Sự Nguy Hiểm Của Thần Thông Mà Không Có Trí Huệ
Sự Nguy Hiểm Của Thần Thông Mà Không Có Trí Huệ
Có một câu chuyện nói về những ngươi học trò rất tha thiết muốn tìm một vị minh sư để tu hành . Bởi vị Minh Sư này có rất nhiều thần thông , nên họ cũng muốn có một ít . Tuy nhiên , vị Minh Sư luôn luôn từ chối , bảo rằng họ chưa sẵn sàng học những cái đó , bởi vì có thần thông khi chưa có đạo đức và trí huệ thì rất là nguy hiểm . Nhưng những người học trò này không chịu nghe . Họ thấy sự phụ họ làm đủ mọi chuyện thần kỳ , họ cũng muốn được chút ít như vậy , đặc biệt là cách làm cho người ấy chết sống dậy . Họ rất thích chơi trò đó , nên cứ năn nỉ sư phụ họ hoài , cho tới một hôm vị minh sư phải chịu thua và đành phải dạy họ bí quyết để làm người chết sống lại .
Học được phép lạ này , họ rất là khoái chí . Sau đó , họ bỏ thầy ra đi , vì họ chỉ muốn biết bấy nhiêu đó thôi . Họ rũ nhau cùng đi nơi khác . Trên cuộc hành trình , họ đi ngang qua một vùng rất là hoang vắng ; hàng trăm rồi chỗ này không có một người nào ở . Thấy trên đường có một số xương khô , họ muốn thử nghiệm phép thần thông mà họ vừa học được . Họ bèn niệm chú , khoa chân múa tay , bla , bla , bla như vầy . Bỗng nhiên tất cả xương khô bay lên , nối lại với nhau hóa nguyên hình thành một con vật còn sống . Da thịt nó sống lại , rồi tới sừng , rồi tới răng nanh mọc ra , thành một con khủng long khổng lồ của nhiều triệu năm về trước . Nó đuổi theo bắt họ ăn thịt , giải thoát cho họ luôn !
Đây cũng là một trong những nguy hiểm của sự bắt chước . Bắt chước minh sư mà không có trí huệ của một người thật sự liễu ngộ , không có khả năng kiềm chế tính tò mò của mình , không phải vì lòng từ bi để kịp thời giúp đỡ chúng sinh , mà chỉ vì muốn thỏa mãn trí tò mò hay để khoa trương lực lượng của mình thì rất là nguy hiểm . Vì vậy , trong sự tu hành , tôi không khuyến khích ai dùng thần thông . Nếu quý vị có cũng không nên dùng .
Như tôi đã nói , đó chỉ giống như vai mượn từ nhà máy điện chung , không phải từ nhà máy điện tối cao . Khi mượn cái gì từ cảnh giới thấp , quý vị nhất định phải trả , và còn phải trả thêm tiền lời nữa . Khi quý vị lãnh ngộ được từ đấng tối cao , từ đấng toàn năng toàn giác , thì nó thuộc về quý vị , thuộc về lực lượng của Thượng Đế ; quý vị không phải trả gì hết .
Có một minh sư kia , tôi không nhớ tên . Ông càng ngày càng già , cho nên mắt ông cũng theo tuổi tác mà lòa đi , lòa tới nỗi không nhìn thấy đệ tử , không còn nhận ra những gì chung quanh nữa . Có một người kia chuyên dùng thần thông chữa bịnh (khi họ để tay lên người mình là lành bệnh , thí dụ vậy) nói với minh sư này rằng : "Hãy đến đây , đặt niềm tin vào tôi , tôi có thể chửa khỏi mắt và ngài sẽ nhìn lại được".
Nhưng vị minh sư đáp : "Đừng , đừng . Tôi đã thấy những gì tôi cần thấy rồi , đó là những thứ ở bên trong . Những thứ khác không có quan trọng gì cả".
Đó là thái độ đúng đắn của một nhà tu hành . Chúng ta đừng bao giờ ham dùng thần thông chữa bịnh , ham có thần thông và những thứ tiện nghi đó . Nó chỉ là tạm thời , tạm thỏa mãn một chút thôi , không có cái gì lấy mà không cần phải trả . Chỉ có thế giới thứ năm là thứ gì cũng tràn đầy và đều miễn phí . Còn tất cả những thứ khác đều từ vật chất mà ra , trong thế giới này và trong tam giới , nếu chúng ta lấy quá nhiều cho riêng mình , thì chỗ khác sẽ bị thiếu . Cho nên , thần thông không gì khác hơn là lấy một thứ gì đó từ chỗ này đặt vào chỗ khác mà thôi .
Sự Tu Hành của Moses Yên Lặng và Chấp Thuận
Sự Tu Hành của Moses Yên Lặng và Chấp Thuận
Quý vị biết Moses ? Ai cũng biết Moses là một người nổi tiếng với Mười Điều Răn . Ông là người câu thông với Thượng Đế , biết Thượng Đế , nghe tiếng Thượng Đế , và nhận được Mười Điều Răn trực tiếp từ Thượng Đế . Tuy đó là những điều răn của Thượng Đế , nhưng mới nửa chừng nó cũng bị thay đổi , sửa chữa rất nhiều . Tôi không biết tại sao . Có lẽ không phải vì tính nóng nảy của Thượng Đế (Sư Phụ cười) mà là vì Moses . Giống như tính tôi , tính nóng của ông cũng ghê lắm (Sư Phụ cười). Cho nên ông giận quá quăng tảng đá khắc Mười Điều Răn của Thượng Đế đi . Tôi nghĩ về sau ông làm lại . Có lẽ ông mất thêm bốn mươi ngày nữa (Sư Phụ cười) để khắc chữ lên đá , mất rất là nhiều thời gian .
Bây giờ để coi Moses làm thêm gì trong cuộc đời của ông . Đây là một câu chuyện ngắn về Moses , khi ông hãy còn tu hành để thành minh sư . Lúc đó vì chưa là minh sư , cho nên tính nóng nảy của ông chưa có thời giờ nổi dậy , tuy nhiên quý vị cũng có thể cảm nhận được ít nhiều sự nóng nảy của ông trong lúc này . Sau này Moses mới trở thành minh sư . Trước khi lãnh đạo con người trên đất Ai Cập , ông tu hành với một vị thầy rất vĩ đại .
Bài học đầu tiên mà vị thầy này bắt ông phải học là giữ yên lặng . Hai thầy trò đi giao du qua một vùng quê nọ , ông thầy bắt đệ tử phải tập tánh yên lặng . Vị minh sư này có lẽ đã nhận Moses làm đệ tử rồi , và có lẽ biết ông có tư cách là một minh sư tương lai .
Nhưng tuy vậy , như quý vị biết , dạy người rất là "dễ" (Sư Phụ cười). Nhưng làm họ tin , hiểu , và giữ giáo lý thì rất là khó . Dạy thì có thể làm được , nhưng họ có nghe lời hay không lại là chuyện khác . Cái đó rất quan trọng , là điều cốt yếu , và rất , rất là khó . Moses bắt đầu theo học với minh sư này , và vị này dặn ông bất cứ chuyện gì xảy ra cũng phải giữ yên lặng . Yên lặng có nghĩa là câm ... mồm . Nhưng khó lắm !
Ông thầy nói : "Bất cứ chuyện gì xảy ra , ngươi cũng phải giữ yên lặng . Đừng nói chuyện tiếng nào cả , chỉ khi nào ta cho phép mới được nói ".
Moses đáp : "Dạ vâng !"
Rồi hai thầy trò du ngoạn qua các vùng quê trong một thời gian khá lâu , có khi dừng lại chỗ này , có khi dừng lại chỗ kia , có khi dừng lại ở khách sạn . Một hôm , họ đi qua một miền quê rất , rất đẹp , đẹp kinh khủng , đẹp hoa mắt , đẹp tới nỗi Moses không thể không mở mắt nhìn và mở cả miệng nữa . Không những mở , mà còn phải ra thành tiếng : "Ồ , sư phụ ơi , đẹp không kìa ?" (Sư Phụ và mọi người cười).
Nhưng ông thầy vừa la vừa tha thứ : "Ta đã bảo ngươi c .. c .. âm miệng " (Mọi người cười).
Moses nói : "Ồ , xin sư phụ tha lỗi cho con . Tha lỗi . Tha lỗi . Con sẽ câm miệng . Con sẽ không nói nữa đâu ".
Đi một hồi nữa , họ đến bên một con sông . Bên bờ sông có một bà mẹ đang khóc vì con bà vừa mới bị nước cuốn đi . Dòng nước rất , rất mạnh . Moses muốn cứu đứa bé nhưng thầy không cho . Dĩ nhiên là Moses cũng không thể cứu được vì dòng nước chảy mạnh quá .
Moses hỏi thầy : "Sư phụ , ngài nói có nhiều lực lượng . Ngài là vạn năng . Ngài cứu đứa bé được không ? Người mẹ đang khóc kìa , sư phụ không thấy sao ? Đứa bé sắp chết chìm , vậy mà sư phụ vẫn yên lặng được sao ?"
Ông thầy : "S.. suỵt ! Yên lặng !"
Mắt ông thầy nhìn như vầy ... (Sư Phụ giả bộ nghiêm liếc mắt . Mọi người cười). Quý vị biết cái nhìn đó rồi , của người mà tôi không nói tên ra (Mọi người cười). Khi giận , trông bà ta cũng giống vậy . Đôi mắt bà ta trợn lên to gấp hai lần thường lệ (Mọi người cười). Bây giờ quý vị biết người đó là ai rồi chứ ? Người đó gọi là Tử .. Tử .. Tử gì đó , tôi không biết .
Mặc dù Moses nghe lời thầy vẫn giữ yên lặng , nhưng đối với chuyện đứa bé bị chìm , ông vô cùng khổ tâm , nhưng lại không thể hỏi , chỉ biết trách thầm thầy mình . Ông nghĩ bụng : "Người này chắc là một người thiếu mẫn cảm ; không có lòng từ bi , không thương yêu nhân loại . Ổng lúc nào cũng dạy chúng ta phải từ bi ; chúng ta phải có lòng thương yêu người khác ; chúng ta phải giúp đỡ người thiếu thốn , khổ sở , hoạn nạn này nọ ; chúng ta phải giúp đỡ loài người . Vậy mà ở đây , ổng cứ đứng đó nhìn đứa bé bị chìm , người mẹ bất lực khóc con mà không chịu làm gì cả ".
Mặc dù trong lòng ông rất ngờ vực , rất nghi ngờ và rất khổ tâm , mang nhiều ý nghĩ trách cứ thầy , nhưng vẫn ngậm miệng lại . Dù Moses năn nỉ thầy thi triển thần thông này nọ , nhưng thầy không giúp . Ông biết phê bình thầy là không đúng , nhưng ông không thể không làm vậy ; ông không thể gạt bỏ những ý tưởng xấu về thầy trong suốt một thời gian rất lâu như vậy .
Thế rồi trong khi họ đi khắp nơi trong nước , có lẽ họ cũng đi vòng quanh để gặp những đệ tử khác . Hồi xưa không có xe hơi như ngày nay , có lẽ vì vậy mà họ đi bộ . Khi có tiền thì họ đi xe ngựa , nhưng có lẽ hai người không có nhiều tiền nên phải đi bộ .
Một hôm , khi đi đến một bãi biển kia , hai người trông thấy một chiếc tàu đang từ từ chìm xuống . Moses không dằn được lại phải mở miệng ra một lần nữa . Ông nói : "Nhìn kìa , sư phụ ! Nguyên chiếc tàu đang chìm kìa . Sư Phụ thấy không ? Và cả những người trên tàu cũng sắp sửa bị chìm . Sư phụ có thể làm gì để giúp họ không ?"
Ông thầy đáp : "S .. uỵt ! Yên lặng !"
Thầy chỉ nói bấy nhiêu đó . Dĩ nhiên Moses không nói gì nữa và yên lặng . Nhưng ý tưởng trách móc càng lúc càng nhiều . Trong lòng ông hết sức nặng nề và đau khổ .
Khi trở về nhà , ông than thở , không phải với thầy mà là Thượng Đế . Ông nói : "Thượng Đế ơi , Ngài bảo con theo người này , nhưng Ngài thật sự không hiểu người này đâu " (Sư Phụ và mọi người cười).
Thượng Đế trả lời : "Không được nói bậy . Làm sao ta lại không hiểu ?"
Moses nói tiếp : "Nhưng Thượng Đế , ngài không biết đâu . Ổng thấy một đứa bé sắp chết và ổng thấy một cái tàu sắp chìm với cả đoàn người - hơn ba mươi người trên đó sắp chìm , mà ổng không làm gì cả , cũng không một chút động lòng , không chớp mắt . Ổng là người như vậy đó , mà ngài lại bảo con theo ".
Thượng Đế trả lời : "Ngươi mới là người không biết gì cả mà thôi . Đứa bé chết chìm kia là người sẽ gây ra chiến tranh tàn khốc giữa hai quốc gia , trong đó sẽ có hàng trăm ngàn người chết và hàng triệu người bị thương . Cho nên tai họa xảy đến cho nó như vậy rất tốt , và sự chết chìm của nó đã cứu được rất nhiều mạng người . Còn chiếc tàu chìm kia là tàu hải tặc . Những tên hải tặc đó sắp sửa đi ăn cướp lớn , gần cửa biển đó , rất gần chỗ bị chìm . Tàu chìm và tất cả những tên hải tặc đó chết , như vậy rất tốt . Thành phố đó thoát nạn cướp của , giết người , hãm hiếp và đủ thứ mọi chuyện không may do những tên hải tặc này gây ra . Bây giờ thì ngươi biết rồi , tất cả những người vô tội được cứu là nhờ đứa bé bị chết đuối và tàu hải tặc bị chìm ".
Kết cuộc Moses dĩ nhiên không nói nữa (Sư Phụ và mọi người cười) và "miệng bên trong" cũng câm luôn . Đó mới quan trọng . Không phải bên ngoài không nói là bên trong yên lặng đâu .
Thấy chưa Moses ít nhất cũng là một minh sư tương lai , nhưng trong thời gian tu học , ông lại là một người học trò gai góc và u minh như vậy . Quý vị có thể tưởng tượng nổi một vị minh sư hạy dỗ cho một người bình thường , kém thông minh hơn , ít trí huệ hơn , và ít phước báu hơn còn khó tới mức nào không ? Bởi vì muốn trở thành một vị minh sư , ông phải là người phi thường , có rất nhiều phước báu và trí huệ sẵn rồi , phải là một người có đẳng cấp cao . Muốn dạy một người đẳng cấp cao như vậy , minh sư cũng phải trải qua rất nhiều cực khổ .
Quý vị tưởng nếu Moses nghe lời thầy giữ yên lặng là đủ sao ? Không , không đủ . Không phải những cái ông làm bên ngoài , mà là cái bên trong , nó phóng ra một thứ năng lực độc hại , đôi khi thứ năng lực này làm cho vị thầy rất là khó chịu . Mặc dù ông thầy im lặng chịu đựng hết , nhưng không có nghĩa là không đau đớn . Có thể nó không làm đau đớn thân xác của vị thầy đó , nhưng nó có thể làm đau đớn tinh thần hoặc ảnh hưởng đến từ trường của người thầy . Nó không làm tổn thương trí huệ của thầy , lòng thương yêu nhân đạo của thầy , và con người thật sự của thầy . Có khi cả thể xác cũng bị đau đớn . Nếu một gánh nặng nào đó trầm trọng quá đến nỗi tinh thần không chịu đựng được , thì nó sẽ bộc phát ra bên ngoài và ảnh hưởng đến cả thể xác .
Cho nên , nếu năng lực đó quá mạnh và quá xấu thì cả tinh thần lẫn thể xác đều bị ảnh hưởng . Phần đông , khi một đệ tử quá gần gũi với thầy , như trường hợp của Moses đối với minh sư của ông , thì năng lượng này sẽ ảnh hưởng ông thầy rất là mạnh , ảnh hưởng một cách trực tiếp và rất khó mà chịu đựng nổi . Nhưng ông thầy dĩ nhiên là làm thinh không nói bởi vì không có chứng cớ , bởi vì Moses giữ yên lặng . Không ai biết ông đang âm thầm tấn công thầy ông bằng những tư tưởng chống đối kia ; ảnh hưởng của việc đó cũng mạnh mẽ như đánh đập ở bên ngoài vậy .
Tình Thương Và Lòng Thù Hận
Tình Thương Và Lòng Thù Hận
Xưa kia có một ông vua tên là Chang-Shou , tiếng Trung Hoa có nghĩa là Trường Thọ . Tuy nhiên , bây giờ ông không còn sống nữa . Cho nên quý vị thấy rằng thế giới này không có gì là vĩnh cửu cả (Sư Phụ cười). Này đó , vua Trường Thọ đi du hành trong kinh thành . Sắc mặt của ông có vẻ lo lắng vì đất nước sắp sửa có chiến tranh với một quốc gia láng giềng .
Nhà vua rất thương dân và là người rất tài giỏi , thông minh và sáng suốt . Ông không muốn dân chúng phải bị sát hại một cách tàn nhẫn vì chiến tranh , và không muốn thấy loài người phải bị đổ máu và chết chóc , cho nên ông vô cùng do dự và cố gắng để tránh tình trạng này . Nhà vua đi qua , đi lại trong kinh thành , nghĩ đến những điều không may sắp xảy ra trong tương lai . Những viễn tưởng này làm cho ông vô cùng lo sợ , buồn bã đến như là muốn khóc vậy .
Rồi ông nhớ lại lời của một vị đại thần trung thành nói rằng : "Khải tâu Hoàng Thượng , xin ngài đừng e ngại . Chúng ta có một quân đội hùng mạnh , được huấn luyện kỹ càng . Đất nước của chúng ta cũng rất giàu mạnh . Thần tin chắc chúng ta sẽ đương đầu nỗi với bọn chúng . Xin ngài đừng e ngại gì cả . Chúng hạ thần đã sẵn sàng và đang chờ lệnh của ngài".
Nhà vua càng suy gẩm càng cảm thấy đau lòng hơn , và càng do dự hơn . Từ khi lên ngôi tới nay , chưa bao giờ vua dùng sức mạnh gươm đao để trị vì quốc gia của ông . Ông cai trị nước của ông bằng tình thương , cho nên đất nước của ông rất thanh bình và thịnh vượng . Dân chúng rất thương yêu và kính trọng nhà vua phần nhiều là vì tình thương và đức tính cao cả của ông , cũng như hệ thống trị nước của ông . Cũng vì lý do đó , quân đội trong nước không được mạnh mẽ , hùng hậu cho lắm . Ông không có lòng tin là mình sẽ thắng trận .
Chưa bao giờ ông nghĩ tới việc xâm lăng hay gây chiến vơi nước khác . Ông không biết làm sao để đối phó với tình trạng trước mắt . Hiển nhiên nếu đem quân đội ra trận , cũng chưa chắc gì thắng nữa . Hơn nữa , nếu chiến tranh xảy ra , thì sẽ có người tử vong ; người thân bị chết sẽ làm cho nhiều gia đình tan nát . Chiến tranh sẽ gây ra rất nhiều nguy hại cho quốc gia và dân chúng . Sau chiến tranh , chắc chắn sẽ có trẻ mồ và góa phụ . Ông nghĩ đến những đứa trẻ ; chúng có tội tình gì mà phải chịu những đau khổ , tàn nhẫn của chiến tranh ?
Ông cứ nghĩ đến chuyện này và cảm thấy vô cùng đau xót . Ông quyết định ra đi . Ông muốn tìm một cái gì đó quý báu hơn tài sản , địa vị ở đời . Ông định giao trọn quốc gia cho quân địch . Có lẽ ông muốn ngồi thiền , được thọ pháp và ăn chay . Nghĩ rồi ông đi khắp cung điện để nhìn hoàng tử con trai ông và những cung thê , myc nữ một lần cuối . Họ vẫn say sưa ngủ , không biết ngày mai quốc gia sẽ đổi chủ .
Vua đến phòng hoàng tử để nhìn con lần cuối . Tên nó là "Chang-Shen", tiếng Trung Hoa có nghĩa là Trường Sanh . Người "Trường Sanh" không còn nữa và người "trường thọ" cũng hết thọ luôn . Nhà vua chăm chú nhìn con . Hoàng tử đang gục đầu trên bàn ngủ sau nhiều giờ đọc sách . Đứa con một này là nguồn an ủi duy nhất , là niềm vui của ông sau khi hoàng hậy qua đời . Bỗng nhiên hoàng tử tỉnh dậy . Trông thấy cha , chàng cất tiếng chào .
Vua nói với con rằng : "Này con , nước bên cạnh đã xâm lăng nước chúng ta và họ đang tính cướp ngôi và chiếm nước của mình . Nhưng cha không muốn dân chúng bị đẩy vào vực sâu đau khổ , chỉ vì cha muốn giữ ngai vàng . Chiến tranh sẽ gây đau khổ cho người dân nước bên kia , sẽ gây thiệt hại , thương vong cho đất nước của chúng ta , không tốt cho dân chúng của hai nước . Cho nên , cha đã quyết định nhường ngôi lại cho ông vua nước láng giềng . Chúng ta hãy lên núi tu hành".
Nghe vậy , hoàng tử không cầm được nước mắt . Tôi nghĩ chàng ta hãy còn thèm kẹo sô cô la trong cung điện , thèm thức ăn gia trì , vân vân ... Đi lên núi rồi tìm đâu ra được đồ ăn gia trì ? Chắc chắn sẽ không có kẹo thạch sương để ăn nữa . Cũng có thể hoàng tử sẽ rất nhớ nhà , nơi mà chàng đã sinh ra và lớn lên . Từ trước tới giờ chưa bao giờ hoàng tử phải chịu khổ cực . Nhưng khi nghe cha nói như vậy , chàng biết ngày tháng huy hoàng sắp sửa sẽ không còn nữa ; và kể từ nay , chàng sẽ phải chịu đựng nhiều cực khổ và làm việc nặng nhọc .
Ông vua và hoàng tử nắm tay nhau ra đi về phía rặng núi . Sau đó ông ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề , tu pháp môn Quán Âm . Có lẽ là như vậy . Trong thời gian sống ở đó , họ không còn nghe tiếng nói của một người nào khác ; dần dần rồi họ cũng quen với nếp sống như vậy và càng ngày càng cảm thấy dễ chịu hơn , không còn tiếc nuối cuộc sống huy hoàng trong quá khứ nữa .
Mỗi ngày hoàng tử đi vô rừng kiếm trái cây và rau dại ăn được mang về cho cha . Một ngày kia , hoàng tử lại đi nữa , để lại vua cha một mình ngồi thiền . Bỗng nhiên , nhà vua nghe thấy tiếng người từ đâu la hớt hải : "Ông ta kìa , ổng kìa ! Ông ta là nhà vua đó !"
Rồi có một người đàn ông nhỏ , vừa gầy vừa xấu , từ bụi rậm chạy ra . Người đó nói với vua rằng : "Hoàng cung đã bị kẻ thù xâm chiếm . Nhiều bậc trung thần đã tự vận để tỏ sự trung thành . Những người còn lại đều từ quan về quê làm ruộng . Vua láng giềng ra lệnh tầm nã hoàng thượng và hoàng tử . Dân chúng đang chịu rất nhiều đau khổ , không biết bao giờ thảm cảnh này mới dứt . Tôi đã đi tìm ngài khắp nơi trong nước . Hôm nay tìm thấy được , tôi thật là mừng quá .
Nghe vậy , nhà vua vô cùng đau khổ , bật khóc và hỏi : "Dân chúng chịu đau khổ cùng cực như vậy chỉ vì ta bỏ đi hay sao ?"
Người kia đáp : "Thưa phải , vì ngài chạy thoát , vua nước địch ra lệnh bắt bớ , tra khảo , hành hạ dân chúng rất nặng nề để điều tra xem ngài đi đâu , nhưng không ai biết cả . Nhà vua này nghi ngờ là dân chúng đang dấu ngài ở chỗ nào đó , cho nên hắn đánh đập người ta rất là tàn nhẫn . Ông còn hứa sẽ thưởng hậu hỹ cho người nào tiết lộ hành tung của ngài".
Nói đến đó người kia nắm lấy tay vua Trường Thọ và nói : "Ngài đi với tôi ngay bây giờ . Tôi muốn được lãnh thưởng". Nhà vua đẩy người gầy ốm đó ra , hắn té xuống đất . Ngài sắp sửa trách hắn một trận , nhưng rồi lại nghĩ : "Sao nỡ lòng để dân chịu đau khổ vì ta ? Thân thể này dù sao cũng chỉ là tạm bợ mà thôi !"
Dù tên là Trường Thọ , ông nhận thấy cuộc sống là vô thường . Ông nghĩ : "Ta có thể giữ thân thể này ngày hôm nay , nhưng đến mai rồi nó cũng sẽ tàn . Nếu trở lại cho địch thủ bắt , ta có thể cứu được rất nhiều người dân vô tội".
Ông vua vỗ vai người kia và nói : "Thôi được , nhà ngươi có thể đem ta về , như vậy ngươi sẽ được thỏa mãn và nhiều người khác cũng được an thân".
Nhà vua không chống cự nữa . Sau đó ông dùng đá khắc lên trên cây vài lời giã từ con trước khi đi . Ông sợ hoàng tử sẽ vô cùng lo lắng khi trở về không thấy cha . Nhà vua viết : "Cha đã bị bắt đem về kinh . Con hãy ở lại đây tiếp tục tu hành".
Sau khi dặn dò con phải tiếp tục tu hành thay vì vì chạy theo ông , nhà vua đi theo người kia . Người đàn ông nhỏ bé này tiếp tục hối nhà vua phải đi nhanh hơn . Ông này quả là một người u minh . Tình cảnh như vậy mà vẫn không cảm thấy xúc động gì cả . Đầu óc độc ác của hắn không hiểu thông suốt được như người tu hành . Sự ham muốn giàu sang đã làm cho mắt hắn mù đi , che đậy mắt của hắn lại và làm cho đầu óc hắn tối tăm .
Sau đó không lâu , hoàng tử từ trong núi đi ra , hai tay bưng một rổ đầy rau và trái cây đã hái về cho vua cha , nhưng không tìm thấy đâu . Chàng gọi nhưng không nghe tiếng trả lời . Bỗng nhiên , hoàng tử nhìn thấy được những hàng chữ viết trên cây . Chàng òa lên khóc .
Vua cha của chàng không còn ham muốn phú quý trần gian nữa . Ông đã trôi dạt đến đây và trở thành một người tu hành . Ông tỉnh tu dưới gốc bồ đề , không còn hứng thú đến việc trần gian , không còn khao khát giàu sang phú quý trên đời , cũng không còn muốn đoạt lại ngôi vua nữa . Ông làm như vậy chỉ vì muốn giảm bớt những giết chóc tàn nhẫn của quân thù đối với dân chúng của ông . Để làm vơi bớt đau khổ nhọc nhằn cho dân chúng , ông đã không ngần ngại từ bỏ ngai vàng . Vậy mà cũng còn có người đến bắt và muốn giết vua . Hoàng tử cảm thấy thế nhân thật quá ác độc ác và hung dữ không thể tưởng tượng được .
Ông vua và hoàng tử sống tại một nơi hoang vắng , không một bóng người , chỉ ăn trái rừng và uống nước suối qua ngày , cuộc đời bình thản như vậy , mà người ta vẫn tới bắt đem đi giết . Hoàng tử khóc lóc , không hiểu tại sao thế nhân lại tàn nhẫn như vậy .
Khi vua Trường Thọ bị đưa về kinh , vua láng giềng không chần chờ gì cả , vội chuẩn bị sửa soạn thiêu sống ông . Người trong nước đến tụ họp chung quanh chỗ hành hình , họ buồn rơi nước mắt vì họ biết ông là một vị vua tốt và rất thương dân . Người ta khóc không phải chỉ tiếc vì nhà vua phải chết , mà còn tiếc phải mất đi một người hiền lành , tử tế , có đạo đức , có tình thương . Hoàng tử lẩn trong đám người đang khóc lóc buồn bã đó . Chàng không thể không đến nhìn cha một lần cuối , dù biết rằng cha muốn mình ở lại trên núi để tiếp tục tu hành .
Hoàng tử không dám khóc lớn tiếng , mà chỉ ra dấu bằng tay cho cha biết là mình đang có mặt ở đó . Đang lúc đó quân lính đốt lửa . Vua Trường Thọ sắp tới giờ phút lìa đời . Nhưng khi trông thấy hoàng tử đứng đó ánh mắt đầy căm hận , nhà vua vô cùng lo lắng , sợ chuyện không may sẽ xảy ra , vì ông đọc được trong tâm hoàng tử như muốn nói rằng thế nào chàng cũng sẽ trả thù cho cha . Vua Trường Thọ cố gắng khuyên con .
Sắp chết tới nơi rồi mà ông vẫn rán dạy con . Nhưng ông không dám nhìn thẳng về phía hoàng tử đang đứng , mà chỉ ngẩn mặt lên trời mà nói : "Trường Sanh , con phải dùng tình thương để xóa bỏ hận thù . Con không nên dùng gươm đao để báo oán . Hãy sống một cuộc đời như Đức Phật hoặc Bồ Tát , với tình thương , lòng khoan dung ; đừng nghĩ tới hận thù hay bạo lực". Rồi nhà vua chết thiêu trong đám lửa .
Hoàng tử quá giận dữ , đau lòng mà ngất xỉu . Lúc đó chàng mới mời bốn tuổi . Còn trẻ mà phải chứng kiến cảnh cha mình bị chết một cách đau khổ , chắc quý vị cảm nhận được tâm trạng của chàng khi chứng kiến cha mình bị giết một cách tàn nhẫn như vậy . Dĩ nhiên hoàng tử khó mà cam lòng cho được . Càng nhớ tới cái chết của cha , chàng càng muốn báo thù . Hoàng tử nghĩ : "Người kia xâm chiếm lãnh thổ lại còn giết cha ta nữa . Ta phải trả thù hắn mới được . Ta phải trả thù !"
Trong đầu hoàng tử ngoài việc trả thù không còn một ý nghĩ gì khác . Càng bị đói lạnh , càng khổ cực , hoàng tử lại càng căm hận và muốn báo thù . Chàng suy tính những kế hoạch để có thể đến gần vua địch , càng gần càng tốt .
Theo kế hoạch đó , hoàng tử lên đường trở về kinh thành kiếm công ăn việc làm . Mau thay hoàng tử vô tình gặp được một ông đại thần nước địch ; ông này thấy chàng khôi ngô tuấn tú và khoẻ mạnh , liền mướn về giúp việc trồng rau , tưới hoa và săn sóc vườn tược . Hoàng tử rất thông minh và chăm chỉ làm việc . Chẳng bao lâu sau , mọi người trong gia đình vị quan này đều thương mến chàng . Vị quan này và tất cả những người phụ tá của ông đều rất tin tưởng và yêu thích hoàng tử . Họ quý mến và giao phó cho hoàng tử nhiều công việc . Vị quan này hoàn toàn không biết chàng trai trẻ kia là Hoàng Tử Trường Sanh , vì chàng hóa trang rất giỏi .
Một hôm , vị quan hỏi hoàng tử rằng : "Ngươi có tài năng gì khác ngoài những tài năng mà ta đã thấy không ?"
Hoàng tử đáp : "Tôi còn nấu ăn giỏi lắm".
Quả thật chàng nấu ăn rất ngon . Chàng nấu còn ngon hơn những tay đầu bếp khác trong nhà vị quan này . Nhờ đó , chàng càng được ông thương mến hơn nữa . Vì rất hãnh diện đối với hoàng tử Trường Sanh , ông mời nhà vua tới dùng bữa , dự định là sẽ khoe người nấu bếp giỏi và thông minh của ông . Tới ngày đó , hoàng tử muốn nhân dịp may này cố gắng dùng hết tài nghệ nấu cho nhà vua ăn những món ăn hết sức tuyệt vời . Tôi không biết những món đó là mặn hay chay . Ông vua mới này vô cùng cảm phục hoàng tử Trường Sanh , vừa trẻ tuổi lại vừa nấu ăn giỏi . Nhà vua liền nói với vị quan : "Hãy đưa người này đến cho ta".
Ông vua yêu cầu vị quan cho hoàng tử Trường Sanh đến làm người đầu bếp của ông và giữ bên cạnh ông . Dĩ nhiên vị quan này không dám từ chối lời yêu cầu đó ; ông không còn cách nào hơn là cho nhà vua viên phụ tá mà ông quý mến và tin tưởng nhất . Thế là hoàng tử Trường Sanh trở thành đầu bếp của nhà vua . Để được vua tín cẩn nhiều hơn nữa , hoàng tử mỗi ngày cố gắng làm vua vui vẻ , sung sướng và nấu ăn thật ngon cho ông . Chàng đảm đương mọi việc một cách rất chu toàn để phục vụ cho vua và nhờ vậy càng ngày chàng càng được nhà vua thương mến hơn .
Hoàng tử Trường Sanh rất tinh khôn , tài giỏi cho nên nhà vua rất thích . Sau đó hoàng tử trở thành cận vệ của vua và là người mà nhà vua tin tưởng nhất . Hầu như việc gì ông cũng hỏi ý kiến Trường Sanh . Nhờ sinh trưởng trong cung điện , hoàng tử thông thạo nhiều điều và biết luật lệ trong triều . Hoàn cảnh nào chàng cũng đối phó được .
Một hôm , ngày mà hoàng tử mong muốn đã đến . Hôm đó , nhà vua cùng hoàng tử đi săn . Nhà vua mãi mê săn đuổi một con thú nên càng lúc càng đi sâu vào một rặng núi xa . Vì nhà vua cưởi con ngựa tốt nhất cho nên cả đoàn tùy tùng không ai đuổi theo kịp ngài . Nhà vua và hoàng tử Trường Sanh đuổi theo con mồi và đi thật sâu vào rừng núi . Hoàng tử tuy biết được lối ra nhưng chàng cố tình dẫn nhà vua đi lạc rồi giả bộ như không biết đường về .
Mãi đến đêm về , họ vẫn không không tìm được lối thoát . Nhà vua vì mệt quá nên nằm xuống nghỉ . Chung quanh , cây cối rậm rạp , đường mòn nhỏ hẹp quanh co nhiều hướng khác nhau . Hoàng tử Trường Sanh đứng bên cạnh , cầm kiếm "bảo vệ" vua . Cơ hội hiếm có của hoàng tử Trường Sanh bây giờ đã đến . Trường Sanh nhìn kẻ thù đang say ngủ bên cạnh , trong đầu đột nhiên lại vang lên tiếng nói : "Hắn giết cha ngươi , cướp ngai vàng của ngươi . Hãy mau mau giết hắn ! Ông vua này tuy không tu Pháp Môn Quán Âm nhưng cũng sắp sửa được giải thoát ! Cứ việc dùng gươm cắt hắn ra hai mảnh là xong !"
Nhưng rồi hoàng tử Trường Sanh lại lưỡng lự . Chàng chợt nhớ tới lời khuyên của cha , nhưng tiếng nói trong đầu lại vang lên một lần nữa : "Còn chần chờ gì nữa ? Hãy giết hắn mau !"
Đầu óc là như vậy đó . Nó hay xúi giục chúng ta làm những việc không tốt , đúng không ? Dù là người tu hành như Trường Sanh cũng không tránh khỏi . Hoàng tử cảm thấy bất công , vì còn nhỏ tuổi mà đã phải chứng kiến những chuyện không hay xảy ra cho vua cha .
Hoàng tử Trường Sanh rút kiếm ra chuẩn bị . Chàng không phải là sắp cắt cỏ , mà sắp sửa đâm vào mắt trí huệ của nhà vua . Bỗng nhiên lúc đó hình ảnh vua cha lúc sắp chết cháy một cách thảm thiết lại hiện ra . Với ánh mắt đầy nhân từ , nhà vua nói rằng : "Con ơi , hãy lấy tình thương xóa bỏ hận thù . Con nên theo con đường của Đức Phật , tập tính khoan dung và thương yêu kẻ khác . Con không nên đối xử tàn nhẫn".
Nghĩ tới đó , lòng chàng mềm đi vì tình thương và tự nhủ : "Tại sao ta lại không nghe lời dặn của phụ hoàng lúc lâm chung ? Nếu không vân lời tức là ta mang tội bất hiếu . Phụ hoàng rất từ bi và nhân hậu . Ta phải theo gương của phụ hoàng thay vì làm ngược lại". Nghĩ vậy , hoàng tử chậm rãi tra gươm vào vỏ , rồi đứng đó mà khóc .
Lúc đó ông vua mở mắt dậy , nói với hoàng tử Trường Sanh : "Ta mới trải qua một cơn ác mộng . Có người đang muốn giết ta".
Hoàng tử Trường Sanh đáp : "Có lẽ vì ngủ dưới đất lạnh nên ngài có ác mộng đó . Đã có tôi hộ vệ , không ai dám giết ngài đâu".
Ông vua cảm thấy an tâm , và nằm xuống tiếp tục ngủ còn hoàng tử Trường Sanh thì tiếp tục đứng canh . Một lúc sau , chàng lại nghĩ tới cái chết thê thảm của cha , rồi lòng căm hận lại nổi dậy . Đầu óc chàng lại xúi giục : "Giết hắn ! Giết hắn ! Giết hắn ! Hắn giết cha ngươi , ngươi phải trả thù !"
Đầu óc cứ xúi giục mấy lần như vậy . Chàng rút gươm ra , đưa cao lên rồi hạ xuống đầu ông vua .
Lúc đó lời vua cha lại vang lên một lần nữa : "Con không được ác độc như vậy . Con phải lấy tình thương xóa bỏ hận thù , vân vân ..."
Không chịu nổi sự giằng co trong lòng , hoàng tử hét lên một cách giận dữ , rồi nhìn đăm đăm vào mặt nhà vua vẫn còn đang say giấc mà nói rằng : "Ngươi là kẻ thù không đội trời chung với ta nhưng hôm nay ta tha thứ cho ngươi ... Vì phụ hoàng ta , vì lòng nhân hậu của người mà ta tha thứ cho ngươi !"
Nói rồi hoàng tử tra kiếm vào võ cho "nghỉ" luôn , từ đó không bao giờ rút ra nữa . Tình thương đã thắng hận thù . Vừa lúc đó , ông vua bỗng nhiên tỉnh dậy . Ông luôn luôn tỉnh dậy đúng lúc , vừa sau lúc suýt mất mạng . Ông nói : "Ta vừa mới trải qua một cơn ác mộng nữa . Ta thấy con của ông vua cũ tha tội cho ta . Nó không muốn trả thù nữa . Ngươi có biết ý nghĩa của giấc mộng đó là gì không ?"
Hoàng tử Trường Sanh nước mắt đầm đìa đáp : "Tôi chính là con trai của ông vua trước . Lúc cha tôi bị ông thiêu sống , người có dặn tôi đừng lấy oán trả oán , mà phải lấy tình thương xóa bỏ hận thù . Người muốn tôi theo con đường tình thương của Đức Phật , và dùng tình thương đối xử với mọi chúng sinh . Tôi định giết ngài , nhưng khi nhớ đến lời răn đó thì lại không làm được".
Nhà vua nghe được cảm thấy rất xúc động và bắt đầu thấy ăn năn hối hận . Ông ôm chầm hoàng tử Trường Sanh rồi khóc . Hai người cùng ôm nhau mà khóc . Vua nói : "Được , ngươi hãy giết ta đi để trả thù cho cha ngươi . Ngươi không cần phải giằng co gì cho đau khổ thêm nữa".
Bản tính đanh thép của vua bỗng tan biến đi . Ông cảm thấy khai ngộ được một chút , và sẵn lòng để hoàng tử Trường Sanh giết . Ông không muốn hoàng tử bị giằng co nữa , điều này cho thấy ông cũng có tình thương , cho nên đã làm cho hoàng tử Trường Sanh cũng thấy cảm động . Chàng nói : "Thưa ngài , không . Tôi sẽ không giết ngài . Làm thân cầu cận , tôi không dám , xin ngài hãy trừng trị tôi".
Thế rồi hai người quyết định không giết nhau và ngồi đó để tỉnh tâm . Chợt nhiên cả hai đều thức tỉnh . Khi mặt trời ló dạng , tâm họ cũng không còn bóng tối nữa . Ánh sáng tình thương , khoan dung như đang chiếu rọi toàn thế giới . Nhà vua ôm đầu , nghĩ đến những tội lỗi nặng nề mà ông đã làm và cảm thấy vô cùng hổ thẹn trước lòng cao thượng và khoan dung của hoàng tử Trường Sanh . Bỗng nhiên ngộ được điều đó , nhà vua cảm thấy rất là thích thú . Ông trở nên sáng suốt hơn và nói với hoàng tử rằng : "Này người cận thần yêu quý , hôm nay ta mới thật sự tìm ra một điều đẹp nhất trên đời . Chiến tranh , thù hận đều là tội lỗi và độc ác . Chỉ có tình thương mới thật là kho tàng quý báu".
Sau đó hoàng tử Trường Sanh đưa vua ra khỏi khu rừng . Nhiều vị quan đại thần vẫn còn ở đó trong lòng lo lắng không biết vua đã đi đâu . Khi vua và hoàng tử Trường Sanh trở về đến kinh thành , vua hỏi các quan rằng : "Có ai biết hoàng tử của vua cũ ở đâu không ?" Dĩ nhiên là không ai biết cả . Vua cầm tay hoàng tử Trường Sanh giơ lên cao và nói : "chính là người này ! Người này là hoàng tử của vị vua trước và cũng là thầy của ta . Hắn không giết ta mà còn cho ta một bài học quý giá . Nhờ hắn , ta mới biết được đức tính cao thượng của vị vua cũ . Ta muốn noi gương của người này".
Nhà vua trao trả ngai vàng cho hoàng tử Trường Sanh rồi trở về nước của ông , lấy tình thương để trị dân . Hoàng tử Trường Sanh tiếp tục noi gương tình thương và lòng nhân hậu của vua cha để an dân trị quốc . Đất nước càng ngày càng trở nên hòa bình , thịnh vượng . Trên thế giới chúng ta lại có thêm một vùng đất bớt đau khổ ; thêm một nơi sáng sủa , hòa bình . Câu chuyện chấm dứt ở đây .
Theo lời của Phật Thích Ca Mâu Ni , một trong những kiếp của Ngài là vua Trường Thọ . Hoàng tử Trường Sanh là ngài Anan và vua nước địch kia là kiếp trước của Đề Bà Đạt Đa . Thảo nào ông luôn luôn muốn hại Phật Thích Ca . Kiếp nào ông cũng muốn giết hại Ngài . Phật Thích Ca đi tới đâu Đề Bà Đạt Đa cũng muốn theo để giết .
Tin Vào Lực Lượng Của Minh Sư
Tin Vào Lực Lượng Của Minh Sư
Đây là một câu chuyện bên Ấn Độ . Có một người đàn bà kia tu hành rất giỏi , nhưng cũng chính vì bà được rất nhiều người thích và kính nể cho nên có rất nhiều người ganh ghét , ngay cả nhà vua đương thời cũng ganh tỵ với bà . Nhà vua , cũng như nhiều người khác nghe đến sự tu hành của bà đều không tin rằng một người đàn bà có thể tu được cao như vậy , nên ngài cho người đem bà về cung điện , với mục đích sỉ nhục bà .
Trong hoàn cảnh bị ép buộc như vậy , bà phải cố gắng để vượt khỏi tình trạng khó khăn này . Bà cố gắng dùng trí óc của mình , nhưng chẳng có kết quả gì . Thỉnh thoảng , bà có nhớ gọi sư phụ của bà một , hai lần ; phần lớn là vì thói quen mà gọi cho nên không được thành khẩn gì cho lắm . Tuy mọi sự cố gắng đều vô hiệu , bà vẫn cố gắng dùng lực lượng của mình , bà không hoàn toàn tin tưởng là sư phụ của bà có thể giải cứu cho bà . Ngay cả trong lúc cầu xin sư phụ cứu giúp , bà vẫn cố gắng phấn đấu , không thật sự nhất tâm cầu khẩn , không để mọi chuyện cho sư phụ bà lo . Vì thế sư phụ của bà không hiện đến .
Cuối cùng , khi tất cả những cố gắng đều vô hiệu , bà đành phải bó tay và đặt hết lòng tin vào sư phụ của bà . Bà nói : "Bây giờ dù cho có chuyện gì xảy ra đi nữa , xin Sư Phụ hãy lo cho con".
Lúc đó , sư phụ của bà mới hiện đến với đầy hào quang và cứu bà ngay lập tức .
Phần nhiều , phấn đấu bằng lực lượng của chính mình không hữu hiệu bằng . Minh sư là ai ? Thật ra , đó cũng là lực lượng của chính mình , của bản ngã tối cao , của con người hoàn mỹ biết tất cả mọi thứ , vô sở bất tại , vạn lực vạn năng . Nếu dùng đầu óc , chúng ta chỉ dựa vào sự hiểu biết thấp kém , chỉ dựa vào những kinh nghiệm quá khứ của chúng ta . Thí dụ : "Tôi phải làm gì trong trường hợp nào đó ? Tôi nên phải ứng thế nào khi giáp mặt với những loại người như vậy ? Tôi đã gặp trường hợp này rồi , nên đối phó làm sao ?" Tất cả những điều này là xử dụng những kinh nghiệm trong quá khứ đã nhét đầy trong đầu óc . Tuy nhiên , quý vị nên biết rằng kinh nghiệm của thời quá khứ khác với thời bây giờ , bởi vì hai hoàn cảnh khác nhau . Có khi , chỉ cần sai lạc một chút xíu thôi cũng đủ làm cho nó hoàn toàn khác hẳn .
Hoàng Tử Victoria Và Năm Trăm Người Ăn Mày
Hoàng Tử Victoria Và Năm Trăm Người Ăn Mày
Có một câu chuyện nói về một trong những kiếp trước của Đức Phật . Trong kiếp đó Ngài là một gia chủ tên là Pacifier . Có một lần , tôi nghe nói , vị Khai Ngộ này sống tại một thành phố tên là Sarasvati , trong một tu viện tên là Chettavana tại "Annatakapikitikakapapa". Quý vị biết nơi đó rồi hả ? Khó đọc lắm (cười). Lúc bấy giờ , trong vùng này có năm trăm người ăn mày phải sống nhờ vào Đức Phật và tăng chúng .
Tôi không biết họ sinh sống cách nào ? Có thể là họ tới ăn thức ăn dư thừa , hoặc đứng gần đó , hễ ai cúng dường thức ăn cho tăng chúng và Đức Phật thì họ lấy bớt một phần . Có thể như vậy .
Một hôm , tại công viên Chettavana , năm trăm người ăn mày này bỗng nhiên tới chỗ Đức Phật để xin quy y . Họ nói với Phật rằng : "Hỡi Đức Từ Bi , nhờ lòng thương của Ngài và tình thương huynh đệ mà chúng tôi đã được cho ăn uống . Bây giờ , xin Ngài ban cho chúng tôi một công đức to lớn nữa , là cho phép chúng tôi làm người ở trong chùa".
Có nghĩa là xuất gia .
Phật trả lời : "Pháp mà ta dạy rất là thuần khiết , không phân biệt chủng tộc , địa vị , giàu hay nghèo , tốt hay xấu . Cũng như được tắm rửa bằng nước trong , nước rửa tất cả giống người , mọi giai cấp , giàu cũng như nghèo , xấu cũng như tốt , không hề phân biệt . Nó cũng như lửa đốt mọi vật , không trừ ra cái gì : núi , đá , trờ , đất . Giáo lý của ta giống như bầu trời , mà ở bên dưới tất cả mọi vật đều có nơi chốn : nam , phụ , lão , ấu , giàu nghèo không phân biệt".
Dĩ nhiên , như vậy có nghĩa là Ngài nhận những người ăn mày này làm đệ tử xuất gia .
Những người ăn mày rất sung sướng . Họ tin tưởng ngay những gì Phật vừa nói . Một lần nữa , họ xin phép được xuất gia . Có lẽ , đó là nghi thức hồi xưa . Họ phải xin Phật hai , ba lần để bày tỏ lòng thành tâm , tha thiết muốn theo Ngài tầm đạo . Lúc bấy giờ Phật mới nói : "Hoan nghênh quý vị".
Thế là họ cạo hết râu tóc , mặc vào những bộ tăng phục màu vàng và trở thành tăng sĩ . Khi Đức Phật giảng pháp , đầu óc họ được giải thoát , những ước vọng của họ ngưng lại và họ trở thành A La Hán .
Khi những dân trưởng giả , thương gia và hoàng tử trong nước nghe nói những người ăn mày rác rưới đó được nhận vào làm tăng chúng , họ đều tỏ vẻ bực tức và bảo với nhau rằng : "Nếu chúng ta mời Đức Phật và những bậc cao tăng khả kính tới để được phước báu , thì những người ăn mày này cũng sẽ ngồi trên chúng ta . Chúng ta sẽ phải tôn sùng họ , vân vân ... Như vậy sẽ mất danh dự của chúng ta". Đại khái có nghĩa là họ coi thường những tăng chúng ăn mày này .
Rồi một lần đó hoàng tử Victoria mời Đức Phật và tăng chúng đến dự tiệc chay , nhưng ông dặc trước với Phật rằng : "Thưa Ngài , tôi xin được kính mời Ngài và tăng chúng , nhưng những người ăn mày được làm tăng sĩ kia thì không được mời".
Ông có tâm phân biệt . Quý vị nghĩ như vậy có tốt không ? Không , không tốt .
Ngày hôm sau , trước khi Đức Phật và đệ tử đi tới cung điện của hoàng tử , Đức Phật nói với những vị sư không được mời rằng : "Vị chủ nhân đãi khách này đã không mời các con . Hãy đi về vùng đất phía Bắc lấy lúa dại mà không ai gieo , cũng không ai gặt , mang đến nhà của vị tặng quà này và ăn tại đó".
Theo chỉ thị của Phật , họ lập tức dùng lực lượng tu hành A La Hán bay về phía Bắc , đổ đầy gạo vào bình bát của họ . Trong hóa thân đẹp như ngỗng trời , họ bay về cung điện của hoàng tử Victoria , ngồi xuống thành hàng và ăn thứ gạo đặc biệt đó . Khi hoàng tử Victoria trông thấy những tăng sĩ , trong hóa thân thật dễ thương , từ trên trời bay đến , ông vô cùng ngạc nhiên , sung sướng , và với lòng đầy ngưỡng mộ , ông hỏi Đức Phật : "thưa Ngài , những người huy hoàng , lộng lẫy , đạo đức , thánh thiện và đầy trí huệ kia từ đâu đến ?"
Đức Phật trả lời : "Ngươi phải nhận ra họ chứ . Này hoàng tử , ta nói cho ngươi biết , hãy nghe kỹ . Những người này là những tăng sĩ mà ngươi đã không mời . Vì không được mời , nên họ phải đi vùng đất Bắc đem gạo dại về ăn".
Ồ ! Ghê quá ! Nếu là hoàng tử Victoria trong trường hợp này , quý vị cảm thấy thế nào ? Thấy thích thú ? Xấu hổ ? Hay hoảng sợ ?
Hoàng tử Victoria nghe xong , xấu hổ quá . Quý vị thông minh lắm ! Đoán rất đúng . Ông ta vô cùng xấu hổ với chính mình , sám hối những gì ông đã làm và nói với Phật rằng : "Vì tôi bị vô minh làm mù quáng , nên đã không nhân biết được những thánh nhân này , và đã không mời họ . Thưa Ngài , đức hạnh của Ngài quả là tột bực , tuy những thánh nhân này là những kẻ ăn mày thấp kém trong nước , qua lòng thương của Ngài mà họ đã tìm được vui sướng trên đời và đạt được lợi ích lâu dài . Xin Ngài giải thích cho , họ đã trồng nhân đức nào mà ngày nay được gặp Ngài và đạt được sự giải thoát ? Và đồng thời họ đã làm tội lỗi gì trước kia mà phải sinh ra làm ăn mày như vậy ?"
Chỗ này nói về nghiệp chướng và nhân quả .
Rồi Đức Phật giải thích như vầy : "Từ xa xưa , hằng hà sa số năm về trước , có một ngọn núi tên là Many Reshis . có lần , lúc đó có khoảng hai ngàn vị Reshis sống trên núi đó , có một ông thầy bói báo trước là mười hai năm nữa sẽ không có mưa". (Reshis là người biết nhiều thần thông , kể cả bay trên không , có lẽ vậy , thấy xa hàng ngàn dặm , thấy qua tường , qua chướng ngại vật , vân vân ... Họ cũng rất có đạo đức . Cho nên , họ được gọi là Reshis)". Sau đó những vị Reshis này tới gặp một gia chủ giàu có tên là Pacifier đang sống trong vùng đó , để xin được cúng dường thức ăn , thức ăn uống trong mười hai năm ; và nếu không được chấp thuận , họ sẽ đi nơi khác".
Vị gia chủ trả lời : "Hỡi các vị thánh nhân Reshis , xin đừng đi đâu cả . Xin quý vị hãy ở lại đây , tôi sẽ cúng dường các Ngài trong mười hai năm".
Vì trong vòng mười hai năm tới sẽ không có mưa nên khi những vị Reshis đến , vị gia chủ này xin được bảo đảm cúng dường suốt mười hai năm .
Vị giáo chủ bèn hỏi người thủ quỹ coi có đủ lương thực dự trữ để nuôi những vị thánh này trong vòng mười hai năm không . Khi được biết là đủ , ông bổ nhiệm năm trăm người phục vụ cho những vị này . Một thời gian sau , năm trăm người phục vụ này , cảm thấy mệt mỏi và bắt đầu thì thầm với nhau rằng chăm sóc cho những người ăn xin này cực quá .
Lúc đó , có một người chuyên lo đi gọi các vị Reshis tới dùng bữa và ông có một con chó đi theo . Một hôm , người này quên không gọi , nhưng con chó kia vẫn chạy đi sủa để gọi gọi . Các Reshis biết là bửa ăn đã sẵn sàng , và họ tới để thọ bát . Sau một thời gian , các Reshis cho gia chủ biết trờ sắp có mưa và cần phải chuẩn bị đồng áng để gieo hạt . vị gia chủ sai nông phu ra đồng bắt tay vào việc .
Họ trồng lúa mạch , lúa mì , và những loại ngũ cốc khác . Khi hạt bắt đầu nẩy nầm và lên cao bằng mặt nước , vị gia chủ đến hỏi các vị Reshis đoán xem mức thu hoạch sẽ có được tốt hay không . Họ trả lời , mùa này sẽ rất tốt và khuyên ông nên thường tưới nước . Đến mùa gặt , mức thu hoạch lên đến bội phần . Vị chủ nhà rất lấy làm vui sướng khi thấy kho đầy ngập thóc .
Khi năm trăm người phục vụ cho các Reshis chứng kiến lực lượng của những người này , họ vô cùng xấu hổ , hối hận và thú nhận với những vị thánh này rằng : "Hỡi các vị thánh nhân , chúng tôi đã nhục mạ quý vị bằng những lời cay đắng . Chúng tôi xin thú tội . Trong tương lai , xin cho chúng tôi gặp lại các ngài và đạt được sự khai ngộ".
Vì những lời nói không tốt với các Reshi mà năm trăm người đó đã bị đầu thai lại làm những kẻ ăn mày cực khổ qua năm kiếp . Sau đó , nhờ sự thú tội và lời nguyền của họ mà ngày nay họ đã gặp ta và không còn phải chịu luân hồi sinh tử".
Hoàng tử , ngươi nên hiểu rằng chính ta là vị chủ nhà tên Pacifier đó . Udiyana là người thủ quỹ (lúc đó Udiyana là một trong những đệ tử của Đức Phật). Còn ngươi , hoàng tử Victoria , ngươi là người hàng ngày gọi các Reshi khi đến giờ ăn . Còn Giọng Hay , ngươi là con chó đó (bên cạnh hoàng tử có một người tên là Giọng Hay) vì ngươi đã một lần gọi những vụ thánh này đến bữa ăn bằng tiếng sủa nên trong tất cả những kiếp sau đã có giọng nói rất thanh tao . Năm trăm người ăn mày này là năm trăm người làm việc lúc đó".
Sau khi nghe Phật kể như vậy , một số người trong pháp hội tức thì đạt được quả vị từ thứ nhất tới thứ tư . Có người đạt đến đại khai ngộ . Ai nấy đều tin lời Phật nói và trong lòng vô cùng sung sướng .
Đa số các chuyện trong sách này cho chúng ta biết cúng dường cho những người xuất gia hoặc các vị thiền sư thì sẽ được lợi ích như thế nào . Ngay cả các Reshi , họ có lẽ không phải là Phật , nhưng họ tu theo con đường đạo đức và Chân Lý . Họ tu hành để đạt được một trình độ trí huệ nào đó và không đi theo con đường ác . Vì vậy , những người này xứng đáng được chúng sanh cúng dường .
Những ai cúng dường cho những người này sẽ có nhiều đạo đức , phước báu trong tất cả những kiếp sống trong cõi ta bà của họ . Cuối cùng họ sẽ gặp Phật sống , được giải thoát và đại khai ngộ . Ngay cả con chó , vì có lòng tốt , sủa để gọi các Reshi tới ăn , làm có vậy thôi mà nó được sinh ra làm người rất nhiều kiếp và có được giọng nói hay . Cuối cùng , nó ra đời ở Ấn Độ , được gặp Phật , và tu cùng với hoàng tử .
Hoàng tử Victoria , bình thường không có tâm phân biệt như vậy đối với bất cứ người xuất gia nào , dù là ăn mày hay quý tộc , nhưng đó là vì nghiệp chướng của những người ăn mày này trong kiếp trước , nhớ không ? Khi họ còn là người giúp việc trong nhà của Phật , khi Ngài còn là một người phàm phu . Vì họ đã gây nên nghiệp xấu như vậy , nên khi gặp hoàng tử Victoria , ông tự nhiên cảm thấy không muốn mời họ . Thật ra dù là nghiệp đi nữa , hoàng tử cũng không nên phân biệt như vậy . Nhưng đó cũng không phải là lỗi của ông ta , cho nên không thể trách ông được . Đó là cái nghiệp của năm trăm người ăn mày trong kiếp trước . Cho nên , những gì xảy ra cho chúng ta cũng đều có nguyên nhân .
Chuyện này dạy chúng ta tính kiên nhẫn , chấp nhận và chịu đựng bất cứ thử thách nào mà luật nhân quả đã giành cho chúng ta , để rửa tội , để rửa sạch những lỗi lầm mà chúng ta đã phạm trước kia . Trước hết dĩ nhiên là chúng ta giữ năm giới luật , gồm cả tình thương , tính chịu đựng , kiên nhẫn , vân vân ... , để chúng ta đừng gieo mầm xấu cho tương lai . Khi gặp bất cứ nghiệp xấu nào trong quá khứ , chúng ta cứ kiên nhẫn chấp nhận bằng tình thương cho tới khi trả cho dứt . Thí dụ như trong chuyện này , dù năm trăm người ăn mày làm những điều rất xấu trong kiếp trước , nhưng họ đã sám hối , cho nên những hành động của họ kiếp trước , sau năm trăm kiếp luân hồi trả nghiệp đã được rữa sạch .
Tuy họ chỉ cảm thấy lười biếng một vài lần và nghĩ rằng các Reshi này không xứng đáng được kính trọng và cúng dường , chỉ cảm thấy trong lòng và nói ra vài lời bất kính như vậy mà thôi , mà năm trăm người này đã phải làm ăn mày đến năm trăm kiếp , chịu đựng rất nhiều cực khổ , đau đớn , đói lạnh , bà sự nhục mạ của thế nhân qua giai cấp , lối sống của họ . Vậy mà sau khi họ trả hết tội , được gặp Phật , trở thành tăng chúng , đến mức như vậy rồi mà một chút tội bất kính còn sót lại từ kiếp trước vẫn còn phảng phất trong bầu không khí chung quanh họ . Vì thế hoàng tử Victoria không biết từ đâu , cũng có thể ngửi thấy , nếm được , nhìn được , cảm nhận được bằng trực giác . Thành ra ông ta mới phản ứng như vậy , không muốn mời họ tới dự tiệc .
Thật vậy , bất cứ gì chúng ta làm hoặc đã làm , dù không ai biết , dù những người đó không bao giờ nhìn thấy chúng ta làm những việc này , ngay cả chưa bao giờ gặp chúng ta , họ vẫn cảm thấy được một cái gì đó tỏa ra từ chúng ta , trong từ trường của chúng ta , và từ đó mà họ có phản ứng . Vì thế chúng ta phải luôn luôn cẩn thận giữ mình cho được hoàn toàn trong sạch , thanh bạch và cố gắng giữ như vậy hoài . Bằng không , nếu có chuyện gì xảy ra , chúng ta không thể trách ai được .
Yêu Tinh Xanh và Yêu Tinh Đỏ
Yêu Tinh Xanh và Yêu Tinh Đỏ
Có một câu chuyện nói về hai người nửa quỷ , nửa thần ; có lẽ là nửa tiên , nửa yêu tinh . Hai người sống với nhau . Một người thì xanh , còn người kia thì đỏ , (Sư Phụ cười) giống như đèn xanh , đèn đỏ ngoài kia . Màu xanh là tượng trưng cho hòa bình , không trục trặc . Màu đỏ là tượng trưng cho chiến tranh , sự cản trở , bế tắc . Nhưng hai người sống với nhau rất là hòa thuận trên một ngọn núi , không bận rộn , lo nghĩ hay ham muốn gì cả .
Họ sống với nhau nhiều trăm năm như vậy . Và những khi không có gì làm , họ hay ngồi với nhau trên núi , nhìn xuống trần gian , thế giới của loài người . họ thấy đủ thứ chuyện bận rộn , người đi ngược , kẻ đi xuôi ... Họ thấy thế giới luôn luôn biến chuyển . Con xanh nói với con đỏ : "Anh thấy không , chúng ta đã sống trên nhiều trăm năm nay rồi , đời sống không bao giờ có gì thay đổi , ngày nào cũng như ngày nấy . Nhưng tại sao thế giới dưới kia , thế giới của loài người , mỗi ngày đều có thay đổi vậy ?"
Con đỏ đáp : "Ừ nhỉ , anh nói đúng , cũng hay , đời sống của họ cũng hay đấy".
Nhưng con xanh nói : "Tại sao đời sống của họ chuyển biến hoài vậy ?"
Con đỏ nghĩ một hồi rồi đáp : "Ồ , chắc tại vì họ hay đánh nhau . Họ xây nhà thật đẹp , thật lớn , hôm sau lại đánh nhau rồi phá hoại hết . Rồi họ xây cái khác , rồi chiến tranh nữa , phá hoại nữa . vì vậy mà thế giới luôn luôn có công chuyện để làm (Sư Phụ cười), luôn luôn thay đổi . Đối với hai đứa mình bây giờ , thế giới này quá yên ổn , quá chán . Tôi nghĩ chúng ta nên đánh nhau đi". Con đỏ nói như vậy .
Con xanh nói : "Không , đừng đánh nhau . Chúng ta là bạn tốt , đã là bạn bè với nhau nhiều trăm năm nay rồi , sao lại đánh nhau chứ ?". Nhưng con đỏ nói : "Nếu không đánh nhau , chúng ta sẽ không có gì thay đổi . Cuộc đời sẽ cứ như vầy hoài . Chán quá ! Không có gì tiến bộ cả . Tụi mình đánh nhau đi !".
Con xanh nói : "Không , không , không ! Tôi không làm vậy đâu . Không , tụi mình là bạn mà".
Con đỏ nhất định và nói : "Kể từ hôm nay , anh là kẻ thù của tôi . Đừng nói gì thêm nữa".
Nó tuyên bố ngay tại đó , rồi bỏ đi . Nó không sống với con xanh nữa , mà dọn về phía bên kia núi , ngồi một mình ở đó chuẩn bị chiến tranh . Con xanh ở lại , trong lòng buồn bả cô đơn , nó nhớ con kia .
Yêu tinh là một nửa thiên thần , họ có phép thần thông . Ngoài việc biết bay , hóa phép ra đồ vật , nhìn được rất xa , nghe được rất xa , họ cũng có thể biến cái mũi của họ mọc ra dài vô tận .
Một ngày kia , con xanh ngồi đó trong lòng chán nản , bỗng nhiên thấy thế giới loài người dưới kia có một cái gì đó luôn luôn sáng lóng lánh . Nó tò mò quá , bèn xử dụng cái mũi của nó , (cười) làm dài ra , nói : "Dài nữa , dài nữa , dài nữa".
Thế là mũi nó mọc dài , dài , dài vào tới thế giới bên dưới , đến chỗ có cái vật sáng lóng lánh kia . Ánh sáng lấp lánh này phát ra từ xiêm y của công chúa trong thành phố đó . Lúc bấy giờ mấy người tỳ nữ đang phơi đồ của công chúa ngoài sân . Những bộ đồ này được kết vàng , có cái kết kim cương , ngọc thạch ... sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời .
Tỳ nữ nói chuyện với nhau rằng : "Ồ , quần áo công chúa đẹp thiệt , nhưng nhiều quá không có đủ tre để phơi . Phải làm sao đây ?"
Lúc đó , mũi con yêu tinh này cũng vừa đến (cười). Mấy người tỳ nữ nghĩ : "Ồ , có cái cột tre dài đủ để phơi những bộ đồ còn lại rồi nè".
Thế là họ treo số quần áo công chúa còn lại trên cái cọc xanh đó , rồi vui vẻ vào nhà ăn bánh chapati .
Con xanh bỗng nhiên cảm thấy có cái gì nặng trĩu trên mũi . Nó sợ hãi quá , tức thì kéo cái mũi lên trở lại bình thường , kế tiếp là một đống quần áo lóng lánh đổ xuống chân nó .
Nó nghĩ bụng : "A ! Ô ! Hôm nay hay quá !". Nó liền mặc vào thử , coi đẹp như thế nào . Nó hãnh diện đi qua đi lại một mình . Đúng lúc đó con đỏ đến gây sự muốn đánh nhau , đề tiến bộ .
Nhưng con xanh nói : "Nhìn nè ! Tôi có quần áo mới , đẹp không ? Tôi nhường cho anh một nửa .
Con đỏ nhìn tỏ vẻ coi thường , nói : "Tao không mặc mấy thứ đồ vô duyên này , chỉ những người điên như mày mới mặc". Nó muốn gây lộn , nên cứ nói bậy nói càng .
Con xanh lúc nào cũng xanh , rất điềm tĩnh , cũng không bắt bẻ gì hết . Nó nói : "Cũng được . Anh không mặc cũng không hại gì . Cứ để lại đó , không sao hết".
Con đỏ không biết làm cách nào khác , đành về nhà .
Anh ta thật ra rất , rất là ganh tỵ với con xanh ; cho nên sau đó cũng rán kiếm một ít quần áo cho nó . Nó cũng thả cái mũi dài xuống cung điện , đợi người treo quần áo . Nhưng đúng lúc đó đang có vài kiếm sĩ tập đánh gươm với nhau . Họ nhìn thấy một vật gì dài từ đâu đến , bèn hỏi nhau : "Cái gì vậy ?"
Một người đáp : "A ! Chắc là phát minh mới của kẻ địch muốn tấn công chúng ta đó . Hãy phá hủy nó trước".
Người kia nói : "Phải đó".
Rồi họ dùng gươm "pa!" (Sư Phụ bắt chước tiếng chém). Con đỏ bỗng nhiên cảm thấy đau nhói , kéo chiếc mũi ngắn lại như cũ , máu chảy ròng ròng ; nó khóc ngất lên .
Con xanh nghe tiếng khóc của con đỏ lập tức chạy lại hỏi : "Chuyện gì vậy ? Chuyện gì vậy ?"
Con đỏ vừa mắc cở vừa tức , không biết nói sự thật làm sao , trả lời : "Kệ tao . Đừng có làm phiền tao".
Con xanh nói : "Không , tôi không làm rộn anh đâu , tôi chỉ muốn giúp thôi . Nó đang chảy máu kìa . Coi nè , tôi biết thuốc trị . Tôi bôi nó vào là hết chảy máu liền . Mũi của anh sẽ đẹp lại như trước . Nếu không , anh sẽ có theo bự lắm , thành một cái lỗ ngay đó , xấu lắm . Tôi chỉ muốn giúp anh thôi".
Cuối cùng con đỏ thấy cảm động nói : "Thôi được , thôi được". Rồi bắt đầu khóc thảm thiết : "Ai da ! Đau quá . Làm mau lên , mau lên ! Làm nó khỏi mau lên đi".
Dĩ nhiên họ giảng hòa với nhau vì bị đánh như vậy đủ rồi . Nó thấy đánh nhau không tốt và học được bài học hòa bình . Từ đó về sau , họ mặc quần áo đẹp , mỗi ngày uống trà với nhau , và không gây chiến tranh nữa .
Không Nên Bắt Chước Hành Động Bên Ngoài Của Minh Sư
Không Nên Bắt Chước Hành Động Bên Ngoài Của Minh Sư
Có một vị minh sư kia huấn luyện đệ tử về phương diện trí huệ . Có người đến gặp vị minh sư để xin học về trí huệ . Vị minh sư nói rằng : "Ừ , được , muốn làm minh sư tương lai , vị Phật tương lai , dĩ nhiên chúng ta phải có tối thiểu là hai khả năng . Phật tương lai cần phải có nhiều phẩm chất quan trọng , nhưng đây là hai khả năng quan trọng mà họ phải có để tiến bộ nhanh chóng trên con đường tu hành".
Những người đệ tử nghe vậy liền hỏi : "Đó là cái gì ? Sư Phụ ? Hai tài năng này là gì ?"
Ông thầy trả lời : "Tài thứ nhất là khả năng chịu đựng . Chịu đựng có nghĩa là quý vị phải chịu đựng được những gì mà người khác không thể chịu được . Tài thứ hai là khả năng quan sát ; nhìn , nhìn , nhìn".
Để làm thí dụ điển hình , ông thầy gọi thị giả mang lại một cái tô đựng đầy những thứ dơ bẩn , mới ngửi đã muốn nôn rồi . Nhưng ông thầy không động tâm chút nào . Ông để ngón tay vào trong cái tô đựng đồ dơ bẩn , kinh tởm đó , những thứ mà quý vị cũng không muốn nhìn , có lẽ vừa lấy thẳng từ trong nhà cầu ra . Ông chấm ngón tay vào , rồi lấy ra đưa lên miệng nếm . Mặt ông vẫn tỉnh lặng như bức tường trước mặt tôi và quý vị vậy .
Những vị Phật tương lai chung quanh ông hăng hái muốn tỏ cho sư phụ của họ thấy rằng họ rất đủ điều kiện để làm đệ tử , cho nên , người nào cũng tới gần , chấm ngón tay vào tô , rồi đưa lên miệng nếm , cố gắng giử cho nét mặt không thay đổi . Họ cố không tỏ vẻ gì là ghê tởm cả .
Vị thầy cười nói rằng : "Chúc mừng quý vị đã qua được bài thi , nhưng chỉ qua được một bài thôi , không phải hai . Bài thi quý vị đậu đó là tính chịu đựng . Nhưng bài thi thứ hai thì quý vị rớt , vì không có khả năng quan sát".
Các đệ tử hỏi : "Tại sao vậy ?"
Vị thầy trả lời : "Ta chấm ngón tay này vào tô , nhưng ta đưa ngón tay khác lên nếm". Ông chấm ngón tay trỏ vào trong cái tô hôi hám kia , nhưng lai nếm bằng ngón tay giữa (Cười). Các đệ không trông thấy điều đó , cho nên họ đưa lên miệng nếm cùng ngón tay họ chấm vào tô .
Bây giờ quý vị thấy chưa ? Đây là những người đệ tử ngu . Có rất nhiều đệ tử giống như vậy . Họ chỉ bắt chước minh sư thôi ; cái gì , việc gì cũng bắt chước ; biến họ thành một người ngố . Cái khổ là ở chổ đó ! Cho nên chúng ta đừng bắt chước ai cả . Ngay cả minh sư cũng không bắt chước ai , cho nên nếu muốn được như minh sư , thì đừng bắt chước người nào cả . Mọi việc đều là nguyên bản , bởi vì mỗi người đều được trời phú cho khả năng sáng tạo . Mọi người đều có thể sáng tạo mọi vật , tùy theo khả năng và khuynh hướng nghệ thuật của người đó .
Chúng ta không cần phải bắt chước người nào , kể cả Đức Phật , Minh Sư , hay Đấng Tạo Hóa của cả thế giới . Vì vậy quý vị thấy có rất nhiều minh sư nhưng không ai giống ai cả . Lục Tồ Huệ Năng nhìn không giống như Đức Phật , hành động cũng không giống Đức Phật . Chúa Giê Su không hành động giống như Lão Tử . Lão Tử cũng không làm điều gì giống Krishna , ... Cho nên , nếu chúng ta bắt chước một vị minh sư , hoặc đòi hỏi minh sư đó phải giống như vị minh sư trong kinh thánh hoặc như chúng ta tưởng tượng trong đầu , thì không bao giờ chúng ta tìm thấy được . Chúng ta không nên tìm bản sao , mà phải tìm bản chính . Minh sư luôn luôn là bản chính . Chúng ta đâu có muốn bản sao , đúng không ?
Vì vậy trong khi tu hành , chúng ta phri luôn luôn thận trọng . Minh sư có cách đặc biệt để làm việc , đôi khi rất , rất là đặc biệt . Chúng ta cứ nhìn theo rồi nghĩ rằng mình làm được , sờ đầu , nhìn mắt , cho kẹo ; chúng ta còn có thể mua nhiều kẹo hơn như vậy , chẳng hạn như vậy . Chúng ta không thể chỉ dựa vào hành động bên ngoài để phán đoán một người có phải là Minh Sư hay không . Chúng ta phải nhìn vào bên trong .
Người Tu Hành Phải Tự Lực Cánh Sinh
Người Tu Hành Phải
Tự Lực Cánh Sinh
Có một người nọ , thường đi lang thang vào trong rừng sâu , có lẽ ông ta đi ngắm cảnh hay làm chuyện gì đó . Một hôm , ông tình cờ trông thấy một con chồn cụt chân . Ông tự hỏi con chồn này bị cụt chân như vậy làm thế nào sống được trong cánh rừng này . Rồi ông để ý quan sát . Ông trông thấy một con hổ đen đem mồi về ăn , những gì còn thừa lại thì con chồn ăn . Bây giờ ông mới biết con chồn này sống bằng cách đó .
Ngày hôm sau , một lần nữa , Thượng Đế lại dùng con hổ để nuôi con chồn . Người đó xem được như vậy nên nghĩ rằng bây giờ ông ta được khai ngộ hơn một chút . Ông tự nhủ rằng : "À , mình phải nương tựa vào Thượng Đế , phải tin vào Thượng Đế thì Ngài sẽ cung ứng mọi thứ cho mình".
Thế là ông bỏ việc làm , bỏ vợ con , cũng không đi đạo tràng Tây Hồ để cộng tu nữa (Mọi người cười). Ông chỉ ngồi trong rừng và hoàn toàn hàng thuận Thượng Đế , hy vọng Ngài sẽ mang thức ăn lại cho ông . Rồi ông ngồi đó thiền quán Thượng Đế . Ông cũng không thèm niệm Phật hay niệm Nam Mô Thanh Hải Vô Thượng Sư nữa (Mọi người cười).
Ông nói : "Ta chỉ tin tưởng vào Thượng Đế . Sao phải lại niệm tên ai ? Ta tin Thượng Đế , ta thương Thượng Đế , ta phục và kính trọng Thượng Đế , thế là đủ rồi . Ta hoàn toàn hàng thuận Thượng Đế".
Nghĩ vậy ông ngồi đó . Có lẽ ông đợi bơ , bánh ngọt , bánh mì , phó mát , đậu hũ tới . Ngày đầu tiên , không có gì đến cả , ông tiếp tục ngồi đó , nói rằng : "Thượng Đế đang khảo lòng tin của ta".
Rồi ông ngồi đó sang ngày hôm sau .
Ngày thứ hai , cũng chẳng thấy đậu hủ nào xuất hiện và cũng không có cây cải nào mọc lên từ mặt đất trước mũi ông . Không thấy gì xảy ra , ông nghĩ rằng : "Ồ , Thượng Đế chắc là muốn thử lòng can đảm của ta , đức tin của ta . Dĩ nhiên ta sẽ cho Ngài biết lòng tin của ta , khả năng dâng hiến và đức tin bất thoái chuyển của ta". Ông ngồi đó nữa và cứ chờ hoài .
Đến ngày thứ ba . Chẳng có gì xảy ra . Không bơ , không bánh mì , không phó mát , không đậu hũ , không rau cải , không cà rốt , ngay cả giọt mưa cũng không có nữa ! (Nuốt) ực ... ực !! Bây giờ ông mới cảm thấy khảo nghiệm tử cổ họng , từ dạ dày , từ tứ chi , không nhất thiết là từ Thượng Đế , mà từ khắp thân thể của ông . Mọi bộ phận trong cơ thể của ông bắt đầu (Sư Phụ và mọi người cười) hành hạ ông . Cho nên ông vô cùng đau khổ và cố gắng nghĩ coi chuyện gì đã xãy ra . Ông cầu Thượng Đế : "Xin Ngài đừng khảo con nữa , con hoàn toàn tin tưởng nơi Ngài . Con thật sự dâng hiến cho Ngài . Lòng tin của con đối với Ngài không lai chuyển , không bao giờ tàn".
Rồi một giọng nói từ trên trời vọng xuống , hay có thể là từ bao tử của ông ta cũng không biết nữa (Sư Phụ và mọi người cười) nói như vầy : "Nhà ngươi thật là đần độn . Tại sao nhà ngươi lại học lối sống của con chồn tật nguyền ? Hãy đứng dậy ! Hãy bước mạnh dạn như con hổ kia vậy".
Chúng ta cũng có thể xuất gia , nhưng cũng nên làm việc , làm một chút gì đó để nuôi thân . Vì vậy tôi mới dạy quý vị là chúng ta phải tự mình tìm cách mưu sinh , bởi vì chúng ta được ban cho những công cụ và trí thông minh . Chúng ta không phải là những con chồn tàn tật . Nếu chúng ta thật sự tàn tật , có lẽ Thượng Đế sẽ cung cấp cho chúng ta . Nhưng nếu chúng ta không tàn tật thì tại sao lại phải làm như một con thú tật nguyền ? Chúng ta nên bước mạnh dạn như sư tử , hổ , voi , ngựa . Chúng ta nên làm người có dư để cho , đừng làm kẻ ăn mày , đừng làm người nhận đồ bố thí . Đó là cách sống ở đời . Một khi chúng ta còn sống trong thế giới ảo tưởng này , chúng ta cần nên phải tự lực cánh sinh , tự huấn luyện chính mình , dùng cho quen những công cụ này , thử nghiệm khả năng và trí thông minh của chúng ta , để coi cuộc đời sẽ cống hiến những gì , coi ngày mai sẽ mang đến những gì cho chúng ta .
Với khả năng và trí thông minh , chúng ta nhìn đời sống tăng trưởng lên bên trong chúng ta , nhìn cuộc đời thay đổi theo bốn mùa , nhìn những công cụ của chúng ta đang mang lại lợi ích cho chúng ta , cũng như cho gia đình và cho xã hội bên ngoài . Có trí thông minh thì chúng ta nên dùng .
Trí huệ là một chuyện , trí thông minh và khả năng là chuyện khác . Trí huệ thf chúng ta giữ , không bao giờ bị mất , không bao giờ cần phải được huấn luyện , không bao giờ bị xem thường , không bao giờ bị suy giảm hoặc gia tăng . Nhưng trí thông minh , sự hiểu biết thì chúng ta nên dùng để giải quyết đời sống hàng ngày , trong thế giới tạm bợ này . Chúng ta có thể dùng trí huệ vào mục đích vĩ đại hơn , cao thượng hơn , chẳng hạn như giúp cho người khác khai ngộ hoặc làm cho chúng ta thêm lực lượng có thể giúp những người cần đến , như chữa bịnh mà không chữa bịnh , biết mà không biết , giúp mà không giúp , gia trì cho thế giới mà không để lại mà không để lại một dấu vết kiêu ngạo , hay công trạng gì cả . Chúng ta hãy nên như vậy .
Cho nên , hôm nay , ngày mai , hoặc mỗi ngày , chúng ta nên tọa thiền . Đó là cách sống hùng , sống mạnh như hổ . Chúng ta cung cấp , chúng ta gia trì , không đòi hỏi , không xin xỏ . Tôi nghĩ rằng Thượng Đế , các vị thiên thần , bồ tát , họ đã làm xong phận sự của họ rồi . Họ đã làm xong công việc của họ rồi . Bây giờ chúng ta phải theo bước chân của họ và cũng làm công việc của họ , không phải lúc nào cũng cầu nguyện cho mình , hoặc xin xỏ cho cuộc sống tạm bợ này . Khi nào thật sự cần một điều gì đó thì chúng ta có thể cầu nguyện . Chỉ cầu cho một chút nhu cầu cần thiết đó mà thôi , để chúng ta có thể tiếp tục đời sống tu hành , nhưng đừng cứ mãi làm kẻ ăn xin trong thế giới tâm linh .
Trí Huệ Của Một Bà Già Ăn Mày
Trí Huệ Của Một Bà Già Ăn Mày
Đa số người ta , kẽ biết thường thì không nói và người nói thường là không biết . Lẽ dĩ nhiên trường hợp của những vị minh sư như Đức Phật và Chúa Giê Su đi giảng Pháp lại là khác . Đó là chuyện họ phải làm như vậy , chứ họ không hề thích nói nhiều . Sứ mệnh của họ là như vậy , mặc dù họ đau khổ , họ cũng vẫn phải làm dù là họ không thích làm . Nhưng nói như vậy không có nghĩa là lúc nào họ cũng tìm cơ hội để tranh luận . Điểm khác nhau là như vậy . Gặp trường hợp như vậy họ cảm thấy rất chán và muốn tránh đi nơi khác . Họ bị bắt buộc phải làm việc đó để giảng dạy cho đệ tử và những người đã tìm đến họ . Nhưng họ không ra ngoài tranh cãi với người khác để phô trương sự hiểu biết của mình .
Còn trong trường hợp này , Tiloba (là một vị đại sư tổ của sư phụ của Milarepa) là một người hay đi khắp nơi trên Ấn Độ để khoe khoang kiến thức sách vở của mình . Đi đến đâu ông cũng thắng ; không ai có thể thắng nổi ông bởi vì sự hiểu biết của ông thật là mênh mông . Ở nhiều quốc gia khác cũng có người như vậy , không phải chỉ có một mình Tiloba mà thôi .
Một hôm , ông ta đang ở nhà đọc một cuốn sách rất nổi tiếng , rất có giá trị thời bấy giờ thì có một bà già ăn mày đến . Bà già ăn mày trông rất dơ bẩn và gầy ốm , thiếu ăn , đi ngang qua chỗ ông và nói với ông như vầy : "Ông đọc một cách say mê như vậy , nhưng thật ra ông có hiểu được chút nào không ?" (Mọi người cười)
Ồ ? Tiloba cảm thấy ngạc nhiên quá . Một người vừa già , vừa xấu như vậy mà dám nói như thế trước mặt một nhà học giả như ta sao ? Ông hơi giật mình , không biết phải phản ứng như thế nào . Rồi bà già ăn mày đó nhổ nước miếng vào cuốn sách của ông ta rồi bỏ đi .
Ông thấy bà dám nhổ vào cuốn sách thánh này thì rất là giận , cho nên ông ta đuổi theo . Khi ông vừa đuổi kịp thì bà ta lẩm bẩm điều gì đó trong miệng rồi bỗng nhiên ông cảm thấy nguôi đi , không còn giận nữa . Rồi ông ngừng lại , quay trở về nhà và bắt đầu suy nghĩ . Có lẽ ông cảm thấy bà nói không hợp với những thứ ông học được từ sách vở . Cho nên ông suy nghĩ , suy nghĩ rất nhiều . Và ông cũng nghĩ nhiều về chuyện một bà già ăn mày sao lại dám nhổ nước miếng vào cuốn sách thiêng liêng mà cả nước Ấn Độ tôn kính từ hàng ngàn năm nay .
Người ta còn quỳ lạy trước cuốn sách . Ngày nay tại một số quốc gia họ vẫn còn làm như vậy , kể cản Ấn Độ . Tôi biết , tôi đã nhìn thấy . Họ lạy cuốn sách , cúng dường tiền bạc , bông hoa cho cuốn sách , và tin rằng lạy quyển sách đó là có thể lãnh hội được tất cả sự hiểu biết và trí huệ trong đời . Nhưng sách là sách , quý vị là quý vị , quý vị làm sao có thể chỉ dạy cuốn sách mà thu hoạch gì được ! Nhưng cũng có nhiều người tin như vậy .
Rồi Tiloba suy nghĩ rất là lâu . Ông cũng ngạc nhiên là làm sao một bà già yếu đuối như vậy , mà chỉ cần lẩm bẩm một hai câu là sự giận dữ của ông liền bị dập tắt như lửa gặp nước vậy . Cho nên sau một thời gian suy nghĩ , ông bỏ việc làm và không tranh luận gì với ai nữa . Ông đi khắp mọi nơi để kiếm bà già ăn mày đó hầu tìm cho ra được điều bí ẩn mà ông mà ông không hiểu .
Một ngày kia , ông tìm thấy bà già trong rừng chỉ có một mình . Ông cố gắng tranh luận với bà , tận dụng tất cả khả năng hùng biện và kiến thức của mình để cố gắng cải cho thắng . Nhưng dù cố gắng cách mấy , bà ta vẫn thắng . Bà già ăn xin , xấu xí , nghèo nàn , thiếu ăn lúc nào cũng thắng (Sư Phụ cười). Cuối cùng bà nói với ông rằng : "Những cái mà tôi biết , trí huệ mà tôi có không nằm trong sách vở . Ông không thể nào tìm ra được , cho nên không bao giờ ông cãi thắng tôi".
Cuối cùng ông quỳ xuống lạy bà già , nhận bà làm sư phụ và xin được chỉ dạy . Bà ta bằng lòng . Ý bà nói với ông ta là những điều ông muốn biết không có trong sách vở và cũng không có trên thế giới này . Quý vị phải đi kiếm thánh nhân mà học .
Con đường đó là thọ tâm ấn . Chúng ta từ bên trong đi lên thì sẽ tìm thấy những vị thánh nhân này , ý nói là như vậy , rồi chúng ta học hỏi với họ .
Những gì tôi dạy quý vị , hay bất kỳ vị minh sư nào dạy quý vị , cũng chỉ là lời nói , cũng chỉ ở mức độ vật chất mà thôi . Nếu muốn học hỏi những gì tốt đẹp hơn , quý vị phải đí vào bên trong , đến những cảnh giới cao hơn và học với vị thầy bên trong , vị minh sư vô sở bất tại , chứ không phải với vị thầy có nhục thể . Người thầy nhục thể chỉ như là nấc thang đem quý vị lên những cảnh giới cao hơn . Tại đó quý vị sẽ học với những vị thầy cao hơn , có thể cũng cùng một vị thầy đó , hay với một vị thầy khác , nhưng ở một cảnh giới cao hơn , siêu việt hơn .
Sau đó Tiloba xả bỏ hết tất cả và hết sức cố gắng để đi vào cảnh giới thiên đàng , gặp thánh nhân và học hỏi với họ . Con đường đến đến với các thánh nhân này đầy cạm bẫy và khó khăn , nhưng ông vẫn vượt qua được .
Đó là câu chuyện của Tiloba . Dù là một nhà đại trí thức vĩ đại nhất cũng phải quỳ lạy trước một bà già ăn mày xấu xí , đói khát , để xin được học hỏi về trí huệ . Cho nên khi chúng ta tới lạy bất cứ người nào có trí huệ , người nào có thể thật sự chỉ dạy cho chúng ta con đường đến sự giải thoát , điều đó không có gì là quá khiêm tốn cả .
Đa số những minh sư ngày xưa rất nghèo . Chúa Giê Su là thợ mộc , không bao giờ giàu có . Đức Phật có rất nhiều tài sản nhưng Ngài bỏ lại hết sau lưng (Sư Phụ cười). Cho nên Ngài cũng không có gì cả . Ngài đi khất thực khắp cùng Ấn Độ thành ra Ngài cũng trở thành một người ăn mày . Đa số minh sư không có sở hữu gì cả nhưng nếu họ muốn có cũng không sao .
Một trong những vị thầy đạo Sikh , vị minh sư đạo Sikh thứ mười rất là nổi tiếng . Ngài giữ lại tài sản của Ngài . Ngài trong có vẻ rất sang trọng và đeo nhiều trang sức như là một vị hoàng tử vậy . Ngài chẳng ngại gì về chuyện này cả . Nhưng những minh sư khác trong đạo Sikh đều đi khắp nơi trong nước để khất thực . Cho nên không cần phải chỉ trích là minh sư như thế này , nên như thế nọ . Không hề gì đâu .
Quý vị có thấy Quán Thế Âm Bồ Tát không ? Ngài có rất nhiều trang sức , tóc của Ngài dài và đẹp , Ngài mặc quần áo rất đẹp . Ở thiên đàng , các thiên nhân rất là đẹp . Đồ trang sức của họ rất tự nhiên , tùy theo công đức mà kết lên thân của họ . Cho nên , không cần phải nói rằng minh sư luôn luôn phải nghèo , không nhất thiết phải như vậy . Đa số minh sư vì liễu ngộ bên trong cho nên họ thường chọn cuộc sống giản dị nhưng minh sư lúc nào cũng theo hoàn cảnh mà sống . Không phải lúc nào cũng nhất thiết phải như thế đó ; vì nếu một minh sư hãy còn chấp vào sự nghèo khó , đời sống đơn giản , hay quần áo giản dị không thôi , đó cũng kể như là một thứ câu nệ . Nếu cứ câu nệ vào một cực đoan này hay cực đoan kia cũng không tốt . Minh sư phải buông bỏ ở bên trong , còn ở bên ngoài thì sao cũng được . Phải tùy vào hoàn cảnh và xuất thân hay bất cứ những gì càn làm để đem lại lợi ích cho chúng sinh .
Tình Thương Không Phân Biệt
Tình Thương Không Phân Biệt
Hồi xưa có một người thương gia kia , buôn bán nhỏ thôi , và cũng không khá giả gì cho lắm . Việc buôn bán của anh không mấy gì thành công nhưng anh ta cũng không nệ hà gì . Anh vẫn cảm thấy thỏa mãn và lo cho gia đình rất chu đáo . Có một người láng giềng của anh là một người tu chân Đạo , và người này rất nghèo cho nên người láng giềng thương gia này thỉnh thoảng mang cho ông ta thức ăn và vật dụng để giúp ông trải qua mùa đông cũng như những lúc khó khăn . Từ khi anh ta bố thí một chút , rất ít , có thể chỉ là một phần ngàn lợi tức của anh ; một chút bánh mì , có khi bánh ngọt , có khi bánh ngọt , có khi bắp cải , có khi một chùm cà rốt , một chén gạo , đại khái vậy , những thứ không đáng giá bao nhiêu cho người láng giềng là người tu hành đó thì công việc làm ăn , gia đình và sức khoẻ của anh trở nên khá hơn , con cái ngoan ngoãn hơn và anh ta kiếm được nhiều tiền hơn .
Càng kiếm được nhiều anh càng mang cho vị tu hành nhà bên cạnh nhiều hơn , bởi vì bây giờ anh đã khá giả hơn . Càng cho nhiều anh càng kiếm được nhiều , công việc làm ăn càng phát đạt và mọi chuyện ngày càng tốt đẹp hơn .
Rồi anh bắt đầu để ý mối tương quan giữa sự khá giã của anh với những sự bố thí mà anh làm cho người láng giềng , mà thật sự cũng đúng như vậy . Anh ta bắt đầu suy nghĩ : "À , ta càng mang cho người này thì việc làm ăn của ta càng phát đạt . Nghe nói người này có một vị sư phụ , và ông ta cũng nói rằng sư phụ của ông vĩ đại hơn ông cả triệu lần". Là người buôn bán , anh thầm nghĩ : "Phải rồi , hàng mấy triệu lần hơn nữa ! Ta chỉ mới bố thí cho một người đệ tử xoàng như vậy mà việc buôn bán đã gia tăng gấp bội ; nếu ta cho sư phụ của ông ta , người mà ông ta nói là hàng trăm , hàng triệu , hàng tỷ lần vĩ đại hơn , thì có lẽ việc làm ăn của ta sẽ ..."
Quý vị có thể tưởng tượng được anh ta nghĩ gì (mọi người cười). Rồi anh móc ra trong hồ bao , chuẩn bị rất nhiều những món quà quý giá , đủ thứ ; và đi thật xa để tìm vị sư phụ của ông láng giềng kia . Bây giờ anh chỉ đi cúng dường vị sư phụ đó mà thôi , không cúng dường ông láng giềng nữa .
Từ khi cúng dường cho vị minh sư vĩ đại nhất mà anh nghe đến , việc làm ăn của anh bị suy xụp , càng ngày lại càng xuống dốc . Càng cho vị minh sư bao nhiêu thì anh càng thâu được ít bấy nhiêu , tới mức không chịu nổi nữa , gần như là phá sản . Trong nhà anh hầu như là không còn gì nữa và cả nhà cũng gần chết đói rồi .
Anh sang nhà láng giềng nói chuyện với người mà anh cho là đệ tử xoàng của vị minh sư vĩ đại kia . Anh hỏi : "Tại sao ông nói với tôi là thầy của ông vĩ đại hơn ông gấp triệu lần ?" Người đệ tử đáp : "Đúng vậy , dĩ nhiên . Tôi đã nói thật lòng với anh . Thầy tôi còn vĩ đại hơn tất cả những gì tôi có thể diễn tả được . Không phải chỉ hàng trăm triệu lần giỏi hơn , nó còn vĩ đại hơn nhiều lắm , nhưng vì không thể giải thích cho ông biết mức vĩ đại của ngài , cho nên tôi phải tạm nói là trăm tỉ lần hơn tôi . Nhưng ngài vẫn vĩ đại hơn thế nữa".
Người thương gia nói : "Nhưng tôi đã đi cúng dường cho ngài vì tôi nghĩ rằng ngài vĩ đại hơn ông , xuất sắc hơn , đạo đức hơn . Nhưng từ đó công việc buôn bán của tôi lại suy xụp , tôi gần như chết đói đến nơi rồi . Cả gia đình bây giờ không có gì ăn nữa . Tại sao lại như vậy ?"
Người đệ tử đáp rằng : "Trước kia , anh cúng dường cho tôi là do lòng tốt của anh , lòng thương yêu nhân hậu của anh , vì tôi đang thiếu thốn nên anh cho mà không nghĩ đến một sự đền đáp gì . Anh cho vì tình thương và cũng không đòi hỏi gì . Anh cho một cách tùy tiện , cũng không đắn đo suy nghĩ coi tôi có xứng đáng hay không , cũng không để ý chọn người để cho . Anh chỉ vì tình thương mà bố thí . Thượng Đế cũng cho một cách tự do . Ngài không phân biệt người để cho , cũng như anh đã không phân biệt ai để cho . Anh cho tôi mà không phân biệt tôi tốt hay xấu , tôi xứng đáng hay không . Nhưng từ khi anh phân biệt giữa tôi và thầy tôi , anh chọn người vĩ đại , đạo đức , xứng đáng , đáng kính trọng và thánh thiện rồi anh mới cho ; vì anh nghĩ rằng vị này xứng đáng , xuất chúng và đạo đức . Thượng Đế cũng làm như vậy . Ngài chỉ chọn người nào có đạo đức , xứng đáng , thánh thiện mới cho . Vì anh phân biệt nên Thượng Đế cũng phân biệt".
Cho nên , khi quý vị về nhà , hãy cố gắng sao cho tình thương của quý vị không có sự phân biệt . con cái của quý vị có thể rất hư , ông chồng có thể rất tệ , người láng giềng có thể rất xấu xa nhưng hãy cố gắng yêu thương họ . Không phải thương như nhau , nhưng thương tùy trường hợp , tùy khả năng của quý vị . Thương càng nhiều càng tốt , và chỉ khi nào họ cần , quý vị mới giúp . Nếu không quý vị cứ đối đãi mọi người một cách bình đẳng , một cách thân thiện , không sân hận trong lòng , bởi vì quý vị không thể thương mọi người như nhau được .
Thượng Đế không tạo chúng ta ra để thương mọi người như nhau thì tạo phải làm như vậy ? Chúng ta không cần phải phải ép lòng làm như vậy . Nhưng thương họ có nghĩa là bất cứ khi nào họ cần chúng ta , mặc dù trước kia họ đã làm hại ta , chúng ta cũng quay lại lập tức giúp họ . Thương họ có nghĩa là không nuôi lòng thù hận , không có ác ý , hoặc trù ếm họ ; ngược lại , chúng ta chúc lành cho họ , cầu nguyện cho họ , ngồi thiền để cho họ được lợi ích .
Tên Trộm Trở Thành Người Tu Hành
Tên Trộm Trở Thành Người Tu Hành
Xưa kia có một tên trộm lẽn vào hoàng cung ăn trộm , tình cờ nghe được hai viên thái giám nói chuyện với nhau : "Quốc vương của chúng ta đang muốn gả công chúa cho một vị hòa thượng tu hành bên bờ sông Hằng , anh nghĩ sao ?"
Thái giám kia nói : "Tốt , tốt lắm ! Công chúa là người cao quý nhất nước , còn hòa thượng tu hành bên sông Hằng cũng là người hiếm có , rất đạo đức , cao thượng nhất trên đời . Dĩ nhiên tôi rất mừng , rất tán thành !"
Tên kia nghe xong liền bỏ nghề ăn trộm , lén chạy đi làm hòa thượng (mọi người cười). Anh ta vội vã cạo trọc đầu , mặc tăng phục , rồi trà trộn trong đám tăng chúng ngồi thiền , trong bụng ao ước công chúa sẽ trở thành vợ của mình .
Nhiều ngày qua , quả nhiên quốc vương sai thái giám đến bờ sông Hằng hỏi những vị hòa thượng có muốn lấy công chúa không . Ông hỏi từng người một . Người này không muốn , ông lại hỏi người kia , cứ tiếp tục như vậy .
Những vị hòa thượng này là những người tu hành cao , không muốn công chúa , cho nên ai cũng từ chối . Chỉ còn tên ăn trộm ngồi đó , tim đập thình thình , trong đầu la lớn : "Tôi ở đây nè , đến đây lẹ lên". (mọi người cười)
Cuối cùng vị thái giám đến chỗ anh ta . Khi được hỏi thì hắn ta im lặng (mọi người cười), không nói một lời . Những người khác trả lời không muốn , nhưng người này không nói gì cả . Như vậy tức là khác rất xa .
Vị thái giám mừng rỡ , về báo với quốc vương rằng : "Có một vị hòa thượng tu hành bên sông Hằng hình như có ý muốn cưới công chúa , vì khi chúng tôi hỏi , ông ta từ chối . Như vậy có nghĩa là ông đã bằng lòng chín mươi phần trăm , chỉ chưa thật sự quyết định là muốn hay không . Trong số những người mà chúng tôi hỏi , chỉ có ông này là người không từ chối".
Nghe xong quốc vương mừng rỡ , nghĩ rằng mình phải đích thân đi và đem theo nhiều lễ vật , như vậy hòa thượng này thế nào cũng bằng lòng cưới công chúa .
Quốc vương dẫn theo văn võ , bá quan và thái giám tới bên bờ sông Hằng nơi tên ăn trộm đang ngồi thiền . Với một vẽ hết sức cung kính , nhà vua xin hắn nhận công chúa làm vợ . Vì chính quốc vương cũng có tu hành , nên ông không muốn gả công chúa cho một người thường . Ông muốn gả nàng cho một người tu hành hơn , vì như vậy công chúa sẽ có thể cùng tu hành với một người chồng tốt , một vị thầy tốt . Ông chỉ có thể an tâm khi có được một người con rể có thể dạy công chúa cách tọa thiền và trở thành một người đạo đức . Cho nên khi nghe có người tọa thiền bên bờ sông Hằng sẽ lấy công chúa , quốc vương rất vui mừng . Ông đến bái người này một cách cung kính và xin anh ta cưới con gái của ông làm vợ .
Tên ăn trộm rất làm đắc ý , nhưng rồi anh ta nghĩ bụng : "Mình chỉ mới cạo đầu , mặc tăng phục giả trang làm một hòa thượng , một người tu hành , mà nhà vua và quần thần đã đối với mình hết sức tôn kính như vậy , lại còn tặng cho mình tài sản , báu vật . Nếu mình làm hòa thượng thật , một người tu hành chân chánh , thì không còn biết sẽ còn hay tới cỡ nào !"
Sau khi suy nghĩ kỹ càng , anh không muốn lấy công chúa nữa ! (Mọi người cười). Anh bắt đầu tu hành nghiêm chỉnh vì anh ta hiểu được lợi ích của sự tu hành . Từ đó về sau tên ăn trộm này ngồi thiền , tu hành rất là thành tâm . Sau này ông khai ngộ và trở thành một thánh nhân vĩ đại , một nhà tu nổi tiếng .
Thượng Đế Chăm Sóc Mọi Việc
Thượng Đế Chăm Sóc Mọi Việc
Hồi xưa có một vị tu sĩ Ấn Độ , tu hành rất siêng năng . Một ngày kia , người mẹ già vẫn hay đau bệnh của ông ta đã qua đời . Ông vui mừng vội vã chạy vào đại điện quỳ xuống cám ơn Thượng Đế , chắc là cám ơn Sư Phụ bên trong ! Ông vừa lạy vừa nói : "Đa tạ , đa tạ Thượng Đế ! Con chưa cầu xin , chưa khấn nguyện , mà Ngài đã ban cho con một ơn huệ thật là vĩ đại . Bây giờ mẹ của con đã được Ngài dẫn độ , cho nên con rất tự do , mỗi ngày có thể dốc tâm nhớ tới Ngài !"
Ông ta rất vui mừng nên cứ nhảy múa và ca hát . Người láng giềng lấy làm lạ nên mới hỏi ông : "Tại sao vậy ? Mẹ chết đã không rơi giọt nước mắt nào , mà lại còn vui mừng ca hát như vậy".
Những bài ca múa của ông có thể điệu cúng dường Thượng Đế , không phải là loại Karaoke , không có giống nhau . Có thể hơi giống , lắc qua lắc lại , nhảy tới nhảy lui , coi cũng giống nhau . Tuy nhiên , mẹ của ông chắc cũng không buồn , vì bà cũng giống như ông , là một người tu hành rất thành tâm . Cả hai đều biết thế giới này là vô thường , nên mẹ của ông lúc qua đời cảm thấy rất vui , và sau khi mẹ ông đã qua đời , ông cũng vui không kém . Cả hai đều là những người kỳ lạ !
Sau khi chôn cất mẹ xong , mỗi ngày ông ngồi bên bờ sông Hằng , ... , tọa thiền , câu thông với Thượng Đế Tối Cao . Ba ngày trôi qua , ông không ăn một hạt cơm nào , cũng không uống một giọt nước nào . Ông hoàn toàn quên hẳn chuyện đó . Nơi ông ngồi là bờ sông rất vắng vẻ , không có người hành hương qua lại , cho nên ông không có gì để ăn .
Thượng Đế trên trời nói với những người xung quanh rằng : "Chao ôi ! Thật tội nghiệp ! Dưới kia , đệ tử của ta sắp chết đói rồi , và chuyện này có vẽ như là ta không làm tròn trách nhiệm , không cho nó cái gì để ăn cả . Nó ngồi đó không giây khắc nào quên ta , còn ta ở đây lại quên không bảo vệ nó".
Thế rồi Thượng Đế phái thiên sứ đang đứng cạnh ngài mang thức ăn ngon đến bờ sông cho vị tu sĩ kia dùng . Thiên sứ cầm một cái đĩa bằng vàng , bên trong đựng rất nhiều thức ăn gia trì , nào là chapati , sữa , táo ... , đến cho ông dùng . Vị thiên sứ này chưa bao giờ gặp loài người , huống chi là một nam nhân . Vị này là một thiếu nữ , nhìn thấy con trai nên mắc cở . Cho nên cô âm thầm đặt cái đĩa bên cạnh ông rồi bay về .
Người tu hành nọ nhìn thấy đĩa thức ăn , nhưng không có ai đến , bèn cảm tạ Thượng Đế , cho răng nhất định đây là do Thượng Đế ban cho . Sau khi ăn xong , ông tiếp tục ở đó tọa thiền , niệm danh Thượng Đế và nhập định .
Đột nhiên , có nhiều người vây chung quanh , đánh thức ông dậy , kẻ cầm gậy , người cầm dao muốn bắt ông . Ông kinh ngạc hỏi : "Tại sao ? Có chuyện gì xảy ra vậy ?"
Họ trả lời : "Ngươi là quân ăn cắp , dám trộm cái đĩa vàng này trong đền thờ Thượng Đế . Chúng tôi sẽ bắt ngươi đến để cho nhà vua trị tội".
Mặc cho ông giải thích thế nào , nhưng người lính kia vẫn không tin . Họ nghĩ một người thanh niên nghèo nàn rách rưới ngồi bên bờ sông , làm sao có được một cái đĩa bằng vàng quý báu như thế , nhất định là hắn đã ăn cắp . Cái đĩa này trông rất giống như những cái người ta hay dùng trong đền thờ để đựng lễ vật cúng dường Thượng Đế , nên họ nhất định bắt ông về để trừng phạt .
Sau khi bắt ông về , nhà vua rất giận dữ , ra lệnh cho thuộc hạ đánh ông . Họ đánh ông rất thẳng tay và đánh rất lâu . Thế mà ông không cảm thấy gì cả , chỉ cười hoài mà thôi (Sư Phụ cười). Không phải giống như tôi cười , nhưng cũng hơi tương tự như vậy . Không những ông ta cười mà còn khoái trá , như đang gãi trúng chỗ ngứa vậy . Sau đó mọi người đều mệt , tay đều đau nhức (Sư Phụ cười), cho nên họ không đánh ông nữa và thả ông về . Nhà vua thấy rất lạ , cảm thấy dường như có Thượng Đế bảo vệ cho người này , cho nên cũng không dám đánh tiếp nữa . Tuy nhiên nhà vua rất là thắc mắc , muốn đi đến đền thờ xem coi có cái đĩa nào như thế bị mất cắp không .
Khi vua vào đến đền thờ , ông thấy có vết máu từ trên tượng của Thượng Đế chảy xuống . Ông lấy làm lạ : "Tại sao lại thế này ? Bức tượng tại sao lại chảy máu ?"
Không những thế , chỗ chảy máu lại đúng chỗ người tu hành bị đánh . Nhà vua liền quỳ xuống sám hối , không biết mình đã phạm lỗi lầm gì . Rồi nhà vua giác ngộ : có thể người đó vô tội , đánh người đó cũng như đánh Thượng Đế vậy , cho nên tượng của Thượng Đế mới đổ máu .
Lúc đó nhà vua và bá quan rất sợ hãi , mọi người vội vã chạy tới bờ sông , quỳ xuống sám hối với người tu hành nhỏ bé , nghèo nàn nọ , rồi sau đó mỗi ngày còn cúng dường thức ăn cho ông nữa .
Khi về lại đền thờ , thì thấy tượng Thượng Đế không còn rướm máu nữa . Cho nên mọi người hiểu rõ nguyên do .
Vì người tu hành này tọa thiền chăm chỉ - hằng ngày chỉ nghĩ tới Thượng Đế - cho nên khi Thượng Đế nhìn thấy ông không có cơm ăn bèn cảm thấy có lỗi . Nếu vì miếng ăn ấy mà để ông bị đòn , thì đương nhiên đó là lỗi của Thượng Đế , nên Ngài mới hứng chịu những hình phạt này . Không phải sau khi làm Thượng Đế hoặc làm Phật rồi thì không phải lo gì cả . Nếu chúng ta thật sự siêng năng tu hành , thì Thượng Đế sẽ săn sóc tất cả mọi việc .
Bí Pháp Trường Sinh Bất Tử
Bí Pháp Trường Sinh Bất Tử
Xưa kia bên Trung Quốc có một người thường khoe khoang với mọi người rằng ông biết một bí pháp có thể làm con người trường sinh bất tử . Vua nước Yên nghe nói vậy bèn sai thị giả và đại thần đi tìm người biết thuật trường sinh bất tử này , mời ông lên triều để hỏi bí pháp này . Nhưng người thị giả đó rất giống sứ giả Quán Âm của chúng ta , hay là thị giả của tôi ! Ông đi rất là chậm . Thay vì đi bằng xe Benz hay Buick , thì ông lái xe Yulong , cho nên chạy rất là chậm . À ! Không phải là xe Yulong , ông đi xe ngựa . Nhưng ngay cả xe ngựa ông cũng thấy sang quá , cho nên ông cỡi ngựa . Sau đó ông nghĩ nó vẫn còn xa xỉ , thành ra ông quyết định đi bộ , rất chậm , rất là chậm !
Ông vừa đi vừa dạo chơi , vòng qua Ba Lê và nhiều nơi khác . Cho nên lâu lắm mới tới chỗ ở của người biết bí pháp trường sinh bất tử kia . Vì quá chậm và quá trễ nên khi đến nơi thì người đó đã chết rồi ! (Mọi người cười).
Vua nước Yên biết được rất là giận dữ . Ông hét lớn lên giống như lúc tôi la lên vậy , tuy nhiên cũng không được lớn bằng vì ông ta không có tu Pháp Môn Quán Âm (Mọi người cười). Tiếng la của ông không lớn bằng tôi , vì tôi có "khí" nhờ luyện Pháp Quán Âm . Giận kiểu như vậy mới thật là vui (Cười).
Nhà vua rất tức giận , muốn lôi thị giả đó ra chém đầu ngay . Lúc bấy giờ có một vị đại thần đứng ra xin nhà vua tha thứ , đừng giết người đó . Ông tâu với vua rằng : "Trên đời này , ai cũng tham sống , sợ chết . Bây giờ vì thuật trường sinh bất tử mà giết người tức là làm trái với lý tưởng của chúng ta . Hơn nữa người kia khoe ông ta biết bí pháp trường sinh , nhưng bây giờ đã chết , không thể tự cứu mình , chứng tỏ bí pháp của ông là vô dụng ! Cho nên , xin ngài đừng vì một người vô dụng mà giết một người hữu dụng của chúng ta".
Vua nước Yên nghe thấy có lý cho nên ông bắt đầu niệm Hồng Danh , thọ năm giới , theo nguyên tắc của Ngài Vô Thượng Sư Thanh Hải là không sát sanh (Cười).
Lúc bấy giờ , có một nước khác gọi là nước Tề . Ở nước này có một tên là Hồ Tử cũng nghe nói về người biết bí pháp trường sanh bất tử kia và ông cũng muốn tìm học . Cho nên , khi biết người đó vãng sanh , ông rất buồn rầu , và khóc . Một người bạn của ông tên là Phú Tử nói rằng : "Sao anh khờ dại thế ! Người đó nói biết cách trường sinh , nhưng bây giờ ông ta đã chết rồi anh không thấy người đó thật là hoang đường hay sao ? Anh khóc lóc cái gì chứ ? Đủ thấy anh cũng không có trí huệ , còn không biết mình học cái gì".
Hồ Tử nói với bạn Phú Tử rằng : "Anh đã lầm ! Có người tuy biết bí pháp , nhưng vì không biết cách xử dụng cho nên không thể dùng ; cũng có người biết áp dụng , nhưng không biết bí pháp chân chánh lưu truyền ở đâu". Chẳng hạn như trước đây tại nước Ngụy , có một người già rất giỏi về toán học . Lýc sắp qua đời , ông truyền lại môn toán học nầy lại cho người còn . Người con nghe hết tất cả , nhưng không giỏi toán được như cha mình . Lại có một người từ một nơi khác đến nhà của người con đó , xin được học môn toán đó . Khi trở về ông ta có thể giải bất cứ bài toán gì một cách chính xác , y như người cha kia . Vì ông hoàn toàn làm y theo những lời mà người con - một người không biết toán - chỉ lại và thực tập từng bước một . Kết quả ông làm giỏi y như người cha đã qua đời kia .
"Người biết trường sanh bất tử đó có lẽ biết bí pháp , nhưng ông không dùng hay tập không đúng cách . Nếu chúng ta học được của ông ta bí pháp đó , và tự tập lấy thì hay biết mấy !"
Pháp Môn Quán Âm cũng giống như vậy . Thấy quý vị ngồi lâu như vậy , mỗi lần ngồi mười mấy tiếng đồng hồ bất động và có thể nghiệm tốt như vậy , điều đó chứng tỏ pháp môn này là đúng , bí pháp này là chính thống . Như vậy quý vị cứ tiếp tục theo lời dạy của Minh Sư thì sẽ không sai được ! Đôi khi tôi gởi sứ giả Quán Âm đến dạy quý vị , sau đó quý vị tu theo lời của sứ giả Quán Âm . Dù tôi không có mặt cũng không sao , quý vị cứ theo phương pháp đó mà toạ thiền thì quý vị có thể có được thể nghiệm rất tốt .
Vị sứ giả Quán Âm đó tu hành chưa chắc đã giỏi hơn quý vị , cho nên quý vị không cần tôn sùng họ . Quý vị hãy ca ngợi Bản Lai Diện Mục của quý vị , tôn sùng lực lượng vạn năng của Sư Phụ bên trong , mà chúng ta vốn đã có . Qua sự hướng dẫn của sứ giả Quán Âm và tu hành đúng theo phương pháp Minh Sư dạy , nhất định chúng ta sẽ đạt được đạo mà chúng ta khao khát .
Tuy nhiên nói là nói vậy , nhưng phương pháp là quan trọng nhất ! Nguồn năng lực sinh động phải được truyền sang cho chúng ta thì lực lượng bên trong của chúng ta mới có thể khai mở được .
Thật ra , người này có lẽ tình cờ biết được bí pháp này , có lẽ học được tự một vị thầy đã đắc đạo . Cho nên người khác có thể học lại từ câu cũng không sao . Bí pha'p này không phải nơi nào cũng tìm được . Tại sao không có người nào mà chỉ có người cao niên ở nước Yên đó biết bí pháp trường sanh bất tử ? Và tại sao ông đã biết mà bản thân ông vẫn chết ?
Coa hai cách giải thích : Thứ nhất người nước Yên và nước Tề hiểu sai những điều giảng về pháp trường sanh bất tử kia . Trường sanh bất tử cũng không có nghĩa là thân thể này vĩnh viễn hiện hữu , mà là linh hồn của chúng ta vĩnh viễn được giải thoát . Khi chúng ta đạt được cảnh giới bất sinh , bất tử , bất cấu , bất tịnh , vô hủy diệt , không ô nhiễm , không bợn nhơ lúc đó chúng ta mới thật là trường sinh bất tử . Tuy nhiên một người bình thường , hễ nghe nói trường sinh bất tử , là họ nghĩ về phương diện vật chất . Cho nên khi nghe người đó chết , họ thất vọng , hoặc họ cười những người muốn theo học pháp trường sinh của người đó : "Nếu ông thầy đó cũng chết , tại sao chúng ta phải theo học ?" Tôi nghĩ cách giải thích này có lý hơn .
Một cách giỉ thích nữa là : Có lẽ người đó học được bí pháp , nhưng không thực hành . Có lẽ có một phương pháp trường sinh bất tử thật , sống được mấy ngàn năm , mấy vạn năm mà vẫn không già . Chúng ta không nên kết luận rằng nó có hay không có . Chưa biết thật sự thì không nên phủ nhận gì cả . Nếu không biết thì chúng ta nói là không biết . Nếu biết thì chúng ta nói : "Có , tôi biết".
Nếu người kia biết cách để trường sinh bất tử , tại sao lại chết ? Có thể là vì ông không làm được phương pháp thầy ông dạy , hoặc không tu tập pháp đó một cách nghiêm chỉnh , cho nên mới không có kết quả , điều này cũng có thể lắm .
Thí dụ , nhiều người biết luyện Thái Cự Quyền , hoặc biết nhảy Tango , Rumba , hay Cha Cha Cha , qua sách vở . Bước thứ nhất là chân phải , bước thứ hai là chân trái , sau đó xoay trái , xoay phải , tiến tới trước , lùi ra sao , ... họ biết hết và có hình chỉ cách cho từng bước nhảy , nhưng chính họ không tập , hay chỉ tập một hai ngày , không thường đi câu lạc bộ khiêu vũ , cho nên quên mất .
Nếu chúng ta được những hình ảnh chỉ dẫn này từ người đó , chúng ta cũng tự tập lấy được . Có lẽ không hoàn hảo lắm ; nhưng một khi học được những động tác căn bản , chúng ta có thể tập luyện và sẽ giỏi hơn . Có thể nếu được tập với một người chuyên môn , chúng ta sẽ càng tiến bộ hơn nữa . Sau đó cộng thêm trí thông minh của mình , phát huy tài hoa , chúng ta có thể nhảy đẹp hơn nữa .
Tại sao Trung Quốc lúc bấy giờ , chỉ nghe có người đó biết bi pháp trường sinh bất tử , mà không ai khác biết ? Có lẽ giống như sứ giả Quán Âm của chúng ta , không phải chỗ nào cũng có nhiều . Chẳng hạn như , Minh Sư chỉ có một hay hai người , và số đệ tử của các ngài có khả năng đi truyền pháp được cũng không nhiều lắm , không phải lúc nào cũng gửi được hàng chục người tới từng nơi như vậy . Đó là tại sao lúc bấy giờ ở nước đó người ta chỉ nghe nói có người ấy mới biết mà thôi (Vỗ tay).
Tình Thương Vô Điều Kiện của Một Minh Sư
Tình Thương Vô Điều Kiện của
Một Minh Sư
Ở Mỹ có một vị minh sư khai ngộ tên là Yogananda . Trước khi được thọ tâm ấn , ông gặp sư phụ của ông lần đầu tiên ở ngoài phố . Ông rất tin tưởng vị minh sư này , nên xin ngài được thọ pháp . Ngài bằng lòng và nói rằng : "Hãy đến gặp ta vào một ngày khác , rồi lúc đó ta sẽ truyền tâm ấn cho , và nhận ngươi làm đệ tử". Ngài còn nói thêm : "Hôm nay ta đến để kiếm ngươi . Nhưng khi đến chỗ ở của ta , ngươi sẽ là người kiếm ta . Lúc đó ngươi sẽ phải cầu khẩn ta , chứ không thể nào tới xin ta truyền tâm ấn tự nhiên như vầy được".
Yogananda nói : "Không sao , con sẽ làm như sư phụ nói".
Sau đó ông đến xin minh sư này truyền pháp cho ông . Quý vị biết tại sao họ lại hành động như vậy không ? Nghi thức vẫn là quan trọng để thử thách xem người kia có nhiệt tình đối với pháp môn đó hay không . Ming sư này e rằng người kia sẽ coi ông như bạn vì trước đó họ đã gặp nhau rồi . Lúc đó người này có thể bước vào nhà nói với thầy rằng : "Chào Ngài ! Ngài chịu truyền pháp cho tôi không ? Tụi mình gặp nhau ngoài chợ lúc đi mua rau đó , nhớ không ?" (Cười). Vì nghĩ rằng Yogananda có thể sẽ tới với thái độ đó , nên ngài căn dặn : "Khi đến với ta , ngươi phải trịnh trọng , nghiêm trang , và cuối đầu xin ta nhận làm đệ tử . Như vậy ta mới truyền pháp cho . Dù hôm nay chúng ta đã quen nhau , nhưng khi đến gặp ta ngươi vẫn phải cuối lạy ta".
Lý do thứ nhất là nghi thức . Lý do thứ hai là để coi người này khiêm nhường như thế nào . Lý do thứ ba là để giữ khoảng cách tôn nghiêm giữa thầy và trò vì sẽ có nhiều đệ tử khác nhìn họ . Nếu ông đối xử với một đệ tử tự nhiên quá thì sau này rất khó dạy những đệ tử khác . Hơn nữa , là một người mới vô , không biết quy luật , ông có thể rất dễ nôn nóng và buộc miệng nói rằng : "Hôm nọ chúng ta ở chợ mua rau với nhau , và ngài có hứa truyền pháp cho tôi . Pháp môn này thật ra như thế nào ? Đem ra cho tôi coi thử !" (Cười).
Vì vậy sư phụ ông phải dặn kỹ càng . Thật ra như vậy là ngài có lòng thương . Không những truyền pháp cho người đó mà còn dạy ông ta cách xử thế đứng đắn của một người đệ tử .
Ngày hôm đó , Yogananda đến nơi thầy ở để xin thọ pháp và tuân theo mọi nghi thức . Trước khi truyền pháp , sư phụ ông nói với đệ tử rằng : "Ta nhận ngươi làm đệ tử của ta một cách vô điều kiện . Dù đức hạnh , đẳng cấp tu hành của ngươi có cao hay thấp , dù tính tình của ngươi xấu hay tốt , dù hành vi của ngươi cao thượng hay thấp hèn , ta vẫn mãi mãi yêu thương ngươi , che chở cho ngươi , và chấp nhận ngươi như một người bạn tốt". Yogananda : "Dạ".
Dĩ nhiên có một ông thầy như vậy thì thật là tốt quá ! Sư Phụ ông tiếp tục nói với một vẽ nghiêm trang : "Nhưng ta có một điều kiện". Tim ông hồi hộp , bỗng nhiên lại có điều kiện ! Sư Phụ ông nói : "Ta chỉ có một điều kiện duy nhất , đó là ngươi cũng phải chấp nhận và yêu thương ta một cách vô điều kiện giống như ta đã chấp nhận ngươi . Ngươi phải thương yêu ta bất chấp đẳng cấp của ta , tính tình của ta , hành động của ta , dù xấu hay tốt . Ngươi có thể làm như vậy được không ?"
Yogananda do dự rồi đáp : "Thưa sư phụ , là một vị thầy đắc đạo , dĩ nhiên là có đẳng cấp cao . Chúng con quý sư phụ vì ngài là tối thượng . Như sư phụ đã nói , đôi khi ngài rất thấp ; nhưng nếu con thấy ngài làm điều gì không phải , vô đạo đức hoặc thấp kém về mặt tâm linh , chắc con sẽ không chấp nhận được" (Cười).
Rồi sư phụ ông nói : "Thôi được ! Ta chẳng cần tình bạn của ngươi , không ra gì cả !"
Ý nói ông là một người bạn không tốt , bạn kiểu này không phải là bạn thật .
Yogananda xấu hổ quá bèn nói : "Xin lỗi sư phụ . Con sẽ mãi mãi thương sư phụ , bất chấp đẳng cấp của ngài , đức hạnh , hay tính tình của ngài . Nếu sư phụ bị ngã , con sẽ che chở cho ngài ."
Sư phụ ông vui lòng đáp lại : "Như vậy thì tốt ! Được , ta nhận ngươi làm đệ tử của ta ."
Sau đó ngài truyền tâm ấn cho Yogananda .
Tại sao sư phụ của ông lại yêu cầu như vậy ? Ngài có cần ông ta phải trung thành không ? Tôi cũng không biết tại sao ngài lại đòi hỏi như vậy . Tôi chưa bao giờ đòi hỏi quý vị như vậy . Không phải ngài là một minh sư không hoàn mỹ , nhưng ngài sợ đệ tử của mình sẽ đem đầu óc và khả năng phàm phu ra phê bình ngài . Nên ngài muốn củng cố lòng tin của người đó trước . Vì thế ngài mới nói rằng : "Dù ta có như thế nào đi nữa , ngươi vẫn phải thương yêu và kính trọng ta ." Như vậy ông sẽ không tạo nghiệp cho mình và lòng tin sẽ không bị giao động . Vì đã hứa như vậy nên ông phải giữ lời .
Cho nên , mỗi khi thấy sư phụ ông làm điều gì không đúng , ông sẽ nhớ lại giờ phút này và sẽ không dám tùy tiên phê bình . Ông cũng nhớ rằng sư phụ đã chấp nhận mình . Nếu vị minh sư đó chấp nhận chúng ta được , thì tại sao chúng ta không thể chấp nhận họ ? Nếu chúng ta tin rằng sư phụ của chúng ta đã đắc đạo , thì ngài có thể nhìn thấy nghiệp quả , đức độ và lỗi lầm của chúng ta . Ngài có thể thấy một cách rõ ràng , nhưng vẫn nhận chúng ta làm đệ tử , vẫn thương yêu , cứu vớt chúng ta mỗi khi chúng ta bị sa ngã .
Là một người phàm phu , chúng ta không nhìn thấy được nghiệp chướng , đạo đức và lỗi lầm , thì làm sao có thể phê bình họ được ? Minh sư đòi hỏi chúng ta phải như vậy chỉ vì muốn củng cố lòng tin nơi chúng ta , và giúp chúng ta đừng tự gây nên nghiệp chướng cho chính mình . Họ không phải là minh sư khai ngộ không hoàn mỹ ; trái lại họ là chúng sinh hoàn mỹ nhất . Nếu không hoàn mỹ thì họ không thể vô sở bất tại được , và không thể cứu độ đệ tử bằng muôn vạn ức hóa thân , cũng không thể nghe và đáp ứng cho cả vũ trụ này .
Có thể đôi khi , chúng ta không có nhiều thể nghiệm , nhưng những đồng tu khác có , như vậy lòng tin của chúng ta cũng được cũng được củng cố . Nếu một người luôn luôn nghe được và đáp ứng được cho từng người khác , nhất định người đó phải có một cái gì đó rất là vĩ đại . Hơn nữa , tất cả sự cống hiến , giúp đỡ của họ đều là vô điều kiện . Vì thế chúng ta vẫn có lòng tin , cho dù chúng ta không có nhiều thể nghiệm . Nếu sau khi nghe những câu chuyện như vậy mà chúng ta vẫn chưa có lòng tin , thì chỉ có nước Thượng Đế xuống địa ngục cứu quý vị , không còn ai khác . Cho nên , đọc những câu chuyện này đừng có lật cho qua trang thôi , mà còn pahri học nữa .
Giả sử sư phụ của chúng ta không hoàn mỹ đi nữa , như vậy còn chúng ta thì sao ? Chúng ta có hoàn mỹ không ? Không ? Vậy thì khỏi phê bình ! Thành ra , tu hành không có khó , giữ vững lòng tin mới là khó . Càng nghĩ rằng mình có lòng tin mãnh liệt , thì chúng ta càng bị khảo nhiều hơn . Nếu chúng ta không nghĩ rằng mình vĩ đại , từ bi , có lòng tin vững chắc và nếu không ham đi độ chúng sinh , chúng ta sẽ bị khảo ít hơn . Là một người phàm phu , lực lượng của ma sẽ không thèm làm rộn chúng ta , vì chúng ta không có những kỳ vọng to tát .
Muốn độ chúng sinh cần phải có lực lượng vạn năng và đạt được quả vị Phật một cách nhanh chóng , đạt được hôm qua thì tốt hơn . (Sư Phụ và mọi người cười) Nhưng lúc đó những bài khảo dồn dập tới thì đừng có than . Nếu không muốn bị khảo nhiều , thì đừng kỳ vọng nhiều . Hãy coi thử chúng ta làm được những gì trong phạm vi khả năng của mình , những gì chúng ta đã làm trong quá khứ , và những gì chúng ta có thể làm được trong tương lai .
Còn lòng tin thì rất hữu dụng , nhưng không phải ai cũng giữ được . Tôi không có ý trách người nào , nhưng chúng ta nên biết những yếu điểm của mình để mà chuẩn bị tinh thần . Khi rớt xuống đẳng cấp nào đó thì mất lòng tin , chúng ta sẽ nhớ lại rằng có lần Sư Phụ đã nói quý vị là những chúng sinh rất yếu đuối , khổ một tí cũng không chịu nổi . Quý vị đã đọc nhiều chuyện , và biết rằng giữ vững lòng tin rất khó .
Thờ Phật gỗ còn dễ hơn thờ Phật sống . Phật sống phải đối phó với nhiều hoàn cảnh , nhiều công việc , bằng nhiều cách khác nhau . Khi thấy cách làm việc của họ không phù hợp với ý thức của chúng ta ; ý thích "cao cả", "khai ngộ" của chúng ta , chúng ta nghĩ vị Phật đó là tốt . Chúng ta không hiểu được nên chỉ đoán mò mà thôi .
Minh sư khai ngộ không màng đệ tử nghi ngờ hay không nghi ngờ mình , họ chỉ muốn dạy đệ tử làm sao để giữ vững đức tin .
Một ngày nọ , Yogananda bỏ đi . Sao ông ta lại bỏ đi ? Vì ông đã sống với thầy một thời gian lâu rồi , mà vẫn không thấy "thể nghiệm" gì cả ! Ông nghe nói có những vị minh sư rất giỏi đang tu hành trong những sơn động tại một nơi nào đó . Cho nên ông đến bên sông Hằng , trèo non lội suối để đi kiếm họ và ở với họ vài ngày . Nhưng tất cả các vị minh sư trên đó đều nói ông đã gặp đúng thầy rồi , và khuyên ông nên trở về . Tại đây ông cũng có được một vài thể nghiệm rất tốt . Đây là một trong những câu chuyện của ông .
Có lần , ông đi đến một sơn động , vì nghe nói ở đó có một bậc đại minh sư , một vị trưởng sư huynh của sư phụ ông , cùng học chung một thầy . Ông nghe nói vị này rất là vĩ đại , có thể còn "vĩ đại hơn" sư phụ của ông nữa , vì người này tu lâu năm hơn . Ông vượt đèo , lội suối , cuối cùng tìm được hang động . Ông ngồi đó , trong lòng đầy những kỳ vọng to tát , bóp chân cho vị minh sư này một cách khiêm tốn để được gia trì .
Tối hôm đó , ông thấy ánh sáng khắp mọi nơi . Chỗ nào cũng sáng , nhắm mắt hay mở mắt cũng không thể nào ngủ được , ông bèn hỏi thầy : "Sư phụ , tại sao kỳ vậy ? Trong này không có đèn , ngoài kia cũng không có gì chiếu . Tại sao sáng vậy ?"
Vị minh sư trả lời : "Ngủ đi ! Đừng có hỏi nhiều !"
Ông nằm xuống vẫn không ngủ được , lại phàn nàn nữa : "Làm sao con ngủ được ? Nhắm mắt hay mở mắt gì cũng thấy sáng quá !"
Vị minh sư đáp : "Thôi được , nếu không ngủ được thì chúng ta hãy dậy uống trà ."
Họ uống trà với nhau cho đến sáng . Sau đó vị minh sư ở trong hang động mới nói với ông rằng : "Về đi , về với sư phụ ngươi . Ngươi đã tìm được đúng thầy rồi , đừng đi đâu thêm nữa ."
Ông rất lấy làm xấu hổ , và tin lời vị sư huynh thâm niên của sư phụ ông .
Khi về tới chỗ của sư phụ ông , ông lén bước vào nhà bếp ; nhưng sư phụ ông đã đợi sẵn ở đó . Ngài không trách cứ một lời nào , chỉ hỏi : "Ê , ăn gì chưa ? Lại đây ! Ta sẽ nấu cho ngươi ăn ."
Họ cùng nhau dùng bữa . Sau khi ăn xong , sư phụ ông nói : "Chúng ta phải nấu thêm . Lát nữa , đến hai giờ sáng sẽ có nhiều người từ xa đến gặp ta . Thế nào họ cũng đói lắm ."
Yogananda tự hỏi : "Lạ nhỉ ! Ở đây sao sư phụ biết chuyện này ? Chắc Ngài cũng giỏi thật . Nếu không thì tại sao biết những chuyện này ?"
Ở đó không có điện thoại , không có người đưa tin , nhưng sư phụ ông vẫn biết một cách tự nhiên . Yogananda có chút nghi hoặc , nhưng ông biết sư phụ ông không giỡn chơi những chuyện như vầy . Ông bèn giúp thầy chuẩn bị thức ăn cho những người kia . Sau đó , hai giờ sáng , quả thật có rất nhiều người đến ăn .
Sau khi bếp núc xong , sư phụ ông đi nghỉ ngơi . Sau đó ngài đưa ông đến một nơi ngoài cửa . Khi ông ngồi xuống , sư phụ ông vỗ lên ngực ông một cái . Tức thì ông có được một thể nghiệm tuyệt vời ở bên trong . Trong thể nghiệm nầy , ông trông thấy mọi vật chung quanh rất là khác lạ , vô cùng trong suốt và rất là sáng . Thân thể ông như tan biến , và cả thế giới đều trở nên trong suốt . Tất cả đều sáng và nhìn rất là khác lạ . Ông quỳ xuống lạy thầy , trong lòng vô cùng biết ơn .
Sư phụ ông lắc đầu nói : "Thật tội nghiệp ! Vượt núi , băng sông lợi lộc gì cho ngươi chứ ?"
Yogananda vừa mới đi hành hương từ núi , sông trở về ; cho nên ông hiểu sư phụ ông muốn nói gì . Từ đó về sau , ông không bao giờ bỏ thầy mà đi nữa .
Chuyện Con Ngựa Uống Nước
Chuyện Con Ngựa Uống Nước
Thanh Hải Vô Thượng Sư kể tại đạo tràng Tây Hồ, Formosa
Ngày 26 tháng 1, 1992 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa)
Có một người cưỡi ngựa đến một nơi có bánh xe quay nước, nó phải quay hoài chúng ta mới có nước uống, hệ thống cổ xưa là như vậy. Người đó cưỡi ngựa đến đó, muốn cho con ngựa uống nước. Nhưng vừa bước vào trong, nghe tiếng thủy xa quay "rầm rầm" thì con ngựa sợ, chạy ào ra, không uống nước nữa! Chủ nhân con ngựa thấy vậy mới xin người giữ bánh xe nước cho ngừng chạy một lát, để con ngựa không nghe tiếng động mới chịu uống nước, uống xong thì sẽ đi ngay.
Rốt cuộc khi bánh xe vừa ngừng quay thì nước cũng ngừng chảy luôn, con ngựa vẫn uống không được, chủ nhân con ngựa đành nói: "Thôi được, anh cho bánh xe chạy lần nữa", nó vừa quay thì con ngựa bỏ chạy nữa.
Người giữ bánh xe nước bèn nói: "Anh phải bắt con ngựa uống nước ngay bây giờ, nếu bánh xe ngừng, không nghe tiếng động thì cũng hết nước, anh muốn nó uống hay không uống? Chỉ bấy nhiêu đó thôi!"
Có khi chúng ta không có đủ thì giờ để tọa thiền, thì chúng ta lại mới thích ngồi thiền. Nếu đời sống của chúng ta quá thoải mái thì cũng như ở thiên đường. Tại cảnh giới thiên đường chúng ta khó tu lắm! Vì không có mục đích, không có động cơ gì khuyến khích chúng ta tu. Cho nên phải ở trong tình trạng khao khát, chúng ta cảm thấy ăn không đủ, như vậy ăn mới ngon. Nếu thức ăn quá nhiều, chúng ta sẽ mắc bệnh của những người giàu có, thứ gì ăn cũng không vô!
Re: Thiền Sư Và Năm Trăm Con Hạc
Đức Tin Vô Giá
Thanh Hải Vô Thượng Sư kể tại Tây Hồ , Formosa
Ngày 1 tháng 1 , 1995 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa)
Tựa đề của câu chuyện này là "Guru Bhakti". Guru , tiếng Phạn , có nghĩa là Minh Sư, một vị Thầy khai ngộ . Bhakti có nghĩa là sùng bái , tuyệt đối nghe lời Minh Sư , chỉ nghĩ đến vị đó và cống hiến tất cả thân khẩu ý cho Ngài . Bất kỳ vị Thầy hay Minh Sư Khai Ngộ răn bảo gì , chúng ta chỉ một lòng nghe theo , không hề tranh cãi . Đó được gọi là "Guru Bhakti" trong tiếng Phạn .
Thuở xưa thật xưa , có một người thành tâm cầu đạo . Mỗi lần nghe nói có một vị Minh Sư vĩ đại nào đang thuyết pháp hoặc một người đạo đức nào đang giảng dạy , ông liền đến chỗ đó với vợ . Ông học được từ những giảng sư rằng một người phải được sự gia trì của một vị Minh Sư Khai Ngộ thì mới đạt được Chân Lý hay quả vị thánh nhân , và trở thành đồng nhất thể với Thượng Đế . Nên ông bắt đầu đi tìm một vị Minh Sư toàn hảo . Ông đi đến nhiều nơi , gặp hết Minh Sư này đến Minh sư khác , nhưng lúc nào cũng tìm thấy khuyết điểm làm họ không được toàn hảo theo con mắt của ông . Do đó , ông không thể nào tìm ra được một vị Chân Sư .
Những Minh Sư đó không đủ tốt đối với ông bởi vì trong đầu ông có những quan niệm sai lầm . Ông đọc qua quá nhiều sách vở , bao gồm tất cả các kinh điển khiến cho ông vô cùng ngạo mạn , lúc nào cũng để ý tìm tòi những khuyết điểm nơi người khác . Chẳng hạn , ông không hài lòng khi thấy một Minh Sư rất khai ngộ nhưng lại mù chữ , không biết đọc và không biết nhiều về kinh sách . Vị Minh Sư nào không tranh luận nỗi với ông hay không biết một đoạn kinh nào được trích ra từ quyển kinh nào , đều bị ông bỏ . Vì vậy ông không thể tìm được một vị Minh Sư Khai Ngộ . Nếu như chúng ta vẫn còn thái độ phê bình , chỉ trích và tư tưởng ngạo mạn này thì chắc chắn không thể nào chúng ta tìm ra được Tự Tánh của mình . Cho dù một vị Minh Sư Đắc Đạo có đứng trước mắt đi nữa, chúng ta vẫn không trông thấy. ;)
Một hôm ở nhà , ông cảm thấy rất bực bội và chán nản , nghĩ rằng mình không còn hy vọng tìm ra được một vị Minh Sư đủ giỏi để xứng với lòng sùng bái của mình . Khi vợ ông đến an ủi thì ông trút hết tất cả nỗi băn khoăn trong lòng . Ông nói rằng vì chưa tìm ra được một Minh Sư có khả năng giải thoát cho ông , nên ông rất lo mình sẽ chết mà chưa khai ngộ . Nhờ có đầu óc đơn thuần hơn và không được học nhiều như vậy , vợ ông an ủi nói : "Tại sao mình không vào rừng rồi ngồi thiền ? Mình sẽ cầu nguyện , niệm danh hiệu của các vị thánh và Thượng Đế rồi xin Ngài gởi Minh Sư đến . Chúng ta sẽ tôn người đầu tiên Thượng Đế gởi đến làm Minh Sư của chúng ta ." Không nghĩ ra cách nào hay hơn nên người chồng đành đồng ý . Ngày hôm sau họ đi vào rừng rồi ngồi bên một con đường mòn cầu nguyện .
Đúng lúc đó , một tên cướp đang tẩu thoát với đồ đạc quý giá vừa cướp được đi ngang . Hai vợ chồng lập tức chạy đến lạy trước mặt ông , nài nỉ xin cho họ làm đệ tử . (Cười) Họ khẩn cầu ông ta dạy cho họ cách thiền và gia trì cho mấy câu thần chú . Ở Ấn Độ , các Minh Sư hay những người tu hành cao thường hay để râu dài , mặc áo cà sa rồi ngồi ở đó để mọi người lạy bái như là đệ tử của họ . Mặc dù người Ấn Độ rất quen thuộc với các câu thần chú như "Ôm Ma Ni Bát Mê Hồng" hay "Nam... Nam... Nam", nhưng Minh Sư vẫn gia trì cho những câu thần chú này vào giờ phút cống hiến , làm câu chú của họ được linh ứng kể từ ngày đó trở đi . Điều này được gọi là gia trì thần chú. Mặc dầu họ vẫn niệm cùng một câu chú , nhưng hình như nó linh nghiệm hơn sau khi họ trở thành đệ tử của một Minh Sư . Cho nên , nhiều Minh Sư ở Ấn Độ làm lễ này .
Cặp vợ chồng ép buộc tên cướp làm thầy của họ , và như mọi người khác , họ cũng yêu cầu ông ta gia trì cho câu thần chú . Lúc đó , họ không biết ông ta là tên cướp . Không thể nào thoát khỏi hai người này , tên cướp vừa ngạc nhiên vừa sợ . Rồi hai vợ chồng kể cho ông nghe về sự thất bại của họ trong việc tìm kiếm một Minh Sư Khai Ngộ , nên họ nguyện ngồi trong rừng hôm đó và sẽ làm đệ tử của người đầu tiên bước chân đến . Họ giục tên cướp đừng bỏ chạy vì ông là Minh Sư của họ . Lời nói của họ động tới Thượng Đế Tánh tiềm ẩn sâu trong lòng tên cướp . Ông ta cảm thấy không thể gạt họ , nhưng khi cố gắng tiết lộ danh tánh , con người thật của mình thì cặp vợ chồng chẳng thèm nghe . Nếu ông ta từ chối không nhận họ làm đệ tử và dạy cho họ các câu thần chú linh thiêng thì chắc chắn họ sẽ không để ông đi . Họ không cần biết ông ta là ai , mà tin chắc rằng người này là Minh Sư của họ .
Lúc đầu , tên cướp hết sức cảm động, nhưng không lâu sau ông ta bắt đầu sợ và hồi hộp . Nếu họ cứ bám như vầy thì ông sẽ bị vô cùng rắc rối nếu cảnh sát bắt được . Trong cơn tuyệt vọng muốn bỏ thoát , ông ta hứa sẽ dạy họ và bảo họ quỳ xuống . Cặp vợ chồng quỳ xuống lạy trong một nghi thức trang nghiêm sùng kính . Sau đó ông ta dặn họ : "Bây giờ quý vị ngồi ở đây , lấy hai tay bịt tai lại , nhắm mắt rồi ngồi yên . Nếu cử động thì Thượng Đế sẽ bỏ đi . Tiếp tục vị thế này và đừng đứng dậy nếu không có chỉ thị của ta thì quý vị chắc chắn sẽ thấy được Thượng Đế ." Ông ta ra lệnh cho hai người làm như vậy để có thể bỏ đi , vì hai tay họ nắm chặt hai chân của ông và từ chối không để ông đi ...
Cặp vợ chồng biết ơn ngồi yên , ngoan ngoãn để hai tay lên tai . Cả ngày lẫn đêm , họ ngồi yên chỗ đó không ăn uống gì cả . Họ không dám cử động hay mở mắt để nhìn xem thầy của mình còn đó hay không . Sau một hồi lâu , chân họ bị tê , thân thể bị đau , hai tay nhức nhối . Tuy nhiên , họ không có ý nghĩ gì khác ngoài lòng thành tâm muốn thấy được Thượng Đế . Họ tiếp tục ngồi ở đó với tất cả tấm lòng thành .
Thần Vishnu và Lakshmi vô cùng cảm động . Đối với người Ấn Độ , Vishnu là một trong những vị Thần hiển linh . Theo nghĩa âm dương thì Vishnu là dương còn Lakshmi là âm , tiêu biểu cho tấm lòng của nữ phái . Vô cùng xúc động , Lakshmi bèn yêu cầu Vishnu hiện ra cho cặp vợ chồng thấy . Cảm động trước tấm lòng thành của họ và thấy họ vẫn ngồi thật lâu , mặc dầu đã bị lừa gạt , Thần Vishnu xuất hiện . Cặp vợ chồng mừng rỡ nhưng không dám mở mắt hay đứng dậy để cúng bái Ngài . Họ không dám làm gì cả vì thầy của họ bảo họ không được đứng dậy hay mở mắt nếu không có sự cho phép của ông...
Thần Vishnu nói với họ : "Bây giờ hai người biết Ta đã đến , hai người có thể đứng lên và đừng khổ lụy nhiều nữa ." Nhưng họ vẫn không dám đứng lên . Họ rất biết ơn Ngài đã đến thăm họ , nhưng không thể nào làm trái lại lời thầy để tuân theo lời của vị này . Thật xấu hổ ! Tên cướp còn vĩ đại hơn cả Thượng Đế . (Cười) Thần Vishnu không thể chịu nỗi cảnh hai người bị khổ , bèn đến cung điện và hiện ra cho nhà vua thấy trong mơ . Vào lúc đó thì tên cướp đã bị cảnh sát bắt bỏ vào nhà tù hoàng gia . Tội ông quá nghiêm trọng không thể nhốt trong nhà tù bình thường . Khi hiện ra cho nhà vua thấy trong giấc mơ , thần Vishnu chỉ thị nhà vua hãy thả tên cướp ngay lập tức . Tuy nhiên , nhà vua vì nghiệp chướng nặng nề và thường hay bị ám ảnh bởi những cơn ác mộng , tưởng đó chỉ là một giấc mơ xấu khác nên không để ý tới vị này . Thần Vishnu một lần nữa đến trong giấc mơ nhà vua , nhưng nhà vua vẫn không hiểu . Chỉ khi nằm mơ lần thứ ba , ông mới nhận thấy chắc là có điều gì đó không hay .
Trong khi ấy , Thần Vishnu cũng hiện ra trong giấc mơ của tên cướp và bảo hãy giải thoát cho cặp vợ chồng kia trong rừng ngay sau khi được phóng giam . Ngài bảo tên cướp là hai người vẫn còn ngồi bịt tai ở đó và nhiều ngày rồi mà vẫn chưa ăn một miếng gì hay uống một giọt nước nào cả . Họ sắp chết và Thượng Đế không thể nào chịu nỗi . Khi nhà vua thả tên cướp ra sau giấc mơ lần thứ ba , tên cướp bèn chạy vội vào rừng như đã được dặn trong mơ . Ông ta ra lệnh cho cặp vợ chồng đứng dậy , mở mắt ra , và bỏ tay ra khỏi tai . Vừa làm xong , cặp vợ chồng liền tỏ lòng biết ơn sâu xa đến người "thầy" của họ , vì nhờ ân điển của người này mà Thượng Đế đã hiện ra cho họ thấy . Nghe xong , tên cướp bèn kể cho họ nghe chuyện anh gặp Thượng Đế trong mơ .
Bỗng nhiên , họ nghe một giọng nói từ trên trời nói với họ : "Ta rất cảm động và sung sướng trước tấm lòng cống hiến tuyệt đối của nhà ngươi đối với thầy mà không hề có một dấu vết nghi ngờ nào cả . Ta hứa sẽ đến gặp ngươi một lần nữa . Kể từ nay trở đi , các ngươi sẽ tiếp tục niệm Hồng Danh, thờ Thượng Đế và ngồi thiền hai tiếng rưỡi mỗi ngày . Đừng quên ăn chay và giữ ngũ giới một cách chặt chẽ . Chắc chắn Ta sẽ đưa nhà ngươi đến bờ giải thoát sau khi chết ." Kể từ hôm đó , tên cướp chuyển sang một chương khác của cuộc đời và cùng tu hành với cặp vợ chồng đó . Hay quá ! (Vỗ tay)
Có một lời bàn trong cuốn sách nói rằng : "Khi chúng ta thật sự tin tưởng vào một vị Minh Sư , cho dù người đó không phải là Minh Sư Khai Ngộ thật đi nữa , nó vẫn kiến hiệu . Tuy nhiên , nếu có một đức tin như vậy đối với một tên cướp thì chắc chắn có nghĩa là vị Minh Sư của chính mình đã đến , trí huệ của chúng ta đã mở và chúng ta không còn kỳ thị người khác nữa. Như vậy, ch¡c ch¡n chúng ta sẽ đạt được kết quả , nhưng không phải vì Minh Sư hay vì pháp môn ." Đó là người Ấn Độ nghĩ như vậy . Nhưng đừng quên là Thần Vishnu này chỉ ở cảnh giới thứ hai mà thôi . Thấy được Thượng Đế cao nhất không phải là chuyện dễ . Cho dù như vậy đi nữa , đối với một người bình thường, thấy được vị Thần của cảnh giới thứ hai ngay sau khi tôn một tên cướp làm thầy là một chuyện vô cùng phi thường !
Lòng tin của quý vị nơi tôi đã làm cho tôi vô cùng cảm động , và tôi cũng sẽ cầu Thượng Đế giúp đỡ quý vị . Quý vị chắc chắn sẽ được giải thoát sau khi chết . (Vỗ tay) Điểm chính yếu là quý vị nên thiền tinh tấn và có lòng tin vững chắc , quên tôi là một con người , thì quý vị chắc chắn sẽ có thành quả tu hành . Khi quý vị thực sự có đức tin và lòng sùng kính vào một Minh Sư thì ngay Thượng Đế cũng đến . Khi ngồi thiền , quý vị sẽ thấy được Hào Quang rực rỡ và nghe được âm nhạc thiên đàng . Quý vị sẽ có nhiều sự linh ứng . Điều này cho thấy có đức tin là đủ ; không cần biết Minh Sư tốt hay không . Tôi tốt hay không thì khi chết quý vị sẽ biết.
Lực Lượng Bảo Vệ Không Thể Nghĩ Bàn
Lực Lượng Bảo Vệ
Không Thể Nghĩ Bàn
Do Thanh Hải Vô Thượng Sư kể Tây Hồ , Formosa
Ngày 24 tháng 9 , 1988 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa)
Một nông dân Ấn Độ mua một con bò và du hành qua ngọn núi cao vì ông dự định sẽ bán con bò này . Họ phải đi qua một khu rừng lớn có rất nhiều sư tử và cọp đói sẵn sàng cắn xé , ăn thịt người và gia súc . Những nông dân trong vùng khuyên ông nên từ bỏ cuộc hành trình : "Giờ này đã trễ quá rồi . Chẳng lẽ anh không sợ bị sư tử nuốt à ?" Người nông dân nói : "Tôi không sợ ! Tôi có một Minh Sư sẽ bảo vệ cho tôi . Tôi phải đi ngày hôm nay ; không thể chờ đến sáng mai được . Tôi phải bắt đầu cuộc hành trình ngay bây giờ vì tôi đã hứa với người khách hàng đang cần có con bò này . Không thể chờ đến ngày mai được ." Những nông dân kia không thể ngăn cản ông được nữa , nhưng họ rất lo lắng cho ông .
Tuy nhiên , chính ông lại không chút lo sợ . Kéo con bò theo bên cạnh , ông liên tục mật niệm những Hồng Danh suốt dọc đường. Sau một lúc, ông bỗng nghe một tiếng gầm khủng khiếp, giống y như là lúc quí vị đang giận chồng và gầm lên với ông ấy . (Mọi người cười) Một con sư tử xuất hiện , và bước đi cạnh bên họ . Con sư tử rất muốn ăn thịt con bò , nhưng có điều gì đó ngăn cản nó , nên nó chỉ có thể tiếp tục gầm gừ và đi theo hai nạn nhân tương lai . Người nông phu tiếp tục đi và niệm Hồng Danh , cùng với con bò một bên và con sư tử ở bên kia . Ba người và thú cùng nhau làm bầu bạn dọc đường , (Mọi người cười) nhưng mỗi mạng có một tư tưởng khác nhau . Người nhà nông nghĩ : "Tốt nhất là đến đó gấp và bán con bò liền ." Con bò thì nghĩ : "Ông ta lại sắp vớ được mối tốt rồi !" Con sư tử thì nghĩ : "Sao mà chán chường quá ! Có hai miếng mồi ngon ngay trước mắt mà lại không đớp được ." Cả ba người và thú mang những tư tưởng khác nhau trong khi cùng đi . Điều lạ lùng là con sư tử không cách nào ăn thịt được con bò hay người nông dân được !
Khi gần đến ngôi làng kế cận , người nông dân mừng rỡ khi thấy xuất hiện những căn nhà của các người làng . Trái tim ông rộn rã : "Giờ mình đã có thể thấy được người làng , họ chắc chắn sẽ giúp đỡ mình ." Ông cảm thấy rất an toàn và có thể nương tựa vào những người này để giữ cho con sư tử không dám đến gần . Vì vậy tim ông không còn chú tâm đến Minh Sư nữa . Trong suốt đoạn đường ông luôn luôn niệm Hồng Danh và cầu nguyện Minh Sư giúp đỡ . Nhưng hiện giờ vì ông đã quên mất Minh Sư , con sư tử lập tức chồm lên người ông ; Lúc đó ông đang dựa vào những người khác chứ không nương tựa vào Minh Sư nữa . Ý tưởng này khiến cho ông đã quên đi Minh Sư và mừng rỡ khi thấy những người khác . Điều này xảy ra cho hầu hết chúng ta ; Khi chúng ta thấy những người bên ngoài , chúng ta cảm thấy an toàn và nghĩ rằng có thể nương tựa vào họ . Hậu quả ngay sau đó là con sư tử tấn công liền và thiếu chút nữa thì ông đã chết . Ông liền niệm những Hồng Danh trở lại và sư tử ngừng lại . Nó không thể tiếp tục tấn công được nữa . Cho nên cả ba tiếp tục đi như là chẳng có chuyện gì xảy ra . Cuối cùng , sau một lúc , họ đã đến ranh giới của khu rừng . Con sư tử biết rằng phía bên kia là thuộc về của con người . Không dám liều mạng , nó bèn bỏ rơi hai mạng kia và quay trở lại khu rừng một cách bực bội . "Dẹp ! Hôm nay làm ăn không khá , chỉ có nước đi về thôi !" [Mọi người cười]
Những Hồng Danh thật sự rất hùng mạnh ! Khi chúng ta có niềm tin nơi Minh Sư của mình , rất nhiều điều không thể tưởng tượng sẽ xảy ra . Một câu chuyện khác có liên quan đến một vị Minh Sư , Ngài hiện giờ đã qua đời . Ngài có một đệ tử , theo tôi nghe được thì người này cũng có thể là con trai của Ngài , đang làm nghề nuôi gia súc . Một hôm , ông ấy mắc bệnh không thể chăm sóc cho đàn gia súc được . Ba tên trộm đến định ăn cắp gia súc của ông . Chưa kịp đến gần đàn gia súc , chúng đã thấy năm người đàn ông hùng dũng , trông hơi cao lớn hơn người thường , tấn công chúng bằng những cây gậy cầm trong tay . Những tên trộm chậm chân chạy không kịp và bị đánh gần chết . Chúng về nhà và thoa thuốc vào vết thương . Sau khi đỡ hơn , chúng bàn với nhau : "Chà ! Hôm nay thật xui xẻo ! Ngày mai chúng ta hãy thử lại nữa ." Vào lần thứ hai này , chúng cũng lại gặp năm vị đàn ông , và lại bị đập gần chết . Chúng hoảng sợ bỏ chạy thật lẹ . Lần thứ ba , chúng vẫn lại bị năm vị này đánh nữa , và cũng may là chúng đã tẩu thoát được .
Quá sợ hãi , chúng lén đến nhà người chăn bò và rón rén nhìn vào bên trong . Chúng chỉ thấy có một người bệnh , và năm người kia không có mặt tại đó . Chúng lẻn vào trong nhà , và cạnh bên giường của người đàn ông , chúng thấy bức ảnh của Sư Phụ ông , cũng là cha của ông . Chúng hết sức kinh ngạc khi thấy bức ảnh , "Trời Đất ! Ông là năm người đã đập tụi mình mỗi ngày ! (Mọi người cười) Năm người đàn ông trông giống hệt như ông ta !" Thay vì là năm người khác nhau , năm vị nhìn y như nhau . Quá hãi sợ , chúng bèn vào trong nhà và hỏi người bệnh : "Ông đã mang bệnh bao lâu rồi ?" Ông ấy trả lời : "Đã ba , bốn ngày rồi . Tôi phải nghỉ trên giường và không chăm nom gia súc được ."
Ba kẻ trộm mới hỏi ông : "Vậy người này là ai ?" Ông trả lời : "Ngài là Minh sư của tôi ." Chúng lại hỏi tiếp : "Ông ta là loại người như thế nào ?" "Ngài là Đấng Toàn Năng , trên cả sinh và tử , có mặt khắp mọi nơi , và có hàng tỷ tỷ hóa thân ." (Mọi người cười) Rồi những tên trộm thật hết sức kinh sợ và đã hiểu được vì sao có năm vị nhìn giống y như nhau . Chúng quỳ xuống và khai tội : "Chúng tôi thật sự quá vô minh ! Trong mấy ngày qua , chúng tôi đã cố sức ăn trộm gia súc của anh , nhưng bị năm vị hóa thân của thầy anh đánh cho gần chết . Bây giờ chúng tôi không biết phải làm sao . Dường như trong thân thể chúng tôi có cái gì không ổn ; chúng tôi cảm thấy như là đã mang một chứng bệnh trầm kha không thể chữa khỏi ." Người chăn bò mới nói với họ : "Không sao đâu ! Quý vị không thể trộm bất cứ thứ gì của tôi được ! Chỉ cần thành tâm sám hối với Thầy của tôi và ra về ." Ba kẻ trộm mới thật sự bình phục và sau đó đã thọ Tâm Ấn ! Đây là một câu chuyện có thật chỉ mới xảy ra hơn mười năm trước !
Thượng Đế Thử Thách Abraham
Thượng Đế Thử Thách Abraham
Thanh Hải Vô Thượng Sư , Đạo Tràng Tây Hồ , Formosa
Ngày 10 tháng 6 , 1990 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa)
Ngày xưa có một gia đình nọ . Trưởng tộc của gia đình này tên là Abraham . Ông tu hành rất cao và cũng là bạn của Thượng Đế . Có một ngày Thượng Đế nói ông nên rời khỏi quê hương và hứa rằng : "Nếu nhà ngươi theo các chỉ thị của ta , rời bỏ quê hương của nhà ngươi và làm những gì ta nói nhà ngươi làm , ta sẽ cho người làm lãnh tụ của nhiều quốc gia ." Ý nói là Thượng Đế sẽ cho ông làm quốc phụ của nhiều nước . Thượng Đế cũng hứa là sẽ cho ông một đứa con trai , và nhiều con cái khác để thành một đại gia đình . Ngài nói : "Nhà ngươi sẽ có nhiều cháu chắt , đông như sao trên trời ." Tuy nhiên lúc đó Abraham và vợ ông đã quá già . Tuy ông bà rất tin tưởng nơi Thượng Đế , họ đã thắc mắc : "Làm sao điều này có thể xảy ra được ? Chúng ta đã quá già đâu có thể sanh con được ?"
Nhiều năm trôi qua , mỗi đêm khi Abraham nhìn lên bầu trời đầy sao xa , ông lại nhớ những lời hứa hẹn của Thượng Đế , rồi cảm thấy băn khoăn , tưởng rằng Thượng Đế chỉ nói đùa với ông thôi ! Cuối cùng , Abraham và vợ ông đã không còn hy vọng gì nữa .
Đứa Con Do Thượng Đế Ban Cho
Nhưng có một ngày , đột nhiên vợ ông mang thai và đã hạ sanh một đứa con trai . Ông bà rất vui mừng và đặt tên cho con trai là Isaac . Nhiều năm tiếp theo , Isaac trưởng thành , trở nên vạm vỡ , khỏe mạnh và đẹp trai . Rồi Thượng Đế có ý định muốn khảo nghiệm Abraham .
Có một ngày , Thượng Đế hiện ra và nói : "Abraham , ta muốn nhà ngươi mang đứa con duy nhất , yêu quý nhất của ngươi là Isaac đến một nơi gọi là Moriah , rồi cúng dường nó cho ta ." Cúng dường ý nói là giết , đem đứa con trở thành vật tế hy sinh . Người cổ xưa đều cúng dường quỷ thần như vậy , có khi dùng đồng nam hoặc đồng nữ , có khi dùng bò , ngựa , heo v.v...
Abraham không thể nào tin được điều này . Ông tự hỏi : "Thượng Đế thật muốn giết đứa con duy nhất của ta sao ? Ngày trước Ngài đã hứa với ta là sẽ cho ta con cháu đầy đàn , sao bây giờ Ngài lại muốn giết đứa con duy nhất của ta ?" Ông bị giằng co . Nhưng cả cuộc đời của ông đã tin tưởng vào Thượng Đế . Người ta chỉ tin một nửa vào Thượng Đế , còn ông thì tin tưởng trọn vẹn nơi Thượng Đế . Cho nên sáng sớm hôm sau , ông chuẩn bị rất nhiều củi , mồi lửa và đem đứa con trai duy nhất đến nơi đó .
Từ nơi ông ở đến chỗ đó mất ba ngày đường , đường đi rất xa , rất xa mới đến được . Ngày đêm trôi qua , Abraham càng cảm thấy đau khổ và buồn bã , mặc dù ông rất tin tưởng nơi Thượng Đế . Ông vẫn cảm thấy giằng co , không can tâm trực diện với giây phút mà họ đến Moriah . Mặc dù ông rất đau đớn , nhưng ông không thố lộ một điều gì với Isaac . Không một ai biết gì về chuyện này ngoại trừ ông .
Abraham Cúng Dường Con Cho Thượng Đế
Khi sắp tới nơi , Issac mới hỏi ông : "Thưa cha , chúng ta đã chuẩn bị củi , mồi lửa để cúng dường cho Thượng Đế , nhưng con cừu đâu ?" Thời xưa họ thiêu sống cừu non để cúng dường Thượng Đế . Vì vậy Isaac đã hỏi cha nó cừu non đâu , mà tại sao chỉ có củi và lửa . Lúc đó Abraham mới thở một hơi dài và trả lời : "Không sao đâu con ! Thượng Đế sẽ tìm cho chúng ta một con cừu non ."
Khi đến nơi , họ dựng lên một cái bàn thờ và mồi lửa đốt bốn phía chung quanh . Sau đó Abraham trói chân tay của Isaac lại , để nó lên trên bàn và sửa soạn cúng dường Thượng Đế . Ông nói với Isaac : "Con là con cừu để cúng dường Thượng Đế . Ngài muốn con là vật cúng dường !" Sau đó ông cầm con dao lên để giết đứa con .
Nhưng đúng lúc đó , ông nghe tiếng Thượng Đế gọi tên ông và nói : "Abraham , hãy dừng tay! Giờ này ta đã biết lòng tin của ngươi nơi Thượng Đế rất là vững mạnh . Ngươi rất tin tưởng vào Thượng Đế . Đây chẳng qua là một sự khảo nghiệm mà thôi ! Ta đã hiểu lòng ngươi , biết nghe lời ta như thế nào . Ngươi không cần phải giết con ngươi . Cạnh đó có một con cừu , ngươi hãy dùng nó để cúng dường cho ta là được rồi !" Con cừu đó là do Thượng Đế hóa ra , cho nên Thượng Đế thật sẽ tự tìm con cừu của mình . Vì Ngài hóa ra nó mà , không phải là con cừu thật !
Lúc đó đương nhiên Abraham và đứa con trai Isaac rất mừng rỡ , và họ đã cảm tạ Thượng Đế . Cũng từ ngày đó , những lời hứa của Thượng Đế ban cho Abraham đều thành sự thực . Abraham có rất nhiều con cháu , đời này sang đời khác . Câu chuyện đến đây là hết .
Quý vị có thấy Abraham là người cha tốt không ? (Mọi người đáp : Có !) Có thể là tin tưởng Thượng Đế đến mức độ như vậy thật là quá tốt ! Bởi vì bất cứ cái gì cũng là do Ngài tạo ra ! Nếu Ngài muốn lấy lại thì cứ biếu cho Ngài , bởi vốn là của Ngài . Quý vị thấy như Abraham và vợ ông , đã quá lớn tuổi , không có hy vọng gì để có con , kết quả lại sanh được một đứa con , thật là hy hữu ! Đó là vì Thượng Đế muốn ban cho ông ! Đến từ Thượng Đế tức nhiên là nên trở về với Thượng Đế , có gì là không được ? Đúng không ? (Mọi người đáp : Đúng.)
Bài Học Buông Bỏ
Tại sao đa số chúng ta sống trong đau khổ ? Bởi vì không xả bỏ được . Xả bỏ không được bất cứ một thứ gì . Một đôi giày đã rách nát , chúng ta cũng không chịu bỏ đi , hà huống một đứa con ! Cho nên đôi lúc , khi cuộc tình của chúng ta chia lìa , khi gia đình phải cách biệt , thì chúng ta sẽ cảm thấy rất đau khổ , bi đát . Đó là tại chúng ta nghĩ không thông , không hiểu được là có một ngày mọi người chúng ta đều phải chết , không có ai có thể sống mãi được . Ngay cả những người chúng ta rất thương yêu , hoặc rất yêu một người nào , nhưng nếu như ngày mai vạn nhất họ chết đi , quý vị có vì người đó mà chết theo không ? (Mọi người đáp : Không.) Đúng vậy ! Phải tiếp tục sống .
Xưa kia trong những câu chuyện tình yêu , có ghi chép về chuyện của Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài , nghe nói họ trở về đầu thai với nhau bảy đời , lần nào cũng muốn làm vợ chồng với nhau , nhưng kiếp nào cũng bị cản trở cả . Chỉ có đời cuối cùng , tuy không bị cản trở , nhưng một người thì chết trước , còn người kia vì quá đau khổ mà ngã bệnh rồi chết luôn . Sau đó biến thành hai con bướm . Phải đợi đến khi biến thành bướm mới khỏi bị người đời cản trở , cũng là việc rất gian nan . Cho nên , khi chấp nhất bất cứ vấn đề gì , đều là làm hại đến linh hồn của chúng ta , trói buộc sự tự do của chính mình . Làm thân con bướm xem ra rất là tự do , nhưng trong chúng ta có ai thích bỏ xác thân quý giá của mình và thành bướm đâu ? Cũng tại vì họ quá bám víu vào tình yêu , và cũng vì ý chí của hai người quá mãnh liệt , dính chặt với nhau nên mới biến thành bướm . Họ đã thích như vậy nên Thượng Đế cũng không hà khắc với họ làm chi , và nếu đầu thai lên làm người nữa , thì nhất định là sẽ bị đau khổ và bị cản ngăn nữa , vì số của họ là không được sống chung với nhau mà .
Trong các loại chuyện như vầy , người ta nợ nần với nhau hay có tình duyên ngang trái với nhau thường thích bám lấy nhau , trong khi những người có mối lương duyên trôi chảy với nhau thì lại không thích nhau lắm . Người ở trước mắt thì không ưa , lại ưa người ở xa xôi . Duyên càng nghịch chúng ta lại càng thích . Đó là tâm lý của con người , ưa thích những thứ tương đối phức tạp hơn , tự mình phấn đấu để đoạt được , mới cho là có giá trị . Có lẽ vì vậy nên thế giới mới đau khổ , vì người ta không biết rằng thật ra không có gì phải đau khổ . Ngay cả khi mất đi cái tánh mạng này . Chúng ta cũng không cần phải đau khổ , bơ vơ , khi mất đi cái tánh mạng của người khác . Con cái đời đời kiếp kiếp đều có rất nhiều , vợ chồng đời đời kiếp kiếp đều có . Nếu mà không có , Thượng Đế cũng sẽ cho mình một người khác .
Quý vị có thể thấy nhân số thế giới lúc nào cũng quân bình giữa số đàn ông và đàn bà . Đừng nghĩ rằng có nhiều nữ hơn nam . Không , không đúng . Có thể là chỗ này nhiều nữ hơn nam , và chỗ kia ít nữ hơn , nhưng tổng số nam và nữ trên thế giới luôn quân bình . Thí dụ , ở quốc gia này có nhiều nữ hơn , trong khi ở quốc gia khác lại có nhiều nam hơn . Nếu hợp lại thì không còn vấn đề gì nữa . Nhưng nếu có vấn đề là tại người đời không thể ngồi lại với nhau mà thôi . Không phải là Thượng Đế không cho những gì chúng ta cần .
Nghe nói khi chiến tranh loạn ly , rất nhiều người nam bị bỏ mạng , nhưng lúc đó lại càng có rất nhiều phụ nữ mang thai , sanh ra rất nhiều bé trai nữa , đặc biệt là nhiều hơn nữa . Có đúng không ? (Có người đáp : Đúng) Đây là những sự thống kê nói , họ đã nghiên cứu rất lâu rồi mới có kết luận này . Là như thế này , xưa nay vẫn luôn luôn có một nam cho một nữ . Vì thế mà Thượng Đế đặt ra quy luật này : Một người không thể có hai người phối ngẫu cùng một lúc , vì nếu anh có hai người phối ngẫu , thì người khác sẽ không có . Hoặc nếu anh tham lam có đến hai người vợ , thì kiếp sau sẽ không có người nào , vì phải bồi đền mà . Do đó , Thượng Đế mới nói rằng mỗi người chỉ được một người phối ngẫu mà thôi , để kiếp sau sẽ lại có một người nữa .
Có thể Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài trước kia mỗi người đều có hai ba người phối ngẫu không chừng , nên kiếp này mới không có một người nào . Theo luật nhân quả thì kể cả người yêu thương nhất mà cũng không kết hợp được . Âu cũng là nhân quả cả ! Nếu muốn ra khỏi cái vòng nhân quả thật sự , thì phải làm chúng sanh khác mới được , nếu ý chí mãnh liệt như vậy , thật sự muốn thoát ra vòng nhân quả , thì chỉ có đi làm bướm thôi .
Giới Luật Cung Ứng Một Đời Sống Quân Bình Cho Chúng Ta
Giới luật thực ra là để cho chúng ta có một cuộc sống quân bình , không được một lần mà có quá nhiều , rồi những lần kế tiếp thì quá ít . Cũng như chúng ta ăn cơm , ăn uống hoặc xài tiền cũng vậy , không tiêu xài quá nhiều , coi chừng ngày mai lại thiếu . Bất cứ dùng gì , chúng ta nên dùng cho có chừng mực . Tương tự như vậy , giới luật được làm ra để giúp chúng ta được âm dương quân bình , thoát khỏi cảnh khổ , không phải để áp bức hoặc trói buộc chúng ta .
Như câu chuyện thứ nhất , tôi kể cho quý vị nghe về Eva và Adam , tại sao Thượng Đế lại giữ một trái táo mà không cho họ ? Vì họ đã có quá nhiều rồi , cả một vườn Địa Đàng cũng cho họ rồi . Vườn Địa đàng nghĩa là thiên đường , trong đó cái gì cũng có , không cần phải nhọc công tìm kiếm , đầy đủ để xài rồi . Kết quả , ăn một trái táo khiến họ phải đau khổ nhiều .
Nếu điều mà gọi là tổ tông của chúng ta không ăn trái táo đó , không chừng hôm nay chúng ta khỏi phải đau khổ như thế này . Phải rồi , nếu mà họ không ăn trái táo đó , thì tâm tương đối đơn thuần hơn , không biết tốt xấu , và cũng chẳng nổi lên cái tâm phân biệt .
Họ muốn được giống như Thượng Đế . Tôi không hiểu được giống như Thượng Đế sẽ có điểm hay ở chỗ nào , Thượng Đế có phải là một người đau khổ không ? Tôi nghĩ Ngài rất đau khổ , vì Ngài phải tạo ra vạn vật , một mình phải lo chăm sóc bao nhiêu quả tinh cầu , vô số người , vô số chúng sanh như thế này , mệt chết ! Người nào muốn làm Thượng Đế là một nguời ngu dại nhất đó .
Cho nên tôi khuyên quý vị , không cần phải làm Thượng Đế cũng không sao , không thành Phật cũng không sao . Tâm tình quý vị được vui vẻ , bình an là đủ rồi , tâm được bình thường là đủ rồi , hà tất phải cầu cho được sự vui sướng vĩnh hằng để làm gì chứ ? Chúng ta càng cầu mong , chúng ta càng đau khổ . Cầu bất cứ việc gì đều là đau khổ cả , vì thiếu thốn mới cầu , càng cầu mong thì càng khổ .
Như chuyện tình của Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài , nếu họ không mong muốn nhất định phải kết hôn với nhau , thì đâu có đau khổ như thế ? Kết hôn với người khác thì có sao đâu ? Từ từ kiếm thì cũng được , nếu như tìm không được thì làm thầy tu , đi tu cũng được mà ! Phải , những sự đau khổ này đều vì sự tham cầu , vì ước muốn . Vì một người để làm gì ?
Chúng ta là người tu hành cũng vậy , đừng ham muốn quá nhiều , từ từ tu , thời giờ điểm là sẽ có kết quả . Đương nhiên chúng ta cũng phải rất nghiêm chỉnh , cố gắng , nhưng điều tối quan trọng là thành tâm . "Phật tại tâm" nên chúng ta tu hành hay bất cứ làm việc gì đều là vì Ngài , thì một ngày nào đó , chúng ta sẽ nhận thức được Ngài rồi trở thành đồng nhất thể với Ngài .
Ba Loại Người Tu Hành
Người tu hành có ba loại : Loại thứ nhất thì rất tin tưởng Thượng Đế , rất phục tùng Thượng Đế ; loại thứ hai là làm việc cho Thượng Đế ; còn loại thứ ba thì cao nhất , là đồng nhất thể với Thượng Đế . Đồng nhất thể với Thượng Đế là trở thành những người như Thượng Đế , đó là việc tự nhiên mà được , chứ không phải do sự cầu mong mà được , đương nhiên phải rất thành tâm , chứ không phải là do lòng ham muốn . Thành tâm và lòng cầu mong khác nhau , tôi cũng không biết cách nào để phân tách cho quý vị hiểu . Đó là sự tự nhiên mà thành , không thể giải thích bằng ngôn ngữ được một cách dễ dàng . Đôi khi chúng ta bị lẫn lộn , cho rằng lòng cầu mong là đạo tâm , nhưng thật là không giống nhau .
Loại người thứ nhất rất thích tôn sùng và phục tùng Thượng Đế , làm như vậy là anh ta đã vui mừng lắm rồi . ;) Hàng ngày được thờ phượng Thượng Đế , chỉ biết có một Thượng Đế là cao cả hơn anh ta , chăm sóc anh ta , rồi hàng ngày được van cầu với Ngài , là anh ta đã vui sướng lắm rồi , không muốn cầu những thứ gì khác , đó là loại thứ nhất .
Loại người thứ hai , vì nhận ra được Thượng Đế , nên anh ta rất ưa thích làm việc cho Thượng Đế , làm bất cứ việc gì đều vì Ngài mà làm , nhưng sau khi làm việc một thời gian , anh ta lại yêu công việc hơn là yêu Thượng Đế , càng làm càng tìm thêm việc để làm , quên hẳn đi cái mục đích chính là tìm Thượng Đế . Những người này có rất nhiều công đức , làm được rất nhiều việc , như độ chúng sanh , đi thuyết giảng , xây cất chùa chiền , xuất gia , cùng làm những việc thiện v.v... Nhưng sau một thời gian dài lâu , vì mọi người đều thích anh ta , tôn sùng anh , nghĩ anh ta là người rất có đạo đức , nên họ luôn luôn tán thán . Càng nghe những lời tán thán , anh ta càng làm việc hăng say hơn , rồi mê mẩn luôn trên phương diện làm việc từ thiện , mà vĩnh viễn không có cách nào để đến cùng với Thượng Đế . Cả hai loại tín đồ này đều không đạt được cảnh giới tối cao . Một người thì mê mẩn vào việc sùng bái Thượng Đế , còn một người thì mê mẩn vào làm việc , để làm vui lòng Thượng Đế .
Còn loại người thứ ba kia , có thể anh ta tôn sùng Thượng Đế , cũng làm việc thiện để cho Thượng Đế vui , nhưng anh ta biết rõ rằng những công việc này chỉ là thứ yếu . Điều anh ta vui thích nhất là muốn biết "Thượng Đế là ai ?" Anh ta không những muốn tôn sùng Thượng Đế , muốn làm việc cho Thượng Đế vui mà thôi , mà anh ta còn muốn nghiên cứu "Thượng Đế là ai ?", muốn bắt cho được Ngài . Loại người này có thể trở thành đồng nhất thể với Thượng Đế . Rất hiếm có người đạt đến cảnh giới này . Nói thì dễ , nhưng thật sự làm thì không dễ đâu . ;)
Hàng ngày ngồi thiền chúng ta thấy được cảnh giới gì , ấy là thể hiện cái phẩm chất của chúng ta . Chúng ta thấy ánh sáng , thì biết chúng ta là ánh sáng . Thấy đen tối , thì biết phẩm chất của chúng ta còn đang ở trong bóng tối , cho nên không thể nói nghỉ tu hành ngày nào , mà phải luôn tiếp tục tìm kiếm , cũng như hàng ngày phải ăn cơm vậy , không thể nghỉ ngày nào . Chỉ nghỉ một ngày thì được , chứ nghỉ quá nhiều ngày thì không xong .
Tu hành cũng vậy , có thể chúng ta nghĩ rằng ngày nào cũng ăn chay , ngồi thiền hai tiếng rưỡi đồng hồ , chán làm sao ! Nhưng mà hàng ngày , chúng ta đều phải ăn cơm , sao lại không thấy chán ? ;) Thức ăn và cơm mỗi ngày đều giống nhau , cần phải ăn vì cơ thể của chúng ta cần những thứ này mới nảy nở được , mới có thể nuôi dưỡng các tế bào của mình , đồng nghĩa với chúng ta tu hành , hàng ngày ngồi thiền hai tiếng rưỡi đồng hồ , làm một công việc giống nhau hàng ngày , là vì linh hồn của chúng ta cần những thứ đó thì mới phát triển được . Không nên nghĩ tu hành thì phải phức tạp , hôm nay làm thủ ấn này , ngày mai làm túc ấn kia , mới gọi là tu hành . Không nên đâu ! Như chúng ta ăn cơm , nên đơn giản là được rồi ! Càng phức tạp càng làm phiền nhiễu cho chính mình , vì tựu chung cũng chỉ muốn bảo dưỡng cái thân thể này mà thôi , ăn càng phức tạp càng nhiều nghiệp chướng , ;)không chắc là bổ khỏe như mình nghĩ . Bao tử có thể không chịu nổi , không tiêu hóa được , rồi sanh bệnh . Khi chúng ta gặp phải những sự việc đau khổ , đừng nên cứ trầm ngâm trong sự bi thương đó mãi , mà hãy thử nghĩ : Nếu không có cái này thì mình có thể chết không , có cái gì khác để thay thế cái này không , có thể nó còn tốt hơn cái này mà . Trong thực tế cũng vậy , có khi chúng ta nghĩ người nào đó tốt nhất , khi anh ta đi mất rồi , chúng ta mới từ từ kiếm lại , kiếm được một người khác lại càng tốt hơn , càng hợp ý hơn , phải không ? Vì khi chúng ta bắt được cái này rồi thì quên nhìn cái khác đi . Thật ra nó có thể còn tốt hơn nếu chúng ta chịu bỏ thời giờ tìm kiếm một cái gì đó tốt đẹp hơn .
Bám Víu Là Một Thói Quen
Không có một thứ gì mà không buông bỏ được , tất cả đều do vấn đề thói quen của chúng ta , vì cái tâm chấp cứ của chúng ta quá nặng . Chúng ta bị dừng ở chỗ đó , không muốn di chuyển , thích người nào là cặp với người đó , không muốn thay đổi . Nếu là vợ chồng hoặc là bạn của nhau , hai người đều rất tốt với nhau , đương nhiên phải trung thành với nhau , nhưng nếu có một trong hai người mất đi , hoặc họ không còn thương yêu mình nữa , thì chúng ta phải bảo vệ cái tâm bình thường của mình , không thể vì một người nào hay một lý do gì mà mất đi chính mình .
Khi chúng ta bị đau thương quá , có phải chúng ta sẽ quên mất niềm tin không ? (Mọi người đáp : Phải .) Khi chúng ta vì một người mà bi ai quá đỗi , chúng ta sẽ quên đi vạn vật đồng nhất thể , quên đi "bản lai vô nhất vật", quên đi vạn vật đều cùng một nơi mà ra . Chúng ta không nên chấp cứ vào hình tướng của một người , nó tiêu mất ở đây , rồi nó sẽ đi đến một nơi khác , hãy chọn lấy một hình tướng khác .
Thí dụ đôi khi mình rất thích hoa hồng hoặc bất cứ một loại hoa gì , khi cái hoa đó tàn rồi , có phải mình cảm thấy tiếc lắm , cảm thấy nhớ nhung nó , thích nó sống mãi , nhưng nếu mỗi hoa hồng đều sống mãi , thì nó làm sao có thể mọc ra đóa hồng khác ?
Hoặc có một trái xoài đẹp , chúng ta cứ tiếc mà không ăn . Chúng ta cứ nghĩ rằng trái xoài đẹp như vậy phải rung rinh trên cành mãi mãi , cho nên chúng ta không ăn nó . Tuy nhiên , nếu không ăn nó thì cái hột bên trong sẽ không rớt xuống đất được . Nếu không rớt xuống đất được , đợi đến khi những cây xoài kia già đi rồi thì không sanh ra trái nữa , sau đó chúng ta cũng không có cây xoài mới nào để mà thay thế cả .
Cho nên bất cứ một việc gì trên thế giới này , chúng ta không nên quá bi thương . Nếu mình đánh mất đi bất cứ một cái gì , không chừng ngày mai chúng ta sẽ có được một cái còn giá trị hơn nữa . Người Trung Hoa chúng ta có câu chuyện "Tái ông mất ngựa" mà quý vị đã đọc đi đọc lại gần nát sách , cuối cùng cũng còn chưa hiểu trong sự khổ đau và tai nạn đều có điều tốt trong đó sao ?
Mỗi lần tôi đi giải phẫu hoặc bị bệnh , sự thật là được tiêu bớt nghiệp chướng rất nhiều . Tôi cảm tạ lắm , điều này quý vị không tin đâu ! Thậm chí đôi khi tôi nói : "Nếu thật là tiêu tai , tiêu nạn , tiêu nghiệp chướng được nhiều như vậy , thì hãy để tôi bệnh nhiều hơn chút nữa cũng không sao ." Thật ra tôi cũng vui . Đương nhiên khi đau bệnh thì chịu không nổi , quá đau , đau đến nỗi có khi phải kêu la , nhưng không phải là không sung sướng , không vui vẻ để chấp nhận tình trạng đó . Đau là đau, nhưng vẫn vui để chấp nhận . Vì khi bệnh hoạn , là thời gian mà chúng ta được huy hoàng nhất , được tiêu trừ rất nhiều , rất nhiều cảnh giới đen tối , cùng các thứ nghiệp chướng nặng nề . Nếu mà suốt cuộc đời tôi không bi tai , không bệnh , không khổ , chà , chắc tôi chịu không nổi đâu ! Tôi thật không tiêu hóa hết được nghiệp chướng của chúng sanh , cho dù là người có công đức rất cao , nhưng cũng không thể tiêu hóa hết cùng một lúc nhiều nghiệp chướng như vậy . Từ từ còn có thể được , nhưng từ từ là đến chừng nào ? Chúng sanh thì quá nhiều , ở đó mà từ từ cũng không xong nổi .
Cho nên Thượng Đế làm việc theo hệ thống của Ngài , Ngài sẽ giúp chúng ta tiêu nghiệp chướng , mặc dù để cho chúng ta mang nhiều rác rến như vậy , nhưng Ngài cũng giúp chúng ta một tay , cho xe đến , cho người khác đến để phụ khuân vác giùm . Cho nên khi có tai nạn , có bệnh khổ , chúng ta đừng nên oán than mà phải cảm ơn Thượng Đế . Không có sự bệnh khổ này thì quả vị của chúng ta không thăng cao được , vì nghiệp chướng của chúng ta quá nhiều . Mà nếu như không có nghiệp chướng của mình , thì chúng ta vẫn có nghiệp chướng của tổ tiên chúng ta vậy .
Chúng Ta Chỉ Là Khách Ở Thế Giới Này
Chúng Ta Chỉ Là Khách Ở
Thế Giới Này
Thanh Hải Vô Thượng Sư khai thị tại Tây Hồ , Formosa
Ngày 20 tháng 2 , 1996 (Nguyên văn tiếng Anh)
Có một người tu hành nọ , trong nhà ông ta chỉ có sách , một cái gối thiền , một cái túi ngủ để đắp mùa đông , một cái khăn quán âm , cái mũ tình thương , thẻ Tâm Ấn . Nghe thì thấy có vẻ nhiều , nhưng tính ra thì thật sự ông không có gì cả.... và thơ , băng "I Will Forever Love You", chẳng hạn . Không có gì khác . Không ghế , không giường , không bàn , không bếp , mà chỉ vài thứ cần thiết để sống mà thôi .
Có một người đi qua , ghé vào thăm ông , thấy phòng trống trơn , chỉ có một vài món đồ cần thiết , hỏi ông rằng : "Ông sống như vầy sao được ? Đồ đạc đâu rồi ?" Vị tu sĩ Quán Âm pháp , học trò của Thanh Hải Tử hỏi lại : "Còn đồ đạc ông đâu ?" Người khách đáp : "Ở đây tôi chỉ là khách thôi mà !" Người tu Quán Âm pháp nói : "Tôi cũng vậy !"
Tất cả chúng ta đều là khách ở tinh cầu này , là những người ghé chân , những người tới viếng thăm mảnh đất thần tiên này . Một ngày nào đó tất cả chúng ta sẽ phải về nhà , không người nào có thể ở đây mãi được . Ai cũng biết vậy . Nhưng kể cả tôi , tôi cũng nghĩ là tôi sẽ sống mãi mãi . Tất cả chúng ta đều có giấc mơ hão huyền như vậy về sự vĩnh cửu . Thật ra , thể xác không thể tồn tại mãi mãi được , vì thể xác được cấu tạo bởi chất liệu có thể bị hư thối . Cho nên , một ngày nào đó , nó sẽ hư thối . Nhưng sự sống tiếp tục mãi mãi , bất kể ở đâu , như thế nào . Cho nên , chúng ta phải ráng nhớ điều này , nếu không , sau khi chết mới biết thì đã quá trễ . Không trễ cho quý vị , vì quý vị đã biết bí quyết của đời sống vĩnh cửu . Không có bí quyết này , không ai có thể bước ra khỏi vòng sanh tử và được tự do . Đó là kiến thức cổ xưa không ai có thể thay đổi được . Giống như mây , không ai có thể đổi được . Giống như nước , nó là như vậy , không ai có thể đổi được .
Cho nên , có luật lệ để vượt khỏi vòng sanh tử , đó là Pháp Môn Quán Âm . Nếu không biết thì rất là đáng tiếc . Không ai có thể giúp chúng ta được . Đó là bí quyết duy nhất và là bí quyết quan trọng nhất mà mọi chúng sanh nên biết . Nhưng buồn thay , đa số chúng sinh không biết . Vì vậy thế giới mới đau khổ như vầy và cứ tiếp tục như vậy từ xưa tới nay . Vì thế Minh Sư và sứ giả của Chân Lý , của Thượng Đế cứ phải xuống hoài , xuống hoài , xuống hoài để chịu đau khổ với họ và từ đó mới nâng họ về nơi chốn của họ , dẫn họ về nhà , về nơi nguyên thủy để họ được an toàn và hạnh phúc vĩnh viễn .