người có dư để cho , đừng làm kẻ ăn mày , đừng làm người nhận đồ bố thí . Đó là cách sống ở đời . Một khi chúng ta còn sống trong thế giới ảo tưởng này , chúng ta cần nên phải tự lực cánh sinh , tự huấn luyện chính mình , dùng cho quen những công cụ này , thử nghiệm khả năng và trí thông minh của chúng ta , để coi cuộc đời sẽ cống hiến những gì , coi ngày mai sẽ mang đến những gì cho chúng ta .
Với khả năng và trí thông minh , chúng ta nhìn đời sống tăng trưởng lên bên trong chúng ta , nhìn cuộc đời thay đổi theo bốn mùa , nhìn những công cụ của chúng ta đang mang lại lợi ích cho chúng ta , cũng như cho gia đình và cho xã hội bên ngoài . Có trí thông minh thì chúng ta nên dùng .
Trí huệ là một chuyện , trí thông minh và khả năng là chuyện khác . Trí huệ thf chúng ta giữ , không bao giờ bị mất , không bao giờ cần phải được huấn luyện , không bao giờ bị xem thường , không bao giờ bị suy giảm hoặc gia tăng . Nhưng trí thông minh , sự hiểu biết thì chúng ta nên dùng để giải quyết đời sống hàng ngày , trong thế giới tạm bợ này . Chúng ta có thể dùng trí huệ vào mục đích vĩ đại hơn , cao thượng hơn , chẳng hạn như giúp cho người khác khai ngộ hoặc làm cho chúng ta thêm lực lượng có thể giúp những người cần đến , như chữa bịnh mà không chữa bịnh , biết mà không biết , giúp mà không giúp , gia trì cho thế giới mà không để lại mà không để lại một dấu vết kiêu ngạo , hay công trạng gì cả . Chúng ta hãy nên như vậy .
Cho nên , hôm nay , ngày mai , hoặc mỗi ngày , chúng ta nên tọa thiền . Đó là cách sống hùng , sống mạnh như hổ . Chúng ta cung cấp , chúng ta gia trì , không đòi hỏi , không xin xỏ . Tôi nghĩ rằng Thượng Đế , các vị thiên thần , bồ tát , họ đã làm xong phận sự của họ rồi . Họ đã làm xong công việc của họ rồi . Bây giờ chúng ta phải theo bước chân của họ và cũng làm công việc của họ , không phải lúc nào cũng cầu nguyện cho mình , hoặc xin xỏ cho cuộc sống tạm bợ này . Khi nào thật sự cần một điều gì đó thì chúng ta có thể cầu nguyện . Chỉ cầu cho một chút nhu cầu cần thiết đó mà thôi , để chúng ta có thể tiếp tục đời sống tu hành , nhưng đừng cứ mãi làm kẻ ăn xin trong thế giới tâm linh .
Trí Huệ Của Một Bà Già Ăn Mày
Trí Huệ Của Một Bà Già Ăn Mày
Đa số người ta , kẽ biết thường thì không nói và người nói thường là không biết . Lẽ dĩ nhiên trường hợp của những vị minh sư như Đức Phật và Chúa Giê Su đi giảng Pháp lại là khác . Đó là chuyện họ phải làm như vậy , chứ họ không hề thích nói nhiều . Sứ mệnh của họ là như vậy , mặc dù họ đau khổ , họ cũng vẫn phải làm dù là họ không thích làm . Nhưng nói như vậy không có nghĩa là lúc nào họ cũng tìm cơ hội để tranh luận . Điểm khác nhau là như vậy . Gặp trường hợp như vậy họ cảm thấy rất chán và muốn tránh đi nơi khác . Họ bị bắt buộc phải làm việc đó để giảng dạy cho đệ tử và những người đã tìm đến họ . Nhưng họ không ra ngoài tranh cãi với người khác để phô trương sự hiểu biết của mình .
Còn trong trường hợp này , Tiloba (là một vị đại sư tổ của sư phụ của Milarepa) là một người hay đi khắp nơi trên Ấn Độ để khoe khoang kiến thức sách vở của mình . Đi đến đâu ông cũng thắng ; không ai có thể thắng nổi ông bởi vì sự hiểu biết của ông thật là mênh mông . Ở nhiều quốc gia khác cũng có người như vậy , không phải chỉ có một mình Tiloba mà thôi .
Một hôm , ông ta đang ở nhà đọc một cuốn sách rất nổi tiếng , rất có giá trị thời bấy giờ thì có một bà già ăn mày đến . Bà già ăn mày trông rất dơ bẩn và gầy ốm , thiếu ăn , đi ngang qua chỗ ông và nói với ông như vầy : "Ông đọc một cách say mê như vậy , nhưng thật ra ông có hiểu được chút nào không ?" (Mọi người cười)
Ồ ? Tiloba cảm thấy ngạc nhiên quá . Một người vừa già , vừa xấu như vậy mà dám nói như thế trước mặt một nhà học giả như ta sao ? Ông hơi giật mình , không biết phải phản ứng như thế nào . Rồi bà già ăn mày đó nhổ nước miếng vào cuốn sách của ông ta rồi bỏ đi .
Ông thấy bà dám nhổ vào cuốn sách thánh này thì rất là giận , cho nên ông ta đuổi theo . Khi ông vừa đuổi kịp thì bà ta lẩm bẩm điều gì đó trong miệng rồi bỗng nhiên ông cảm thấy nguôi đi , không còn giận nữa . Rồi ông ngừng lại , quay trở về nhà và bắt đầu suy nghĩ . Có lẽ ông cảm thấy bà nói không hợp với những thứ ông học được từ sách vở . Cho nên ông suy nghĩ , suy nghĩ rất nhiều . Và ông cũng nghĩ nhiều về chuyện một bà già ăn mày sao lại dám nhổ nước miếng vào cuốn sách thiêng liêng mà cả nước Ấn Độ tôn kính từ hàng ngàn năm nay .
Người ta còn quỳ lạy trước cuốn sách . Ngày nay tại một số quốc gia họ vẫn còn làm như vậy , kể cản Ấn Độ . Tôi biết , tôi đã nhìn thấy . Họ lạy cuốn sách , cúng dường tiền bạc , bông hoa cho cuốn sách , và tin rằng lạy quyển sách đó là có thể lãnh hội được tất cả sự hiểu biết và trí huệ trong đời . Nhưng sách là sách , quý vị là quý vị , quý vị làm sao có thể chỉ dạy cuốn sách mà thu hoạch gì được ! Nhưng cũng có nhiều người tin như vậy .
Rồi Tiloba suy nghĩ rất là lâu . Ông cũng ngạc nhiên là làm sao một bà già yếu đuối như vậy , mà chỉ cần lẩm bẩm một hai câu là sự giận dữ của ông liền bị dập tắt như lửa gặp nước vậy . Cho nên sau một thời gian suy nghĩ , ông bỏ việc làm và không tranh luận gì với ai nữa . Ông đi khắp mọi nơi để kiếm bà già ăn mày đó hầu tìm cho ra được điều bí ẩn mà ông mà ông không hiểu .
Một ngày kia , ông tìm thấy bà già trong rừng chỉ có một mình . Ông cố gắng tranh luận với bà , tận dụng tất cả khả năng hùng biện và kiến thức của mình để cố gắng cải cho thắng . Nhưng dù cố gắng cách mấy , bà ta vẫn thắng . Bà già ăn xin , xấu xí , nghèo nàn , thiếu ăn lúc nào cũng thắng (Sư Phụ cười). Cuối cùng bà nói với ông rằng : "Những cái mà tôi biết , trí huệ mà tôi có không nằm trong sách vở . Ông không thể nào tìm ra được , cho nên không bao giờ ông cãi thắng tôi".
Cuối cùng ông quỳ xuống lạy bà già , nhận bà làm sư phụ và xin được chỉ dạy . Bà ta bằng lòng . Ý bà nói với ông ta là những điều ông muốn biết không có trong sách vở và cũng không có trên thế giới này . Quý vị phải đi kiếm thánh nhân mà học .
Con đường đó là thọ tâm ấn . Chúng ta từ bên trong đi lên thì sẽ tìm thấy những vị thánh nhân này , ý nói là như vậy , rồi chúng ta học hỏi với họ .
Những gì tôi dạy quý vị , hay bất kỳ vị minh sư nào dạy quý vị , cũng chỉ là lời nói , cũng chỉ ở mức độ vật chất mà thôi . Nếu muốn học hỏi những gì tốt đẹp hơn , quý vị phải đí vào bên trong , đến những cảnh giới cao hơn và học với vị thầy bên trong , vị minh sư vô sở bất tại , chứ không phải với vị thầy có nhục thể . Người thầy nhục thể chỉ như là nấc thang đem quý vị lên những cảnh giới cao hơn . Tại đó quý vị sẽ học với những vị thầy cao hơn , có thể cũng cùng một vị thầy đó , hay với một vị thầy khác , nhưng ở một cảnh giới cao hơn , siêu việt hơn .
Sau đó Tiloba xả bỏ hết tất cả và hết sức cố gắng để đi vào cảnh giới thiên đàng , gặp thánh nhân và học hỏi với họ . Con đường đến đến với các thánh nhân này đầy cạm bẫy và khó khăn , nhưng ông vẫn vượt qua được .
Đó là câu chuyện của Tiloba . Dù là một nhà đại trí thức vĩ đại nhất cũng phải quỳ lạy trước một bà già ăn mày xấu xí , đói khát , để xin được học hỏi về trí huệ . Cho nên khi chúng ta tới lạy bất cứ người nào có trí huệ , người nào có thể thật sự chỉ dạy cho chúng ta con đường đến sự giải thoát , điều đó không có gì là quá khiêm tốn cả .
Đa số những minh sư ngày xưa rất nghèo . Chúa Giê Su là thợ mộc , không bao giờ giàu có . Đức Phật có rất nhiều tài sản nhưng Ngài bỏ lại hết sau lưng (Sư Phụ cười). Cho nên Ngài cũng không có gì cả . Ngài đi khất thực khắp cùng Ấn Độ thành ra Ngài cũng trở thành một người ăn mày . Đa số minh sư không có sở hữu gì cả nhưng nếu họ muốn có cũng không sao .
Một trong những vị thầy đạo Sikh , vị minh sư đạo Sikh thứ mười rất là nổi tiếng . Ngài giữ lại tài sản của Ngài . Ngài trong có vẻ rất sang trọng và đeo nhiều trang sức như là một vị hoàng tử vậy . Ngài chẳng ngại gì về chuyện này cả . Nhưng những minh sư khác trong đạo Sikh đều đi khắp nơi trong nước để khất thực . Cho nên không cần phải chỉ trích là minh sư như thế này , nên như thế nọ . Không hề gì đâu .
Quý vị có thấy Quán Thế Âm Bồ Tát không ? Ngài có rất nhiều trang sức , tóc của Ngài dài và đẹp , Ngài mặc quần áo rất đẹp . Ở thiên đàng , các thiên nhân rất là đẹp . Đồ trang sức của họ rất tự nhiên , tùy theo công đức mà kết lên thân của họ . Cho nên , không cần phải nói rằng minh sư luôn luôn phải nghèo , không nhất thiết phải như vậy . Đa số minh sư vì liễu ngộ bên trong cho nên họ thường chọn cuộc sống giản dị nhưng minh sư lúc nào cũng theo hoàn cảnh mà sống . Không phải lúc nào cũng nhất thiết phải như thế đó ; vì nếu một minh sư hãy còn chấp vào sự nghèo khó , đời sống đơn giản , hay quần áo giản dị không thôi , đó cũng kể như là một thứ câu nệ . Nếu cứ câu nệ vào một cực đoan này hay cực đoan kia cũng không tốt . Minh sư phải buông bỏ ở bên trong , còn ở bên ngoài thì sao cũng được . Phải tùy vào hoàn cảnh và xuất thân hay bất cứ những gì càn làm để đem lại lợi ích cho chúng sinh .
Tình Thương Không Phân Biệt
Tình Thương Không Phân Biệt
Hồi xưa có một người thương gia kia , buôn bán nhỏ thôi , và cũng không khá giả gì cho lắm . Việc buôn bán của anh không mấy gì thành công nhưng anh ta cũng không nệ hà gì . Anh vẫn cảm thấy thỏa mãn và lo cho gia đình rất chu đáo . Có một người láng giềng của anh là một người tu chân Đạo , và người này rất nghèo cho nên người láng giềng thương gia này thỉnh thoảng mang cho ông ta thức ăn và vật dụng để giúp ông trải qua mùa đông cũng như những lúc khó khăn . Từ khi anh ta bố thí một chút , rất ít , có thể chỉ là một phần ngàn lợi tức của anh ; một chút bánh mì , có khi bánh ngọt , có khi bánh ngọt , có khi bắp cải , có khi một chùm cà rốt , một chén gạo , đại khái vậy , những thứ không đáng giá bao nhiêu cho người láng giềng là người tu hành đó thì công việc làm ăn , gia đình và sức khoẻ của anh trở nên khá hơn , con cái ngoan ngoãn hơn và anh ta kiếm được nhiều tiền hơn .
Càng kiếm được nhiều anh càng mang cho vị tu hành nhà bên cạnh nhiều hơn , bởi vì bây giờ anh đã khá giả hơn . Càng cho nhiều anh càng kiếm được nhiều , công việc làm ăn càng phát đạt và mọi chuyện ngày càng tốt đẹp hơn .
Rồi anh bắt đầu để ý mối tương quan giữa sự khá giã của anh với những sự bố thí mà anh làm cho người láng giềng , mà thật sự cũng đúng như vậy . Anh ta bắt đầu suy nghĩ : "À , ta càng mang cho người này thì việc làm ăn của ta càng phát đạt . Nghe nói người này có một vị sư phụ , và ông ta cũng nói rằng sư phụ của ông vĩ đại hơn ông cả triệu lần". Là người buôn bán , anh thầm nghĩ : "Phải rồi , hàng mấy triệu lần hơn nữa ! Ta chỉ mới bố thí cho một người đệ tử xoàng như vậy mà việc buôn bán đã gia tăng gấp bội ; nếu ta cho sư phụ của ông ta , người mà ông ta nói là hàng trăm , hàng triệu , hàng tỷ lần vĩ đại hơn , thì có lẽ việc làm ăn của ta sẽ ..."
Quý vị có thể tưởng tượng được anh ta nghĩ gì (mọi người cười). Rồi anh móc ra trong hồ bao , chuẩn bị rất nhiều những món quà quý giá , đủ thứ ; và đi thật xa để tìm vị sư phụ của ông láng giềng kia . Bây giờ anh chỉ đi cúng dường vị sư phụ đó mà thôi , không cúng dường ông láng giềng nữa .
Từ khi cúng dường cho vị minh sư vĩ đại nhất mà anh nghe đến , việc làm ăn của anh bị suy xụp , càng ngày lại càng xuống dốc . Càng cho vị minh sư bao nhiêu thì anh càng thâu được ít bấy nhiêu , tới mức không chịu nổi nữa , gần như là phá sản . Trong nhà anh hầu như là không còn gì nữa và cả nhà cũng gần chết đói rồi .
Anh sang nhà láng giềng nói chuyện với người mà anh cho là đệ tử xoàng của vị minh sư vĩ đại kia . Anh hỏi : "Tại sao ông nói với tôi là thầy của ông vĩ đại hơn ông gấp triệu lần ?" Người đệ tử đáp : "Đúng vậy , dĩ nhiên . Tôi đã nói thật lòng với anh . Thầy tôi còn vĩ đại hơn tất cả những gì tôi có thể diễn tả được . Không phải chỉ hàng trăm triệu lần giỏi hơn , nó còn vĩ đại hơn nhiều lắm , nhưng vì không thể giải thích cho ông biết mức vĩ đại của ngài , cho nên tôi phải tạm nói là trăm tỉ lần hơn tôi . Nhưng ngài vẫn vĩ đại hơn thế nữa".
Người thương gia nói : "Nhưng tôi đã đi cúng dường cho ngài vì tôi nghĩ rằng ngài vĩ đại hơn ông , xuất sắc hơn , đạo đức hơn . Nhưng từ đó công việc buôn bán của tôi lại suy xụp , tôi gần như chết đói đến nơi rồi . Cả gia đình bây giờ không có gì ăn nữa . Tại sao lại như vậy ?"
Người đệ tử đáp rằng : "Trước kia , anh cúng dường cho tôi là do lòng tốt của anh , lòng thương yêu nhân hậu của anh , vì tôi đang thiếu thốn nên anh cho mà không nghĩ đến một sự đền đáp gì . Anh cho vì tình thương và cũng không đòi hỏi gì . Anh cho một cách tùy tiện , cũng không đắn đo suy nghĩ coi tôi có xứng đáng hay không , cũng không để ý chọn người để cho . Anh chỉ vì tình thương mà bố thí . Thượng Đế cũng cho một cách tự do . Ngài không phân biệt người để cho , cũng như anh đã không phân biệt ai để cho . Anh cho tôi mà không phân biệt tôi tốt hay xấu , tôi xứng đáng hay không . Nhưng từ khi anh phân biệt giữa tôi và thầy tôi , anh chọn người vĩ đại , đạo đức , xứng đáng , đáng kính trọng và thánh thiện rồi anh mới cho ; vì anh nghĩ rằng vị này xứng đáng , xuất chúng và đạo đức . Thượng Đế cũng làm như vậy . Ngài chỉ chọn người nào có đạo đức , xứng đáng , thánh thiện mới cho . Vì anh phân biệt nên Thượng Đế cũng phân biệt".
Cho nên , khi quý vị về nhà , hãy cố gắng sao cho tình thương của quý vị không có sự phân biệt . con cái của quý vị có thể rất hư , ông chồng có thể rất tệ , người láng giềng có thể rất xấu xa nhưng hãy cố gắng yêu thương họ . Không phải thương như nhau , nhưng thương tùy trường hợp , tùy khả năng của quý vị . Thương càng nhiều càng tốt , và chỉ khi nào họ cần , quý vị mới giúp . Nếu không quý vị cứ đối đãi mọi người một cách bình đẳng , một cách thân thiện , không sân hận trong lòng , bởi vì quý vị không thể thương mọi người như nhau được .
Thượng Đế không tạo chúng ta ra để thương mọi người như nhau thì tạo phải làm như vậy ? Chúng ta không cần phải phải ép lòng làm như vậy . Nhưng thương họ có nghĩa là bất cứ khi nào họ cần chúng ta , mặc dù trước kia họ đã làm hại ta , chúng ta cũng quay lại lập tức giúp họ . Thương họ có nghĩa là không nuôi lòng thù hận , không có ác ý , hoặc trù ếm họ ; ngược lại , chúng ta chúc lành cho họ , cầu nguyện cho họ , ngồi thiền để cho họ được lợi ích .
Tên Trộm Trở Thành Người Tu Hành
Tên Trộm Trở Thành Người Tu Hành
Xưa kia có một tên trộm lẽn vào hoàng cung ăn trộm , tình cờ nghe được hai viên thái giám nói chuyện với nhau : "Quốc vương của chúng ta đang muốn gả công chúa cho một vị hòa thượng tu hành bên bờ sông Hằng , anh nghĩ sao ?"
Thái giám kia nói : "Tốt , tốt lắm ! Công chúa là người cao quý nhất nước , còn hòa thượng tu hành bên sông Hằng cũng là người hiếm có , rất đạo đức , cao thượng nhất trên đời . Dĩ nhiên tôi rất mừng , rất tán thành !"
Tên kia nghe xong liền bỏ nghề ăn trộm , lén chạy đi làm hòa thượng (mọi người cười). Anh ta vội vã cạo trọc đầu , mặc tăng phục , rồi trà trộn trong đám tăng chúng ngồi thiền , trong bụng ao ước công chúa sẽ trở thành vợ của mình .
Nhiều ngày qua , quả nhiên quốc vương sai thái giám đến bờ sông Hằng hỏi những vị hòa thượng có muốn lấy công chúa không . Ông hỏi từng người một . Người này không muốn , ông lại hỏi người kia , cứ tiếp tục như vậy .
Những vị hòa thượng này là những người tu hành cao , không muốn công chúa , cho nên ai cũng từ chối . Chỉ còn tên ăn trộm ngồi đó , tim đập thình thình , trong đầu la lớn : "Tôi ở đây nè , đến đây lẹ lên". (mọi người cười)
Cuối cùng vị thái giám đến chỗ anh ta . Khi được hỏi thì hắn ta im lặng (mọi người cười), không nói một lời . Những người khác trả lời không muốn , nhưng người này không nói gì cả . Như vậy tức là khác rất xa .
Vị thái giám mừng rỡ , về báo với quốc vương rằng : "Có một vị hòa thượng tu hành bên sông Hằng hình như có ý muốn cưới công chúa , vì khi chúng tôi hỏi , ông ta từ chối . Như vậy có nghĩa là ông đã bằng lòng chín mươi phần trăm , chỉ chưa thật sự quyết định là muốn hay không . Trong số những người mà chúng tôi hỏi , chỉ có ông này là người không từ chối".
Nghe xong quốc vương mừng rỡ , nghĩ rằng mình phải đích thân đi và đem theo nhiều lễ vật , như vậy hòa thượng này thế nào cũng bằng lòng cưới công chúa .
Quốc vương dẫn theo văn võ , bá quan và thái giám tới bên bờ sông Hằng nơi tên ăn trộm đang ngồi thiền . Với một vẽ hết sức cung kính , nhà vua xin hắn nhận công chúa làm vợ . Vì chính quốc vương cũng có tu hành , nên ông không muốn gả công chúa cho một người thường . Ông muốn gả nàng cho một người tu hành hơn , vì như vậy công chúa sẽ có thể cùng tu hành với một người chồng tốt , một vị thầy tốt . Ông chỉ có thể an tâm khi có được một người con rể có thể dạy công chúa cách tọa thiền và trở thành một người đạo đức . Cho nên khi nghe có người tọa thiền bên bờ sông Hằng sẽ lấy công chúa , quốc vương rất vui mừng . Ông đến bái người này một cách cung kính và xin anh ta cưới con gái của ông làm vợ .
Tên ăn trộm rất làm đắc ý , nhưng rồi anh ta nghĩ bụng : "Mình chỉ mới cạo đầu , mặc tăng phục giả trang làm một hòa thượng , một người tu hành , mà nhà vua và quần thần đã đối với mình hết sức tôn kính như vậy , lại còn tặng cho mình tài sản , báu vật . Nếu mình làm hòa thượng thật , một người tu hành chân chánh , thì không còn biết sẽ còn hay tới cỡ nào !"
Sau khi suy nghĩ kỹ càng , anh không muốn lấy công chúa nữa ! (Mọi người cười). Anh bắt đầu tu hành nghiêm chỉnh vì anh ta hiểu được lợi ích của sự tu hành . Từ đó về sau tên ăn trộm này ngồi thiền , tu hành rất là thành tâm . Sau này ông khai ngộ và trở thành một thánh nhân vĩ đại , một nhà tu nổi tiếng .
Thượng Đế Chăm Sóc Mọi Việc
Thượng Đế Chăm Sóc Mọi Việc
Hồi xưa có một vị tu sĩ Ấn Độ , tu hành rất siêng năng . Một ngày kia , người mẹ già vẫn hay đau bệnh của ông ta đã qua đời . Ông vui mừng vội vã chạy vào đại điện quỳ xuống cám ơn Thượng Đế , chắc là cám ơn Sư Phụ bên trong ! Ông vừa lạy vừa nói : "Đa tạ , đa tạ Thượng Đế ! Con chưa cầu xin , chưa khấn nguyện , mà Ngài đã ban cho con một ơn huệ thật là vĩ đại . Bây giờ mẹ của con đã được Ngài dẫn độ , cho nên con rất tự do , mỗi ngày có thể dốc tâm nhớ tới Ngài !"
Ông ta rất vui mừng nên cứ nhảy múa và ca hát . Người láng giềng lấy làm lạ nên mới hỏi ông : "Tại sao vậy ? Mẹ chết đã không rơi giọt nước mắt nào , mà lại còn vui mừng ca hát như vậy".
Những bài ca múa của ông có thể điệu cúng dường Thượng Đế , không phải là loại Karaoke , không có giống nhau . Có thể hơi giống , lắc qua lắc lại , nhảy tới nhảy lui , coi cũng giống nhau . Tuy nhiên , mẹ của ông chắc cũng không buồn , vì bà cũng giống như ông , là một người tu hành rất thành tâm . Cả hai đều biết thế giới này là vô thường , nên mẹ của ông lúc qua đời cảm thấy rất vui , và sau khi mẹ ông đã qua đời , ông cũng vui không kém . Cả hai đều là những người kỳ lạ !
Sau khi chôn cất mẹ xong , mỗi ngày ông ngồi bên bờ sông Hằng , ... , tọa thiền , câu thông với Thượng Đế Tối Cao . Ba ngày trôi qua , ông không ăn một hạt cơm nào , cũng không uống một giọt nước nào . Ông hoàn toàn quên hẳn chuyện đó . Nơi ông ngồi là bờ sông rất vắng vẻ , không có người hành hương qua lại , cho nên ông không có gì để ăn .
Thượng Đế trên trời nói với những người xung quanh rằng : "Chao ôi ! Thật tội nghiệp ! Dưới kia , đệ tử của ta sắp chết đói rồi , và chuyện này có vẽ như là ta không làm tròn trách nhiệm , không cho nó cái gì để ăn cả . Nó ngồi đó không giây khắc nào quên ta , còn ta ở đây lại quên không bảo vệ nó".
Thế rồi Thượng Đế phái thiên sứ đang đứng cạnh ngài mang thức ăn ngon đến bờ sông cho vị tu sĩ kia dùng . Thiên sứ cầm một cái đĩa bằng vàng , bên trong đựng rất nhiều thức ăn gia trì , nào là chapati , sữa , táo ... , đến cho ông dùng . Vị thiên sứ này chưa bao giờ gặp loài người , huống chi là một nam nhân . Vị này là một thiếu nữ , nhìn thấy con trai nên mắc cở . Cho nên cô âm thầm đặt cái đĩa bên cạnh ông rồi bay về .
Người tu hành nọ nhìn thấy đĩa thức ăn , nhưng không có ai đến , bèn cảm tạ Thượng Đế , cho răng nhất định đây là do Thượng Đế ban cho . Sau khi ăn xong , ông tiếp tục ở đó tọa thiền , niệm danh Thượng Đế và nhập định .
Đột nhiên , có nhiều người vây chung quanh , đánh thức ông dậy , kẻ cầm gậy , người cầm dao muốn bắt ông . Ông kinh ngạc hỏi : "Tại sao ? Có chuyện gì xảy ra vậy ?"
Họ trả lời : "Ngươi là quân ăn cắp , dám trộm cái đĩa vàng này trong đền thờ Thượng Đế . Chúng tôi sẽ bắt ngươi đến để cho nhà vua trị tội".
Mặc cho ông giải thích thế nào , nhưng người lính kia vẫn không tin . Họ nghĩ một người thanh niên nghèo nàn rách rưới ngồi bên bờ sông , làm sao có được một cái đĩa bằng vàng quý báu như thế , nhất định là hắn đã ăn cắp . Cái đĩa này trông rất giống như những cái người ta hay dùng trong đền thờ để đựng lễ vật cúng dường Thượng Đế , nên họ nhất định bắt ông về để trừng phạt .
Sau khi bắt ông về , nhà vua rất giận dữ , ra lệnh cho thuộc hạ đánh ông . Họ đánh ông rất thẳng tay và đánh rất lâu . Thế mà ông không cảm thấy gì cả , chỉ cười hoài mà thôi (Sư Phụ cười). Không phải giống như tôi cười , nhưng cũng hơi tương tự như vậy . Không những ông ta cười mà còn khoái trá , như đang gãi trúng chỗ ngứa vậy . Sau đó mọi người đều mệt , tay đều đau nhức (Sư Phụ cười), cho nên họ không đánh ông nữa và thả ông về . Nhà vua thấy rất lạ , cảm thấy dường như có Thượng Đế bảo vệ cho người này , cho nên cũng không dám đánh tiếp nữa . Tuy nhiên nhà vua rất là thắc mắc , muốn đi đến đền thờ xem coi có cái đĩa nào như thế bị mất cắp không .
Khi vua vào đến đền thờ , ông thấy có vết máu từ trên tượng của Thượng Đế chảy xuống . Ông lấy làm lạ : "Tại sao lại thế này ? Bức tượng tại sao lại chảy máu ?"
Không những thế , chỗ chảy máu lại đúng chỗ người tu hành bị đánh . Nhà vua liền quỳ xuống sám hối , không biết mình đã phạm lỗi lầm gì . Rồi nhà vua giác ngộ : có thể người đó vô tội , đánh người đó cũng như đánh Thượng Đế vậy , cho nên tượng của Thượng Đế mới đổ máu .
Lúc đó nhà vua và bá quan rất sợ hãi , mọi người vội vã chạy tới bờ sông , quỳ xuống sám hối với người tu hành nhỏ bé , nghèo nàn nọ , rồi sau đó mỗi ngày còn cúng dường thức ăn cho ông nữa .
Khi về lại đền thờ , thì thấy tượng Thượng Đế không còn rướm máu nữa . Cho nên mọi người hiểu rõ nguyên do .
Vì người tu hành này tọa thiền chăm chỉ - hằng ngày chỉ nghĩ tới Thượng Đế - cho nên khi Thượng Đế nhìn thấy ông không có cơm ăn bèn cảm thấy có lỗi . Nếu vì miếng ăn ấy mà để ông bị đòn , thì đương nhiên đó là lỗi của Thượng Đế , nên Ngài mới hứng chịu những hình phạt này . Không phải sau khi làm Thượng Đế hoặc làm Phật rồi thì không phải lo gì cả . Nếu chúng ta thật sự siêng năng tu hành , thì Thượng Đế sẽ săn sóc tất cả mọi việc .
Bí Pháp Trường Sinh Bất Tử
Bí Pháp Trường Sinh Bất Tử
Xưa kia bên Trung Quốc có một người thường khoe khoang với mọi người rằng ông biết một bí pháp có thể làm con người trường sinh bất tử . Vua nước Yên nghe nói vậy bèn sai thị giả và đại thần đi tìm người biết thuật trường sinh bất tử này , mời ông lên triều để hỏi bí pháp này . Nhưng người thị giả đó rất giống sứ giả Quán Âm của chúng ta , hay là thị giả của tôi ! Ông đi rất là chậm . Thay vì đi bằng xe Benz hay Buick , thì ông lái xe Yulong , cho nên chạy rất là chậm . À ! Không phải là xe Yulong , ông đi xe ngựa . Nhưng ngay cả xe ngựa ông cũng thấy sang quá , cho nên ông cỡi ngựa . Sau đó ông nghĩ nó vẫn còn xa xỉ , thành ra ông quyết định đi bộ , rất chậm , rất là chậm !
Ông vừa đi vừa dạo chơi , vòng qua Ba Lê và nhiều nơi khác . Cho nên lâu lắm mới tới chỗ ở của người biết bí pháp trường sinh bất tử kia . Vì quá chậm và quá trễ nên khi đến nơi thì người đó đã chết rồi ! (Mọi người cười).
Vua nước Yên biết được rất là giận dữ . Ông hét lớn lên giống như lúc tôi la lên vậy , tuy nhiên cũng không được lớn bằng vì ông ta không có tu Pháp Môn Quán Âm (Mọi người cười). Tiếng la của ông không lớn bằng tôi , vì tôi có "khí" nhờ luyện Pháp Quán Âm . Giận kiểu như vậy mới thật là vui (Cười).
Nhà vua rất tức giận , muốn lôi thị giả đó ra chém đầu ngay . Lúc bấy giờ có một vị đại thần đứng ra xin nhà vua tha thứ , đừng giết người đó . Ông tâu với vua rằng : "Trên đời này , ai cũng tham sống , sợ chết . Bây giờ vì thuật trường sinh bất tử mà giết người tức là làm trái với lý tưởng của chúng ta . Hơn nữa người kia khoe ông ta biết bí pháp trường sinh , nhưng bây giờ đã chết , không thể tự cứu mình , chứng tỏ bí pháp của ông là vô dụng ! Cho nên , xin ngài đừng vì một người vô dụng mà giết một người hữu dụng của chúng ta".
Vua nước Yên nghe thấy có lý cho nên ông bắt đầu niệm Hồng Danh , thọ năm giới , theo nguyên tắc của Ngài Vô Thượng Sư Thanh Hải là không sát sanh (Cười).
Lúc bấy giờ , có một nước khác gọi là nước Tề . Ở nước này có một tên là Hồ Tử cũng nghe nói về người biết bí pháp trường sanh bất tử kia và ông cũng muốn tìm học . Cho nên , khi biết người đó vãng sanh , ông rất buồn rầu , và khóc . Một người bạn của ông tên là Phú Tử nói rằng : "Sao anh khờ dại thế ! Người đó nói biết cách trường sinh , nhưng bây giờ ông ta đã chết rồi anh không thấy người đó thật là hoang đường hay sao ? Anh khóc lóc cái gì chứ ? Đủ thấy anh cũng không có trí huệ , còn không biết mình học cái gì".
Hồ Tử nói với bạn Phú Tử rằng : "Anh đã lầm ! Có người tuy biết bí pháp , nhưng vì không biết cách xử dụng cho nên không thể dùng ; cũng có người biết áp dụng , nhưng không biết bí pháp chân chánh lưu truyền ở đâu". Chẳng hạn như trước đây tại nước Ngụy , có một người già rất giỏi về toán học . Lýc sắp qua đời , ông truyền lại môn toán học nầy lại cho người còn . Người con nghe hết tất cả , nhưng không giỏi toán được như cha mình . Lại có một người từ một nơi khác đến nhà của người con đó , xin được học môn toán đó . Khi trở về ông ta có thể giải bất cứ bài toán gì một cách chính xác , y như người cha kia . Vì ông hoàn toàn làm y theo những lời mà người con - một người không biết toán - chỉ lại và thực tập từng bước một . Kết quả ông làm giỏi y như người cha đã qua đời kia .
"Người biết trường sanh bất tử đó có lẽ biết bí pháp , nhưng ông không dùng hay tập không đúng cách . Nếu chúng ta học được của ông ta bí pháp đó , và tự tập lấy thì hay biết mấy !"
Pháp Môn Quán Âm cũng giống như vậy . Thấy quý vị ngồi lâu như vậy , mỗi lần ngồi mười mấy tiếng đồng hồ bất động và có thể nghiệm tốt như vậy , điều đó chứng tỏ pháp môn này là đúng , bí pháp này là chính thống . Như vậy quý vị cứ tiếp tục theo lời dạy của Minh Sư thì sẽ không sai được ! Đôi khi tôi gởi sứ giả Quán Âm đến dạy quý vị , sau đó quý vị tu theo lời của sứ giả Quán Âm . Dù tôi không có mặt cũng không sao , quý vị cứ theo phương pháp đó mà toạ thiền thì quý vị có thể có được thể nghiệm rất tốt .
Vị sứ giả Quán Âm đó tu hành chưa chắc đã giỏi hơn quý vị , cho nên quý vị không cần tôn sùng họ . Quý vị hãy ca ngợi Bản Lai Diện Mục của quý vị , tôn sùng lực lượng vạn năng của Sư Phụ bên trong , mà chúng ta vốn đã có . Qua sự hướng dẫn của sứ giả Quán Âm và tu hành đúng theo phương pháp Minh Sư dạy , nhất định chúng ta sẽ đạt được đạo mà chúng ta khao khát .
Tuy nhiên nói là nói vậy , nhưng phương pháp là quan trọng nhất ! Nguồn năng lực sinh động phải được truyền sang cho chúng ta thì lực lượng bên trong của chúng ta mới có thể khai mở được .
Thật ra , người này có lẽ tình cờ biết được bí pháp này , có lẽ học được tự một vị thầy đã đắc đạo . Cho nên người khác có thể học lại từ câu cũng không sao . Bí pha'p này không phải nơi nào cũng tìm được . Tại sao không có người nào mà chỉ có người cao niên ở nước Yên đó biết bí pháp trường sanh bất tử ? Và tại sao ông đã biết mà bản thân ông vẫn chết ?
Coa hai cách giải thích : Thứ nhất người nước Yên và nước Tề hiểu sai những điều giảng về pháp trường sanh bất tử kia . Trường sanh bất tử cũng không có nghĩa là thân thể này vĩnh viễn hiện hữu , mà là linh hồn của chúng ta vĩnh viễn được giải thoát . Khi chúng ta đạt được cảnh giới bất sinh , bất tử , bất cấu , bất tịnh , vô hủy diệt , không ô nhiễm , không bợn nhơ lúc đó chúng ta mới thật là trường sinh bất tử . Tuy nhiên một người bình thường , hễ nghe nói trường sinh bất tử , là họ nghĩ về phương diện vật chất . Cho nên khi nghe người đó chết , họ thất vọng , hoặc họ cười những người muốn theo học pháp trường sinh của người đó : "Nếu ông thầy đó cũng chết , tại sao chúng ta phải theo học ?" Tôi nghĩ cách giải thích này có lý hơn .
Một cách giỉ thích nữa là : Có lẽ người đó học được bí pháp , nhưng không thực hành . Có lẽ có một phương pháp trường sinh bất tử thật , sống được mấy ngàn năm , mấy vạn năm mà vẫn không già . Chúng ta không nên kết luận rằng nó có hay không có . Chưa biết thật sự thì không nên phủ nhận gì cả . Nếu không biết thì chúng ta nói là không biết . Nếu biết thì chúng ta nói : "Có , tôi biết".
Nếu người kia biết cách để trường sinh bất tử , tại sao lại chết ? Có thể là vì ông không làm được phương pháp thầy ông dạy , hoặc không tu tập pháp đó một cách nghiêm chỉnh , cho nên mới không có kết quả , điều này cũng có thể lắm .
Thí dụ , nhiều người biết luyện Thái Cự Quyền , hoặc biết nhảy Tango , Rumba , hay Cha Cha Cha , qua sách vở . Bước thứ nhất là chân phải , bước thứ hai là chân trái , sau đó xoay trái , xoay phải , tiến tới trước , lùi ra sao , ... họ biết hết và có hình chỉ cách cho từng bước nhảy , nhưng chính họ không tập , hay chỉ tập một hai ngày , không thường đi câu lạc bộ khiêu vũ , cho nên quên mất .
Nếu chúng ta được những hình ảnh chỉ dẫn này từ người đó , chúng ta cũng tự tập lấy được . Có lẽ không hoàn hảo lắm ; nhưng một khi học được những động tác căn bản , chúng ta có thể tập luyện và sẽ giỏi hơn . Có thể nếu được tập với một người chuyên môn , chúng ta sẽ càng tiến bộ hơn nữa . Sau đó cộng thêm trí thông minh của mình , phát huy tài hoa , chúng ta có thể nhảy đẹp hơn nữa .
Tại sao Trung Quốc lúc bấy giờ , chỉ nghe có người đó biết bi pháp trường sinh bất tử , mà không ai khác biết ? Có lẽ giống như sứ giả Quán Âm của chúng ta , không phải chỗ nào cũng có nhiều . Chẳng hạn như , Minh Sư chỉ có một hay hai người , và số đệ tử của các ngài có khả năng đi truyền pháp được cũng không nhiều lắm , không phải lúc nào cũng gửi được hàng chục người tới từng nơi như vậy . Đó là tại sao lúc bấy giờ ở nước đó người ta chỉ nghe nói có người ấy mới biết mà thôi (Vỗ tay).
Tình Thương Vô Điều Kiện của Một Minh Sư
Tình Thương Vô Điều Kiện của
Một Minh Sư
Ở Mỹ có một vị minh sư khai ngộ tên là Yogananda . Trước khi được thọ tâm ấn , ông gặp sư phụ của ông lần đầu tiên ở ngoài phố . Ông rất tin tưởng vị minh sư này , nên xin ngài được thọ pháp . Ngài bằng lòng và nói rằng : "Hãy đến gặp ta vào một ngày khác , rồi lúc đó ta sẽ truyền tâm ấn cho , và nhận ngươi làm đệ tử". Ngài còn nói thêm : "Hôm nay ta đến để kiếm ngươi . Nhưng khi đến chỗ ở của ta , ngươi sẽ là người kiếm ta . Lúc đó ngươi sẽ phải cầu khẩn ta , chứ không thể nào tới xin ta truyền tâm ấn tự nhiên như vầy được".
Yogananda nói : "Không sao , con sẽ làm như sư phụ nói".
Sau đó ông đến xin minh sư này truyền pháp cho ông . Quý vị biết tại sao họ lại hành động như vậy không ? Nghi thức vẫn là quan trọng để thử thách xem người kia có nhiệt tình đối với pháp môn đó hay không . Ming sư này e rằng người kia sẽ coi ông như bạn vì trước đó họ đã gặp nhau rồi . Lúc đó người này có thể bước vào nhà nói với thầy rằng : "Chào Ngài ! Ngài chịu truyền pháp cho tôi không ? Tụi mình gặp nhau ngoài chợ lúc đi mua rau đó , nhớ không ?" (Cười). Vì nghĩ rằng Yogananda có thể sẽ tới với thái độ đó , nên ngài căn dặn : "Khi đến với ta , ngươi phải trịnh trọng , nghiêm trang , và cuối đầu xin ta nhận làm đệ tử . Như vậy ta mới truyền pháp cho . Dù hôm nay chúng ta đã quen nhau , nhưng khi đến gặp ta ngươi vẫn phải cuối lạy ta".
Lý do thứ nhất là nghi thức . Lý do thứ hai là để coi người này khiêm nhường như thế nào . Lý do thứ ba là để giữ khoảng cách tôn nghiêm giữa thầy và trò vì sẽ có nhiều đệ tử khác nhìn họ . Nếu ông đối xử với một đệ tử tự nhiên quá thì sau này rất khó dạy những đệ tử khác . Hơn nữa , là một người mới vô , không biết quy luật , ông có thể rất dễ nôn nóng và buộc miệng nói rằng : "Hôm nọ chúng ta ở chợ mua rau với nhau , và ngài có hứa truyền pháp cho tôi . Pháp môn này thật ra như thế nào ? Đem ra cho tôi coi thử !" (Cười).
Vì vậy sư phụ ông phải dặn kỹ càng . Thật ra như vậy là ngài có lòng thương . Không những truyền pháp cho người đó mà còn dạy ông ta cách xử thế đứng đắn của một người đệ tử .
Ngày hôm đó , Yogananda đến nơi thầy ở để xin thọ pháp và tuân theo mọi nghi thức . Trước khi truyền pháp , sư phụ ông nói với đệ tử rằng : "Ta nhận ngươi làm đệ tử của ta một cách vô điều kiện . Dù đức hạnh , đẳng cấp tu hành của ngươi có cao hay thấp , dù tính tình của ngươi xấu hay tốt , dù hành vi của ngươi cao thượng hay thấp hèn , ta vẫn mãi mãi yêu thương ngươi , che chở cho ngươi , và chấp nhận ngươi như một người bạn tốt". Yogananda : "Dạ".
Dĩ nhiên có một ông thầy như vậy thì thật là tốt quá ! Sư Phụ ông tiếp tục nói với một vẽ nghiêm trang : "Nhưng ta có một điều kiện". Tim ông hồi hộp , bỗng nhiên lại có điều kiện ! Sư Phụ ông nói : "Ta chỉ có một điều kiện duy nhất , đó là ngươi cũng phải chấp nhận và yêu thương ta một cách vô điều kiện giống như ta đã chấp nhận ngươi . Ngươi phải thương yêu ta bất chấp đẳng cấp của ta , tính tình của ta , hành động của ta , dù xấu hay tốt . Ngươi có thể làm như vậy được không ?"
Yogananda do dự rồi đáp : "Thưa sư phụ , là một vị thầy đắc đạo , dĩ nhiên là có đẳng cấp cao . Chúng con quý sư phụ vì ngài là tối thượng . Như sư phụ đã nói , đôi khi ngài rất thấp ; nhưng nếu con thấy ngài làm điều gì không phải , vô đạo đức hoặc thấp kém về mặt tâm linh , chắc con sẽ không chấp nhận được" (Cười).
Rồi sư phụ ông nói : "Thôi được ! Ta chẳng cần tình bạn của ngươi , không ra gì cả !"
Ý nói ông là một người bạn không tốt , bạn kiểu này không phải là bạn thật .
Yogananda xấu hổ quá bèn nói : "Xin lỗi sư phụ . Con sẽ mãi mãi thương sư phụ , bất chấp đẳng cấp của ngài , đức hạnh , hay tính tình của ngài . Nếu sư phụ bị ngã , con sẽ che chở cho ngài ."
Sư phụ ông vui lòng đáp lại : "Như vậy thì tốt ! Được , ta nhận ngươi làm đệ tử của ta ."
Sau đó ngài truyền tâm ấn cho Yogananda .
Tại sao sư phụ của ông lại yêu cầu như vậy ? Ngài có cần ông ta phải trung thành không ? Tôi cũng không biết tại sao ngài lại đòi hỏi như vậy . Tôi chưa bao giờ đòi hỏi quý vị như vậy . Không phải ngài là một minh sư không hoàn mỹ , nhưng ngài sợ đệ tử của mình sẽ đem đầu óc và khả năng phàm phu ra phê bình ngài . Nên ngài muốn củng cố lòng tin của người đó trước . Vì thế ngài mới nói rằng : "Dù ta có như thế nào đi nữa , ngươi vẫn phải thương yêu và kính trọng ta ." Như vậy ông sẽ không tạo nghiệp cho mình và lòng tin sẽ không bị giao động . Vì đã hứa như vậy nên ông phải giữ lời .
Cho nên , mỗi khi thấy sư phụ ông làm điều gì không đúng , ông sẽ nhớ lại giờ phút này và sẽ không dám tùy tiên phê bình . Ông cũng nhớ rằng sư phụ đã chấp nhận mình . Nếu vị minh sư đó chấp nhận chúng ta được , thì tại sao chúng ta không thể chấp nhận họ ? Nếu chúng ta tin rằng sư phụ của chúng ta đã đắc đạo , thì ngài có thể nhìn thấy nghiệp quả , đức độ và lỗi lầm của chúng ta . Ngài có thể thấy một cách rõ ràng , nhưng vẫn nhận chúng ta làm đệ tử , vẫn thương yêu , cứu vớt chúng ta mỗi khi chúng ta bị sa ngã .
Là một người phàm phu , chúng ta không nhìn thấy được nghiệp chướng , đạo đức và lỗi lầm , thì làm sao có thể phê bình họ được ? Minh sư đòi hỏi chúng ta phải như vậy chỉ vì muốn củng cố lòng tin nơi chúng ta , và giúp chúng ta đừng tự gây nên nghiệp chướng cho chính mình . Họ không phải là minh sư khai ngộ không hoàn mỹ ; trái lại họ là chúng sinh hoàn mỹ nhất . Nếu không hoàn mỹ thì họ không thể vô sở bất tại được , và không thể cứu độ đệ tử bằng muôn vạn ức hóa thân , cũng không thể nghe và đáp ứng cho cả vũ trụ này .
Có thể đôi khi , chúng ta không có nhiều thể nghiệm , nhưng những đồng tu khác có , như vậy lòng tin của chúng ta cũng được cũng được củng cố . Nếu một người luôn luôn nghe được và đáp ứng được cho từng người khác , nhất định người đó phải có một cái gì đó rất là vĩ đại . Hơn nữa , tất cả sự cống hiến , giúp đỡ của họ đều là vô điều kiện . Vì thế chúng ta vẫn có lòng tin , cho dù chúng ta không có nhiều thể nghiệm . Nếu sau khi nghe những câu chuyện như vậy mà chúng ta vẫn chưa có lòng tin , thì chỉ có nước Thượng Đế xuống địa ngục cứu quý vị , không còn ai khác . Cho nên , đọc những câu chuyện này đừng có lật cho qua trang thôi , mà còn pahri học nữa .
Giả sử sư phụ của chúng ta không hoàn mỹ đi nữa , như vậy còn chúng ta thì sao ? Chúng ta có hoàn mỹ không ? Không ? Vậy thì khỏi phê bình ! Thành ra , tu hành không có khó , giữ vững lòng tin mới là khó . Càng nghĩ rằng mình có lòng tin mãnh liệt , thì chúng ta càng bị khảo nhiều hơn . Nếu chúng ta không nghĩ rằng mình vĩ đại , từ bi , có lòng tin vững chắc và nếu không ham đi độ chúng sinh , chúng ta sẽ bị khảo ít hơn . Là một người phàm phu , lực lượng của ma sẽ không thèm làm rộn chúng ta , vì chúng ta không có những kỳ vọng to tát .
Muốn độ chúng sinh cần phải có lực lượng vạn năng và đạt được quả vị Phật một cách nhanh chóng , đạt được hôm qua thì tốt hơn . (Sư Phụ và mọi người cười) Nhưng lúc đó những bài khảo dồn dập tới thì đừng có than . Nếu không muốn bị khảo nhiều , thì đừng kỳ vọng nhiều . Hãy coi thử chúng ta làm được những gì trong phạm vi khả năng của mình , những gì chúng ta đã làm trong quá khứ , và những gì chúng ta có thể làm được trong tương lai .
Còn lòng tin thì rất hữu dụng , nhưng không phải ai cũng giữ được . Tôi không có ý trách người nào , nhưng chúng ta nên biết những yếu điểm của mình để mà chuẩn bị tinh thần . Khi rớt xuống đẳng cấp nào đó thì mất lòng tin , chúng ta sẽ nhớ lại rằng có lần Sư Phụ đã nói quý vị là những chúng sinh rất yếu đuối , khổ một tí cũng không chịu nổi . Quý vị đã đọc nhiều chuyện , và biết rằng giữ vững lòng tin rất khó .
Thờ Phật gỗ còn dễ hơn thờ Phật sống . Phật sống phải đối phó với nhiều hoàn cảnh , nhiều công việc , bằng nhiều cách khác nhau . Khi thấy cách làm việc của họ không phù hợp với ý thức của chúng ta ; ý thích "cao cả", "khai ngộ" của chúng ta , chúng ta nghĩ vị Phật đó là tốt . Chúng ta không hiểu được nên chỉ đoán mò mà thôi .
Minh sư khai ngộ không màng đệ tử nghi ngờ hay không nghi ngờ mình , họ chỉ muốn dạy đệ tử làm sao để giữ vững đức tin .
Một ngày nọ , Yogananda bỏ đi . Sao ông ta lại bỏ đi ? Vì ông đã sống với thầy một thời gian lâu rồi , mà vẫn không thấy "thể nghiệm" gì cả ! Ông nghe nói có những vị minh sư rất giỏi đang tu hành trong những sơn động tại một nơi nào đó . Cho nên ông đến bên sông Hằng , trèo non lội suối để đi kiếm họ và ở với họ vài ngày . Nhưng tất cả các vị minh sư trên đó đều nói ông đã gặp đúng thầy rồi , và khuyên ông nên trở về . Tại đây ông cũng có được một vài thể nghiệm rất tốt . Đây là một trong những câu chuyện của ông .
Có lần , ông đi đến một sơn động , vì nghe nói ở đó có một bậc đại minh sư , một vị trưởng sư huynh của sư phụ ông , cùng học chung một thầy . Ông nghe nói vị này rất là vĩ đại , có thể còn "vĩ đại hơn" sư phụ của ông nữa , vì người này tu lâu năm hơn . Ông vượt đèo , lội suối , cuối cùng tìm được hang động . Ông ngồi đó , trong lòng đầy những kỳ vọng to tát , bóp chân cho vị minh sư này một cách khiêm tốn để được gia trì .
Tối hôm đó , ông thấy ánh sáng khắp mọi nơi . Chỗ nào cũng sáng , nhắm mắt hay mở mắt cũng không thể nào ngủ được , ông bèn hỏi thầy : "Sư phụ , tại sao kỳ vậy ? Trong này không có đèn , ngoài kia cũng không có gì chiếu . Tại sao sáng vậy ?"
Vị minh sư trả lời : "Ngủ đi ! Đừng có hỏi nhiều !"
Ông nằm xuống vẫn không ngủ được , lại phàn nàn nữa : "Làm sao con ngủ được ? Nhắm mắt hay mở mắt gì cũng thấy sáng quá !"
Vị minh sư đáp : "Thôi được , nếu không ngủ được thì chúng ta hãy dậy uống trà ."
Họ uống trà với nhau cho đến sáng . Sau đó vị minh sư ở trong hang động mới nói với ông rằng : "Về đi , về với sư phụ ngươi . Ngươi đã tìm được đúng thầy rồi , đừng đi đâu thêm nữa ."
Ông rất lấy làm xấu hổ , và tin lời vị sư huynh thâm niên của sư phụ ông .
Khi về tới chỗ của sư phụ ông , ông lén bước vào nhà bếp ; nhưng sư phụ ông đã đợi sẵn ở đó . Ngài không trách cứ một lời nào , chỉ hỏi : "Ê , ăn gì chưa ? Lại đây ! Ta sẽ nấu cho ngươi ăn ."
Họ cùng nhau dùng bữa . Sau khi ăn xong , sư phụ ông nói : "Chúng ta phải nấu thêm . Lát nữa , đến hai giờ sáng sẽ có nhiều người từ xa đến gặp ta . Thế nào họ cũng đói lắm ."
Yogananda tự hỏi : "Lạ nhỉ ! Ở đây sao sư phụ biết chuyện này ? Chắc Ngài cũng giỏi thật . Nếu không thì tại sao biết những chuyện này ?"
Ở đó không có điện thoại , không có người đưa tin , nhưng sư phụ ông vẫn biết một cách tự nhiên . Yogananda có chút nghi hoặc , nhưng ông biết sư phụ ông không giỡn chơi những chuyện như vầy . Ông bèn giúp thầy chuẩn bị thức ăn cho những người kia . Sau đó , hai giờ sáng , quả thật có rất nhiều người đến ăn .
Sau khi bếp núc xong , sư phụ ông đi nghỉ ngơi . Sau đó ngài đưa ông đến một nơi ngoài cửa . Khi ông ngồi xuống , sư phụ ông vỗ lên ngực ông một cái . Tức thì ông có được một thể nghiệm tuyệt vời ở bên trong . Trong thể nghiệm nầy , ông trông thấy mọi vật chung quanh rất là khác lạ , vô cùng trong suốt và rất là sáng . Thân thể ông như tan biến , và cả thế giới đều trở nên trong suốt . Tất cả đều sáng và nhìn rất là khác lạ . Ông quỳ xuống lạy thầy , trong lòng vô cùng biết ơn .
Sư phụ ông lắc đầu nói : "Thật tội nghiệp ! Vượt núi , băng sông lợi lộc gì cho ngươi chứ ?"
Yogananda vừa mới đi hành hương từ núi , sông trở về ; cho nên ông hiểu sư phụ ông muốn nói gì . Từ đó về sau , ông không bao giờ bỏ thầy mà đi nữa .