-
KHAI NGỘ LÀ PHẬT , VÔ MINH LÀ CHÚNG SINH
Nhưng người anh , cũng như con cưng , tuy sống rất thoải mái , nhưng đâu có ích gì đâu , có phải không ? Tuy cũng giàu như nhau , nhưng thiếu cái trí huệ mà người em đã có . Bây giờ người em hiểu rõ rất nhiều việc , càng biết mình , hiểu mình nhiều hơn , càng độc lập , còn người anh thì không biết gì hết .
Phật vốn đã là Phật rồi , điều đó không sai , nhưng cần phải làm chúng sanh rồi sau nầy mới biết mình là Phật . Chưa có làm qua chúng sanh thì không biết được . Nghe hiểu không ? Chưa từng làm qua chúng sanh , tuy cũng là Phật , nhưng không có ích nhiều . Cho nên mình mới đến thế giới Ta Bà , học làm người , học tập những tình trạng đau khổ gian cực , sau nầy mới biết được "khoái lạc" là gì ? Học tập tình trạng "vô thường", sau nầy mới biết được "vĩnh viễn" là gì ? Học tập thế giới "vô minh" nầy , sau đó mới biết được "trí huệ" là gì ?
Trước khi quý vị còn chưa "hoàn toàn" học tập xong , tuy rằng là Phật , nhưng vẫn là "Phật Vô Minh", lần lần sẽ biến thành Phật khai ngộ , thành Phật chính thật , hoàn toàn y như trước . Mình vốn cái gì cũng đã có rồi , không phải đợi đến khi khai ngộ mới có , chỉ có mình không tự hiểu được mà thôi , nghe hiểu chưa ?
Trước khi khai ngộ và sau khi khai ngộ đều như nhau , trước kia có nhiều lực lượng như vậy , khai ngộ rồi , vẫn có nhiều lực lượng như vậy , chỉ có trước kia mình không biết được mình có nhiều lực lượng như vậy , bây giờ mình biết rồi . Cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni nói : "Phiền não là Bồ Đề , chúng sanh là Phật". Ngài không có nói dối , hôm nay Sư Phụ giải thích ý nghĩa nầy cho quý vị nghe , vì sao Phật là chúng sanh ? Vì sao Phật lại đến thế giới nầy làm chúng sanh , phải chịu nhiều đau khổ như vậy ?
Thật ra , đau khổ cũng không phải là đau khổ , chỉ là mình đương học tập , nó cũng như mình đến trường để đi học vậy , bất cứ học tiểu học , trung học , đại học đều không dễ dàng , nhưng sau khi học hết các khóa trình rồi , mình sẽ biến thành thông minh hơn , lớn lên rồi , mình sẽ có địa vị của mình , có tính độc lập , cho nên cần nên học , không học không được , không học không thể biết được mình có những năng lực gì .
Nói thí dụ tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh , vốn đã là Phật , sao có thể nói rằng nữ chúng không thể thành Phật ? Đó là nói bậy , thành Phật tức là thành Phật , không có gì phân biệt . Cho nên Sư Phụ nói với quý vị nhiều lần , ngoại đạo , nội đạo đều là đạo . Tốt xấu đều là Phật , không có tốt cũng không có xấu , nhưng đó là cảnh giới tối cao , khi mình còn chưa đạt đến cảnh giới đó , mình phải học tập , vẫn phải làm việc tốt , không thể nói , vì tốt cũng như xấu , cho nên không muốn học , đàng nào mình đã là Phật rồi , không cần tu hành . Không thể nghĩ như vậy , hiểu chưa ?
Mình vốn là Phật nhưng vẫn cần tu hành , bởi vì mình còn chưa chính thực hiểu rõ mình là Phật , có phải không ? Sư Phụ nói như vậy , quý vị tin , bởi vì quý vị tin Sư Phụ . Nhưng quý vị vẫn còn chưa chính thật nhận thức được mình , cho nên cần phải tu hành , nếu không mình sẽ có rất nhiều đau khổ , khi còn chưa nhận biết mình , người ta rủa một chút là tức ngực , người ta hận mình , mình cũng hận trở lại , bởi vì chưa nhận biết được tất cả chúng sanh đều là Phật , chưa có đạt đến tâm bình đẳng , còn chưa làm được tâm không phân biệt . Cho nên cần phải tu hành , tu đến khi nào tâm không còn động , coi tất cả chúng sanh như mình vậy , như vậy mới gọi là chính thật hiểu biết mình . Quý vị có câu hỏi , xin bắt đầu hỏi .
-
KHAI NGỘ LÀ PHẬT , VÔ MINH LÀ CHÚNG SINH
Hỏi : Con người từ Trời Quang Âm xuống , vậy "Quang" và "Âm" nầy có phải thuộc về vật chất hay không ? Thành Phật rồi , có phải không còn "Quang" và "Âm" ? Hay là , Phật không còn có hiện tượng vật chất đó ?
Đáp : Câu hỏi nầy đã trả lời rồi , Quang Âm Thiên chưa phải là thế giới của Phật , Sư Phụ không có nói đó là thế giới của Phật , Kinh A Hàm mới nói đến Quang Âm Thiên . Lúc thế giới nầy mới tạo thành , thiên nhân từ Quang Âm Thiên xuống ở đây , nhưng không phải là Phật xuống , nghe hiểu chưa ? Người của Quang Âm Thiên cũng là Phật , nhưng chưa có thành Phật , đẳng cấp của họ cao hơn người hiện thời một chút , nhưng khi ăn ngũ cốc trên địa cầu nầy , cấu tạo của thân thể càng lúc càng thô , đẳng cấp càng lần càng thấp , sau cùng biến thành hình dạng như người nguyên thủy . Hồi đó , người của Quang Âm Thiên cũng không phải là Phật , nhưng rất có thể ở thế giới Quang Âm Thiên , có vài vị Phật hóa thân đến dạy người của Quang Âm Thiên , nghe hiểu chưa ? Tình trạng nầy cũng như ở thế giới Ta Bà nầy , có Phật Bồ Tát hóa thân đến làm người để độ người vậy . Nơi nào cũng có Phật Bồ Tát . Cho nên Kinh A Hàm có ghi chép , mới lúc đầu , chưa có người ở trên thế giới nầy , lúc đó người của Quang Âm Thiên đến ở , họ là chúng sanh có phước báu , hồi đó họ có ánh sáng , rất sáng , cho nên ánh sáng của họ rọi tứ phía , hồi đó còn chưa có mặt trăng , mặt trời . Khi ở một đoạn thời gian rồi , bởi vì lòng hiếu kỳ thúc dục , họ bắt đầu ăn thực vật của thế giới nầy , thấy có nhiều đồ cứ ăn thử , sau nầy càng ăn càng nhiều , cuối cùng thân thể càng trở thành thô , mất đi cái thân tinh vi sáng chói trước kia , cho nên không bay lên được , ánh sáng càng ngày càng ít , sau cùng biến thành dáng của người nguyên thủy .
Nhưng không phải người nào cũng biến thành như vậy , có người không có ăn , cho nên thân thể vẫn phát ánh sáng , có lẽ lúc còn ở Quang Âm Thiên họ có theo Phật Bồ Tát học , cho nên khi đến thế giới nầy , Phật Bồ Tát cũng xuống dạy họ . Người có thân sáng , học mau hơn chút , học thành rồi có thể truyền pháp cho đồng bào của họ , không thành vấn đề . Nếu như con người có thể dạy con người , người của Quang Âm Thiên sao lại không thể dạy người của họ ? Có đúng không ? Ở thế giới nầy có Phật Bồ Tát hóa thân , ở thế giới của Quang Âm sao lại không có Phật Bồ Tát hóa thân ? Ở thế giới nầy có thể tu , người của Quang Âm Thiên sao lại không thể tu ? Nghe hiểu chưa ?
Quang Âm Thiên không phải là nơi cứu cánh của mình , cũng không phải là cố hương của Bản Lai Diện Mục của mình , nhưng mình từ đó rơi xuống , bởi vì lúc đó còn chưa thành Phật , vẫn còn ở tại Quang Âm Thiên , rớt vào thế giới nầy biến thành người , nếu như còn tu không xong , rất có thể ngày mai biến thành động vật , cây cỏ . Muốn thành phật , ít nhất phải làm người , thành Phật rồi còn có thể tái trở lại làm gì cũng được , bây giờ còn chưa thành Phật , cũng có thể làm người ? Thành Phật rồi có thể làm một con người tự tại , là vì muốn độ chúng sanh , nhưng thành Phật phải làm một vị "Phật minh bạch", thành một vị "Phật có lực lượng", như vậy mới là chính thật thành Phật .
Có nhiều Phật không biết được họ là Phật , cho nên có phiền não , nếu không biết được mình là Phật , cũng như những chúng sanh tầm thường , không có ích gì , nghe hiểu chưa ? Cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni nói : "Thân người rất quý báu , không làm người không thể thành Phật". Thiên sứ và các chúng sanh khác rất có thể có thần thông hơn mình , nhưng họ cũng không thể thành Phật , bởi vì chỉ có làm người mới có cơ hội học tập nhiều việc .
Ở trên trời quá vui sướng , không có cơ hội nào thức tỉnh mình tu hành . Ở địa ngục quá đau khổ , không thể tu . Ở cõi Ta Bà có đau khổ , vui sướng , hiểu lầm , vô minh , trí huệ , khai ngộ , không khai ngộ ..., có nhiều tình trạng khác nhau , cho nên mình có thể học tập rất mau các thứ sinh hoạt , có đủ tài liệu , để mình thể nghiệm lấy , huấn luyện cho mình , cho mình có cơ hội tu hành thành Phật , những thế giới khác không có cách nào tu được . Cho nên thân người rất quý báu , phải bắt lấy cơ hội , mau mau tu hành , nếu không muốn theo Sư Phụ tu hành , thì đi tìm pháp sư khác tu , tu cái gì cũng được , chỉ cần có thể thành Phật là được rồi , nhưng không dễ gì tìm được một vị Sư Phụ biết được pháp môn thành Phật , có thể dẫn quý vị giải thoát .
-
KHAI NGỘ LÀ PHẬT , VÔ MINH LÀ CHÚNG SINH
Hỏi : Chúng sanh vốn là Phật , sao còn phải tu hành ?
Đáp : Phật không biết được mình là Phật , cho nên phải làm người , qua sự so sánh , mới có thể biết , thì ra con người là như vậy , Phật là như vậy , sau nầy sẽ từ từ tu thành Phật . Cho nên nói , "Thiên hạ vốn vô sự". Vốn đã là Phầt rồi , muốn tu hành , không tu hành cũng là Phật , nhưng không tu hành là "Phật Vô Minh", tu hành rồi , nhận thức được mình , cho nên là "Phật Minh Bạch", "Phật Trí Huệ" cũng như Sư Phụ đã kể câu chuyện hai anh em vậy .
Hỏi : Tu hành phải làm như thế nào ?
Đáp : Thì tụng kinh , niệm A Di Đà Phật là đủ rồi (Mọi người cười). (Chúng tôi đều niệm thần chú Kim Cang). Có phải Sư Phụ của bạn truyền dạy phải không ? (Có người dạy tôi niệm). Vậy thì đừng niệm , nếu như có Sư Phụ dạy những gì , đừng có tùy ý dạy người , người ta bày thần chú Kim Cang , rất có thể họ đọc sách mà học , tình trạng đó khác hẳn với vị Sư Phụ truyền thần chú , nghe hiểu không ? Lời chú "Úm Ma Ni Pát Mê Hùm" mọi người đều biết , nhưng nếu như có vị Sư Phụ trực tiếp truyền cho , thì mới có lực lượng , nó khác với tự học theo sách , cho nên đừng có dạy người , đừng có nói cho người ta nghe .
-
Re: Các Bài KHAI THỊ
Hỏi : Gần đây người Đài Loan rất thích thông linh , thứ thông linh nầy có khác gì với Pháp Môn Quán Âm ?
Đáp : Ở Đài Loan rất lưu hành thông linh , bạn có muốn tu thần thông hay không ? (Mọi người cười). Nếu muốn thì đi mà tu ! Hỏi Sư Phụ làm gì ? Sư Phụ không có khuyến khích người ta dùng thần thông . Không phải chúng tôi không có thần thông , nhưng chúng tôi không dùng thần thông không có gì , dùng thần thông chỉ khiến cho mình bị cột tại đẳng cấp thấp , nghe hiểu không ? Bởi vì đẳng cấp cao nhất không có thần thông , không có gì hết , tu hành là để đạt đến cảnh giới tối cứu cánh , cho nên chúng tôi không có lo đến thần thông . Thần thông vẫn còn trong Tam Giới , học tập và xử dụng thần thông , không thể xuất Tam Giới , không thể đến cảnh giới tối cao .
Nhưng thần thông cũng có ích dụng , có người muốn chơi thần thông , nhưng Sư Phụ không có khuyến khích học trò học thần thông , cũng cấm học trò xử dụng thần thông . Tu hành nhất định sẽ có thần thông , ít nhiều thì cũng có , nhưng chúng tôi không dùng , có cũng không dùng , chúng tôi không có cố ý học thần thông , không có cố ý xử dụng thần thông .
-
KHAI NGỘ LÀ PHẬT , VÔ MINH LÀ CHÚNG SINH
Hỏi : Làm sao trị tham , sân , si ?
Đáp : Mình phải tự kiềm chế lấy mình , tu hành có thể giúp một chút ít , dùng "trí huệ" trị nó (Nhưng tôi không thể thường phát ra tâm ý chân thành , trong tâm cứ tham , mà không thể kiềm chế , thí dụ có lúc muốn giúp đỡ người , nhưng trong bụng cứ tính toán , vì sao phải làm , không làm lại khó chịu , cứ dằng co tính tới tính lui , không thể dùng tấm lòng chân thành đi giúp đỡ người .) Bạn không phát được lòng thành , bởi vì không có lực lượng , nhưng mà miễn cưỡng giúp đỡ còn tốt hơn là không , ít nhất đối phương cũng được mình giúp đỡ , nhưng có lúc có người cũng lợi dụng lòng tốt của mình , đi giúp họ làm chuyện bất chánh .
Cho nên giúp đỡ người cũng phải coi tình trạng . Miễn cưỡng giúp đỡ người ta vậy là tốt lắm rồi , có người hoàn toàn không có ép mình , họ không muốn giúp là không giúp , nhưng bạn không muốn giúp đỡ , vẫn biết ép mình giúp người ta , như vậy đã tiến bộ rồi , tự mình có thể kiềm chế tập quán lười biếng của mình . Tâm lý ích kỷ có thể tự kiềm chế một chút , từ từ kiềm chế mình , cải biến mình , làm cho mình càng lần càng tốt , cho đến một ngày nào đó bạn không có ép mình , cũng tự động đi làm .
Cũng như lúc mình mới học lái xe , phải chú ý rất nhiều chuyện , thường không biết lái như thế nào , nhưng mỗi ngày cứ tập , dần dần sẽ càng quen thuộc , sau cùng biến thành tự động , cho dù bên nói chuyện , bên lái xe cũng được . Mới bắt đầu , không nói chuyện cũng lái xe không vững , có phải như vậy không ? Con người cũng vậy , mình phải phấn đấu , không thể nào mới sanh ra , liền làm một vị Phật tại thế đã thành tựu , cho nên càng tập luyện , càng tự nhiên , sau này biến thành thói quen . Bạn rất chân thật , không che giấu khuyết điểm của mình , như vậy là tốt lắm rồi , có bao nhiêu người dám nói như vậy ? Dám nói tham , sân , si của mình nặng như vậy ? Tuy có khuyết điểm , nhưng cũng có ưu điểm . Bạn biết được khuyết điểm của mình cho nên có ưu điểm . Không biết được nhược điểm của mình mới mệt , mới kiêu ngạo , biết được nhược điểm của mình mới khiêm tốn , mới sám hối , người khiêm tốn mới có thể tu hành , người kiêu ngạo không thể tu . Kiêu ngạo là chướng ngại lớn nhất về tu hành , vì kiêu ngạo cho nên không muốn hỏi người , vì kiêu ngạo cho nên không tin Sư Phụ còn cao hơn "mình", biết nhiều hơn "mình", có thể chỉ dẫn "mình", như vậy là chướng ngại rất lớn .
-
KHAI NGỘ LÀ PHẬT , VÔ MINH LÀ CHÚNG SINH
Hỏi : Trong nhà có thờ Phật Thích Ca Mâu Ni và Quán Thế Âm Bồ Tát , sáng tối bái lễ , như vậy có tốt không ?
Đáp : Rất tốt , nhưng cần phải dùng "tâm" lạy . (Có gặp khó khăn , cầu xin các Ngài giúp đỡ được không ?) Cần phải vậy . Xưa kia Sư Phụ cũng làm như vậy , bây giờ vẫn như vậy , chỉ có bề ngoài thấu hiểu khác nhau mà thôi . Bây giờ Sư Phụ quỳ ở trong tâm , cầu ở trong tâm , không có dùng tượng của Quán Thế Âm Bồ Tát cũng có thể cầu ! Cả hai mươi bốn tiếng đồng hồ Sư Phụ đều đang cầu Bồ Tát , nhưng khác một cái là trước kia chỉ khi nào gặp khó khăn mới cầu , ngày thường thì quên mất , hễ gặp khó khăn , liền quỳ trước tượng của Quán Thế Âm Bồ Tát cầu nguyện , lúc không có khó khăn , thì để Ngài đứng một bên , cả năm cũng không ngó đến .
Bây giờ Sư Phụ hai mươi bốn tiếng đều cầu Quán Thế Âm Bồ Tát , cho nên không thấy được . Xưa kia người ta thấy bề ngoài của Sư Phụ quỳ lạy , như là rất thành tâm ý , rất tin Quán Thế Âm Bồ Tát vậy , bây giờ họ thấy Sư Phụ không có cầu Quán Thế Âm Bồ Tát , cho rằng Sư Phụ là ngoại đạo , nhưng họ có biết đâu , hiện giờ Sư Phụ còn thành tâm hơn xưa nhiều , nhưng bởi vì bề ngoài không thể thấy được , cho nên không hiểu bên trong của Sư Phụ như thế nào .
Cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ Tát , không cần phải quỳ trước tượng Bồ Tát mà cầu , nhưng bởi vì chúng sanh yếu đuối , mới bắt đầu , nếu như không có tượng Phật , để họ nương tựa , họ không thể tập trung tư tưởng , thành tâm khẩn cầu . Cho nên lúc ban đầu còn cần hình tướng bên ngoài để lạy , qua một thời gian sau này , cho dù không có âm sắc , không có hình tướng , mình cũng có thể tu hành , có thể cầu nguyện như thường . Nhưng có người không có rõ lý , hiểu lầm Sư Phụ . Thấy Sư Phụ không có cầu Quán Thế Âm Bồ Tát , không có đảnh lễ tượng Phật , cho rằng Sư Phụ là ngoại đạo , sao lại có sự hiểu lầm như vậy ? Vốn là "đạo", sao lại biến thành ngoại đạo ? Nhưng vì đẳng cấp của chúng sanh không như nhau , không cách nào yêu cầu mỗi người đều hiểu rõ đạo lý nầy , quý vị đều nghe hiểu lời của Sư Phụ không ? Bây giờ rất có thể hiểu , nhưng ngày mai lại quên hết (mọi người cười), ngày hôm sau lại nói Sư Phụ là ngoại đạo (mọi người cười), rồi qua vài hôm nữa , lại cho rằng Sư Phụ là nội đạo , qua năm sau , không biết chừng sẽ cho rằng đẳng cấp của Sư Phụ rất cao .
Cứ đổi đi đổi lại như vậy , đều là tư tưởng trong tâm của quý vị , Sư Phụ vẫn là Sư Phụ , hôm nay như vậy , ngày mai cũng không biến đổi , ngày hôm sau vẫn như vậy . Nhưng bởi vì đẳng cấp của quý vị khác nhau , cho nên không hiểu . Nhiều người bây giờ bị Sư Phụ la , trong tâm không vui , nhưng đợi đến năm sau sẽ rất cảm tạ , bởi vì đẳng cấp biến đổi , cho nên tư tưởng cũng nâng cao và biến đổi .
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA ,
NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Thuyết Pháp Tại Cơ Long
Tháng 3 năm 1987
Tất cả các pháp môn đều tốt , tham công án , niệm Phật , lạy Phật , Mật Tông , Hiển Tông , Thiên Đài Tông , Tào Động Tông , pháp môn nào cũng tốt hết ; có người nói rõ hơn : tôn giáo nào cũng tốt hết , Phật Giáo cũng tốt , Thiên Chúa Giáo cũng tốt , Đạo Giáo cũng tốt , nhưng họ không hoàn toàn hiểu được tốt chỗ nào . Nói thì rất dễ , cái gì cũng tốt , tôn giáo nào cũng tốt , tôn phái nào cũng tốt , nhưng chính họ không biết được tốt ở chỗ nào , miệng thì nói tốt , trong lòng cứ dằng co , tâm không ổn định , cho nên cứ chạy tùm lum , không biết đi đâu học , không biết được tôn phái nào , pháp tu nào mới là tốt nhất .
Hôm qua Sư Phụ có nói , các tôn giáo vốn đều tốt , nhưng diễn biến đến nay , càng ngày càng không tốt , thời nay các tôn giáo đều không tốt đẹp như xưa . Sư Phụ nói như vậy cũng hơi sợ , sợ tôn giáo nào cũng đến tìm Sư Phụ (mọi người cười). Vì sao không tốt đẹp ? Tốt nhưng mà cũng không tốt , bởi vì không có chân sư là không tốt . Mình lạy Phật , niệm Phật hay là tụng kinh , đọc kinh , nghiên cứu kinh điển hay là cầu nguyện Thiên Chúa , Giê Su Ki Tô ... đó chỉ là cấp sơ đẳng mà thôi , sau đó chính mình phải tìm được bản tánh của mình , lúc đó những phương pháp kể trên đều không thể giúp cho mình được , cho nên Sư Phụ mới nói là không tốt , nhưng nếu như chỉ vì mục đích cứu cánh tối cao thì không đủ tốt .
Bởi vì từ xưa đến giờ chưa nghe ai nói Phật Thích Ca Mâu Ni mỗi ngày lạy Phật , niệm Phật mới thành Phật . Cũng chưa có nghe qua Lục Tổ Huệ Năng mỗi ngày lạy Phật đọc kinh , nghiên cứu kinh điển mới thành Tổ Sư , thành Lục Tổ . Lúc Ngài ẩn tu , cũng không dám nói là đang tu hành , ăn chay cũng không dám cho người ta biết , huống chi dám dùng những pháp môn náo nhiệt ? (Mọi người cười). Cũng không nghe ai nói Giê Su Ki Tô mỗi ngày đi lạy núi , lạy kinh , hay là nghiên cứu kinh điển mới thành con Thiên Chúa , có phải không ? Các Ngài không có làm những việc như vậy , rất có thể ban đầu , các Ngài cũng làm như vậy , nhưng cuối cùng các Ngài toạ thiền , đều tìm thấy mình mới có thể thành Phật , thành đạo .
Phật Thích Ca Mâu Ni tọa thiền sáu năm rất khổ , luôn cả ngủ cũng không dám nằm xuống , Giê Sư Ki Tô cũng tọa thiền , làm sao biết được ? Bởi vì cuối cùng trước khi Giê Su Ki Tô đi hoằng pháp , Ngài không ăn , không ngủ ở trong sa mạc 40 ngày , rồi mới đi giảng kinh . Nếu như tự mình nhốt mình lại , ở trong sa mạc 40 ngày , mình có thể đoán được , trước kia Ngài đã tọa thiền lâu rồi , chứ không phải từ trên trời rớt xuống . Nếu như chỉ toạ thiền 40 ngày , đẳng cấp sẽ như Giê Su Ki Tô , có thể đi hoằng pháp , chúng ta đều biết đều đó không thể có được .
Chúng ta thấy Lục Tổ Huệ Năng , Ngài ẩn tu hơn 16 năm , mỗi ngày toạ thiền , sau đó mới có thể thành Minh Sư . Nhưng có người nói Lục Tổ Huệ Năng không có tọa thiền , Sư Phụ nói Ngài có , bởi vì có người hỏi Ngài lúc toạ thiền Ngài thấy những gì ? Ngài đáp : "Lúc tôi tọa thiền , có thấy mà cũng không thấy ." Bồ Đề Đạt Ma cũng ngồi quay mặt vào vách đá 9 năm . Từ những chuyện của các vị Đại Sư , chúng ta có thể khẳn định rằng muốn thành Phật , hay thành Đạo , nhất định phải tọa thiền . Nhưng thử hỏi , toạ thiền cũng có nhiều tôn phái , cũng có nhiều pháp môn , vậy chúng ta phải tọa thiền như thế nào ?
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Hôm qua Sư Phụ có phát cho quý vị một ít bài giảng , trong đó có một phần Sư Phụ nói đến tất cả các pháp môn tu hành đều là Pháp Môn Quán Âm (Chương 8 Quyển 1 của Bí Quyết Tức Khắc Khai Ngộ), quý vị về nhà có xem chưa ? Người nào đọc rồi hôm nay sẽ biết , những vị Minh Sư thời quá khứ có toạ thiền hay không ? Họ cũng tu Pháp Môn Quán Âm , quý vị đọc bài giảng sẽ biết được , cho nên hôm nay Sư Phụ không cần nói lại . Hôm nay Sư Phụ muốn nói , vì sao Pháp Môn Quán Âm lợi ích như vậy ?
Chúng ta nghe nói có nhiều vị thiền sư dạy những pháp môn khác nhau ; khoan nói chuyện nầy , bây giờ chúng ta nói về niệm Phật . Đa số người ta đều cho rằng niệm Phật không phải là Thiền Tông . Những ai tu hành cao đều biết rằng tất cả các pháp môn đều là Pháp Môn Quán Âm , niệm Phật cũng vậy .
Hồi xưa niệm Phật không giống như cách niệm Phật bây giờ , ngày nay chúng ta tụng niệm danh hiệu Phật , không phải là niệm Phật . Tụng niệm danh hiệu Phật là như thế nào ? Là tụng bằng miệng , cũng như tụng kinh vậy . Niệm kinh là chúng ta tưởng niệm kinh điển , chúng ta có nghi vấn , hay là nghĩ đến ý nghĩa trong kinh điển , như vậy mới là niệm kinh . Đọc kinh là đọc từng trang một , tụng kinh là tụng ra tiếng , cho nên tụng niệm "Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật" cũng là tụng Phật , có hiểu ý nầy không ?
Niệm Phật không phải như vậy , niệm Phật tức là tưởng niệm , nếu như tưởng niệm một người , hay là một vật , chúng ta phải nhận biết trước mới có thể tưởng niệm . Nếu không quen biết trước , làm sao có thể tưởng niệm ? Nếu nói rằng , chúng ta không tụng Phật lớn tiếng , mà chỉ mật niệm trong tâm , như vậy cũng không đúng , bởi vì khi chưa quen biết Phật A Di Đà thì niệm cái gì ? Nếu như quý vị chưa có quen biết một cô gái đẹp , về nhà làm sao quý vị có thể tưởng nhớ đến cô ta ? Muốn tưởng cái gì , nhớ người nào , chúng ta bắt buộc phải quen biết người đó , có hiểu ý Sư Phụ chưa ? Cho dù là giữa hai người , nếu như không quen biết cũng không thể nhớ , huống chi là chỗ Phật cao như vậy , chúng ta không quen biết các ngài , chúng ta nhớ gì ? Cho nên ngày nay , tất cả đều là tụng Phật , chứ không phải niệm nhớ Phật .
Niệm Phật vốn cũng là Pháp Môn Quán Âm , vì sao Pháp Môn Quán Âm cũng là pháp môn niệm Phật ? Bởi vì khi hành giả mở trí huệ rồi , giao thông với Phật , giao thông với Phật Tánh , Phật lực , lúc đó chúng ta sẽ cảm giác được , tìm được "Phật Tánh" nầy , lúc đó mỗi ngày chúng ta đều tưởng niệm . Người tu hành chân chánh , có phước báu lớn , nếu như theo Sư Phụ học , giả sử có một ngày người đó rất bận , không thể tu hành đúng giờ , sẽ cảm thấy lạ lạ , như là không có ăn cơm vậy , đó là bởi vì "tưởng niệm" mà ra .
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Xưa kia , các vị thiền sư đều nói "Thiền không dùng ngôn ngữ", có phải vậy không ? Nếu thật như vậy , thì tụng Phật ngày nay là ngôn ngữ rồi , chúng ta dùng ngôn ngữ của thế gian tụng : "Nam Mô A Di Đà Phật". Nếu không dùng ngôn ngữ tụng Phật , có tham công án , lạy kinh cũng không đúng , dùng thân này tu , dùng thân này lạy , làm sao đắc được Bồ Đề ? Tụng Phật hay là tham công án , đều phải cần ngôn ngữ , hít thở cũng phải để ý đến thân thể , hít thở là hơi vô thường , luyện khí hay là luyện công gì đó , đều là dùng thân vô thường mà tu , dùng đồ vật vô thường , làm sao đạt đến địa vị cứu cánh lâu dài ?
Ngày nay có rất nhiều thứ "pháp môn tu hành", có người lạy kinh , có người nghiên cứu kinh điển , có người tụng Phật , có người lạy Phật , có người lạy xương , lạy xá lợi . Xá lợi là từ xương mà ra , đối với Sư Phụ lạy xá lợi cũng chỉ là lạy xương thôi !
Nếu như lên núi hành hương là pháp môn tu hành tốt nhất , thì những người già , hay là yếu đuối , không có chân để đi , không có chân để lại , vậy họ làm sao tu ? ;) Nếu như tham công án là pháp môn tốt nhất , giả sử có người không có trí thức , không biết tự hỏi nhiều câu hỏi thì làm sao tu ? Không biết chừng họ không biết tiếng Quan Thoại , hay là ngôn ngữ của vị Đại Sư đó , vậy làm sao tu ? ;)
Lúc Sư Phụ đến Nghi Lan giảng kinh , có một vị sư trụ trì tại một chùa cấm đệ tử đi nghe Sư Phụ giảng kinh , vị đó nói rằng : "Lấy kinh điển làm thầy". Vị đó đem kinh điển biến thành thầy của họ , tưởng rằng có kinh điển là đủ rồi . Được rồi , nếu như đọc kinh điển là pháp môn toàn mỹ , vậy có người không biết chữ , không thể đọc sách , làm sao tu được ? ;) Cho dù là người tu pháp môn hít thở , cũng phải nghe được mới tu , vừa mù vừa điếc thì làm sao tu ? Không có chân làm sao tu ? :)
Thiền của thời nay đều nhấn mạnh vào ngồi xếp bằng , ngồi kim cang tọa , cho là không động đậy chút nào mới có thể thành Phật . Nhưng có người không thể ngồi kim cang tọa , họ không biết xếp bằng , rất có thể lúc đi lính bị cắt mất một chân , họ không thể xếp bằng làm sao mà tu ? Trẻ nhỏ không thể xếp bằng làm sao mà tu ? Chỉ có Pháp Môn Quán Âm là thích hợp cho mọi người tu , bao gồm luôn cả người tàn tật , có hiểu ý của Sư Phụ không ?
Bây giờ nói đến thiền Ấn Độ . Thiền của Phật Giáo vốn từ Ấn Độ truyền qua , nó dung hòa cái tu hành của Phật Giáo , biến thành thiền Trung Hoa . Pháp môn tu hành của Ấn Độ rất là nhu hòa , người tu của Ấn Độ rất nhu hòa , không có chuyện đánh mắng nhiều như vậy . Nhưng pháp môn tu hành nhu hòa của Ấn Độ , truyền đến Trung Hoa trở nên hung hãn hơn . Cho nên mình nghe nói các thiền sư đời xưa có đánh học trò .
Phật Giáo truyền đến Tây Tạng cũng trở nên rất hung hãn , cho nên Sư Phụ của Tôn Giả Mật Lạc Nhật Ba , mỗi ngày đánh mắng đến mấy trăm lần rồi mới truyền pháp cho Ngài . Thiền truyền đến Nhật càng tệ thêm , không những đánh mắng , mà còn gây thêm sự chết chóc ! Cho nên mình nghe nói xưa kia ở bên Nhật , nếu như tham công án không thành công , sẽ mổ bụng tự sát trước mặt thầy của họ , Sư Phụ nghe được chuyện này , toàn thân nổi da gà . Tu hành sao lại dùng bạo lực như vậy ? hung ác như vậy ? Nếu Thật như vậy , Sư Phụ cũng không dám tu đâu . :)
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Vì sao càng truyền đi càng tệ ? Ở Ấn Độ không có chuyện đó , truyền đến Trung Hoa phải đánh mắng rất dữ , nếu như niệm một tiếng A Di Đà Phật , cần phải súc miệng ba ngày . Sau này truyền đến Tây Tạng phải đánh người luôn mấy năm . Truyền đến Nhật biến thành mổ bụng . Sao lại có thứ biến đổi này ? Có ai biết không ? Không có ai biết hay sao ? Được rồi , để Sư Phụ giải thích .
Bởi vì Ấn Độ đời đời kiếp kiếp là thánh địa tu hành , lúc nhỏ họ đã bắt đầu ăn chay trì giới rồi . Sư Cố và Sư Tổ của Sư Phụ đều ăn chay hồi năm sáu tuổi . Ở Đài Loan , Sư Phụ cũng có truyền pháp cho trẻ em trên sáu tuổi , các em nhỏ đó cũng biết tọa thiền , thể nghiệm cũng rất tốt . Người Ấn Độ biết được tu hành là gì , rất có thể trẻ nhỏ không có toạ thiền nhiều , nhưng các em đã bắt đầu ăn chay , không dám giết một con kiến hay con muỗi , và muỗi cũng không chích , họ toạ thiền trên núi , rắn cũng không đến cắn , cọp cũng không đến ăn , vì sao vậy ? Vì lúc nhỏ họ đã ăn chay , thứ không khí hiền hòa , khiến cho động vật thấy họ như không có gặp họ vậy . Động vật có công kích chúng ta là bởi vì chúng ta rất kích động , phát ra bầu không khí khủng hoảng , giết hại ; cho nên động vật gặp người , nó liền có cảm giác kháng cự . Nhưng người tu hành , vốn đã hiền hòa , không có thứ lực lượng hung ác , cho nên động vật không cần kháng cự , nó cũng không có cảm giác phải công kích người đó .
Nói thí dụ chúng ta đánh hay mắng người ta trước , người ta mới công kích lại . Nếu như chúng ta đối với người khác rất thân thiện , thì không có chuyện gì hết . Cũng như vậy , động vật cũng sợ người , nó đánh hơi của người được . Cho nên chúng ta nghe nói thời xưa người tu hành cao , có từ trường tốt , chim đậu lên mình họ , cọp khỉ và các thứ động vật đều đến gần làm quen , chúng ta nghe nói tình trạng như vậy . Nhưng ngày nay ở Ấn Độ vẫn có như vậy . Trước kia Hòa Thượng Quảng Khâm của Trung Hoa tu hành cũng được như vậy .
Bởi vì Ấn Độ đời đời kiếp kiếp là chỗ tu hành , không khí ở đó khác với ở đây , trong nước có 90% số người hiện giờ vẫn còn ăn chay không ăn thịt , cả mấy ngàn năm nay đều như vậy , cho nên bầu không khí ở đó rất nhu hòa . Hy Mã Lạp Sơn đời đời kiếp kiếp là chỗ đại tu hành , không khí ở đó không thể nào bị ô nhiễm , bởi Hy Mã Lạp Sơn không dễ leo lên đó .
Người ở đó đều rất hiền hòa , nếu như có người muốn theo một vị Sư Phụ tu hành , vị Sư Phụ đó không cần dùng pháp môn có bạo lực để dạy đệ tử , bởi vì bản thân của học trò đã lương thiện lắm rồi , nghiệp chướng không có nặng , họ theo Sư Phụ tu hành , cũng không có đem phiền phức cho Sư Phụ của họ , hòa khí đã có sẳn cho nên giữa thầy trò không có nhiều sự hiểu lầm , hay là giận ghét .
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Từ nhỏ họ đã được huấn luyện về đạo đức , tâm địa rất lương thiện , họ cũng rõ , sau này cho dù có kết hôn hay không trước sau họ cũng sẽ xuất gia , đa số người đều có cách nghĩ đó . Có thể họ không xuất gia , nhưng ở nhà họ đã bắt đầu tu hành , cho nên đối với họ mà nói , sự tu hành hay là tìm Minh Sư , hay là sức gia trì , hay là giải thoát ... đều là rất quen thuộc , là chuyện rất thông thường , rất tự nhiên . Cho nên ở Ấn Độ sự quan hệ giữa thầy trò rất là sâu dầy , rất nhu hòa .
Nhưng Phật Giáo truyền đến Trung Hoa , hay truyền đến Tây Tạng , Việt Nam , Nhật Bản , bầu không khí đó nó khác liền ! Có hôm một trong những vị Thầy mà Sư Phụ quen biết đến một chỗ giảng kinh , mặc dù chỉ thuyết có một ngày mà thôi , nhưng cả làng , nam nữ già trẻ , chó mèo gà dê đều chạy đến cầu pháp , Ngài truyền cho toàn xóm làng , cả mấy ngàn người , đều tụ nhau tại một nơi , dùng máy phóng thanh truyền pháp , dường như có mười cái loa . Vị Thầy ngồi trên chỗ rất cao , bởi vì nếu không ngồi nơi cao , không thấy được dân làng . Có mấy ngàn người cùng đến học .
Vì sao cả mấy ngàn người có thể cùng đến học một lượt ? Làm gì có chuyện dễ dàng như vậy ? Bởi vì họ đã chuẩn bị xong rồi , đã ăn chay lâu rồi , và khát vọng có một vị "Guru", Đại Sư Phụ đến dạy họ . Vì thế khi một vị Sư Phụ như vậy đến giảng kinh , họ liền hiểu biết , cũng có thể nghiệm , có lẽ họ thấy thân vị Sư Phụ ấy có hào quang , hay là có những tình trạng khác ..., liền tin ngay , cho nên Ngài mới có thể truyền pháp một lần cho cả mấy ngàn người .
Mấy ngàn người cùng ngồi chung thọ pháp , cảnh tượng quang đãng nghiêm trang nhìn rất là đẹp mắt . Họ ngồi hai bên , một bên nam , một bên nữ , tuy họ rất nghèo , áo quần rất bình thường nhưng họ đều mặt y phục đẹp nhất đến nghe giảng kinh . Y phục của nam chúng rất trang nghiêm , toàn thân trắng bạch , nhìn rất đẹp , nữ chúng cũng vậy , y phục thì có nhiều màu rực rỡ , nhưng cũng rất đẹp đẽ , tinh sạch .
Họ đều ngồi hết vào đó , không có động đậy , người trong đạo tràng có thể nghe tiếng ruồi , muỗi bay vi vu , họ yên tịnh như vậy , toàn thôn đều thọ pháp , luôn cả chó mèo gà dê đều đến nghe kinh (mọi người cười), nhìn mà thấy cảm động , và cảm thấy họ rất dễ thương .
Cho nên tại Ấn Độ truyền pháp rất dễ dàng , lúc Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế , Ngài đi khắp nơi truyền pháp , người , trời và Thập Phương Tam Thế Phật đều tán thán Ngài , nói Phật Thích Ca Mâu Ni là tốt nhất , tài nhất , có thể thuyết pháp tại thế giới dơ ác , vì giảng giải pháp môn vô thượng khó mà hiểu được hết , cũng khó mà được chấp nhận ..., bởi vì thời đó là thời chánh pháp , con người quá hiền , thời kỳ 2500 năm trước , bất luận họ có hung ác đến đâu cũng không hung ác bằng chúng sinh thời nay , có phải vậy không ?
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Xưa kia nếu như có một người hung ác , chỉ có họ tự biết , hay là chỉ có người nhà , láng giềng , bạn bè biết , những người bị họ ảnh hưởng cùng lắm chỉ có hai , ba chục người mà thôi .
Nhưng ngày nay nếu như có một hai người làm điều xấu , liền có nhiều người bị ảnh hưởng , bởi vì có rất nhiều phương tiện truyền tin , như là báo chí , truyền hình , máy thâu âm ..., sẽ ảnh hưởng đến nhiều người , cho nên một người làm sai , nhiều người sẽ bị ảnh hưởng . Quý vị coi , hiện thời có băng thâu âm , máy truyền hình , báo chí , điện thoại ..., những thứ này đối với mình rất tiện lợi , nhưng nếu như có người dùng những thứ này để làm việc xấu , cũng dễ như chơi . Cho nên những phong trào bại hoại ngày nay có thể truyền bá rất mau , nhiều người sẽ theo học và bị ảnh hưởng .
May là Phật Thích Ca Mâu Ni truyền pháp tại Ấn Độ , nơi đó đời đời kiếp kiếp là thánh địa tu hành , con người rất hiền hòa , cho nên Ngài truyền pháp đương nhiên là dễ dàng . Cho dù là vị Thầy mà Sư Phụ quen biết bây giờ truyền pháp tại Ấn Độ , cũng là chuyện rất dễ dàng , không có gì đặc biệt , Sư Phụ nghĩ nếu như họ đến Trung Quốc hoằng pháp , mới là chuyện phi phàm .
Tại Ấn Độ một lần có thể truyền pháp cho cả mấy ngàn người , không có người hoài nghi hay là phỉ báng , nhưng nếu như đến Trung Quốc , có lẽ năm năm mới truyền pháp được cho một vài người (Mọi người cười). Cho nên Bồ Đề Dạt Ma quay mặt vào vách đá tọa thiền chín năm , mới có năm đứa Học trò .
Bây giờ quý vị nên biết , vì sao Thiền Ấn Độ truyền đến Trung Quốc , biến thành phương thức đánh mắng , bởi vì nghiệp chướng nơi đây quá nặng , từ nhỏ họ đã ăn thịt rồi . Thiền Ấn Độ truyền đến Nhật Bản còn tệ hơn nữa , bởi vì tinh thần háo thắng của họ quá mãnh liệt , cho nên tham công án không ra đến nổi phải mổ bụng tự tử . Cho nên "Pháp" truyền đến đâu , đều bị ảnh hưởng bởi phong tục nước đó . Tại Ấn Độ thiền rất là nhu hòa , truyền đến Trung Quốc thì hung ác hơn , và rồi khi truyền đến Nhật Bản lại còn tệ hại hơn .
Mình nghe nói lúc Phật Thích Ca Mâu Ni truyền pháp , đều ngồi trên đài liên hoa , đài liên hoa đó có ý nghĩa gì ? Bởi vì các đệ tử của Ngài sùng bái Ngài , cho nên dùng hoa trang hoàng , cúng dường chỗ ngồi của Ngài . Không phải chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni mới có tình trạng này , bây giờ cũng có , các vị Thầy mà Sư Phụ biết lúc truyền pháp , họ cũng trang hoàng rất đẹp , cũng như căn nhà mới để kết hôn vậy .
Thí dụ đến chỗ giảng kinh , các đệ tử kiếm trước miếng đất trống , làm một cái đài rất cao , tứ phía đều trang trí hoa tươi , dùng hoa tươi kết đầy tứ phía của cái đài , có hoa gì đẹp nhất , đều trang trí trên đó . Đôi khi họ dùng hoa kết thành tên của vị pháp sư đó trước đài cao , hay là dùng hoa sắp ra chữ "hoan nghênh Sư Phụ". Có lúc họ tìm một miếng vải lớn , hay là tấm thảm , trải ra rất là xa , trên đó đều dùng hoa trang trí . Đương nhiên không phải lần truyền pháp nào cũng vậy , tùy theo chỗ và tục lệ .
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Thường trong lễ "Sinh Nhật" họ đều lấy hoa tươi sắp trên thảm , "Hoan Nghinh Sư Phụ" hay là "Chúc Mừng Sinh Nhật" những chữ như vậy , họ sắp rất dài rất xa , rồi Thầy của họ mới đi trên thảm hoa lên đài cao , ngồi trên đài liên hoa , đài liên hoa là từ đó mà ra . Đến nay tại Ấn Độ vẫn còn có tình trạng đó , có lúc họ làm như là một cái hoa sen để cho Sư Phụ của họ ngồi trên đó , bốn bên đều là hoa , ở ngoài cũng toàn là hoa , đài liên hoa cũng là dùng hoa làm thành .
Khí hậu ở Ấn Độ rất khô , hoa rất ít lại quý ; Sư Phụ không hiểu được họ từ đâu đem nhiều hoa đến như vậy , hiện nay mình lấy hoa cúng dường tượng Phật là từ phong tục truyền thống của Ấn Độ mà ra . Họ vốn lấy hoa cúng dường Phật tại thế ; hiện giờ họ vẫn cứ cúng dường Phật của họ y như vậy . Lúc một vị Sư Phụ đi giảng kinh , họ đều lấy hoa thơm cúng dường đặt ở phía trước . Khi vị Sư Phụ ngồi ở ghế liên hoa trên đài cao , họ liền đem hoa rãi lên trên thân hay là trước chân của Ngài . Đôi khi toàn thân Ngài phủ đầy hoa biến thành Sư Phụ "hoa tươi" có đủ màu sắc của các loại hoa , như vậy mới là "cúng dường". Người thời nay đều không hiểu cúng dường là gì !
Các vị Thầy này bất cứ đi đến đâu , họ đều chuẩn bị cho các Ngài rất nhiều món ăn chay , như vậy là cúng dường Phật . Họ không lễ bái thần tượng Phật gì cả . Sau khi họ theo Minh Sư tại thế học , những vị thần mà họ đã thờ đều "nổi mốc", họ không cần phải tắm rửa cho thần nữa ! Vì họ biết rằng lạy hay tắm rửa cho tượng thần đều không có công ích gì hết !
Lúc chưa tìm được Sư Phụ họ đều lạy các tượng gỗ , tượng đá . Khi gặp Minh Sư rồi , họ đều đem hoa tươi và trái cây để trước mặt Ngài . Đặc biệt nhất là trong ngày sinh nhật của Ngài , họ tổ chức rất long trọng . Vào ngày đó người đến thọ pháp rất nhiều ; bởi vì ngày sinh nhật của Đại Sư là ngày kiết tường nhất , có nhiều phước báu nhất , có nhiều lực gia trì hơn , có nhiều Thiên Nhơn , Bồ Tát đều đến cung chúc vị "Phật tại thế" đó . Cho nên có người đặc biệt chờ đến ngày sinh nhật của các Ngài mới đến thọ pháp . Cả mấy ngàn người , mấy vạn người đến cung chúc Ngài , không giống như ở đây , mỗi lần chỉ có một , hai người hay là một hai trăm ngàn người .
Ở Ấn Độ họ đến cả mấy chục ngàn người . Cho nên trước ngày này , họ phải tìm một chỗ trống rất lớn để lập đài cao lớn , trang trí các thứ hoa tươi , mọi người đều tự cắm trại ở lại đến hai ba ngày , mỗi ngày theo Sư Phụ của họ hát chung với nhau , cung chúc Ngài , kể chuyện của Ngài , kể chuyện khi họ được theo học với Sư Phụ của họ kết quả như thế nào , đời sống cải biến như thế nào ! Lực lượng của Sư Phụ bên trong giúp họ như thế nào , họ nói đến là họ chảy nước mắt , họ thật tình kính ái Sư Phụ của họ , cho nên không cần dùng "hương bảng".
Khi thấy được Thầy , mắt của họ không muốn rời khỏi một giây , bởi vì đã lâu lắm họ không được gặp Ngài .
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Ấn Độ rất lớn , họ không thể gặp được Sư Phụ của họ dễ dàng như vậy , muốn gặp mỗi ngày lại càng không thể được , cho nên gặp được Sư Phụ của họ , mắt họ không muốn rời khỏi nữa , bất cứ Ngài đi đến đâu thì nhìn đến đó ! Họ cứ nhìn chăm chú vào mắt Thầy , nhìn cho thỏa lòng rồi mới về nhà . Còn chưa nhìn được mắt của Ngài họ không chịu rời khỏi .
Cho dù là có ở chung với Thầy cũng vậy , mỗi lần Ngài đi giảng kinh đệ tử đều đi tiễn đưa đến nơi rất xa . Cứ chạy theo xe của Ngài , có lúc Ngài cũng cố ý lái chậm hơn để người ta có thể nhìn thấy được Ngài . Có đệ tử chạy rất mau có thể nhìn thêm một lần nữa ! Tuy rằng mỗi ngày sống chung với Ngài đều vẫn phải như vậy ! Bởi vì rất có thể Ngài đi giảng kinh mười ngày , hai tuần lễ , hay là một tháng không trở về . Cho nên khi Ngài đi , đệ tử đều đi tiễn đưa .
Lúc Thầy của Sư Phụ trở về , các đệ tử cũng đi nghinh đón , đem bông thơm để đặt trên xe của Ngài , về đến đạo tràng rồi , tất cả đệ tử đều đến đảnh lễ Ngài . Đệ tử ở Ấn Độ là như vậy ; họ có sự quan hệ sâu dầy giữa thầy trò . Đương nhiên là khỏi dùng gậy phải không ? Cũng không cần phải trách mắng họ ! Họ đã biết rõ rồi ! Còn đánh mắng để làm gì ! Cho nên Ấn Độ không có dùng hương bảng (gậy), bất cứ mình đến trung tâm tịnh toạ nào đều không thấy hương bảng (gậy) nào hết . Nếu như mình hỏi họ về hương bảng , họ cũng không biết gì hết mà còn hỏi ngược lại mình hương bảng (gậy) là gì ! Họ đều là những người rất thành tâm thành ý đến cầu đạo . Khi vị Sư Phụ chưa đến truyền pháp , họ đều ngồi ngay ngắn , không lay động . Khi Thầy họ đến , họ cũng không làm ồn cho dù đến một tiếng động nhỏ ! Không giống như học trò ở đây , lúc Sư Phụ chưa đến , thì dùng cơ hội này để nói chuyện không ngừng ! Chỗ nào cũng nghe tiếng nói ! Không có một chút trang nghiêm nào cả ! Cũng thiếu thốn thái độ cũng kính cầu pháp ! Cho nên truyền Tâm Ấn rồi có người chạy mất , ra ngoài phỉ báng , phê bình Sư Phụ là ngoại đạo , nội đạo , trung đạo , hậu đạo (Mọi người cười).
Nếu như Phật Thích Ca Mâu Ni đến Đài Loan hay Đại Lục hay là đi Việt Nam truyền pháp , Sư Phụ sẽ vỗ tay xưng tán Ngài ! Truyền pháp ở Ấn Độ rất dễ dàng không có gì đặc biệt . Nếu Sư Phụ đến Ấn Độ truyền pháp cũng sẽ thành công như vậy . Điều này không đáng kể ! Ở Ấn Độ chỉ cần biết nói tiếng Ấn Độ , việc hoằng pháp là chuyện rất dễ dàng ! Người phàm phu như Sư Phụ mà cũng có ba người đệ tử Ấn Độ , mà lúc đó Sư Phụ còn chưa cố ý hoằng pháp , tại họ ép buộc Sư Phụ truyền pháp . Sư Phụ chỉ ở lại nơi đó một hai ngày , đã có ba đứa đệ tử rất trung thành . Mặc dù chỉ ở lại một hai ngày rồi đi , nhưng cho đến giờ , họ vẫn còn viết thơ hỏi thăm , vẫn còn rất cung kính như trước ! Ba năm sau khi Sư Phụ trở lại thăm , họ reo mừng "Đại Sư Phụ trở về rồi !" Cả xóm làng đều biết , đều rủ nhau đến coi Đại Sư Phụ lớn như vậy ! (Sư Phụ ra dấu , mọi người cười). Làm cho Sư Phụ mắc cở quá trời ! Sư Phụ chỉ muốn âm thầm trở về thăm họ , vì đã ba năm rồi không gặp mặt . Nên muốn trở lại xem họ tu hành như thế nào ? Sư Phụ nghĩ thầm không biết chừng họ đã quên mất Sư Phụ là ai rồi , không ngờ họ reo mừng đến như vậy ! Nhiều người đều chạy đến để xem "Đại Sư Phụ" của họ (Mọi người cười).
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Vì sao họ có lòng kính ái đó ? Vì sao họ tu hành mà không cần phải đánh mắng ? Bởi vì đẳng cấp của họ đã cao rồi , hiểu rằng Phật gỗ không có ích lợi gì , Phật tại thế mới có ích lợi . Người Ấn Độ hiểu được Sư Phụ của họ là "Phật". Nếu như đẳng cấp của họ không cao , không hiểu được thứ tình trạng như thế , vẫn cứ đi lạy kinh , lạy Phật gỗ , Phật đá mà không hiểu được Phật ở nơi đâu . Cho dù họ tìm không được "Phật tại tâm" ít nhất họ còn nhận biết được "Phật tại thế" ở bên ngoài như vậy như vậy mới có thể nói đẳng cấp tu hành đã cao rồi !
Nếu như tu hành mấy chục năm mà vẫn còn lạy Phật gỗ , vậy tu hành cái gì ? Phật gỗ không nói chuyện , không có trả lời công án của mình , không có gia trì , không có giúp đỡ mình tu hành , chỉ có "Phật tại thế" mới có thể làm được . Cho nên người Ấn Độ tu hành không cần đánh mắng gì hết ! Đẳng cấp của họ đã cao , đến nỗi không cần phải nói đến chuyện này . Sự tôn kính Sư Phụ của họ như thế , đã chứng minh rõ ràng là họ đã hiểu rõ lắm rồi . Cho nên không cần nói gì hết họ cứ tiếp tục tu hành là đủ !
Cùng một tình trạng , cùng một vị Sư Phụ đó ; nếu như đến Trung Quốc thì có lẽ phải đánh mắng học trò rất nhiều , vì sao vậy ? Bởi vì họ không tôn kính Sư Phụ của họ , không đủ thành tâm để tu hành ! Môn đồ thích biện luận với với thầy của họ . Nếu như Sư Phụ của họ bảo họ làm gì , họ sẽ nói họ nghĩ nên làm như vậy mới đúng ! Mỗi ngày họ đều muốn biện tới , biện lui với thầy của họ , bởi vì đẳng cấp quá thấp ! Cho nên thầy cũng không có biện pháp khác để giúp đỡ họ , chỉ có thể mỗi ngày đánh mắng cho đến một khoảng thời gian sau nghiệp chướng của họ tiêu trừ bớt đi , "ngã chấp" của họ giảm bớt phần nào , bởi vì họ bị Sư Phụ của họ dùng phương thức đánh mắng , mài dũa thành dáng điệu đẹp đẽ ; Lúc đó mới có thể hiểu biết được một chút . Vì lý do trên cho nên các vị thiền sư thời cổ ở Trung Quốc , đều dùng phương pháp cứng rắn để dạy học trò ! Người Đông Phương bao gồm Trung Quốc , Việt Nam , Nhật Bản ... ưa thích văn chương và những gì trí thức hơn , nhưng mà trí thức và văn chương vẫn còn nằm trong Tam Giới , vẫn là học vấn của thế giới này ! Không có liên quan gì đến vấn đề giải thoát .
Tại Ấn Độ , đối với người Ấn Độ mà nói , học vấn , tiền bạc không có gì quan trọng , giải thoát thành Phật mới là điều quan trong nhất ! Nước của họ có vẻ nghèo nhưng họ rất vui vẻ , Sư Phụ ít khi thấy người Ấn Độ buồn rầu ! Bất luận gia đình của họ nghèo hay giàu có , địa vị cao hay thấp , họ đều tươi cười . Thấy họ mỗi ngày đều rất khoái lạc , bởi vì tâm họ đơn thuần . "Tâm tịnh quốc độ tịnh", cho nên mấy ngàn năm nay họ ít có chiến tranh , không có nội chiến nhiều , cho đến gần đây mới có bởi vì nhiều ảnh hưởng của các nước ngoài . Mấy ngàn năm qua phần lớn người Ấn Độ ăn chay , bây giờ họ dần dần ăn thịt thật là tình trạng đau buồn . Nhưng cũng không cách nào hơn ! Thời mạt pháp chỗ nào cũng bị ô nhiễm !
Quả địa cầu của chúng ta bây giờ dần dần biến thành rất nguy hiểm . Nếu như quý vị đọc báo sẽ biết , tầng không khí bảo hộ bao bọc quả địa cầu , bởi vì thử nổ quá nhiều nguyên tử , hạch tử , mà xuất hiện nhiều lỗ hở , nếu như không mau bù đắp , chúng ta sẽ vãng sanh rất mau , lìa khỏi thế giới này rất sớm , không cần niệm Phật cũng sẽ vãng sanh chung , hoàn toàn vãng sanh hết (Mọi người cười).
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Ở Ấn Độ , họ không coi trọng Phật gỗ , mà tôn kính Phật tại thế . Các nơi khác , không coi trọng Phật tại thế , mà tôn thờ Phật gỗ . Cho nên thiền Ấn Độ , thiền Trung Hoa và thiền Nhật Bản đều khác nhau . Bởi vì người tu hành ở Ấn Độ , họ nhận thức được Phật ở đâu , cho dù họ vẫn còn chưa nhận thức được Phật tối cao ở bên trong , tối thiểu họ vẫn nhận thức được Phật tại thế ở bên ngoài , thứ Phật mà đã thành Phật .
Nhưng khi thiền được truyền đến Trung Quốc rồi , người tu hành một bên đi lạy Phật gỗ , một bên trở về biện luận với Phật tại thế của họ , có hiểu ý của Sư Phụ chưa ? Tại Nhật Bản cũng vậy , họ cung kính đem khúc gỗ về nhà trang hoàng lễ bái , ngày mai lại trở về biện luận với Sư Phụ của họ , về nhà lại lạy Phật gỗ , như vậy nếu như không đánh đệ tử , làm sao dạy được ?
Cho nên mình nghe rất nhiều chuyện "thiền", diễn tả các thiền sư thời xưa đều rất hung , lúc học sinh hỏi câu hỏi , liền bị ném ghế , ném gậy lên đầu . Có một cốt truyện , có một vị học sinh hỏi thiền sư : "Vì sao Ngài Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc ?" Vị đó hỏi đến lần thứ ba , vị thiền sư liền bảo : "Đưa ghế đó cho ta". (Mọi người cười). Khi người học trò đưa ghế cho vị Sư Phụ , Ngài lấy ghế liền đánh người học trò , vì không có cách để nói . Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc làm gì , có quan hệ gì đến mình ? Sao hỏi nhiều như vậy ? Hỏi chuyện đó để làm gì ? Có phải cần phải đánh mới có thể "khai" phải không ? Không khai ngộ bên trong thì khai ngộ bên ngoài (Mọi người cười).
Ở Ấn Độ không có thứ vấn đề đó , không có "Tôi là ai ?" "Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc làm gì ?" "Ai niệm Phật ?", các thứ công án đó ... Tại Trung Quốc thì họ thích hỏi như vậy , cho nên các thiền sư cũng hàng thuận chúng sanh , biến câu hỏi thành thoại đầu , sau này biến thành "đánh đầu" (mọi người cười), sau này quán đơn điền không thành , cuối cùng nên "khai" đơn điền (mọi người cười), bởi vì hỏi mà không khai ngộ được , cho nên phải khai cái này (Sư Phụ chỉ bụng), ít nhất khai bụng còn đơn giản hơn khai ngộ . Cho nên càng tu càng chướng ngại , bởi vì dạy pháp môn bên trong , họ không thể tiếp thu , chỉ còn nước dạy thứ bên ngoài .
Quý vị biết Hòa Thượng Quảng Khâm tu cái gì không ? Ngài tọa thiền rất tinh tấn , nhưng lúc thiền nhiều người đến hỏi Ngài làm sao tu hành , Ngài đều dạy họ tụng "Nam Mô A Di Đà Phật", có phải vậy không ? Bởi vì Ngài biết , không còn cách nào khác hơn nữa để dạy họ được .
Nhiều người cũng đến hỏi Sư Phụ , Sư Phụ cũng nói tụng "A Di Đà Phật", là đủ rồi , bởi vì Sư Phụ không cách nào nói những chuyện khác , nếu như nói chân lý , họ sẽ ra ngoài phỉ báng người này là ngoại đạo , không bày niệm Phật , mà bày người ta quán âm gì đó . Đài Loan có nhiều cao tăng như thế , sao chưa từng nghe nói qua pháp môn này ? Cho nên kết luận của họ là , pháp môn này nhất định ngoại đạo . Thành kiến của chúng sanh sâu như vậy , Sư Phụ cũng không có biện pháp dạy họ . Bởi vì còn có nhiều thứ thuộc về bên ngoài , nếu như chấp trước nơi đó thì càng tu càng đi ra ngoài .
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Thí dụ có người theo Sư Phụ học , họ đương nhiên rất thích Sư Phụ , học có kết quả , biết được Sư Phụ là ai , rất thích , ngày thường bởi vì không có thời giờ đến gặp Sư Phụ , cho nên thỉnh hình Sư Phụ về nhìn . Nhưng nếu người khác không theo Sư Phụ học , thấy những người học trò đã thọ pháp đem hình về coi , họ cũng bắt chước đem hình về coi , tưởng rằng Sư Phụ dạy họ tụng Nam Mô A Di Đà Phật , rồi họ lại đem hình của Sư Phụ về , cho rằng là đủ . Họ sẽ bảo rằng miễn sao họ cùng với Sư Phụ như nhau , có hình giống nhau , có gì khác nhau đâu ? Đương nhiên là khác biệt , có thọ pháp và không thọ pháp đương nhiên không giống nhau .
Cho nên muốn dạy người không phải là chuyện dễ , cho dù là học trò đã thọ pháp , đã dạy họ tìm được Bản Lai Diện Mục của mình , nhưng họ cũng không nhận biết được Bản Lai Diện Mục này , còn hỏi Sư Phụ : "Phật tánh của con đâu ? Khi nào mới tìm được ? Lúc nào con mới khai ngộ ?" Hôm qua Sư Phụ đã truyền Tâm Ấn cho họ , mà hôm nay còn hỏi : "Con theo Sư Phụ học đến lúc nào mới khai ngộ ?" Hôm nay còn hỏi vấn đề này , năm sau trở lại vấn đề cũ : "Sư Phụ , sao con còn chưa khai ngộ ? Bản Lai Diện Mục của con đâu ? Làm sao mới tìm được chính mình ?"
Người như vậy , cho dù tìm được Bản Lai Diện Mục cũng không nhận biết , bởi vì quên mất Bản Lai Diện Mục quá lâu , nó đã nổi mốc lâu rồi , khi tìm được trở lại vì đẳng cấp quá thấp kém cũng không thấy được , tuy rằng loại người đó đẳng cấp quá thấp , nhưng họ cũng có thể tu , cũng được giải thoát , theo Sư Phụ học , thọ pháp rồi , đương nhiên được giải thoát , đẳng cấp cũng khác với trước , tùy theo trình độ siêng năng tu hành của cá nhân nhiều hay ít .
Lúc nãy Sư Phụ có nói đến , có rất nhiều pháp môn tu hành , thí dụ như tham công án , tối thiểu nên có chút trình độ về trí thức , mới có thể tham công án . Ngoài ra còn nghiên cứu kinh điển , còn có quán đơn điền , quán hơi thở , quán xương trắng , quán không sạch (bất tịnh) hay là quán tưởng A Di Đà Phật ...
Pháp môn nào cũng phải dùng ngôn ngữ , còn phải có điều kiện , có năng lực , đối với các pháp môn kể trước , lục căn đều phải hoàn bị mới có thể tu , có hiểu ý của Sư Phụ không ? Cần phải có mắt , không thể điếc , người ta tu lưỡi hay tu mũi , đều phải có đầy đủ công năng của mũi và lưỡi , nếu như có người mũi của họ xẹp quá , vậy họ làm sao quán mũi ? Có hiểu chưa ? Không may bị xe đụng bị tàn tật không còn sống mũi làm sao quán mũi ? Như vậy là pháp môn không hoàn mỹ rồi .
Quán đơn điền cũng phải hiểu , quán như thế nào mới có thể quán , nếu như người đó rất dốt , hay là điếc , mù thì làm sao giải thích cho họ biết quán đơn điền là gì ? Đấy là việc rất phức tạp , không dễ gì muốn quán đơn điền là quán được . Đơn điền vốn dùng để tiêu hóa đồ ăn của mình , không phải dùng để quán gì hết , đơn điền là cảnh giới thấp , quán nơi đó sau khi chết sẽ đi nơi đó , bởi vì khi chết ý niệm của chúng ta đặt ở nơi đó , mình sẽ đi đến đó , có phải vậy không ? Nếu như quán đơn điền , thì khi trở lại phải làm gì ? Làm lãi , sâu trong bụng ;) . Cho nên phải cẩn thận , quán ở đâu sẽ đi nơi đó .
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Quán mũi , trở về sẽ biến thành đồ bài tiết của lỗ mũi , hay là biến thành lông mũi . Quán tim trở về cũng biến thành tim . Trong tâm có những gì ? Có máu huyết , thần kinh , huyết quản , đều không có ích dụng ! Quán những nơi đen tối , cảnh giới phàm phu vô thường có ích gì ?
Nếu như nói quán mũi , quán hơi thở , quán tâm , quán đơn điền có thể thành Phật , cho dù chỉ là giả sử mà thôi , cũng không có cách nào giải thích cho viên thông , bởi vì có người vừa mù lại điếc , không thấy được , cũng không thể nói , vậy làm sao dạy họ tu ? Có hiểu chưa ? Nhưng Sư Phụ có một pháp môn , cho dù người điếc cũng có thể tu , người mù cũng được , Sư Phụ cũng có học trò điếc , mù , họ đều có thể nghiệm . Người mù có thể thấy được ánh sáng , thấy được Phật tánh , người điếc cũng có thể nghe được âm thanh bên trong , không dùng ngôn ngữ cũng có thể truyền pháp , cho dù có người vừa mù lại vừa điếc , Sư Phụ cũng có thể truyền Tâm Ấn cho họ , họ cũng có thể nghiệm như người thường .
Cho nên Pháp Môn Quán Âm là pháp môn tối hoàn mỹ , người nào cũng tu được , trẻ nhỏ cũng tu được , Sư Phụ có học trò được sáu tuổi , thể nghiệm của họ cũng như Kinh Phổ Môn . Còn người già 80 tuổi cũng có thể nghiệm tốt như nhau .
Như vậy mới là pháp môn hoàn mỹ , còn không , nếu như người không có chân không thể xếp bằng, thì không thể tham công án . Không có trí thức , tuổi quá lớn , cũng không thể tham công án . Hay là tuổi quá nhỏ , như trẻ nhỏ , làm sao dạy nó tham công án ? Làm sao dạy nó quán đơn điền ? Người có bệnh làm sao xếp bằng ? Người không có đùi làm sao xếp ? Cho nên một pháp môn toàn mỹ có thể thích hợp cho tất cả căn cơ , tất cả giai cấp , tất cả nam nữ già trẻ , mù điếc câm đều có thể học , pháp môn hay như vậy chỉ có Pháp Môn Quán Âm mà thôi . Tất cả các pháp môn khác nếu như còn phải dùng lục căn , lục trần để tu , hay là phải dùng đầu óc của mình để quán tưởng , đều chưa phải là pháp môn hoàn mỹ .
Cho nên Pháp Môn Quán Âm đời đời kiếp kiếp đều là pháp môn tối cao , là nguyên nhân đó . Bởi vì chỉ có pháp môn này mới có thể cứu cánh thành Phật , các pháp khác đều chẳng có lợi ích gì nhiều , nhiều pháp môn chỉ là suy đoán ra mà thôi , bởi vì không tìm được Pháp Môn Quán Âm , cho nên đoán tưởng , có lẽ người xưa tu như vậy , cho nên họ tự phát minh nhiều pháp môn , tự tu bậy bạ .
Thí dụ không biết làm sao làm bánh mì , thấy người khác dùng bột mì như vầy , mình cũng làm theo , rốt cuộc làm bậy bạ , cũng không ra một ổ bánh mì . Lúc Sư Phụ mới đến Anh Quốc , ở nơi đó không có bánh mì ngon , nhớ hồi ở Sài Gòn ăn thứ bánh mì Pháp , rất dòn và thơm . Nhưng ở Anh Quốc , ngoài thành phố lớn , những chỗ khác không có loại bánh mì dòn đó , họ đều bán bánh mì mềm , cũng như bánh mì cắt từng miếng mà nhìn đã thấy , Sư Phụ không thích thứ này lắm , mà thích bánh mì Pháp hơn , cho nên tự làm lấy , nhưng Sư Phụ không biết cách làm , hồi giờ chưa từng thử qua . Lúc ở Việt Nam , việc nhà đều có người làm lo hết , Sư Phụ ra nước ngoài rồi mới học nấu cơm , vì lúc đó Sư Phụ không có người làm , tất cả đều phải tự lo .
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Lúc đó Sư Phụ học làm bánh mì , lần thứ nhất làm thành bánh mì vừa cứng vừa đen (mọi người cười), lần thứ hai tiến bộ hơn thành màu café , lần thứ ba có một nửa màu café , còn một nửa không biết nên gọi màu gì (mọi người cười), cũng không phải màu trắng . Sau này Sư Phụ hỏi người láng giềng , bà ta bày Sư Phụ cách làm sao , bà làm ra rất ngon lành , Sư Phụ học theo nhưng lần thứ nhất cũng không thành , dù sao vẫn còn tốt hơn những lần trước , bởi vì nhìn đã có dáng của ổ bánh mì , ăn nó cũng có chút mùi của bánh mì .
Lúc trước làm bánh mì không thể ăn được , vì thiếu thầy chỉ dẫn , thấy người khác làm bánh mì như rất đơn giản , Sư Phụ tưởng chỉ cần có nước và bột mì , rồi lấy tay nắn bột , bỏ vào nướng là đủ rồi , rốt cuộc nướng đen thui . Thật sự , không phải dễ như vậy , trong quá trình có nhiều chi tiết phải nắm cho đúng .
Nói thí dụ phải bỏ bao nhiêu bột mì , bao nhiêu nước , bao nhiêu đường , bao nhiêu muối , bao nhiêu bột nổi , nên dùng bao nhiêu sức ? Nhồi nắn bao lâu ? Bỏ vào lò nướng bao lâu ? Độ nóng phải giữ ở mực nào ? ..., như vậy bánh mì ra lò ăn mới thơm ngon . Cho nên không có dễ dàng như vậy . Xưa kia , Sư Phụ tưởng rằng bột mì trộn với nước vò thành một cục , bỏ vào lò nướng là xong , kết cuộc biến thành cục đá , nhưng mà nó lại cứng lại đen , ăn một lần liền đau bụng , không biết chừng sẽ vãng sanh (mọi người cười), cho nên không dám ăn , sau này biết có người láng giềng dạy người ta làm bánh mì , mới theo học , và làm được rất nhanh .
Nếu như mình học làm bánh mì còn cần phải có người thầy chỉ bày , vậy nếu muốn học thành Phật thì sao ? Có phải càng phải tìm một vị chân sư chỉ đạo ? Người láng giềng bày Sư Phụ làm bánh mì , Sư Phụ rất cảm tạ ơn bà , sau đó bà ta còn dạy Sư Phụ làm nhiều thứ bánh , Sư Phụ đều đem một ít cho bà ta , cho đến nay Sư Phụ vẫn rất cảm ơn bà ta . Nhưng chúng ta học Phật lại quên đi , theo Sư Phụ học pháp môn rồi , không còn biết lo gì nữa hết . Mới tu hành phải gần gủi Sư Phụ nhiều một chút , người mới tu hành sẽ có nhiều nghi vấn , nhưng không phải hỏi toàn là những câu bậy bạ , như Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc làm gì ? Nếu như đem những thứ đó hỏi Sư Phụ , Sư Phụ cũng sẽ ném ghế (Sư Phụ và mọi người cười).
Có người còn hỏi càng kỳ cục hơn : "Sư Phụ ơi ! Phật cao hơn Trời , hay là Trời cao hơn Phật ?" Hỏi những thứ câu hỏi đó Sư Phụ cũng sẽ ném ghế (mọi người cười). Hỏi cái đó để làm gì ? Đẳng cấp của mình còn chưa đủ tư cách rờ đến giầy của Trời , vậy hỏi Trời để làm gì ? Đợi khi nào mình thành đạt đến đẳng cấp của Trời , tự nhiên sẽ rõ , bây giờ muốn đánh giầy của ông Trời , ổng còn chưa chịu cho mình đánh giầy !
-
VÌ SAO THIỀN ẤN ĐỘ , TRUNG HOA , NHẬT BẢN KHÁC NHAU
Nước nào cũng có người chuyên môn đánh giầy cho người ta , họ ngồi bên lề đường , chờ đánh giầy cho mình . Mình mới tu hành , còn chưa đạt đến đẳng cấp đánh giầy cho họ , còn hỏi gì , Phật và Trời ai cao hơn ai ? Mỗi ngày cứ biện luận thứ đó , hay là hỏi có Thượng Đế không ? Thượng Đế có phải cao hơn Phật ? Hay là Phật cao hơn Thượng Đế ? Hỏi thứ câu hỏi đó thật uổng thời giờ ;) , cho nên đôi khi Sư Phụ nghe thấy mệt , vì hỏi quá nhiều tên .
Có người đến hỏi Sư Phụ : "Lão Tử có phải tốt hơn Phật ?" Hỏi quá nhiều tên , quá nhiều tôn giáo , Sư Phụ mệt chết , vì họ không hiểu được Kinh Đạo Đức của Lão Tử , cho nên mới hỏi thứ câu hỏi đó . Thượng Đế cao hay là Phật cao có nhằm nhò gì đến mình ? Sư Phụ bây giờ không cần lo gì đến Phật hay là Thượng Đế , không lo đến cả hai , ai cao ai thấp họ phải so với nhau , chuyện đó hỏi Sư Phụ làm chi ? Có hiểu không ? Nếu như Phật muốn đánh giặc hay là so sánh với Thượng Đế , đó cũng là chuyện của họ , không có liên hệ gì đến Sư Phụ , đối với quý vị cũng không có liên hệ gì , hỏi thứ câu hỏi đó sẽ để cho các thiền sư cầm ghế , cầm gậy mà ném mình .
Nhưng chỗ tu hành của Sư Phụ không có hương bảng , nhưng Sư Phụ sẽ cầm những thứ khác , Sư Phụ có trái cây rất nhiều (mọi người cười), không cần đợi cho quý vị hỏi hết câu , Sư Phụ sẽ ném quả trước , như vậy nghiệp chướng mới "tiêu hóa" được mau một chút . Nơi đây Sư Phụ không ném trái cây , vì đây không phải là đạo tràng của Sư Phụ , Sư Phụ sẽ ném , nhưng mà người bị ném trúng rất vui mừng , họ thích ăn trái cây của Sư Phụ .
Bây giờ quý vị đều nên biết , những pháp môn tầm thường đều vẫn còn là hạng A B C được dùng cho lúc mới tu . Cho nên trong Kinh Lăng Nghiêm , Phật Thích Ca Mâu Ni tán thán Pháp Môn Quán Âm là pháp môn tối cao , điều đó không có sai , Sư Phụ có tu qua , cho nên biết được , ngoại trừ những người học trò đầu óc cứng đặc biệt , không tu hành cũng không thường đến cộng tu . Sư Phụ không thể dùng ghế mở trí huệ cho họ , cho nên khai ngộ nhỏ (mọi người cười), chỉ khai ngộ có chút xíu , rất có thể lại khép trở lại , cho nên mới mệt . Nếu những ai thật lòng cố gắng tu hành , họ đều biết Pháp Môn Quán Âm là pháp môn tối cao , tối cứu cánh .
Bây giờ muốn hỏi gì thì hỏi , nhưng đừng có hỏi Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc làm gì ? (mọi người cười). Cho đến ngày nay vẫn còn có nhiều người tham công án này , Sư Phụ không hiểu tham như vậy có ý nghĩa gì , nhưng có nhiều vị thiền sư còn dạy thứ này , đó là uổng phí thời giờ , nếu như bây giờ Bồ Đề Đạt Ma tái sanh , trở ra dạy mình , lúc đó hỏi mới thật sự có ích dụng .
Nhưng mà mình có thể hỏi như : "Bồ Đề Đạt Ma hiện giờ ở đâu ? Tôi muốn biết Ngài ." Tìm được vị Bồ Đề Đạt Ma tại thế mới là công án tốt nhất , không nên vì một vị đã qua đời một hai ngàn năm trước , lại không có liên quan gì đến mình , mà nghĩ suy nát óc .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM : ÂM THANH BÊN TRONG
PHÁP MÔN QUÁN ÂM :
ÂM THANH BÊN TRONG
Thuyết Pháp Tại Đài Bắc
Ngày 16 tháng 4 năm 1987
Giảng kinh cũng giống như viết văn , viết thơ vậy ; có lúc không muốn gì hết , có lúc lại có cảm hứng rất nhiều , nửa đêm cũng có thể sáng tác được những bài văn và những câu thơ hay .
Nhưng trường hợp của tiên sinh Lý Bạch thì hơi đặc biệt . Nghe nói ông ta uống rượu cho tới say mèm mới viết ra những câu thơ hay . Tại sao vậy ? Đa số người cho rằng lúc Lý Bạch say sẽ quên mất ngã chấp , quên mất hổ thẹn , quên mất phiền não , nên lúc đó những gì bộc lộ ra đều là thơ chân thuần .
Sự thật hình như không phải như vậy . Thi sĩ uống rượu thường vì họ cảm thấy thất vọng với xã hội này , không có tri kỷ , nên mượn rượu để tạm an ủi lấy mình , tạm quên đi thế tục khổ não này . Nếu như quý vị đi hỏi những thi sĩ khác , họ sẽ nói : "Lúc đầu óc minh mẫn mới có thể làm thơ và viết ra rất tự nhiên ."
Sư Phụ giảng kinh cũng rất tự nhiên . Nếu như ngày hôm qua Sư Phụ chuẩn bị nội dung cho buổi giảng kinh hôm nay , bây giờ nói ra hình như sẽ không hay . Giảng tự nhiên là tốt nhất , chuẩn bị trước thì không được tốt lắm . Có sự chuẩn bị tức là có dùng đầu óc phàm phu của mình để suy nghĩ . Cho nên quý vị ít khi nào thấy Sư Phụ cầm kinh điển . Theo kinh điển chuẩn bị trước rồi giảng sẽ biến thành một kỹ thuật của nhân loại , không phải là giảng kinh Phật .
Sư Phụ không mấy thích cầm kinh điển để giảng , nhưng Sư Phụ thường dẫn chứng từ kinh điển để so sánh , vì muốn cho người ta tham khảo kiểm chứng , và mới dễ tiếp nhận giáo lý của Sư Phụ . Chúng sanh hay chấp nhất , họ quen với kinh điển lâu lắm rồi , nếu Sư Phụ không dẫn chứng nội dung từ trong kinh điển , họ khó mà chấp nhận được . Trên thực tế Sư Phụ không dùng kinh điển để giảng cũng được , những gì Sư Phụ nói đều hoàn toàn y như giáo lý của các chân sư thời xưa .
Hôm nay Sư Phụ nói về "Âm Thanh". Trong Thánh Kinh , "Âm Thanh" tức là Thượng Đế . Trên Thánh Kinh nói : "In the beginning was the Word (sound). The Word was with God , and the Word was God . Everything was made by this and nothing was not made by this ." Nghĩa là gì ?
"Bắt đầu có vũ trụ đã có Âm Thanh , có "Word" . Âm Thanh ở cùng với Thượng Đế , Âm Thanh là Thượng Đế , vạn vật trong vũ trụ đều từ âm thanh mà sanh ra ." Ý của đoạn văn này là : "Âm Thanh tức là Thượng Đế ."
Trong Thánh Kinh còn nói , trong ta có Thượng Đế , có Thiên Quốc . Phật Thích Ca Mâu Ni cũng nói , mình có Phật Tánh ở bên trong , tất cả chúng ta đều có Phật Tánh . "Tánh" là chỉ phẩm chất , tất cả chúng sanh đều có phẩm chất thành Phật , nhưng chỉ làm người mới có cơ hội thành Phật . Những chúng sanh khác , thí dụ , có người hỏi Hòa Thượng Triệu Châu : "Chó có Phật Tánh hay không ? Ngài Triệu Châu đáp : "Không". Không phải chó không có Phật Tánh , Ngài trả lời "không", không có nghĩa là không có . Ngài trả lời như không trả lời vậy . Bởi vì họ là thiền sư , câu trả lời rất kỳ lạ , trả lời "không" không có nghĩa là chó không có Phật Tánh .
Giả sử chó có Phật Tánh , chó tu hành có thể tu hành một đời thành Phật hay không ? Nếu như thành Phật thì sẽ thành Phật gì ? Thành Phật Chó (Mọi người cười). Hiển nhiên là không phải . Nhìn hình dáng của Phật đều giống như chúng ta , cho nên chỉ có con người mới có thể thành Phật . Chưa từng nghe hoặc thấy Phật chó . Chó tuy có Phật Tánh , nhưng không thể tu một đời thành Phật . Nếu như muốn tu hành thành Phật , phải thành người trước , thành người rồi mới có thể tu lên thành Phật .
Vì sao chỉ người mới có thể tu thành Phật ? Điều này cũng như hỏi tại sao ban ngày lại có mặt trời , ban đêm lại có mặt trăng vậy . Không có tại sao . Vốn tự nhiên như vậy là như vậy . Cho nên muốn thành Phật , cần phải làm người trước .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM : ÂM THANH BÊN TRONG
Âm thanh này Thiên Chúa Giáo gọi là Thượng Đế . Nếu như âm thanh này ở bên trong ta , có phải ý nói "Thượng Đế cùng ở chung với mình không ?" Nếu Thượng Đế ở chung với ta , thì ta cũng gần như đẳng cấp của Thượng Đế rồi . Giả sử Thượng Đế ở bên trong mình , thực hiện điều khiển tất cả hành động của chúng ta , như vậy phải chăng chúng ta là Thượng Đế ? Âm thanh này trong kinh điển Phật Giáo gọi là Phật Tánh , ngoài ra không còn Phật Tánh nào khác .
Vì sao âm thanh này là Phật Tánh ? Phật Tánh là gì vậy ? Nếu như cho rằng có Thượng Đế , thì Thượng Đế nghĩa là gì ? Thượng Đế là đẳng cấp tối cao , là lý tưởng tối cao . Ngài tượng trưng cho một tư tưởng hay một quan niệm tối cao , cho nên Thượng Đế có thể tạo ra vạn vật , Phật Giáo gọi là " Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác" hay là Phật Tánh . Nếu Thượng Đế nghĩa là vậy , thì Âm Thanh cũng thế . Âm Thanh tức là Thượng Đế , cũng là Phật Tánh , và tất cả mọi vật đều từ Âm Thanh mà ra .
Về điểm này bất cứ kinh điển Phật Giáo hay Thánh Kinh đều có nói đến . Tu Pháp Môn Quán Âm rồi sẽ hiểu . Tu Pháp Môn Quán Âm càng nhiều , hiểu biết được càng sâu . Tuy mình chỉ nghe âm thanh , nhưng sau khi tu một thời gian sẽ biết tất cả , muốn biến hóa cái gì cũng được . Lúc mình tọa thiền , sẽ thấy hóa thân Sư Phụ đi đây đi đó , đến bệnh viện thăm quý vị , đến nhà quý vị dạy quý vị những gì đó , dẫn quý vị đi thăm thiên đường , viếng địa ngục .
Tất cả đều là hóa thân của Sư Phụ , vì sao ? Vì Sư Phụ tu Pháp Môn Quán Âm nên biết rằng tất cả mọi vật đều từ Âm Thanh sanh ra . Sư Phụ cũng là Âm Thanh này , có hiểu không ?
Xác thân này (Sư Phụ tự chỉ mình) chỉ là xác thịt mà thôi , không phải là Sư Phụ . Đây chỉ là y phục Sư Phụ mặc . Sư Phụ rất nhiều y phục . Thí dụ hiện giờ giảng kinh nơi công cộng , theo lễ phép , Sư Phụ mặc áo thanh hải . Nếu như đi trên đường , Sư Phụ lại mặc y phục khác . Tất cả đều là y phục của Sư Phụ mà thôi . Hôm nay Sư Phụ mặc áo vàng , hôm qua màu càfê đậm . Không phải Sư Phụ biến đổi , chỉ có y phục khác nhau mà thôi .
Xác thân này cũng như vậy , nó không phải là Sư Phụ . Sư Phụ là Âm Thanh . Xác thịt chỉ là lớp y phục Sư Phụ mặc mà thôi . Mang bộ áo xác thịt này cho người ta thấy được . Nếu như Sư Phụ chỉ là Âm Thanh thì quý vị làm sao rờ được ? Sư Phụ làm sao giao thiệp với quý vị ?
Bên trong của quý vị cũng có âm thanh này , nhưng nó còn chưa phát hiện , chưa được mở ra , chưa được phát triển . Xác thịt của quý vị cũng là y phục của Âm Thanh , y phục của một thứ lực lượng mà mình gọi là Thượng Đế . Nếu không gọi là Thượng Đế mà xưng là Phật Tánh , thì xác thân này là y phục của Phật Tánh , có hiểu không ?
Âm Thanh hay Phật Tánh vĩnh viễn tồn tại . Bất cứ mình làm gì , làm người , làm chó , làm voi , làm rồng , làm ngựa , làm sư tử , làm cọp ... âm thanh đó vĩnh viễn ở bên trong mình . Hễ mình mặc y phục con người là có thể dùng Âm Thanh này , Phật Tánh này . Lúc mình mặc y phục cọp hay những loài động vật khác , thì không thể dùng Âm Thanh này được . Hiểu ý Sư Phụ chưa ?
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM : ÂM THANH BÊN TRONG
Âm Thanh là lực lượng này bao hàm vạn vật trong vũ trụ , có thể biến thành thân thể này , và đương nhiên cũng có thể biến thành những thân thể khác . Cho nên đôi khi quý vị mới thấy Sư Phụ là Quán Âm Bồ Tát , Địa Tạng Vương Bồ Tát , Phật Thích Ca Mâu Ni ... Thật ra tất cả đều là một , đều từ Âm Thanh , từ lực lượng của Thượng Đế , từ Phật lực , Phật Tánh , từ vị Thầy lớn nhất hóa ra . Vũ trụ vạn vật đều từ vị Thầy đó mà ra , thành xác thịt này , thành hóa thân , thành thân thể của trăm ngàn ức hóa thân , thành Quán Thế Âm Bồ Tát , Địa Tạng Vương Bồ Tát , hay Thập Phương Tam Thế Phật Bồ Tát .
Phật A Di Đà là Vô Lượng Quang , Ngài cũng từ Âm Thanh mà ra . Nhưng khi quý vị đọc Kinh A Di Đà , không hiểu được thậm thâm vi diệu pháp của Kinh , cho nên Phật A Di Đà mà quý vị hiểu , rất có thể , khác với những gì Sư Phụ giảng .
Nếu như Phật Thích Ca Mâu Ni nói có một người tu thành Phật A Di Đà , tại sao Sư Phụ lại nói : "Phật A Di Đà cũng từ âm thanh đó sanh ra ?" Bởi vì ánh sáng cũng là âm thanh , nhưng vi tế hơn một chút . Âm thanh là ánh sáng hơi thô một chút . Hai thứ đều là chấn động lực .
Cho nên nói Phật A Di Đà là Âm Thanh không có sai . Tu hành Pháp Môn Quán Âm nhiều rồi tự nhiên sẽ biết .
Âm Thanh này cũng không phải là âm thanh , nó là một thứ ánh sáng , một thứ ánh sáng có âm thanh ; hay có thể nói nó là một thứ hào quang êm dịu . Cũng có thể nói đó là âm thanh rất đẹp mắt , vì có ánh sáng , lại có âm thanh . Cho nên nói "quán âm" chứ không phải "nghe âm". Không thể dùng tai nghe nó được , bởi vì âm thanh này cũng không phải là âm thanh . Rất có thể lúc khởi đầu mình dùng tai nghe , nhưng không phải vì có tai nên mới nghe được . Phải nhờ Sư Phụ truyền pháp mới có thể nghe được . Từ mắt trí huệ "quan âm". Dùng trí huệ quán sẽ biến thành một khối ánh sáng vừa rực rỡ vừa nghe được , rất ảo diệu . Điều này Sư Phụ không biết phải dùng ngôn ngữ gì để diễn tả . Sư Phụ đã cố gắng hết sức mới có thể diễn tả được bấy nhiêu , không biết quý vị có hiểu không ?
Nhưng dùng ngôn ngữ vẫn còn chưa hay , chưa đẹp như sự thật , bởi vì điều này không thể dùng ngôn ngữ diễn tả được . Thí dụ đóa hoa này rất đẹp , rất thơm . Nếu như Sư Phụ dùng ngôn ngữ diễn tả , Sư Phụ nói nó có màu đỏ , lá xanh , có mùi thơm ... nói nửa buổi vẫn không phải là bông hoa đó . Nếu có người chưa từng thấy đóa hoa đó , họ sẽ không tưởng tượng ra được .
Dù là một bông hoa cũng không thể dùng ngôn ngữ diễn tả được huống chi những cảnh giới cao bên trong , là những trạng thái vi tế vô hình , làm sao có thể dùng ngôn ngữ nói ra được . Sư Phụ chỉ tận dụng khả năng nói ra một chút , để quý vị có một khái niệm vì sao mình phải tu âm thanh , âm thanh này đại khái là như thế nào ? Như vậy quý vị mới biết chút ít về Pháp Môn Quán Âm .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM : ÂM THANH BÊN TRONG
Nhưng những gì Sư Phụ nói ra vẫn chưa phải là Chân Lý . Chân Lý không thể dùng ngôn ngữ , bởi vì ngôn ngữ không phải là Chân Lý . Khi mình diễn tả một bông hoa , đó không phải là bông hoa thật . Diễn tả một người , cũng không phải là người đó . Tu Pháp Môn Quán Âm rồi sẽ hiểu rõ tại sao trong Thánh Kinh của Thiên Chúa Giáo nói : "Âm thanh này là Thượng Đế , là Tạo Hóa thật ." Bởi vì vạn vật đều do âm thanh tạo ra và là của âm thanh . Không có âm thanh thì không có vũ trụ . Bản thân của chúng ta tức là âm thanh . Xác thân này không phải là cái ta thật sự , âm thanh này mới chính là bản lai . Không phải âm thanh tạo ra chúng ta , mà chính chúng ta là âm thanh vậy .
Thí dụ có một người , tuy đã làm vua , nhưng quên mất mình là vua . Cho dù có người nhắc : "Ông chính là vua", người đó cũng không tin . Bởi vì người đó quá bận , tin thần gần suy xụp , đến nỗi quên đi mình là ai , và khi gặp khó khăn lại muốn đi xin cầu vua giúp đỡ . Điều này có phải là tức cười không ?
Chúng ta cũng vậy , cả ngày đều chỉ để ý đến những thay đổi của ngoại cảnh , sự chuyển biến của vạn vật , nhìn người này , xem người nọ , ngắm hoa , ngắm nước , rốt cuộc quên mất ta là ai , quên mất tất cả đều là của ta . Toàn vũ trụ do chúng ta tạo ra , đó là một điều vô cùng vi diệu . Nếu chúng ta muốn khám phá ra Bản Lai Diện Mục của mình , thì phải tu Pháp Môn Quán Âm . Còn không , cho dù có đợi trăm ngàn ức năm , cũng không có kết quả .
Cho nên Sư Phụ nói quý vị không cần cầu Phật Bồ Tát , chỉ cần tu Quán Âm là được rồi . Nhưng quý vị đừng có ra ngoài nói lại cho người khác (Mọi người cười). Người đời ưa thích chuyện bên ngoài , không muốn nghe thứ đạo lý này , vì vậy có người không ưa thích Sư Phụ . Chúng sanh còn quá chấp , khư khư ôm giữ những tập quán cổ xưa . Nếu có người đem Phật gỗ đi , họ không còn chỗ để nương tựa , sẽ chịu không nổi (Mọi người cười).
Họ quên mất tự mình có thể đứng rất thẳng mà không cần dựa vào tường . Nếu cứ phải dựa vào tường , lỡ tường sập thì sao ? Có phải sẽ không còn gì để dựa nữa không ? Nếu bảo họ đừng có dựa vào tường , họ sẽ giận lắm , vì không biết làm sao để đứng thẳng . Cũng như một người , từ nhỏ đã quen với một tư thế nào đó , một ngày mình khuyên họ đổi với tư thế khác đẹp mắt hơn , người đó cũng không bằng lòng vì họ đã quen rồi .
Âm thanh bên trong cũng vậy . Sau khi thọ Pháp liền nghe được , tu một thời gian rồi cái gì cũng biết , Phật Bồ Tát sẽ đến gặp chúng ta , viếng thăm chúng ta . Vậy , tại sao mình còn lạy Phật gỗ và cầu họ ?
Chỉ cần mình tu Quán Âm chư Phật sẽ đến . Tu Pháp Môn Quán Âm là cách cầu nguyện tốt nhất . Không cần quỳ , không cần thắp nhang , và không cần lạy , tu Pháp Môn Quán Âm rồi , Chư Phật Bồ Tát đều tới , có phải như vậy không ? (Có người đáp : "Phải".) Quý vị đều thấy , có phải không ? (Có người đáp : "Có cảm giác như vậy".) Không phải chỉ cảm giác thôi (mọi người cười), thấy được thật , người thấy được sao không nói ? (Không dám nói . Sư Phụ nói thể nghiệm không thể nói cho người khác nghe). Không phải , Sư Phụ nói quý vị đừng kể tỉ mỉ , thí dụ "tôi thấy được Phật Bồ Tát nào" chỉ kể sơ qua là có thấy hay không , nói như vậy không có sao .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM : ÂM THANH BÊN TRONG
Tu Pháp Môn Quán Âm sẽ thấy Phật Bồ Tát , không cần đi chùa , Ngài sẽ tự đến chỗ của mình thăm . Không tu Pháp Môn Quán Âm , cho dù có đến chùa cầu nguyện cũng không thấy , chỉ có thể thấy Phật gỗ mà thôi . Tu Pháp Môn Quán Âm rồi , không cần cầu nguyện , Phật Bồ Tát cũng đến thăm mình , như vậy có phải hay hơn không ? Nhưng thấy Phât Bồ Tát cũng chưa có gì , chỉ là khởi đầu mà thôi , vẫn còn trên nửa đường , là phải vượt qua đẳng cấp Phật . Vượt qua không phải là mình cao hơn Phật , mà cần phải vượt qua đẳng cấp Phật có hình tướng , để nhập vào đẳng cấp vô hình tướng , vô âm sắc . Đó mới đúng là ý của Sư Phụ . Sư Phụ không có nói mình tu rồi sẽ cao hơn Phật . Quý vị đừng hiểu lầm như vậy . Sư Phụ rất sợ quý vị nghe không trọn vẹn , chỉ nghe có một hai câu rồi hiểu lầm ý của Sư Phụ .
Vì có hình tướng , nên vẫn còn dáng dấp , và vẫn không phải là Phật . Nhưng khi chúng ta thấy được hạng Phật đó rồi , ít nhất cũng thỏa mãn lòng khát vọng của mình . Mình cứ cầu Phật Bồ Tát giúp đỡ , nếu thấy được Phật Bồ Tát hào quang , sáng rực và các cảnh giới của Ngài , sẽ mừng lắm phải không ? Chúng ta sẽ càng có lòng tin , tiếp tục tu hành cho đến khi vượt qua đẳng cấp âm sắc , vượt qua Phật có hình tướng , hiểu chưa ? Phật chính thật là vô hình vô tướng . Phật chính thật là Phật Tánh , Âm lưu hay là âm thanh . Thượng Đế thật ra là âm thanh , lực lượng của Tạo Hóa hay là năng lực của Tạo Hóa .
Nếu mình là Thượng Đế , có Thượng Đế ở bên trong , vậy sao không bắt lấy Ngài ? Bắt lấy Ngài thì mau hơn . Con chim nằm trong tay ta , hay con chim trong lồng còn tốt hơn 100 con chim bay trên trời , có phải vậy không ? Chúng bay trên trời vẫn chưa phải là của mình , cho dù 100 con chim cũng vô ích . Mình chỉ có một con chim trong tay là an tâm rồi , bởi vì nó sẽ không bay mất .
Cũng vậy , bên trong của chúng ta đã có Phật Tánh , sao không giữ lấy Phật Tánh này và hỏi : "Người là ai ? Người ở đâu ?" Sao còn phải cầu bên ngoài , phải đi chùa , phải lạy Phật gỗ ? Những thứ đó đều không phải là Phật Tánh , không phải là Thượng Đế .
Trong Thánh Kinh có nói : "Thiên Quốc ở trong ta". Kinh Phật nói : "Phật tại tâm". Nếu vậy tại sao không bắt lấy , tối thiểu cũng nên giữ gìn , đừng để Phật trong tâm của mình chạy mất , đứng đó chờ vị này ra rồi đảnh lễ (Chỉ Sư Phụ).
Trên thực tế , không phải Sư Phụ bảo quý vị đừng lạy Phật . Ý của Sư Phụ là : "Quý vị đừng có lạy Phật gỗ , đừng có lạy Phật giả". Sư Phụ bảo quý vị lạy Phật thật , lạy Phật gần gũi nhất , lạy Phật biết nói chuyện . Phật gỗ không thể nói chuyện , Phật đá cũng không thể liên lạc với mình , không thể giải quyết vấn đề của mình . Nhưng tu Pháp Môn Quán Âm , Phật bên trong sẽ xuất hiện , đến gặp mình , dẫn mình đi coi Tây Phương , coi Đông Phương , Bắc Phương , Nam Phương , sẽ trả lời câu hỏi của mình , giúp về phương diện tu hành của mình .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM : ÂM THANH BÊN TRONG
Khi chưa gặp được Phật bên trong , thì theo Sư Phụ học cũng không sao . Ít nhất Sư Phụ cũng trả lời vấn đề của quý vị , nói chuyện với quý vị , uống trà với quý vị ; khi quý vị có phiền não , có thể đến khóc để Sư Phụ la , tiêu đi nghiệp chướng của quý vị , sau đó sẽ hết chuyện .
Nhưng nếu như quý vị đến khóc lóc kể lể với Phật gỗ , Phật gỗ vẫn ngồi im lặng , không nhúc nhích , và mắt nhắm lại . Quý vị có thấy Phật gỗ đến an ủi người nào chưa ? Nếu như Phật gỗ có thể chạy xuống la mình một chút , mình cũng rất vui , vì bị la có thể tiêu nghiệp chướng . Nhưng Phật gỗ cũng không la . Mọi người vẫn đem bánh cho Phật gỗ ăn , không có ích gì hết . Thật ra cúng dường bánh trái là gạt người . Lạy xong rồi đều đem về ăn (Mọi người cười). Nhưng họ lại cho rằng như vậy là đã cúng dường Phật rồi .
Sư Phụ vốn không muốn nói những chuyện này , vì nhiều người không thích nghe , sẽ bỏ đi . Sư Phụ đã tự nhủ rằng sau này không nói chuyện "đừng có lạy Phật" nữa . Sư Phụ đã ngoan ngoãn rồi , cũng có tiến bộ một chút rồi . Nhưng có lúc vẫn quên mà nói ra , vì Sư Phụ không biết gạt người , không biết làm ăn (Mọi người cười). Giả thì nói giả , cho nên nhiều người không muốn mua . Như vậy cũng tốt , tối thiểu quý vị làm ăn với Sư Phụ không bị mua lầm đồ giả . Sư Phụ không biết bán Phật giả , cho nên những gì quý vị mua về đều là Phật thật .
Theo Sư Phụ tu đều là thật . Hoa cũng hoa thật , bánh cũng bánh thật , kinh cũng là chân kinh , Phật cũng là Phật thật , Sư Phụ cũng Sư Phụ thật , không phải Sư Phụ làm bằng cao su (Mọi người cười). Tại sao nói là Sư Phụ thật ? Bởi vì , ngoài sự dẫn dắt quý vị thật sự liễu thoát , Sư Phụ còn biết làm rất nhiều thứ : biết cất nhà , xây nhà tắm , may áo quần , nấu cơm , quét dọn , biết làm nhiều chuyện lặt vặt , biết rầy la , cũng biết an ủi người , và biết dạy người lạy Phật . Khi quý vị hỏi , Sư Phụ cũng biết trả lời , cho nên là Sư Phụ thật 100% (Mọi người cười). Quý vị làm ăn với Sư Phụ sẽ thấy an toàn , không bị lỗ vốn (Mọi người cười).
Bất cứ quý vị mua ít hay nhiều , lớn hay nhỏ đều là thật . Sư Phụ rất ghét đồ vật giả . Hoa cao su , hoa giả , Sư Phụ đều không thích . Hoặc là đừng có hoa , hoặc phải là hoa thật ; luôn cả y phục , Sư Phụ cũng không thích chất tơ nhân tạo , mà thích vải dệt bằng bông gòn với phẩm chất chân thật tự nhiên . Bây giờ Sư Phụ đang mặc bộ áo này là người khác mua cho . Từ hồi nào tới giờ Sư Phụ có gì mặc nấy . Nếu phải tự mua , Sư Phụ sẽ lựa đồ vật thật , dù là đồ dùng vật chất , Sư Phụ cũng muốn càng thật càng tốt . Ý của Sư Phụ không nói nên mua đồ mắc tiền , mà là ưa thích dùng phẩm chất tự nhiên .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM : ÂM THANH BÊN TRONG
Thí dụ Sư Phụ thích đồ gốm . Trước kia chưa có đồ dùng bằng nhựa (cao su), mọi người đều dùng đồ gốm . Sư Phụ cũng thích sống theo phương thức cổ xưa , cho nên ở trên núi , Sư Phụ đều khuyến khích đệ tử dùng gỗ nấu cơm , trừ trường hợp đặc biệt mới dùng gas . Thí dụ ngày Chủ Nhật hay trong kỳ Thiền Tam , Thiền Thất , số người tham gia đông đảo , vì sự tiện lợi nên mới xài một chút gas , còn không đều dùng phương thức xưa để nấu cơm . Những sản phẩm từ đất hay gỗ làm ra dễ nhìn , rờ cũng thấy dễ chịu , không giống như đồ cao su , cho nên cảm thấy rất tự nhiên và chân thật .
Chúng ta vốn thuộc về thiên nhiên , từ kim , mộc , thủy , hỏa , thổ mà ra ; cho nên sống chung với kim , mộc , thủy , hỏa , thổ thấy dễ chịu hơn , không có cảm giác gì nghịch lại môi trường sinh sống của mình , có hiểu ý không ?
Giống như vậy , nếu muốn lạy Phật , Sư Phụ cũng thích lạy Phật thật . Xưa kia , lúc còn chưa tìm ra Phật thật , cũng lạy Phật giả . Nhưng hồi đó Sư Phụ cảm thấy rất xa lạ với Phật gỗ . Hồi đó không có người dạy Sư Phụ cái gì là thật , cái gì là giả . Mỗi lần lạy Phật gỗ xong rồi , Sư Phụ ngước nhìn Phật gỗ , Phật gỗ cũng cứ nhìn Sư Phụ (Mọi người cười). Nhìn qua nhìn lại như vậy , không thay đổi (mọi người cười), không nhúc nhích . Cho dù Sư Phụ khóc sướt mướt , Phật cũng không phản ứng gì (Mọi người cười). Sư Phụ cầu nguyện mấy tiếng đồng hồ , nói hết tâm ý mình cho Phật nghe , rốt cuộc Phật cũng vẫn trơ trơ ra (Mọi người cười). Mỗi ngày cũng vẫn hình dáng đó .
Có một ngày Sư Phụ cảm thấy rất mệt mỏi và thất vọng , nên không cầu nguyện cũng không tụng kinh , chỉ ngồi đó ngó Phật . Phật vẫn bình thản , không phản ứng , vẫn là khúc gỗ vô tình vô nghĩa . Lúc đó Sư Phụ cảm thấy cầu đầu gối của Sư Phụ còn hơn (Mọi người cười). Ít nhất cũng có cảm giác gần gũi hơn , còn có thể rờ mó được . Vị thầy mà Sư Phụ quy y bảo rằng "Không được rờ Phật gỗ , phải lạy xuống". Khi đó Sư Phụ còn chưa có pháp danh , cũng chưa tu Pháp Môn Quán Âm , nhưng đã cảm thấy là không đúng rồi , cho nên Sư Phụ quyết định bỏ minh sư gỗ , đi tìm minh sư thật , tìm một minh sư tại thế . Cuối cùng Sư Phụ đã tìm được .
Nếu có người thành tâm thành ý tu hành , nhất định sẽ tìm được Đạo . Nếu như mình chỉ hiếu kỳ hay là có lòng tu , nhưng không hiểu tu hành là gì . Coi người ta làm sao , mình làm theo vậy . Nghe nói phải tọa thiền , mình cũng tọa thiền theo . Tình trạng như thế không biết chừng sẽ không tìm được chân sư . Nhưng nếu mình quyết tâm muốn tu hành , muốn liễu thoát sanh tử , thì sớm muộn gì nhất định sẽ tìm được .
Mình có thân xác này là để tu hành chứ không phải để mỗi ngày ăn cơm , ngủ , làm việc , nuôi con . Sống một đời như vậy không có ý nghĩa gì hết , ngoảnh đi ngó lại thì đã đến giờ phải lìa đời . Nếu không biết sanh làm người là để tu hành thì thật quá uổng . Nhưng chuyện như ăn cơm , ngủ , nghỉ , làm việc , nuôi con , loài vật cũng biết làm . Nếu như chúng ta chỉ biết những việc này , có phải cuộc sống cũng như loài vật không ? Giả sử đã được làm người nhưng vẫn còn như loài vật , thì cần gì phải sanh ra làm người ? Chúng ta thường nghe nói : "Con người cao quý hơn các chúng sanh khác , nhưng nếu giống như chúng thì có điểm gì cao quý hơn đâu ?"
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM : ÂM THANH BÊN TRONG
Con người cao quý vì có thể tu hành , có thể thành Phật , có thể tìm được Phật Tánh , tìm được Thượng Đế bên trong , thấy được Thiên Quốc bên trong của mình . Như vậy mới nói con người là cao quý nhất . Bên trong con người có Thiên Quốc , có Phật , cho nên mới cao quý . Nhưng nếu tìm không được Thiên Quốc đó , cũng không cao quý chi và cũng không khác gì với loài vật : mỗi ngày ăn cơm , ngủ , và nghỉ , nuôi con , cả một đời như vậy , uổng phí cuộc sống 100 năm tại thế .
Hôm qua Sư Phụ nói , người có phước báu nhiều mới có thể tu Pháp Môn Quán Âm , mới có thể thọ pháp . Vì sao vậy ? Bởi vì đa số đều nương vào Phật bên ngoài , họ không thích đạo lý của Sư Phụ . Họ không bỏ Phật bên ngoài được , không hiểu Phật tức là mình , mình cũng có thể như Phật Thích Ca Mâu Ni , tu thành Phật . Họ tưởng rằng Phật Thích Ca Mâu Ni là vị Phật duy nhất , có một không hai . Như vậy là ngược với giáo lý nhà Phật . Phật nói : "Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật". Tu hành có thể một đời thành Phật , nhưng phải tu Pháp Môn Quán Âm mới đạt tới đại khai ngộ , mới có đẳng cấp của Tạo Hóa , hợp nhất Thượng Đế , thành đẳng cấp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề .
Pháp Môn Quán Âm không phải tầm thường . Xưa kia Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không truyền pháp môn này cho bất cứ đệ tử nào . Trong Kinh Lăng Nghiêm cho biết , lúc đó A Nan cũng chưa biết Pháp Môn Quán Âm là gì ? A Nan theo hầu Phật Thích Ca Mâu Ni lâu lắm rồi , lúc đó lại là thời chánh pháp , nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni cũng chưa truyền Pháp Môn Quán Âm cho A Nan , chỉ truyền một số phương pháp thiền định thông thường và giới tỳ kheo , giới Bồ Tát ... và A Nan vẫn là một tỳ kheo tầm thường , chưa có đại khai ngộ , bị nữ chúng hấp dẫn , xém tí nữa thì phá giới . Nếu không nhờ Phật Thích Ca Mâu Ni phóng hào quang tiếp cứu , Ngài đã bị Ma Đăng Già Nữ kéo đi kết hôn , biến thành Ưu Bà Tắc rồi . Quý vị nên biết , Pháp Môn Quán Âm không phải là pháp môn thường , dù là đệ tử thân cận , Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không có truyền cho .
Khi Sư Phụ ở Bành Hồ , cũng không muốn truyền pháp cho người khác . Sư Phụ đã khôn rồi , biết khóa tâm lại , chờ họ học xong , rồi thành tâm thành ý đến cầu pháp mới truyền . Hiện giờ Sư Phụ không truyền pháp một cách dễ dàng . Chúng sanh không biết quý pháp môn vạn kiếp khó cầu này .
Lúc A Nan bị nạn , Phật Thích Ca mới nói Kinh Lăng Nghiêm , giảng về lợi ích của việc tu Pháp Môn Quán Âm ; còn trước đó , Ngài không hề đề cập tới Pháp Môn Quán Âm . Cuối cùng , khi Ngài giảng Kinh Pháp Hoa , mới chánh thức giới thiệu Pháp Môn Quán Âm .
Trong Kinh Pháp Hoa , Phật Thích Ca Mâu Ni nói : "Pháp môn này cũng như châu báu tốt nhất , cao nhất , để đến cuối cùng mới cho những người đó đại phước". Nổi danh như Phật Thích Ca Mâu Ni , đã thành Phật , mà lúc Ngài giảng Pháp Môn Quán Âm , cũng có năm ngàn người rời khỏi pháp hội của Ngài . Họ không tin một pháp môn mà họ chưa từng biết đến , nên không nghe giảng , và không thích học Pháp Môn Quán Âm .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM : ÂM THANH BÊN TRONG
Vì sao Pháp Môn Quán Âm hữu hiệu như thế ? Quan trọng như thế ? Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ , đức Phật có kể có một vị Quốc Vương tên là Tần Bà Ta La bị con nhốt trong ngục , không cho người đem đồ ăn vì muốn để cho chết đói . Nhưng mẹ của hoàng tử là hoàng hậu Vi Đề Hy , lén đem đồ ăn cho Quốc Vương . Vị hoàng tử phát giác được nên tức giận lắm , muốn giết hoàng hậu . Nhưng có hai vị công thần khuyên cản , không cho hoàng tử giết . Sau cùng hoàng tử mới nhốt hoàng hậu vào cung lạnh . Lúc đó hoàng hậu khóc lóc rất thảm thương , hướng về núi Kỳ Xà Quật cầu Phật Thích Ca Mâu Ni . Phật Thích Ca Mâu Ni liền phái hai vị đề tử là A Nan và Mục Kiều Liên bay vào tù ngục giảng kinh an ủi bà .
Bây giờ chúng ta thảo luận một chút về chuyện bay này . Không biết Mục Kiều Liên và A Nan dùng xác thân bay hay dùng hóa thân bay , trong kinh điển không nói rõ . Mình tu Pháp Môn Quán Âm rồi cũng có thể dùng thân thể bay đến chỗ khác , nhưng người khác không thấy được . Bất cứ dùng phương pháp tàng hình hay dùng hóa thân bay đi để dạy để tử , những chuyện này rất dễ . Không phải Phật Thích Ca Mâu Ni lúc còn tại thế mới có thể làm , bây giờ cũng có người có thể làm như vậy . Có người thấy Sư Phụ xuất hiện rất nhiều nơi , mà trên thực tế , thân thể của Sư Phụ vẫn còn ở đây .
Mục Kiều Liên có thần thông rất lớn ; A Nan cũng vậy . Dùng thân thể bay vào ngục là điều hai người có thể làm được . Người tu hành có thể làm rất nhiều việc . Thời xưa giao thông không tiện , nên họ dùng linh thể phi hành . Lợi dụng thân thể thứ hai của họ bay , như vậy sẽ lẹ hơn .
Hai người này đều rất lợi hại , bản lãnh cao , nhưng lúc đó cả hai chưa tu Pháp Môn Quán Âm . Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật giảng sớm hơn Kinh Lăng Nghiêm , Kinh Pháp Hoa . Kinh Pháp Hoa cuối cùng mới giảng , cho nên mình biết là lúc đó A Nan chưa học Pháp Môn Quán Âm . Tuy vậy Ngài cũng có thần thông phi hành . Dù có thần thông lớn như vậy , vẫn bị đàn bà kéo đi , vẫn còn chưa khai ngộ , có thần thông chưa chắc là giỏi . Phật Thích Ca Mâu Ni nói không tu Pháp Môn Quán Âm vẫn không có ích lợi tối cao là vì thế .
A Nan và Mục Kiều Liên thì như vậy , còn chúng ta thì sao ? Một chút thần thông cũng không có , lại không ở chung với Phật . Còn A Nan mỗi ngày sống chung với Phật , nghe giảng nhiều nhất , nhưng Ngài cũng phải tu Pháp Môn Quán Âm rồi mới có thể hợp với Ma Ha Ca Diếp kết tập kinh điển , nếu không Ma Ha Ca Diếp sẽ đuổi A Nan đi không chút khách sáo .
Sự lợi hại của Pháp Môn Quán Âm là ở đó , chỉ tu Pháp Môn Quán Âm mới có thể thành tựu . Cả ngày sống chung với Phật , nhận sức gia trì của Phật , nghe Phật giảng kinh , vẫn chưa đủ phước báu . Cần phải tu Pháp Môn Quán Âm mới thật sự có công đức lớn , và có thể thành đạo . Không phải mỗi ngày ở chung với Phật là thành đạo , hay kiềm chế được mình , tịnh hóa được mình . Sống chung với Phật chưa đủ , tuy cũng có phước báu , nhưng chỉ là mượn phước báu của người khác mà thôi , có hiểu không ?
Hàng ngày sống chung với một vị sư phụ đắc đạo , đương nhiên mình sẽ được ảnh hưởng một chút từ bầu không khí quang minh thanh tịnh . Nhưng đó là mượn của sư phụ , không phải là của chính mình . Cho nên vẫn phải Tu Pháp Môn Quán Âm mới có thể thành Phật .
Sư Phụ muốn quý vị thành Phật , muốn quý vị trở nên như Sư Phụ vậy , không phải đời đời kiếp kiếp làm đệ tử của Sư Phụ , cắm bông cho Sư Phụ xem , đảnh lễ Sư Phụ , cúng dường Sư Phụ , chà giầy cho Sư Phụ . Đó không phải là điều ước mong của Sư Phụ .
Tất cả quý vị đều phải biến thành như Sư Phụ mới đúng .
-
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ LIỄU THOÁT SINH TỬ
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ
LIỄU THOÁT SINH TỬ
Thuyết Pháp Tại Bành Hồ
Ngày 11 tháng 2 năm 1987
Hôm nay Sư Phụ rất hân hạnh có cơ hội gặp mọi người , không biết quý vị thích nghe những gì ? Thích để Sư Phụ tùy ý giảng kinh hay thích nghe Kinh Kim Cang ? Kinh Kim Cang nổi tiếng nhất ở Đài Loan .
Sư Phụ xưng là Sư Phụ không phải vì kêu ngạo , tự cho mình là Sư Phụ của quý vị , không phải ý đó . Sư Phụ dùng hai chữ 'Sư Phụ' bởi vì không muốn dùng cái 'ta' phàm phu để giảng kinh cho quý vị . Sư Phụ không phải là 'ta'. Mình không thể dùng phàm phu để đo lường 'Sư Phụ' thật . Mỗi người đều có Sư Phụ ở bên trong , nhưng mình lại không biết điều này . Vị Sư Phụ này có thể gọi là Phật , Bồ Tát hay Thánh Nhân , Đại Sư , Đại Thiện Trí Thức ..., xưng gì cũng được .
Cho nên Sư Phụ nói 'Sư Phụ' là muốn dùng đại trí huệ này nói cho đại trí huệ của quý vị nghe , không phải dùng cái 'ta' phàm phu này giảng cho cái 'ta' phàm phu của quý vị . Chúng ta mỗi ngày nghe rất nhiều cái phàm phu 'ta' ở chung với nhau , nói những chuyện lung tung vô ích . Sư Phụ dùng 'Sư Phụ' giảng kinh là tôn trọng quý vị , không phải có ý muốn làm Sư Phụ của quý vị .
Sư Phụ mặc y phục của người xuất gia , một vị xuất gia của Phật Giáo , nên nói chuyện về Phật Giáo . Điều này không có nghĩa là có sự phân biệt tôn giáo , phân biệt Phật Giáo , Thiên Chúa Giáo ... 'Đạo' vốn là một , nhưng vì đẳng cấp của chúng sanh không giống nhau , nên Phật Bồ Tát phải dùng phương pháp , phương tiện khác nhau để độ chúng sanh . Hôm nay chúng ta tạm thời không nói nhiều về chuyện này .
Bây giờ chúng ta nói về Phật Giáo , Sư Phụ cần phải nói , bởi vì biết đâu ở đây đã có người khai ngộ . Người khai ngộ sẽ hiểu Phật Giáo , Thiên Chúa Giáo , Lão Giáo ... vốn như nhau , cùng một mục đích , và rất có thể cũng cùng dạy một pháp môn . Nhưng nếu có người chưa khai ngộ , sẽ cho rằng có rất nhiều con đường khác nhau . Con đường có giống nhau hay không , cứ tu đi sau này sẽ rõ .
Người thật sự tu hành , thật sự cầu đạo , theo bất cứ tôn giáo nào , đều có mục đích muốn liễu thoát sanh tử , siêu thoát Tam Giới . Làm sao mới có thể liễu thoát Tam Giới ? Đây mới là quan trọng . Chúng ta đừng có quan tâm đến tôn giáo nào tốt , tôn giáo nào không tốt , đó chỉ là chuyện nhỏ , chỉ nên biết 'Đạo' này , 'con đường' này mà thôi .
'Đạo' vốn đã vĩnh viễn tồn tại , không phải khi mình tu mới tìm được 'Đạo', hay phát triển 'Đạo'. 'Đạo' là 'Phật Tánh', mình vốn đã có rồi , chỉ cần mở cánh cửa ra là chúng ta có thể thấy được . Cũng như mặt trời , mặt trăng , vốn đã có sẵn ở ngoài , nhưng vì đóng cửa , nên không thấy ; nếu mở cửa thì trông thấy ngay . Chúng ta biết được cánh cửa ở đâu có thể tự mở lấy . Nhưng nếu không biết thì nên đi tìm người nào biết , người đó sẽ mở giùm , hay chỉ cho ta cách mở , hoặc cho biết cửa ở đâu , phải mở bằng cách nào để có thể thấy ánh mặt trời , mặt trăng . Điều này Thiền Tông gọi là 'Đốn Ngộ'. Trong kinh điển nói 'Hoa khai kiến Phật', Đạo Gia gọi là 'Thành Đạo' hay là 'Kiến Đạo'...
Có nhiều người không biết mở , cũng không biết cửa ở đâu , nên cần phải đi tìm minh sư biết cách giúp người mở cửa . Cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni dùng trăm ngàn ức hóa thân độ chúng sanh , Phật A Di Đà phóng vô lượng quang độ người ... Muốn thật sự giới thiệu Phật , thì phải thành Phật , mới có thể hiểu Phật , biết Phật là gì , nếu không , không có cách nào giới thiệu Ngài . Thí dụ mình muốn giới thiệu Phật Thích Ca Mâu Ni , chỉ có thể nói Ngài sinh ở đâu ? Làm những gì ? Tu hành bao lâu ? Sau khi thành Đạo Ngài độ chúng sanh như thế nào ..., nhưng mình không thể biết được đẳng cấp của Ngài đã thành tựu .
-
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ LIỄU THOÁT SINH TỬ
http://img234.imageshack.us/img234/8349/hinhsp9ao4.jpg
Lúc Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế , có một người đàn bà có một đứa con trai , đứa nhỏ không có bệnh hoạn gì đột nhiên chết . Bà ta rất đau khổ , từ sáng đến tối cứ khóc mãi không thôi . Nhân lúc Phật Thích Ca Mâu Ni giảng kinh gần đó , bà ta đến khóc lóc van xin với Phật , cầu khẩn Phật Thích Ca Mâu Ni dùng thân thông , lực lượng đại trí huệ của Ngài , cứu con bà . Phật Thích Ca Mâu Ni bảo : "Được rồi ! Ta có thể cứu nó . Nhưng bà nên đi hỏi từng gia đình chung quanh xem có gia đình nào đã năm , sáu đời mà không có một thân nhân qua đời ? Đem y phục hay đồ vật trong nhà của họ đưa ta , ta cần những thứ ấy mới có thể cứu con bà". Người mẹ đó nghe xong liền đi hỏi từng nhà , từ sáng đến tối , nhưng không tìm được một gia đình nào mà năm , sáu đời không có người vãng sanh . Bà mẹ vừa mệt lại vừa thất vọng trở về . Phật Thích Ca Mâu Ni hỏi : "Có gia đình nào mà năm , sáu đời không có người vãng sanh không ?" Bà ta đáp : "Thật không thể có chuyện này". Phật bấy giờ mới nói : "Như vậy đó , đời người vốn vô thường , không có ai đã sinh ra lại không chết . Trong đời người rồi sẽ có một ngày cũng phải ra đi , sớm hay muộn đều phải lìa khỏi cái thế giới này , bà đừng vì một cái thân thể vô thường mà quá đau lòng !". Khi Phật nói đến đây , người mẹ đó liền khai ngộ , sau đó quy y Phật , làm đệ tử của Ngài và rất tinh tấn tu hành .
Còn có thêm một câu chuyện hay nữa . Có một con quỷ dạ xoa , trông rất xấu xí và ghê sợ , không được đẹp đẽ như quý vị . Con quỷ này có nhiều thú tính , nó thích ăn thịt người . Cũng như cọp thích ăn thịt người , còn người lại thích ăn heo , bò , gà , vịt ... Con quỷ này đặc biệt thích ăn thịt trẻ nhỏ . Hễ thấy trẻ nhỏ là bắt ngay để ăn , và trẻ nhỏ trong làng bị con quỷ này ăn gần hết . Tất cả cha mẹ trong làng đó cùng nhau đến cầu Phật Thích Ca Mâu Ni giúp đỡ . Phật làm cách nào , quý vị có biết không ? Có ai đã từng nghe qua câu chuyện này ? Không có sao ? Thôi được rồi , Sư Phụ kể tiếp đây . Quỷ dạ xoa có một đứa con , quỷ cũng biết sinh con , thật là ảo diệu . Nó rất thương con , cũng như con cọp có thể ăn thịt bất cứ động vật khác , nhưng nó không bao giờ ăn thịt con nó ; cọp cũng rất thương yêu con của mình . Cũng như vậy , quỷ dạ xoa rất thương yêu con của nó . Phật Thích Ca Mâu Ni bèn bảo những người trong làng : "Quý vị đi về , đợi khi quỷ da xoa ra đi , bắt dấu con của nó , sau đó sẽ tính sau". Cha mẹ của những đứa trẻ chờ con quỷ dạ xoa vừa ra cửa , lập tức bắt dấu đứa con . Khi quỷ dạ xoa về , tìm không thấy con của mình , quá đau lòng , rất đau khổ , nó lăn lộn trên đất khóc nức nở , cuối cùng nó đi thỉnh Phật . Quý vị xem , quỷ cũng tôn kính Phật ! Người tu hành chân chính , đều được ma quỷ tôn kính . Phật Thích Ca Mâu Ni nói với nó : "Ngươi rất thương con phải không ?" Nó đáp : "Dạ phải !", Phật nói : "Đối với ngươi , đứa con là vật quý báu nhất trên thế giới phải không ?" Nó đáp : "Dạ phải !" Phật nói : "Nếu như người thương con của ngươi như vậy , những người làm cha mẹ khác cũng rất thương yêu con của họ , sao ngươi lại nỡ ăn thịt con của họ ? Nếu như ngươi hứa với ta sau này không ăn con của kẻ khác , ta sẽ giúp ngươi tìm ra con của ngươi". Quỷ dạ xoa hứa liền . Quỷ cũng biết khai ngộ , phải không ? Khi Phật Thích Ca Mâu Ni nói với nó những đạo lý này , nó liền khai ngộ , từ đó về sau không dám ăn thịt trẻ con nữa .
-
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ LIỄU THOÁT SINH TỬ
Đối với chúng ta , tuy trẻ con còn nhỏ , không biết nói , không biết đi , khác với người lớn , nhưng chúng ta biết chúng cũng là chúng sanh , sẽ trưởng thành , sẽ giống như mình . Từ câu chuyện này , chúng ta có thể suy luận thêm là động vật cũng là chúng sanh , khi tu hành nhiều rồi , cũng sinh làm người , cũng có thể thành Phật . Nếu chúng ta muốn học Phật , thực tình muốn phát lòng từ bi , thì nên phát nguyện không ăn thịt động vật mới đúng .
Từ hai câu chuyện trên , chúng ta có thể biết , không phải người nào cũng tự nhiên mở trí huệ hay liễu ngộ , đôi khi cần người khác nói cho biết mới hiểu được . Cũng như người mẹ trong cốt chuyện đầu , con của bà ta đã chết , bà không hiểu rằng những đứa nhỏ khác có ngày cũng sẽ vãng sanh như vậy . Làm người ai cũng có ngày lìa đời , nhưng bà đã không hiểu được điều này . Lúc đó Phật Thích Ca Mâu Ni có thể dùng trí huệ khuyên bảo rằng : "Sao bà lại khóc ? Bà nên biết đời là vô thường , sớm muộn gì mọi người đều phải ra đi ; có nhân thì có quả , nếu như nhân quả của con bà không tốt , đương nhiên nó sẽ vãng sanh sớm , vì không còn phước báu , cho nên bà đừng có đau thương khóc than như vậy ..." Có lẽ lúc ấy bà ta cũng không nghe lọt vào tai . Đa số phàm phu gặp hoàn cảnh đó cũng chỉ biết khuyên bảo như vậy mà thôi .
Nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni không dùng phương pháp đó , Ngài bảo người mẹ đi tìm một gia đình mà từ trước đến giờ chưa có người nào vãng sanh . Tất nhiên là bà ta không thể nào tìm được . Do đó , khi Phật Thích Ca Mâu Ni nói , bà hiểu ngay , bởi vì tự mình đã có thể nghiệm , quý vị có hiểu ý của Sư Phụ không ? Lúc đầu Sư Phụ có nói : Nếu như ta không thể ngộ 'Đạo' thì phải tìm được một người biết được và có thể chỉ cách cho để tìm 'Đạo'. Sau này tự mình có thể nghiệm , tự mình có thể biết được chân lý .
Thí dụ trong Kinh A Di Đà , Phật Thích Ca Mâu Ni nói : "Phật A Di Đà là vô lượng quang , Phật A Di Đà thường phóng quang cứu chúng sanh , nơi của Phật A Di Đà có những cảnh giới đẹp đẽ , có chim hót , có âm nhạc ..., nếu chúng ta nghe được âm nhạc đó sẽ nhất tâm bất loạn niệm Phật , niệm Pháp , niệm Tăng ..." Lại còn nghe có người đi Tây Phương hưởng thụ những cảnh giới đó , nhưng nếu chúng ta không có thể nghiệm như vậy thì làm sao tin , và cũng không thể thật sự hiểu Tây Phương Tịnh Độ là như thế nào ? Cho nên nghe kinh , đọc kinh đều là nghe thể nghiệm của người khác , nghe người ta nói về đẳng cấp của họ , không có liên quan gì đến mình . Bất cứ ai muốn được khai ngộ , muốn thật sự hiểu , muốn thật sự thể nghiệm cảnh giới này , ít nhất phải tự có chút thể nghiệm như vậy , có một chút thể nghiệm của Tây Phương Tịnh Độ .
Nếu như lúc đó Phật Thích Ca Mâu Ni kêu quỷ dạ xoa đến nói liền : "Ngươi đừng có hư như vậy , đừng có ăn thịt con của người khác , chẳng lẽ ngươi không biết mẹ của những đứa nhỏ rất đau đớn hay sao , ngươi làm như vậy là không đúng , không nên thương tổn đến tâm người khác". Rất có thể quỷ dạ xoa sẽ không chịu nghe , bởi vì tự nó chưa hiểu , chưa thể nghiệm cảm giác mất con sẽ đau lòng như thế nào ? Cho nên Phật không nói với nó như vậy , Ngài bảo người ta đem con nó đi , để cho nó thấm thía cảm giác mất con đau lòng ra sao , rồi mới nói cho nó nghe , nó sẽ hiểu liền . Người phàm phu cũng có câu nói tương tự : "Có nuôi con mới biết được lòng cha mẹ".
-
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ LIỄU THOÁT SINH TỬ
Kinh A Di Đà nói thế giới Tây Phương Cực Lạc có âm nhạc hay như thế nào , có cảnh giới tốt đẹp ra sao , chúng sanh nếu được thấy cảnh giới đó , nghe được âm nhạc đó , tự nhiên nhất tâm bất loạn niệm Phật , niệm Pháp , niệm Tăng . Nhưng mình mỗi ngày niệm bằng miệng chưa được nhất tâm bất loạn , vì mình chưa có liên quan gì với cảnh giới này ; mình vẫn còn đứng gõ cửa bên ngoài , còn chưa được vào trong được , không thể nói chuyện và không hiểu được chủ nhân này là ai ? Tóm lại , mình vẫn chưa thể làm việc với người chủ , mà chỉ đứng ở ngoài kêu tên người chủ mà thôi .
Quý vị muốn nói gì với Sư Phụ , phải mở cửa bước vào . Nếu như chỉ ở ngoài réo gọi 'Sư Thanh Hải , Sư Thanh Hải' sẽ không dễ dàng có kết quả đâu . Có khi Sư Thanh Hải nghe được , cũng có thể không nghe được , cũng có thể tiếng gọi của quý vị quá nhỏ hoặc Sư Thanh Hải đang ngủ . Nhưng nếu trực tiếp mở cửa đi vào , thì có thể thấy được bản lai diện mục của Sư Thanh Hải như thế nào , có thể nói chuyện trực tiếp hay theo học toạ thiền với Sư .
Muốn nói chuyện với Sư Thanh Hải mà cứ ở ngoài kêu sẽ không có ích gì ; rất có thể Ngài nghe được . Còn chưa thấy Ngài , là Ngài còn chưa nghe được . Nếu Ngài nghe được tiếng kêu của quý vị , nhất định sẽ ra gặp . Nếu Ngài nghe không được tiếng kêu của quý vị , nhất định sẽ ra gặp . Nếu Ngài nghe không được , có lẽ là vì chúng ta ở ngoài gõ cửa quá nhỏ hay gọi sai số điện thoại . Muốn thông tiếp thì phải có số điện thoại đúng , giây điện thoại không bị cắt đứt như vậy Ngài mới nghe được tiếng của mình , mình mới có thể nói chuyện với Ngài , tối thiểu có thể gọi điện thoại cho Ngài , mỗi ngày ở nhà gọi tên Ngài .
Nếu gọi điện thoại không thông , nên tìm hiểu nguyên nhân . Xem điện thoại của mình hay là của phía bên kia hư , và phải chữa ngay . Còn không thì viết thư . Nếu viết thư mà không thấy trả lời , rất có thể vì viết sai địa chỉ . Nếu chỉ ở nhà gọi tên Ngài , Sư Phụ thấy khó có cơ hội gặp mặt . Nếu như thành tâm muốn tìm cho được , có thể nhờ bạn bè của Ngài , bạn của Ngài biết Ngài ở đâu ; có thể viết thư nhờ người chuyển đạt , hay xin người bạn cho mình một sự chỉ dẫn chính xác : tên , địa chỉ , số điện thoại ... để có thể liên lạc với Ngài , mới mong có sự trả lời .
Trên thân thể của chúng ta có một cánh cửa có thể mở , trong đó có Phật , có Tây Phương , tại sao chúng ta không tìm cách mở ra ? Đứng ở ngoài kêu có ích gì ? Có chìa khóa tại sao không chịu mở cửa ? Có phải vì không biết chìa khóa ở đâu ? Không biết cửa ở đâu ? Mình không biết thì nên hỏi người đã biết , họ sẽ chỉ cho . Trong kinh điển có chỉ rất rõ ràng , nếu nghe được âm nhạc của cảnh giới Tây Phương nào đó , nếm một chút nước cam lồ , hay thấy được Phật A Di Đà cũng như thấy được 'Vô lượng quang', thì mới có thể hiểu được , thì mới chắc chắn là đã liên lạc được với Tây Phương . Có nghĩa là điện thoại đã thông . Trước kia ta không biết số điện thoại , địa chỉ , tên họ đúng , nên gõ cửa đã mấy trăm năm cũng không có người mở .
-
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ LIỄU THOÁT SINH TỬ
Cho nên phải biết Phật A Di Đà là ai trước đã , sau đó gọi Ngài mới có hiệu quả , nhưng cần phải có người giới thiệu cho chúng ta quen với Ngài . Thí dụ trước kia ta không quen với Tổng Thống Mỹ , ở nhà gọi điện thoại không có ích , vì sẽ không ai cho phép mình tự tiện nói chuyện với Tổng Thống ; mình không quen biết họ mà họ cũng không quen biết mình . Họ sẽ hỏi : "Ông là ai , sao dám gọi điện thoại cho Tổng Thống ?" Không phải Tổng Thống Mỹ có lòng phân biệt , không phải Tổng thống không muốn nói chuyện với mình , nhưng các nhân viên không cho mình vào . Mình viết thư , gọi điện thoại đều vô ích , họ sẽ hỏi : "Ông là ai ? Tìm Tông Thống làm gì ?" Trên thế giới này có luật pháp , muốn được nói chuyện với Tổng Thống , trước tiên phải qua sự kiểm soát của những người nào cần biết rõ lý lịch của mình , tại sao cần nói chuyện với Tổng Thống ? Có mục đích gì ?
Cũng vậy , ở Tây Phương cũng có quy chế , có long thần hộ pháp , thiên long bát bộ ... Nếu như mình muốn liên lạc với Phật A Di Đà , họ không cho mình như nguyện ngay đâu , họ phải xem công đức của mình được bao nhiêu , đã làm những phước báu nào ? Có đáng được điện thoại với Phật A Di Đà hay không ? Cũng như lúc trước chưa quen với Tổng Thống Mỹ , bất cứ gọi điện thoại cho cơ quan nào cũng đều như vậy , họ sẽ không cho mình nói chuyện với Tổng Thống . Cho nên muốn cầu nguyện với Phật A Di Đà thì phải quen biết , liên lạc , làm bạn với Ngài trước , gọi điện thoại với Ngài , sau này mới có thể nói chuyện với Ngài được . Muốn đi Tây Phương cần nên quen biết với Phật A Di Đà trước , ít nhất biết chỗ ở của Ngài , nhận thức được vô lượng quang của Ngài , nghe được tiếng chim hót mà Ngài hóa sanh hay nghe được âm nhạc của Tây Phương , thấy được nước tám công đức ..., ít nhất có một chút ấn chứng , mới có thể nói mình đã mua vé máy bay đến với Phật A Di Đà , có được một chỗ ngồi , và sau đó muốn đi lúc nào thì đi . Nếu như bây giờ mình còn chưa biết , chưa thấy , thì cho dù có gọi tên Ngài bao lâu , Ngài cũng chưa chắc nghe được .
Thí dụ như chúng ta ở nhà , mỗi ngày miệng gọi tên của Tổng Thống , rất có thể một ngày Tổng Thống đi qua cửa nhà mình và nghe được . Nhưng cơ hội may mắn này quá hiếm . Nếu theo phương thức này để được quen biết Tổng Thống thì quá mong manh ; một vị tổng thống bất cứ đi đâu , bên cạnh đều có hộ vệ , hơn nữa còn có nhiều người dân vây quanh để nhìn , bốn bề rất là náo nhiệt , cho nên Tổng Thống sẽ không nghe tiếng của ta đang gọi .
Ngày xưa vua nước Trng Hoa thường cải trang giả làm dân để đi tuần . Nhưng nước Trung Hoa lớn như vậy , Hoàng Đế có đi từ sáng đến chiều , đi cả đời người , cũng không quen biết bao nhiêu người . Cơ hội mà dân chúng nhận biết Hoàng Đế quá nhỏ . Tổng Thống thời nay sợ còn bận hơn vua thời xưa , không thể nào đến cửa nhà mình cho mình nhận biết .
-
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ LIỄU THOÁT SINH TỬ
A Di Đà Phật , Quán Thế Âm Bồ Tát , Đại Thế Chí Bồ Tát cũng như nhau , các Ngài rất bận rộn , bận cứu người , cứu những người đau khổ nhất . Có hằng hà sa số chúng sanh , hằng ngày từ sáng đến tối gọi tên của các ngài , đợi cho các ngài bất chợt nghe được tiếng kêu cầu cứu của mình , cơ hội đó quả thật hiếm hoi . Cho nên tốt nhất mình phải tự tìm cách liên lạc với các ngài , nếu như không thể liên lạc được , thì hỏi những người khác , có biết Tây Phương Cực Lạc Thế Giới không ? Có biết Phật A Di Đà không ? Có thể giới thiệu giùm được không ? Sau khi được giới thiệu , Phật A Di Đà nhận biết được chúng ta , lúc đó mới có thể nói chuyện với Ngài . Thí dụ mình có một người bạn tốt , giao du với Tổng Thống rất thân thuộc , nhờ người này giới thiệu , mình mới có thể quen biết với Tổng Thống , nếu không thì không còn cách nào hơn .
Cũng như vậy , tụng kinh , đọc kinh , đều là thể nghiệm của người ta , không quan hệ gì đến mình . Tự mình phải có thể nghiệm . Sư Phụ không dạy giáo lý gì đặc biệt . Nếu như hỏi Sư Phụ có phải Tịnh Độ Tông không ? Sư Phụ sẽ đáp là phải . Hỏi Sư Phụ có phải Thiền Tông , Sư Phụ cũng sẽ nói phải . Hoặc hỏi Sư Phụ có phải là Thiên Đài Tông , Tào Động Tông hay là Lâm Tế Tông ... Sư Phụ sẽ đều trả lời là phải .
Các tôn phái vốn đều như nhau , quan trọng nhất là phải có thiện tri thức lãnh đạo , họ biết 'con đường', chỉ có một con đường ; nhưng vì danh hiệu Tổ Sư của các Tông phái khác nhau , nên có sự phân biệt ; bất luận tôn phái nào cũng vậy , không có gì đặc biệt , tất cả dạy cùng một pháp môn , chỉ dẫn một con đường giống nhau , vì chỉ có một con đường , chỉ có một Đạo . Tìm được 'Đạo' này mình có thể đi lên . Mình gọi là 'Đạo', 'Lộ', 'Pháp môn', 'Phật Tánh', 'Bản Tánh', 'Bản Lai Diện Mục'... đều cùng một ý . Tông phái nào cũng dạy người tìm 'Đạo' trước , rồi mới có thể đi lên .
Trong Kinh Lăng Nghiêm gọi 'Đạo' này là 'Pháp Môn Quán Âm', trong Phẩm Phổ Môn gọi là 'Quán Âm'. Quán Âm không phải miệng niệm Quán Âm , mà là Pháp Môn làm Quán Âm . Ngoài ra Tịnh Độ Tông gọi là vô lượng quang , Thiền Tông nói là Trí Huệ , 'lực lượng bên trong'. Nếu như mình dùng Pháp Môn Quán Âm , liên lạc với lực lượng này , thì có thể tìm đến chỗ của Phật , bởi vì bản thân của Pháp Môn tức là' Đạo'. Nương nhờ 'Đạo' mình có thể đi lên , 'Đạo' cũng như một cái cầu thang , quý vị từ ngoài vào đây , nhất định phải đi lên cái cầu thang , mới có thể đến chỗ này . Trong văn từ Trung Hoa mình gọi là thang lầu , ở những nước khác thì gọi cách khác , ngôn từ tuy bất đồng , nhưng đều chỉ cùng một ý nghĩa .
Thí dụ 'nước' tiếng Quan Thoại và tiếng địa phương Đài Loan phát âm khác nhau . Nhỏ như Đài Loan mà đã có hai thứ ngôn ngữ , có người thì nói được tiếng Quan Thoại , không hiểu tiếng Đài Loan ; còn người thì nói được tiếng Đài Loan , không hiểu tiếng Quan Thoại . Ngôn ngữ của thế tục đã khó như vậy , muốn hiểu ngôn ngữ của Phật làm sao dễ dàng cho được ? Cho nên đọc kinh cũng không dễ hiểu , tuy Phật hiểu nhưng người phàm phu chúng ta sẽ không hiểu được .
-
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ LIỄU THOÁT SINH TỬ
Phật Thích Ca xưa kia chỉ dạy rất nhiều người . Sau khi Ngài tịch rồi , đệ tử tự xưng mình là tín đồ Phật Giáo . Giê Su Ki Tô cũng chỉ dạy rất nhiều người , sau khi Ngài đi rồi , những người đệ tử gọi mình là tín đồn của Ki Tô Giáo . Lão Tử tịch rồi , đệ tử của Ngài tôn kính Ngài , xưng là Lão Giáo hay là Đạo Giáo . Xưa kia , Khổng Tử chu du liệt quốc chỉ dạy học trò , không tự xưng danh hiệu gì ; nhưng khi Ngài vãng sanh rồi , người đời sau tôn xưng là Khổng Giáo . Cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni đi rồi biến thành Phật Giáo , Đức Giê Su Ki Tô đi rồi biến thành Ki tô Giáo ; rồi Lâm Tế Tông , Tịnh Độ Tông ..., tình trạng các tông phái đều giống như vậy . Tất cả do ngôn ngữ của phàm phu tạo ra , chứ thật sự không có tông phái gì cả . Không có tông phái mà chỉ có 'Pháp Môn', chỉ có 'Đạo'. Các vị giáo chủ ra đời đều chỉ dạy một vấn đề là phải tìm được 'Đạo'. Nhưng sau khi họ đi rồi , trải qua một thời gian dài , biến thành những tông phái . Thí dụ sau này Sư Phụ nổi danh , rất có thể biến thành 'Thanh Hải Tông' (Mọi người cười). Nếu xảy ra như vậy , thì thật tức cười .
Phật Giáo lúc ban đầu dạy cùng một giáo lý , không có gì khác nhau ; nhưng vì bây giờ người của các tông phái dạy khác nhau , nên họ tưởng rằng Sư Phụ dạy Pháp Môn mới , biến thành một tông phái mới . Sư Phụ không thích như vậy , bởi vì 'Pháp Môn' đó , 'Đạo' đó đã có sẵn từ xưa đến nay , tất cả các chân sư đều dạy 'Pháp Môn Quán Âm', không phải Sư Phụ tự sáng tác , phát minh ra . Trước thời của Phật Thích Ca Mâu Ni đã có Pháp Môn này , cũng không phải Phật Giáo mới nói đến Pháp Môn này , Thiên Chúa Giáo cũng có nói , Lão Tử cũng có nói , họ đều nói đến sức chấn động bên trong và âm nhạc bên trong . Nhưng nếu như mình không có thể nghiệm , sẽ không biết là họ đều giảng cùng một giáo lý , một pháp môn như nhau .
Phật Giáo đã xử dụng nhiều tên khác nhau để gọi Pháp Môn Quán Âm . Trong Kinh Pháp Hoa là 'Pháp Hoa Pháp', trong Kinh Phổ Môn là 'Pháp Môn Phổ Độ', Phổ Môn là chỉ một cánh cửa mà có thể thông đạt đi khắp nơi . Trong Kinh Lăng Nghiêm thì biến thành 'Pháp Môn Quán Âm', trong Kinh A Di Đà biến là 'âm nhạc của nhạc của Tịnh Độ , âm nhạc mỹ diệu , chim thuyết pháp ...,' tất cả đều nói rất rõ ràng . Không phải Phật Thích Ca Mâu Ni dạy nhiều pháp môn như vậy , Ngài chỉ nói có một Pháp , nhưng dùng nhiều danh xưng khác nhau , phương tiện khác nhau để độ chúng sanh .
Thí dụ Sư Phụ đến đạo tràng của Ki tô Giáo , Sư Phụ cũng dùng Thánh kinh để dạy họ Pháp Môn Quán Âm . Sư Phụ sẽ không nói với họ : "Sư Phụ dạy quý vị Pháp Môn Quán Âm trong Kinh Lăng Nghiêm của Phật Giáo". Sư Phụ sẽ dùng Thánh Kinh để giải thích , để họ hiểu biết rằng trong Thánh Kinh Giê Su Ki Tô cũng có dạy pháp môn đó . Dùng phương thức này dạy họ cũng được , họ không cần phải trở thành tín đồ Phật Giáo , chính thức quy y Phật , Pháp , Tăng , có một danh hiệu , thọ Bồ Tát giới ... mới có thể tu Pháp Môn Quán Âm . Nếu như họ thật sự hiểu biết Thánh Kinh , họ cũng có thể tu Pháp Môn Quán Âm , tuyệt đối không có trở ngại gì .
-
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ LIỄU THOÁT SINH TỬ
Nếu như gặp người thích Tịnh Độ Tông , Sư Phụ sẽ dùng kinh điển của Tịnh Độ Tông dạy họ Pháp Môn Quán Âm , hay có người thích Tào Động Tông , Sư Phụ sẽ dùng giáo lý của Tào Động Tông giải thích Pháp Môn Quán Âm . Chứ không cưỡng ép người ta cải biến tín ngưỡng cá nhân , mới có thể tu pháp môn này . Theo Thiền Tông , Tịnh Độ Tông , Đạo Gia hay là Thiên Chúa Giáo , Cơ Đốc Giáo ... đều có thể tu , bởi vì pháp môn tối cao vốn chỉ có một , chúng sanh thích gì thì thuận ứng theo đạo lý họ ưa thích mà giảng giải .
Thí dụ Sư Phụ muốn uống nước , Sư Phụ phải nói với quý vị "Nước ! Nước !" Nếu như Sư Phụ hoàn toàn không biết tiếng Trung Hoa khác cần phải nói tiếng ngôn ngữ của địa phương họ , nếu không họ sẽ không biết Sư Phụ muốn gì . Nếu Sư Phụ đến Ý Đại Lợi , Sư Phụ nói "Nước ! Nước", họ nhất định sẽ để Sư Phụ khát đến chết (mọi người cười), hay là nói "Cơm ! Cơm", họ nhất định sẽ để Sư Phụ chết đói . Bởi vì họ không hiểu , nên cần phải nói ngôn ngữ của họ , họ mới cho Sư Phụ cơm ăn . Mỗi nước đều có ngôn ngữ riêng .
Nhưng có một thứ ngôn ngữ tốt nhất , không cần dùng đến miệng để nói . Thí dụ Sư Phụ muốn uống nước , Sư Phụ chỉ cần ra dấu tay là là quý vị có thể hiểu được , Sư Phụ đang khát muốn uống nước hay đói bụng muốn ăn cơm , đó là ngôn ngữ tốt nhất . Chúng ta thường nghe nói 'Thiền bất dùng ngôn ngữ' là ý nghĩa đó . Cơm thật không phải là cái chén này , nước thật không phải là ly này ; nhưng dùng chén để đựng cơm , dùng ly để hứng nước , và lúc ăn và uống , thì không cần nói gì cả . Có cơm ăn , có nước uống mới là điều quan trọng . Dùng ngôn ngữ không thể nào diễn tả nước là gì ? Cơm là gì ? Khi ăn mới biết , khi uống mới hiểu .
Thí dụ có một người có nước , có cơm , người đó có thể cho người khác , không cần nói gì , không cần ngày đêm quảng cáo cơm có dinh dưỡng gì , nước quan trọng như thế nào ; hễ thấy người đói thì cho họ cơm ăn ; có người khát liền cho nước uống . Cũng như vậy , một người khi đắc 'Đạo', hay là biết được pháp môn , cho dù người đó không cùng ngôn ngữ chung với mình , cũng có thể truyền pháp cho như thường . Quý vị chỉ cần ra dấu tay , người đó sẽ biết ý , lập tức đưa chén đũa cho quý vị , cơm cũng có sẵn luôn trong chén . Nếu như chỉ thuộc kinh điển , biết nhiều điển tích , giảng kinh rất thông thạo , nhưng không hiểu chân nghĩa như là không có cơm cho người ta ăn , vẫn chưa có ích gì lắm ; chỉ là dùng miệng quảng cáo bánh , mà trên thực tế không có bánh thật , tự mình chưa bao giờ ăn bánh , lại càng không có bánh cho người khác ăn . Nhưng Sư Phụ cũng phải giảng kinh , bởi vì đầu óc con người đã chứa và biết quá nhiều việc , thấy qua nhiều thứ , phê bình rất nhiều điều , học qua rất nhiều lý sự vô dụng :) . Nếu như có người đến nói rằng họ có thể truyền pháp , quý vị chưa chắc đã tin , có phải không ? Cho nên cần phải nói qua một ít món tráng miệng , do đó đến bây giờ cũng chưa được chính thức ăn cơm . Lúc ăn cơm , không cần nói gì , có thể ăn liền , muốn uống nước cũng có thể uống liền , như vậy mới là nước thật , cơm thật .
-
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ LIỄU THOÁT SINH TỬ
Dùng ngôn ngữ diễn tả vẫn chưa phải là cơm , vẫn chưa phải là nước , nhưng nếu không nói quý vị sẽ không biết . Bởi vì không biết ai có cơm , ai có nước , nên có người rao trên đường : "Bánh chưng ! Bánh chưng !" mình biết ngay người đó bán bánh chưng , người ăn chay thì rao : "Bánh chưng chay ! Bánh chưng chay !" Như vậy người ta biết người đó bán bánh chưng chay , loại bánh chưng này ăn được . Ngoài ra dọc đường còn có người quản cáo nước đá , nước mía ..., rất nhiều thứ , vì họ có những thứ ấy nên mới quảng cáo .
Có người tự quảng cáo nhưng lại không có gì để cho , đó là một điều mệt nhất . Mình có cơm , có nước , ra ngoài quảng cáo thì không sao , vì mình có thể giúp người đói được no , người khát được mãn túc , do đó có thể ra ngoài bán cơm , bán nước . Có người vì lòng tốt , có tiền nên dùng tiền đó nấu cơm cho người trong chùa ăn , nấu nước chín cho người đi đường uống , bố thí cho người cần thiết . Cho nên có rất nhiều phương cách , có người bán cơm , có người bán nước , có người bố thí cơm , có người bố thí nước . Nhưng tự mình phải có một cái gì mới quảng cáo , nếu như mình thật sự không có gì hết , lại ra ngoài quảng cáo bậy bạ , như vậy có phải lạ lùng lắm không ?
Muốn quảng cáo Pháp Môn Quán Âm cần phải biết Pháp Môn Quán Âm , phải có năng lực truyền pháp cho kẻ khác , giúp cho người khác khai ngộ . Tuyên truyền Tịnh Độ thì cho người ta biết Tịnh Độ là gì ? Có khả năng truyền pháp cho kẻ khác , chỉ cho người ta Tịnh Độ ở nơi đâu , chỉ cần mở cánh cửa này , là có thể thấy được . Lúc giải thích 'Đạo', cần cho người ta biết rõ 'Đạo' thật sự ở đâu , đi trên con đường này sẽ gặp những gì ? Đó là 'Đạo'.
Nếu như chỉ dùng miệng nói mà thật sự không biết gì , Sư Phụ cảm thấy như vậy là phạm tội , cũng như nói láo vậy , không có hiệu dụng thực tế , và chỉ làm người ta khát nước thêm mà thôi . Mình vốn đã khát nước rồi , cả ngày không có nước uống , còn phải phí thời gian nghe họ giảng về nước như thế nào , rồi rốt cuộc lại không có nước cho mình uống . Nếu như muốn tiết kiệm thời gian , mình có thể dùng thời gian này đến nơi khác , hỏi một người nào đó có nước hay không ? Nhưng vì mình lo chú ý nghe họ giảng nước , nên không nghĩ tới việc đi tìm người có nước thật . Sư Phụ nghĩ rằng người không có nước , đừng làm uổng phí thời gian của kẻ khác .
Sư Phụ vốn không muốn nói nhiều , nhưng lại quên đi mất điều này , nên rốt cuộc nói nhiều như vậy , bây giờ phải dừng lại , nói nhiều quá không được . Sư Phụ nên nói Sư Phụ rất vui mừng gặp lại bạn cũ , Sư Phụ đặc biệt vì vài người nên đến đây giảng kinh . Quý vị ấy rất thành tâm , cầu Sư Phụ trở lại Bành Hồ , làm Sư Phụ rất cảm động cho nên đã trả lời : "Được , Sư Phụ sẽ vì vài người này mà trở lại". Rốt cuộc bây giờ lại có rất nhiều người , làm ăn khá . Chưa bắt đầu bán nước , làm quảng cáo đã tốt quá rồi (Mọi người cười).
-
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ LIỄU THOÁT SINH TỬ
Hỏi : Xin Sư Phụ chỉ dạy chúng con , niệm Phật như thế nào mới có thể được cảm ứng với Phật A Di Đà ?
Đáp : Bây giờ để Sư Phụ nói trước 'niệm' là gì ? Hàm ý niệm tức là từ chữ niệm của 'tưởng niệm'. Tưởng niệm có nghĩa là ý niệm chứ không phải dùng miệng niệm , cho nên nói 'niệm' Phật . Trên thế giới Ta Bà này , mình dùng gì để niệm ? Dùng tâm niệm ư ? Cha mẹ nhớ con là tưởng niệm , tưởng niệm trong tâm , trong đầu óc .
Trung Hoa có rất nhiều cốt chuyện nam nữ tương tư nhau , thí dụ Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài , Tây Sương Ký ... đều là những chuyện ái tình rất nổi tiếng . Gặp người đẹp rồi về nhà ngủ không yên , ăn không được , nhớ quá cho nên biến thành tương tư . Nếu như Lương Sơn Bá không quen biết Chúc Anh Đài , chàng ta cũng không tưởng niệm kinh khủng như vậy . Bởi vì Chúc Anh Đài ban đầu giả dạng người nam , nên Lương Sơn Bá không có ấn tượng gì , chỉ là bạn hữu mà thôi , sau này biết được nàng là gái giả trai , lúc đó tâm liền biến đổi , trở nên tương tư , muốn được kết hôn với nàng . Nhưng không đạt thành ước nguyện , tương tư đến chết . Lương Sơn Bá biết được Chúc Anh Đài là người tốt , quí phái và hiếm có như vậy cho nên mới sinh lòng tưởng niệm tha thiết như vậy .
Cũng cùng ý đó , nếu muốn tưởng niệm Phật A Di Đà , ít ra cũng phải nhận biết Phật A Di Đà trước , mới có thể tưởng niệm Ngài , còn chưa biết Ngài là ai , làm sao có thể tưởng niệm ? Sư Phụ nhìn hình Phật A Di Đà không cảm thấy có gì đặc biệt , nhưng Sư Phụ thật sự rất nhớ Phật A Di Đà , vì Sư Phụ đã quen biết Ngài , đã nhận biết 'Chân Thể' của Ngài , cho nên khi nhìn hình vẽ Ngài lại không cảm thấy gì cả .
Trước kia Sư Phụ đọc kinh , Phật Thích Ca Mâu Ni diễn tả đất nước của Phật A Di Đà , có thứ âm nhạc nào , có hào quang ra sao , có liên hoa màu kim phát ánh sáng màu kim , có liên hoa màu vàng phát ánh sáng màu vàng , có nước tám công đức ..., các thứ cảnh giới mỹ diệu , Sư Phụ không cách nào tưởng tưởng được , cho nên không thể nhất tâm bất loạn tưởng niệm Ngài . Nhưng từ khi Sư Phụ tìm được minh sư , Ngài giới thiệu cho Sư Phụ quen biết với Phật A Di Đà rồi , bây giờ Sư Phụ biết được hình dáng của Phật A Di Đà không giống như những tượng Phật gỗ , Ngài không có xấu xí như vậy . Sư Phụ thật sự nhận biết , hiểu được Phật A Di Đà là 'Vô Lượng Quang', thật sự thể nghiệm được âm nhạc của Tây Phương Tịnh Độ , từ đó mới có thể tưởng niệm .
Thí dụ một chàng trai khi chưa gặp mặt người thiếu nữ , chỉ xem hình của cô ta , anh chàng sẽ tưởng nhớ nàng cùng cực . Nhưng nếu quen biết người thiếu nữ ấy rồi , lại nghe tiếng nói của nàng , tiếng nói rất hay , rất dịu dàng , khi về nhà sẽ nhớ nhung mãi , rất có thể lúc nào cũng thấy toàn là dáng dấp của nàng . Tuy không còn nghe được tiếng nói nhưng cũng đủ làm cho chàng trai ấy tưởng nhớ rồi , đó là tưởng niệm .
Xưa kia có một chàng trai thổi sáo rất hay . Một ngày Công Chúa nghe được tiếng sáo của anh , từ đó đem lòng tưởng niệm . Nhưng sau khi gặp mặt được anh chàng thổi sáo , thấy anh quá xấu xí , Công Chúa cảm thấy rất thất vọng . Quý vị có nghe qua chuyện đời xưa này chưa ? Có lẽ đây là chuyện cổ tích của Việt Nam . Anh chàng thổi sáo đó tên là Trương Chi , tiếng sáo của anh hay đến nỗi khi nghe được , Công Chúa đã ngày đêm thương nhớ .
-
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ LIỄU THOÁT SINH TỬ
Cũng như vậy , nếu mình chưa thấy Phật A Di Đà , nhưng nghe được tiếng Ngài thuyết pháp , chim hót do Ngài hóa sanh , âm nhạc của Tây Phương Tịnh Độ ... mình sẽ phát tâm 'tưởng niệm', lúc đó mới thật sự là nhất tâm bất loạn 'niệm Phật'. Quý vị nghe Lương Sơn Bá tưởng nhớ Chúc Anh Đài đến nỗi phải nằm liệt giường , không còn tha thiết điều gì , cả thế giới bên ngoài cũng không màng đến . Học vấn của chàng giỏi như vậy , có một tương lai huy hoàng , là một chàng trai thông minh , phong nhã , tất nhiên có nhiều cô thương mến . Nhưng Lương Sơn Bá đã không màng gì cả , mọi thứ trên đời đối với chàng đều vô nghĩa , bởi vì chàng chỉ một lòng tưởng nhớ đến Chúc Anh Đài mà thôi ; thương nhớ đến bệnh nặng , ăn không được , đêm trằn trọc không ngủ được , cho đến cuối cùng thổ huyết mà chết . Tưởng nhớ như vậy mới thật là nhất tâm bất loạn tưởng nhớ ! Nếu như mức độ mình tưởng niệm Phật A Di Đà được một nửa như Lương Sơn Bá nhớ Chúc Anh Đài , nhất định có thể vãng sanh Tịnh Độ !
Nhưng thường phàm phu tưởng niệm như thế nào ? Có người một bên tụng niệm 'Nam Mô A Di Đà Phật', một bên bận chào khác : "Chào ông ! Xin mời lại đây uống trà !" Có người tuy rằng trong miệng niệm Phật , nhưng trẻ nhỏ đến vòi vĩnh , họ sẽ nói : "Ghét quá ! Đi chỗ khác , bây giờ không rảnh !" Có khi thuận tay dùng chuỗi niệm đánh trẻ nhỏ , đuổi nó đi . Như vậy không phải là thật sự niệm Phật , dùng phương thức niệm Phật này có vãng sanh Tịnh Độ hay không , vẫn còn là một vấn đề rất lớn . Chúng ta ai cũng sợ không thể sanh lên Tây Phương . Muốn vãng sanh Tịnh Độ chỉ có một cách , phải nhận biết Phật A Di Đà trước , biết có thể tìm được Ngài nơi đâu , như vậy mới có thể thấy Ngài trước khi chết . Dù chưa có thể chạm được Ngài nhưng ít ra đã thấy được dáng của Ngài trên cõi đó , đủ cho chúng ta phát tâm'tưởng niệm' rồi . Mỗi ngày phải gần gũi nhiều một chút , nhìn rõ Ngài hơn , như vậy mới có thể 'tưởng niệm' một cách tha thiết . Mỗi ngày mình đều niệm A Di Đà Phật nhưng không có cảm ứng , bởi vì tuy niệm mà lòng vẫn con hoài nghi . Có người không bị hoài nghi thì cũng bị cách suy nghĩ của thế gian kéo đi , bị phiền não của thế giới này quấy nhiễu , không thể nào chuyên tâm 'tưởng niệm' Phật . Cho nên phải biết phương pháp niệm Phật chính xác nhất thì mới có thể nhất tâm bất loạn tưởng niệm .
-
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ LIỄU THOÁT SINH TỬ
Hỏi : Thưa Sư Phụ , làm sao mới có thể nhất tâm bất loạn ?
Đáp : Trước tiên mình phải chuẩn bị thân , khẩu , ý cho sạch mới có thể mời Phật đến ngôi chùa đẹp nhất của mình (Sư Phụ chỉ thân thể), trong đó có ánh sáng , có cảnh giới , có nước cam lồ , có Phật tâm , có đủ tất cả . Thân thể của chúng ta là một ngôi chùa ảo diệu nhất , bao nhiêu tiền , cũng không thể nào xây cất được một ngôi chùa hoàn hảo như vậy . Muốn mời Phật A Di Đà làm chủ trì chùa của mình , thì cần phải quét dọn cho thật sạch sẽ .
Quý vị mời Sư Phụ đến đây giảng kinh , Sư Phụ chỉ là một người xuất gia tầm thường . Muốn để cho Sư Phụ đến đây ở bảy ngày , quý vị đã quét dọn sạch sẽ , trên dưới lầu lau chùi bóng láng . Như vậy , mình muốn mời Phật A Di Đà đến , có phải càng nên tịnh hóa lấy mình không ?
Tịnh hóa lấy mình là gì ? Kinh kim Cang có nói : Bố thí , trì giới , nhẫn nhục , tinh tấn , rồi sau đó mới có thể thiền định . Có thiền định mới sanh trí huệ . Thiền định mới là nhất tâm bất loạn , không dùng tâm phân biệt khi đọc kinh Phật . Thiền định và nhất tâm bất loạn có gì khác nhau ? Định là tâm lắng xuống , đó cũng là nhất tâm bất loạn .
Còn bố thí ? Có người nói tôi không có tiền làm sao bố thí ? Không phải mỗi ngày đi bố thí thì có thể thấy được Phật A Di Đà . Bố thí không phải chỉ có tiền mà thôi , bố thí tiền là chuyện nhỏ , vì người nào có tiền thì có thể bố thí . Ngoài việc bố thí tiền bạc , chúng ta còn bố thí pháp , bố thí tư tưởng tốt , bố thí tâm vô quái ngại . Như Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát , nếu như có chúng sanh bị khủng hoảng , sợ hãi , Ngài sẽ đến an ủi họ , cứu giúp họ , đó là 'thí vô uý'.
Cũng vậy , nếu mình muốn bố thí , thì sự bố thí thật sự là trì năm giới : không giết hại , không trộm cướp , không tà dâm , không nói láo , và không uống rượu . Năm giới này chỉ có giới không giết hại là hơi khó , còn bốn giới kia thì không thành vấn đề . Sát sinh có hai loại : trực tiếp sát sinh và giáng tiếp sát sinh . Trực tiếp sát sinh là tự giết mà ăn , gián tiếp sát sinh là người ta giết cho mình ăn . Khi mình ăn còn nói : "Ồ ! Ngon thật , đây là thịt bò thượng hạng , ăn món này không uổng tiền". Như vậy là gián tiếp sát sinh , thấy giết chóc mà vui mừng . Đây không phải Sư Phụ có ý lấy thân phận của người "đại tu hành", dùng những lời lẽ dạy quý vị , Sư Phụ thật sự không có ý đó mà chỉ muốn nói để mọi người tham khảo thôi .
Chúng ta thường làm những việc ngược với bản tính của mình nhưng không biết , bởi vì bị thói quen của xã hội nhiễm quá đen rồi , nên không nhận thấy , và nghĩ cũng không thông . Thí dụ , người lính muốn ăn chay trong quân đội không phải là một chuyện dễ ; học sinh đến trường muốn ăn chay , thầy giáo cũng không tán đồng ; trẻ em muốn ăn chay , cha mẹ lại không cho ; vợ muốn ăn chay bị chồng la ; chồng muốn ăn chay bị vợ phản đối , có thể không chịu nấu chay , bảo chồng tự nấu . Nếu người chồng không biết nấu ăn , đói quá , bất đắc dĩ phải ăn thịt trở lại . Trẻ em có đứa từ nhỏ không muốn ăn thịt nhưng bị người lớn bắt ép , vì họ nghĩ rằng trẻ con nếu không ăn thịt sẽ không thể lớn được . Nhưng chúng ta quên mất voi , ngựa , hươu cao cổ , bò , lừa ... đều ăn chay . bò chỉ ăn cỏ mà to lớn như vậy , rồi mình lại giết nó để ăn . Thỏ cũng ăn cỏ , ăn cà rốt , cải trắng hoặc rau cải mà đẹp như vậy , thân thể tròn trịa , mắt tròn và sáng , mình cũng giết nó để ăn . Tất cả đều là ăn chất đạm gạn lọc lần thứ hai , cho nên khi mình ăn thịt bò , gà , dê , heo đều giống như ăn chất bã vậy .
-
MỘT CON ĐƯỜNG DUY NHẤT ĐỂ LIỄU THOÁT SINH TỬ
Cho nên không sát sinh là điều quan trọng nhất . Giới sát sinh này phải giữ cho thật rõ ràng , mới có thể thấy được Phật A Di Đà , mới có thể nghe được pháp môn tối cao , và mới có cơ hội học được pháp môn tối cứu cánh . Trì giới không nghiêm chỉnh , phước báu không đủ , đương nhiên không thấy được Phật A Di Đà . Không phải Phật Bồ Tát không từ bi . Mỗi ngày mình cầu Phật Bồ Tát bảo hộ sinh mạng mình , cho mình khỏi bệnh , không bị đau khổ , cho mình an ổn mỗi ngày , không bị ai sát hại , nhưng mỗi ngày mình lại sát hại chúng sanh khác . Nếu như Phật Bồ Tát cứu mình có phải Ngài thiếu công bình đối với các chúng sanh đó không ? Cứu mình để mình tiếp tục giết hại những chúng sanh đó . Nếu như động vật cũng cầu cứu với Quán Thế Âm Bồ Tát , cầu nguyện với Phật Bồ Tát bảo hộ cho chúng đừng bị giết , Quán Thế Âm Bồ Tát nên cứu ai đây ? Cứu động vật hay là cứu người ?
Mỗi ngày đều có rất nhiều bò , dê , heo , gà cầu cứu với Quán Thế Âm Bồ Tát , người sát sanh cũng cầu Quán Thế Âm Bồ Tát giúp đỡ , mỗi ngày đều cúng dường Ngài , cầu cho hàng thịt được khá giả , như vậy cần phải giúp ai đây ? Một bên là người bán thịt , một bên là động vật tội nghiệp , tuy không có bông tươi để cúng dường , nhưng chúng dùng tâm để cúng dường , thành tâm cầu xin . Quán Âm Bồ Tát phải làm sao đây ? Cũng như hai nước đánh nhau , hai bên đều cầu Phật Bồ Tát giúp đỡ đánh bại đối phương , như vậy chẳng lẽ chúng ta đã biến Phật Bồ Tát thành một chúng sanh ngây ngô , không biết phải giải quyết làm sao ?
Bốn giới còn lại của năm giới không có đáng kể . Không trộm cướp , không vọng ngữ , không tà dâm , không uống rượu , đều là bổn phận làm người cần nên tuân theo , pháp luật của nước nhà cũng qui định như vậy . Cho nên năm giới vốn không phải là giới , vì mình quên đi , cho nên mới trở thành giới .
Lúc còn học tiểu học , thầy giáo cũng dạy chúng ta không nên trộm cướp , không nói dối , không phải vì Phật bảo không nên trộm thì mình không làm . Mình không muốn người khác trộm tiền , lấy tiền của mình , đương nhiên không nên trộm tiền của người khác . Không tà dâm vốn cũng như vậy : một chồng , một vợ ; luật của nhà nước cũng qui định , rất rõ ràng từ lâu rồi . Còn vấn đề uống rượu , vì rượu có hại cho thân thể , làm cho đầu óc mình không sáng suốt , không nhanh nhẹn , điều này ai cũng đều biết , không phải là giới luật gì cả . Năm giới chỉ trợ giúp thêm sự tu hành , thật sự không phải là giới luật . Cho nên trên thực tế không có một giới luật nào cả . Trong năm giới chỉ có giới 'không sát sinh' hơi khó trì . Thực tế vốn đã không được sát sanh nhưng đã trải qua trăm ngàn vạn kiếp , chúng ta đã quen rồi , cho nên việc ăn chay , ăn mặn mới thành một vấn đề lớn ; không sát sinh mới thành một giới luật rất quan trọng . Nếu quý vị vẫn còn chưa ăn chay , vẫn không tin , vẫn chưa muốn tu hành cũng không sao , cứ từ từ , không thể chỉ nghe một ngày là khai ngộ liền :) . Nhưng nếu như thích nghe Sư Phụ giảng kinh , có thể đến nghe nữa , còn có muốn ăn chay , tu hành hay không , thì tự ý tính sau .
Trước khi mình mua đồ dùng , cũng nên xem xét cho kỹ , mang thử trước , xem có thích hợp không , có thoải mái , có đẹp không ? Khi đã mãn ý rồi mới mua . Sự lựa chọn pháp môn để tu hành cũng cần phải kỹ lưỡng như sự lựa chọn y phục vậy .
-
HÓA THÂN LÀ CHUYỆN THƯỜNG
HÓA THÂN LÀ CHUYỆN THƯỜNG
Thuyết Pháp Tại Đài Bắc
Ngày 24 tháng 9 năm 1986
Đời người không phải chỉ có một kiếp mà thôi , mà là vô tận kiếp trong quá khứ , cho nên có người được gọi là thần đồng , mới có bốn , năm tuổi đã có thể làm nhiều việc không thể tưởng tượng , bởi vì họ chưa hoàn toàn quên hết đời trước của họ , còn đa số người thì đều quên hết đời quá khứ của mình , nhưng không sao , tu hành rồi sẽ hồi phục trí nhớ đời trước của mình .
Thí dụ mình gặp người bạn thời thơ ấu trên đường , hai người đã xa nhau ba mươi năm , sau này gặp trở lại rất có thể không nhận được nhau . Cũng như vậy , chúng ta cũng không cách nào nhớ được đời quá khứ của mình , đôi khi đời trước có người đã từng tu đến một cấp bực nào đó , nhưng cũng quên mất , bây giờ gặp Sư Phụ , đó là đời trước quý vị có tu hành rồi . Nhưng mà đời trước đã từng tu hành , không có nghĩa là bây giờ có thể thanh Phật rất mau , mà phải coi quý vị đối với sự tu hành hiểu biết bao nhiêu , và sự quyết tâm của cá nhân như thế nào . Bởi vì con người có thể lập tức giải thoát , cũng có thể đời đời kiếp kiếp luân hồi , điều này hoàn toàn tùy sự lựa chọn của mình .
Tuy tu hành có rất nhiều đường , có đường thì dài , có đường thì ngắn hơn , giống như ở thế giới này . Từ chỗ giảng kinh này đến đạo tràng trên núi của Sư Phụ mà nói , nếu như tìm được đường tắt , trong một hai tiếng đồng hồ là có thể đến nơi , nhưng cũng có thể đi vòng quanh , lái xe cả ngày mới tới chỗ của Sư Phụ , tùy quý vị lựa chọn con đường nào mà đi . Ở Âu Châu có nhiều chỗ có đường vòng vào thị trấn (city ring), nếu như không tìm được lối ra , không biết chừng xe cứ quanh trong đường vòng cả ngày mà không ra được .
Tu hành cũng vậy , nếu như tìm không được pháp môn tối cứu cánh , sẽ luân hồi tới lui trong thế giới này , không giải thoát được . Mỗi người ra đời , đại khái đã có khuôn mẫu của một đời , sau này trở lại luân hồi , lại sanh ra kuôn mẫu của đời sống khác , đi lại bao nhiêu lần , thì có bao nhiêu lần khuôn mẫu của đời sống khác nhau .
Nhưng cũng không nhất định phải vĩnh viễn gánh nhận đau khổ của sự luân hồi này , nếu như thật sự quyết tâm muốn tìm cầu giải thoát , cũng có thể một đời hay là hai đời là có thể thoát ly luân hồi , bởi vì tâm nếu thành khẩn , thiết tha muốn tìm cầu giải thoát , thì sẽ gặp một vị đại sư thật , đến dẫn đạo , dắt mình đi ra . Nếu như mình một người vẫn còn lưu luyến nhân gian , như vậy đời đời kiếp kiếp cũng không thoát được . Nếu không , sao còn cần các ngài đại sư như Phật Thích Ca Mâu Ni , Giê Su Ki Tô , Lục Tổ Huệ Năng ..., đến thế giới Ta Bà để cứu độ chúng sanh ? Bởi vì không phải tất cả đời người đều cố định không cách nào cải biến , nếu như có người muốn , vẫn có thể sửa đổi , nhưng cần phải có nghị lực rất mạnh . Chúng ta có ý chí tự do (free will), bởi vì có ý chí tự do này , cho nên muốn phạm pháp hay không đều do mình định đoạt .
-
HÓA THÂN LÀ CHUYỆN THƯỜNG
Xưa kia có một người lính theo hầu một vị Đại Quan . Vị Đại Quan này tánh rất nghiêm khắc , đối với bộ hạ "ra lệnh như núi", cần phải tuyệt đối tuân theo , bổn phận của người lính là tuyệt đối "phục tùng". Có một ngày , vị Đại Quan này bảo người lính mới đến sơn vật dụng trong nhà , sơn xong rồi lại bảo anh lính mới rửa sạch cây cọ , nhưng anh lính mới tìm không có vải lau để chùi sạch cây cọ , người Đại Quan liền bảo anh lính đến chỗ để áo quần của những người lính khác , lấy đại một cái để lau cây cọ , bấy giờ người lính cảm thấy rất khó xử , không biết làm sao ? Bởi vì nếu phục tùng lệnh cấp trên , thì phải lấy trộm áo quần của người lính khác làm vải lau , mà ăn cắp đồ của người khác là phạm pháp , nhưng nếu không phục tùng mệnh lệnh cũng là phạm quân luật .
Trải qua một thời gian tranh chấp suy nghĩ rồi , anh ta quyết định không đi đánh cắp y phục của người khác , dùng lời nói cương quyết trả lời cấp trên : "Tôi không đi". Cấp trên của anh rất ngạc nhiên vì anh dám không nghe theo lệnh , liền hỏi anh : "Sao không đi ?" Nhưng anh lính này cũng không trả lời vì sao , chỉ dùng dáng rất cương quyết nhìn cấp trên của anh , biểu lộ lòng quyết định không dám ăn cắp đồ của người khác , lúc đó vị Đại Uý hiểu ý của anh lính , cũng không nói gì nữa .
Cho nên muốn được người khác tôn kính , cần phải có thái độ khiến cho người ta tôn kính trước , nếu mình tự trọng , người khác đương nhiên sẽ tôn kính mình . Bởi vì trong quân pháp , cũng quy định cấm ăn cắp đồ của kẻ khác , cho nên anh lính mới này quyết định bất luận như thế nào cũng không phạm tội trộm cướp . Nhưng đối với anh , lúc đó muốn quyết định như vậy , nhất định là không phải dễ , bởi vì trách nhiệm của người lính là "phục tùng", nhưng "lòng đạo đức" đã giúp anh có một sự quyết định hợp lý và can đảm .
Con người có ý chí tự do có thể lựa chọn , muốn làm gì thì làm , cho nên thiên đàng , địa ngục đều là do mình tự tạo , không có ai cưỡng ép mình làm , nếu như mình nghe theo những lời mà những người không có khai ngộ nói , họ muốn mình làm gì thì đi làm cái đó , như vậy sẽ không được người ta tôn kính , bởi vì mình thiếu tư tưởng và ý chí độc lập .
Tu hành cầu giải thoát cũng vậy , nên tự mình đi tìm , Thượng Đế không thể mình giúp mình được , Phật cũng không cách nào giúp mình . Nếu như giúp được , Phật Thích Ca Mâu Ni một đời , hay là Giê Su Ki Tô lại một lần cũng đủ rồi , tất cả chúng sanh đều độ đi hết , sao cho đến nay vẫn còn nhiều người như thế không được giải thoát ? Bởi vì chúng sanh phải tự cầu nguyện , phải tự mình tìm con đường của mình , không có người nào có thể đi giùm mình . Các vị đại sư không thể miễn cưỡng người khác tu hành , họ có thể nói chân lý cho người khác nghe , sau khi nghe rồi nếu muốn học có thể đến , mình gọi đó là quy y hay là theo học . Nhưng không có thể dùng quỷ kế hay phương thức buôn bán để miễn cưỡng người khác tu hành , đó như là phép phù thủy , không tốt .
-
HÓA THÂN LÀ CHUYỆN THƯỜNG
Nhưng lực lượng của phép phù thủy , có thể xưng là lực lượng Phật hay là lực lượng của tạo hóa , bởi vì lực lượng nào cũng từ lực lượng "tối cao" mà ra , hắc hay là bạch đều như nhau . Nhưng tại sao lực lượng tạo hóa tối cao này , có thể biến thành trắng ? Cũng có thể biến thành đen ? Bởi vì tâm mình là đen , nó biến thành đen , tâm trắng , sẽ biến thành trắng . Cho nên pháp môn tối cao cần phải truyền pháp , và phải chỉ dạy học trò , nếu không , không chừng học trò sẽ đem nó làm điều xấu , như vậy ngược trở lại hại lấy nó , một bên tu hành , một bên ra ngoài khoa trương thần thông , kết quả càng ngày càng đi sang tà đạo , cuối cùng sẽ tẩu hỏa nhập ma .
Bị tẩu hỏa nhập ma vẫn chưa phải chỉ có lý do này , còn có những lý do khác , lát nữa Sư Phụ nói thêm . Hôm qua Sư Phụ bảo quý vị đừng có dạy người ta bừa bãi , đó không phải không muốn quý vị đi giúp đỡ người khác , nhưng Sư Phụ dạy người và quý vị dạy người , là chuyện khác nhau , mới nhìn pháp môn dạy người như là rất đơn giản , trên thực tế chẳng có đơn giản chút nào . Dạy pháp môn chỉ là con đường bắt đầu mà thôi , sau này còn có nhiều phức tạp khác , cho dù tự mình không có trở ngại , nhưng nhất thiết là người khác cũng không có trở ngại . Dạy người phải từ A B C bắt đầu dạy lên , từ bắt đầu đến kết thúc , từng bước từng bước dạy họ , chỉ dẫn họ , không những ở trên thế giới này mà ở những cảnh giới cao hơn , vẫn phải chỉ dạy họ như thường .
Làm một vị sư phụ không phải đơn giản như quý vị thấy , trong quý vị có người là thầy giáo , thấy Sư Phụ dạy người mới niệm Phật , bảo họ để tâm tại giữa trán , kết quả quý vị cũng học theo Sư Phụ đi dạy người khác , như vậy làm sao giống nhau được ? Sư Phụ dạy người khác , thì phải có trách nhiệm đối với họ , bất cứ họ tu hành như thế nào , Sư Phụ đều giúp đỡ họ .
Nhưng quý vị dạy "học trò" của quý vị thì khác , bởi vì họ không có đến nghe Sư Phụ giảng kinh , không được sức gia trì trực tiếp , lại thêm không có khái niệm vì sao phải tu hành , càng không hiểu vì sao phải tọa thiền , vì sao phải niệm Phật , họ có lẽ không có quan niệm đạo đức , cho nên bày họ không có ích , sau này vạn nhất có được một chút thần thông , hay là năng lực nào đó , có thể sẽ làm việc xấu .
Ngoài ra nếu như không có Sư Phụ chỉ đạo , nếu cảnh giới cao hơn một chút rồi , không có cách nào trở về , tu các pháp môn khác cũng vậy . Thí dụ đây là thế giới của mình , đến bên này vẫn là thế giới của mình , ở đây không thấy được biên giới , mình đi vào chỗ khác có cảnh giới cao , rất có thể không thấy được cửa , đến cảnh giới hơi cao rồi , nếu như không biết cách lo cho mình , rất có thể không về thân thể lại được , bởi dù có thể về , giả sử không có thầy chiếu cố chỉ dẫn , người đó sẽ chịu không nổi cái lực lượng tự họ đã được , khi phần lực lượng này không có cách nào để kiềm chế , thì đối với người tu hành trở thành không tốt , tạo thành kết quả không tốt , thân thể biến thành không tốt , tinh thần có bệnh , có rắc rối , gọi là bị tẩu hỏa nhập ma hay phát điên . Bởi vì tự mình tu không tốt , không theo thầy tu hành , hay thiếu vị thầy có lực lượng thật để chỉ dẫn .
Tu hành có nhiều pháp môn khác nhau . Sư Phụ không muốn nói nhiều về pháp môn của Sư Phụ ; chỉ nói cho quý vị biết rằng tu hành pháp môn của Sư Phụ , có thể tọa thiền hai mươi bốn tiếng đồng hồ cũng không sao ; nhưng những pháp môn khác thì lại khác , nếu tu nhiều một chút , có thể bị nổi điên , bởi vì không biết cách kiềm chế . Tu quá nhiều , lực lượng của bản thân sẽ tăng mạnh , lúc này không có chân sư chỉ dẫn thì sẽ không biết cách để kiềm chế phần lực lượng đó .
Lực lượng của Phật hay là lực lượng của tạo hóa , không phải là người tốt thì cho nhiều , người xấu thì không cho . Lực lượng của tạo hóa này là "trung tính", tốt xấu đều do người tạo thành , muốn dùng tốt thì biến thành tốt , dùng xấu cũng có thể biến thành xấu , cho nên nó tuyệt đối trung lập , nó không kiềm chế giùm chúng ta , cần phải tự mình kiềm chế , hay là do Sư Phụ của mình giúp gia trì kiềm chế phần lực lượng này . Tu hành đừng có ước mong quá nhiều thể nghiệm , thời gian đến , thể nghiệm tự nhiên sẽ đến , nếu như thể nghiệm quá nhiều , lực lượng quá lớn , tự mình không biết cách sử dụng sẽ tạo thành phiền phức .
-
HÓA THÂN LÀ CHUYỆN THƯỜNG
Một vị Sư Phụ tốt biết cách lo cho học trò của họ , giúp học trò của họ đem phần lực lượng này , hạn chế tại một trình độ vừa tầm , bởi vì nếu như sự chấn động của lực lượng này quá lớn , có thể tạo ra trạng thái sai lệch tinh thần , có thể bị điên hay là tinh thần yếu kém như người bệnh .
Cho nên người tu hành không nên tham cầu quá nhiều thể nghiệm , nên từ từ , có một chút thể nghiệm là đủ rồi , đừng có một lần là muốn được toàn bộ . Bởi vì trường hợp của mỗi người khác nhau , có người có thể xử dụng lực lượng này , có người không .
Sư Phụ thấy trên báo có đăng quảng cao về thần thông , nhiều người đến tìm những vị pháp sư này , những người này chắc có chướng ngại . Tìm thần thông để làm gì ? Có rất nhiều người phát điên hay bị ma nhập đều vì đó mà ra . Bởi vì muốn tìm thần thông , trong tâm đã có nghĩ muốn tham cầu thần thông trước rồi , thần thông không lại từ 'lực lượng tối cao', mà là từ đầu óc của chúng ta mà ra vì chúng ta muốn dùng những góc cạnh thấp thỏi của càn khôn . Thật ra thần thông không phải là xấu , nhưng nó không phải là cứu cánh , nếu như lực lượng của người tu hành không đủ , trí huệ không đủ , thì không thể dùng thần thông đúng cách , ngược lại nó sẽ làm hành giả đi lạc đường , làm cho sự tu hành của mình ngưng lại tại cảnh giới thần thông mà không cách nào tiến bước .
Cho nên không phải dạy người ta tọa thiền là đủ rồi . Con người phải từ bi thì đúng , nhưng từ bi cần phải đi đôi với trí huệ , nếu như có một người tuy rằng tâm địa từ bi thích cứu người , nhưng lại cho người ta thuốc bậy bạ , như thế không những hại người mà hại mình nữa . Thí dụ chồng mình là y sĩ , nhưng mình thì không biết thuốc , nhưng thấy có người nhức đầu hay bị bệnh , liền lấy thuốc cho họ uống , rủi lấy nhằm thuốc độc thì sao ? Thuốc tuy có thể trị bệnh , nhưng nếu như uống lộn thuốc thì mệt lắm .
Tuy rằng chồng cô ấy là y sĩ , biết loại thuốc nào để trị loại bệnh nào , nhưng cô lại không hiểu y lý , làm sao giúp người trị bệnh đây ? Không phải mỗi thứ thuốc đều có thể trị bệnh , nhức đầu có thứ thuốc nhức đầu , đau bụng có thứ thuốc đau bụng . Luôn cả lý do nhức đầu , đau bụng cũng có rất nhiều trường hợp , chứ không phải nhức đầu hay đau bụng đều cho một thứ thuốc để chửa trị . Tình trạng tu hành cũng vậy , tu hành cần phải cẩn thận , không phải thấy Sư Phụ dạy người như vậy cũng bắt chước , dạy bậy bạ như vậy là hại người , đem phiền phức cho người khác , cũng tìm phiền phức cho mình , tạo nghiệp chướng .
Trong kinh Phật có ghi , Phật Thích Ca Mâu Ni "không thỉnh không pháp". Không ai có quyền xen vào ý thức của người khác , không thể miễn cưỡng người ta tu hành hay không tu hành , nếu không sẽ làm hỗn loạn chu trình tiến hóa tự nhiên của họ . Chúng ta có thể dùng ngôn ngữ nói rõ cho họ nghe , vì sao nên tu hành ? Vì sao phải tu pháp môn này ? Không tu pháp môn kia ? Nếu như họ nghe thấy có lý , trong lòng vui mừng tiếp nhận , thì có thể truyền pháp môn cho họ . Chứ không phải như trường hợp pháp môn không tốt mà cứ truyền bậy bạ cho người , cũng không cần biết họ có thích hay không , như vậy tuyệt đối không thể được .
-
HÓA THÂN LÀ CHUYỆN THƯỜNG
Sư Phụ tuyệt đối không cưỡng bách người khác tin pháp môn của Sư Phụ , Sư Phụ thích người thường đến nghe Sư Phụ giảng kinh hơn , sau này có thể lựa chọn , nếu như thấy rằng giáo lý rất tốt , muốn theo Sư Phụ học , thì hoan nghênh họ đến . Nhưng cho dù có người đã có sự lựa chọn trước khi định học , cũng có thể thối tâm như thường . Vì sao có sự biến đổi như vậy ? Bởi vì họ vẫn là một phàm phu mới phát tâm hoặc không thành tâm , đẳng cấp không cao , cho nên đối với giáo lý của Sư Phụ vẫn còn có nhiều hoài nghi , tuy gặp được minh sư nào cũng vẫn không chịu tin .
Đa số người đều nghĩ là chỉ có thời xưa mới có đại sư xuất hiện , nghe đến Huệ Năng liền tin Ngài là một minh sư có đại trí huệ ; mới nghe nói Bồ Đề Đạt Ma , liền cho rằng là một vị đại thiền sư hay nhất hồi nào đến giờ . Họ tin chắc Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi thành Phật có thần thông tự tại , mỗi người đệ tử của Ngài đều có thể chứng liền quả vị , tự tại giải thoát ; họ cũng tin Giê Su Ki Tô là Đại Bồ Tát , cứu vớt người trên thế gian , nhưng lại không tin bây giờ có được minh sư như vậy , cho dù là Giê Su Ki Tô tái sanh , chúng ta khó tin Ngài .
Hai ngàn năm trước có minh sư đến , mà bây giờ không có ? Đó hoàn toàn là do tâm lý hoài cổ , tưởng rằng thời nay không có gì , chỉ theo cách nghĩ của cá nhân , theo trí tưởng tượng nghĩ rằng Lục Tổ Huệ Năng tu hành như thế nào , pháp tướng nghiêm trang như thế nào , Phật Thích Ca Mâu Ni có thần thông gì , thi triển thần thông gì , có lực lượng gì . Nhưng trong kinh Phật thường ghi lại , Phật Thích Ca Mâu Ni thường dùng hóa thân của Ngài xuất hiện tại nhiều nơi khác nhau , đi độ đệ tử Ngài . Nói thí dụ , Ngài giảng kinh ở một nơi nào đó , nhưng tại một nơi khác đệ tử của Ngài có chuyện , cầu Phật Thích Ca Mâu Ni giúp đỡ , cũng thấy được Ngài giúp đỡ như thường , đó là cái mà mình gọi là 'hóa thân', là Phật hóa thân đến chỗ của đệ tử cứu họ .
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật có ghi , có một vị Hoàng Hậu bị nhốt trong tù , lúc đó bà hướng về Phật cầu nguyện , Phật cũng đến ngục tù giảng kinh cho bà nghe . Đó có phải là xác thân của Phật Thích Ca Mâu Ni đến ngục tù giảng kinh hay không ? Không phải , Ngài dùng hóa thân đến . Nhưng bây giờ có người được thấy hóa thân của Sư Phụ đến chỗ nào đó , nói cho những người nào tin tức gì đó , thì hoài nghi Sư Phụ là ma , là ngoại đạo , còn không , làm sao có năng lực hóa thân ?
Sư Phụ không hiểu sao họ lại có thứ hoài nghi này , hóa thân vốn là chuyện rất bình thường , chẳng có gì thần bí cả , hóa thân là hóa thân , không thể nào bởi vì các pháp sư khác không thể hóa thân , cho nên nói Sư Phụ cũng không thể hóa thân . Trong quí vị có nhiều người là thầy giáo trường tiểu học , trung học , đó không phải ý nói Sư Phụ không có thể làm giáo sư đại học , mà phải giống như quí vị vậy . Có thái độ hoài nghi này là điều rất ngu xuẩn .
-
HÓA THÂN LÀ CHUYỆN THƯỜNG
Không phải tín đồ tại gia phê bình như vậy , luôn cả hàng xuất gia cũng nói bậy bạ như nhau , phỉ báng người ta . Tự mình không thể hóa thân , cho nên cũng không tin người khác có năng lực hóa thân , những người này tin Phật Thích Ca Mâu Ni có thể có trăm ngàn ức hóa thân , Giê Su Ki Tô , Huệ Năng ... các vị đại sư , cũng có thể hóa thân . Đối với họ chỉ có người thời xưa mới có thể có hóa thân , người thời nay không thể nào có hóa thân được . Thật lạ !
Cùng là con người , nhưng người xưa trên phương diện ăn , mặc , ở , đi , đứng có khác gì với người thời nay ? Chỉ bất đồng ở chỗ người xưa về sự hưởng thụ vật chất không được thoải mái như người thời nay mà thôi . Nếu như xưa kia Phật Thích Ca Mâu Ni có thể trăm ngàn ức hóa thân , minh sư thời nay cũng có thể trăm ngàn ức hóa thân , người xưa không có truyền hình , máy bay , người thời nay cái gì cũng có , những gì xưa kia Phật Thích Ca Mâu Ni có thể làm được , minh sư thời nay cũng có thể làm được như thường .
Sao mà nghe có người có thể hóa thân đi nơi nào đó dạy người thì sợ quá , cho là ma , là ngoại đạo , bảo người khác đừng có theo học , sao người học Phật còn có thứ tâm lý khủng hoảng này ? Nếu như tâm đơn thuần , chính trực , thì còn sợ gì ma ? Phật Thích Ca Mâu Ni không sợ ma quỷ , còn thân người là Phật tử sao lại sợ ma quỷ ? Thứ người như vậy không đáng làm đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni , cũng không đáng làm một vị pháp sư , tuy rằng thân mặc pháp y vàng chói rực rỡ , nhưng tâm lý vẫn còn đủ thứ chấp trước , chướng ngại .
Những gì chúng ta tu vốn là pháp môn tu hành chân chính , không có gì thần bí . Sư Phụ có mọc hai cái răng nanh như ma quỷ vậy không ? Nếu như có , con ma như Sư Phụ vậy cũng dễ thương hơn con quỷ thật chứ ! (Mọi người cười) Ma như vầy không biết cắn người , cũng không biết dùng ngôn ngữ đi phỉ báng kẻ khác , hoặc kêu tên nói pháp sư nào đó là quỷ , pháp sư nào đó là ma , con ma này chưa từng biết nói những chuyện như vậy , quí vị có sợ Sư Phụ không ? (Học trò dưới đài nói : Sao lại sợ , tôn kính còn không kịp). Quý vị theo Sư Phụ tu hành lâu như vậy mà chưa có ai bị tẩu hỏa nhập ma , đó là bằng chứng rất tốt .
Pháp môn của chúng ta không giống với các pháp môn khác , trong pháp môn này có thể tọa thiền càng lâu càng tốt , tu hành càng nhiều càng tốt , nhưng những pháp môn khác toạ thiền quá nhiều sẽ bị rắc rối , bởi vì tu hành quá nhiều lực lượng sẽ tăng cường , nhưng họ không có một cái nút để điều khiển , có thể hạn chế cho vừa đúng mức , khiến cho lực lượng này không cách nào được dẫn đạo cho chính xác . Pháp Môn Quán Âm của chúng ta tuyệt đối không có vấn đề này . Mỗi ngày Sư Phụ thiền rất nhiều , tu hành đã mấy năm rồi , nhưng cho tới giờ chưa phát điên , nếu khi nào quý vị thấy Sư Phụ như người sắp điên , đến bảo cho Sư Phụ hay , dẫn Sư Phụ đi coi bác sĩ thần kinh gấp ! Cho nên bất luận tu pháp môn gì , chúng ta đều phải tự mình đi qua con đường này , có kinh nghiệm dồi dào rồi mới có thể dạy người .
-
HÓA THÂN LÀ CHUYỆN THƯỜNG
Hồi nãy nói đến chuyện hóa thân , trên thực tế nó là chuyện rất bình thường , không có gì khó , nếu như cho nó là chuyện thần bí không thể nói ra , thì vì sao nhiều kinh điển mà Phật Thích Ca Mâu Ni lưu lại có rất nhiều chuyện ảo diệu ? Thí dụ Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện tại nơi nào đó , đi đến thiên đàng , giảng kinh điển gì , có bao nhiều người thấy được ánh sáng , bao nhiêu người đến cảnh giới đó ... đều ghi rất rõ ràng , nếu như không có chép những việc đó , ngày nay không có Phật Giáo , cũng không ai có thể biết được Phật Thích Ca Mâu Ni có thần thông lớn như vậy , không biết được đẳng cấp tu hành của Ngài cao đến đâu , đồ đệ của Ngài tu hành đạt đến trình độ nào !
Đúng vậy , có hạng Bồ Tát khi đến độ người thì ẩn trốn không cho người biết , cũng không nói đẳng cấp của họ như thế nào , họ chỉ truyền pháp cho rất nhiều người , bảo họ đừng đi dạy những người khác , đó là bởi vì trách nhiệm của họ đến độ người chỉ có như vậy , không biết chừng họ chỉ truyền cho năm người , công việc chính của họ là ẩn mặt giúp đỡ chúng sanh .
Nhưng cũng có Bồ Tát lộ hiện ra để độ chúng sanh , cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi thành Phật cũng công khai dạy người . Ngài không giảng kinh tại chùa , mà giảng kinh ở nơi công cộng . Phật Thích Ca Mâu Ni không có chùa riêng của Ngài , chỉ vì sau này Ngài đã già rồi , không thể đi khắp nơi giảng kinh thuyết pháp nữa , cho nên đệ tử tại gia của Ngài cất một chỗ bế quan , một trung tâm toạ thiền , cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni và đồ đệ của Ngài ở . Họ không có mỗi ngày tụng kinh hay ra ngoài siêu độ cho người , Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không có dạy đồ đệ của Ngài phải tụng kinh mới có thể thành Phật , Ngài chỉ truyền rộng ra công khai đi độ chúng sanh .
Sư Phụ cũng công khai độ người như vậy , không có gì thần bí , nhưng quý vị có người mới theo học với Sư Phụ có một hai tuần lễ liền ra ngoài dạy người , đó là chuyện rất tức cười , tự mình còn chưa độ được mình đã muốn đi độ người , cho dù đã học lâu năm cũng vẫn chưa chắc có thể đi dạy người .
Không phải người nào cũng có thể tu hành được tám tháng thì biến thành Lục Tổ Huệ Năng ; cho dù là Phật Thích Ca Mâu Ni , vẫn còn khổ công tu hành sáu năm mới có thể thành Phật ; Bồ Đề Đạt Ma sau khi tu hành rồi , còn phải quay mặt vào vách đá chín năm ; Bách Trượng Thiền Sư cũng phải tu hành rất lâu ; Thần Tú tu ba mươi năm cũng còn chưa thành tựu , đẳng cấp vẫn còn thấp hơn Lục Tổ Huệ Năng . Nhưng đó không có nghĩa là ông ta không có khai ngộ , chỉ là tu hành đẳng cấp không bằng Huệ Năng Đại Sư mà thôi .
Cho nên mỗi người đều khác nhau , quý vị nghe nói Sư Phụ tu hành sáu tháng sau , Sư Ông bảo Sư Phụ : "Bây giờ con có thể đi dạy người ta rồi". Cho nên quý vị cũng chờ sáu tháng sau là muốn đi dạy người , có phải không ? (Mọi người cười).
Không phải ý đó , pháp môn tuy là như nhau , nhưng minh sư truyền pháp cho đẳng cấp khác nhau , học trò học cũng khác nhau , cho dù là hai người học trò đồng thời thọ pháp , lúc Tâm Ấn đẳng cấp đã không như nhau rồi , không phải mỗi người sau sáu tháng đều có thể như Sư Phụ vậy , mà đã lo chạy đông chạy tây dạy người . Có nhiều người tuy theo Sư Phụ học đã lâu , nhưng còn số người khác mới học không bao lâu , đẳng cấp đã vượt qua họ , như thế quý vị còn muốn đi dạy ai đây ?
-
HÓA THÂN LÀ CHUYỆN THƯỜNG
Muốn dạy người thì đẳng cấp nhất định phải cao hơn họ , bất cứ lúc tọa thiền thần thức đi đến đâu mình cũng đều có thể biết được . Không phải bởi vì Sư Phụ sau sáu tháng liền bị Sư Ông đẩy đi độ người , cho nên quý vị cũng tưởng được rồi bây giờ đã qua tám tháng rồi , so với thời gian sáu tháng của Sư Phụ còn nhiều hơn hai tháng , cho nên cũng có thể đi làm thầy rồi (Mọi người cười).
Sư Phụ lúc trước cũng có nói , nếu như không có một vị đại sư chính thật để chỉ dẫn , trong lúc thiền quán linh hồn mình đi đến một đẳng cấp khác rồi thì có thể không về được . Không phải là không thể trở về thân thể này được , mà là không thể trở lại đẳng cấp cũ , tức là không thể phục hồi như con người bình thường như xưa . Bởi vì bây giờ bắt đầu có một chút liên lạc với lực lượng đó , cho nên lực lượng sẽ tăng cường , tự họ lại không biết cách lo liệu , nếu như không có sư phụ giỏi chiếu cố , rất có thể vì thế mà tính tình biến thành bực bội , dễ giận đến nỗi phát điên .
Xưa kia ở Ấn Độ có một người đàn bà có ba đứa con , bà theo một vị sư phụ học về Yoga . Học một thời gian sau , đẳng cấp của bà cũng theo đó mà nâng cao , nhưng đây không phải là pháp môn của Sư Phụ , mà là Yoga Ấn Độ . Người đàn bà này học một thời gian , lúc tọa thiền thần thức cũng có thể đi ra hưởng thụ cảnh giới của thiên đàng , lần nào bà cũng say đắm trong cảnh vui sướng của thiên đàng không muốn trở về , hễ về mà thấy ba đứa nhỏ thì cảm thấy rất ghét , bởi vì mới tọa thiền lên thiên đàng hưởng thụ cảnh giới khoái lạc liền bị mấy đứa nhỏ khóc la , "Mẹ ơi ! Mẹ ơi ! Con đói bụng ...", cho nên chỉ có nước từ cảnh giới khoái lạc rớt xuống , nấu cơm cho con ăn . Cho nên bà cảm thấy rất bực bội , bởi vì bà rất muốn vĩnh viễn ở trên trời , đừng có trở về thế giới này , càng không muốn làm mấy chuyện lặt vặt trong nhà , cho nên bà ta giết hết ba đứa con .
Hậu quả này rất đáng sợ , bởi vì pháp môn mà sư phụ của bà này dạy không cao , cho nên mới phát sinh chuyện không hay , sau khi chuyện không may này xảy ra rồi , vị sư phụ đó về sau không còn truyền pháp cho người khác nữa .
Pháp môn của Sư Phụ mới nhìn hình như không có nhiều thần thông như vậy , cũng không có thành tựu mau như vậy , thật ra không phải không có thể nghiệm , chỉ vì quý vị không thấy được toàn bộ , có lúc Sư Phụ kiềm chế giùm quý vị , không muốn cho quý vị thấy quá nhiều . Thấy được quá nhiều đối với quý vị không có ích , có thể không muốn trở về làm vợ hay chồng , đến lúc đó quý vị chỉ còn muốn lưu lại cảnh giới cao , hưởng thụ phần khoái lạc siêu thế giới đó .
Bởi vì sự khoái lạc này không thể dùng ngôn ngữ hình dung , đầu óc phàm phu càng không thể đoán tưởng ra được . Nếu như quý vị biết thật sự mình là ai , rất có thể sẽ tự sát , vì hy vọng linh hồn mau mau trở về quê hương của mình , không muốn ở lại trên thế giới này , bởi vì tất cả đều là hư ảo , không có chuyện gì là vĩnh cửu , chồng , vợ , con , tài sản , sự nghiệp , danh lợi ... đều không quan trọng .