-
MINH SƯ VÀ TÔN GIÁO
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Bất cứ vị Đại sư nào khi đến thế giới ta bà đều gặp rất nhiều khó khăn và nguy hiểm , cũng giống như phải bơi trong dòng nước dơ dáy mới có thể cứu được những người sắp bị chết chìm , và chính họ thiếu chút nữa cũng bị chết chìm theo , bởi bên trong nước đầy những chất độc . Chính họ phải bơi vào những vùng nước vừa độc vừa sâu thẳm mới có thể đem người sắp chết chìm lên bờ , chính vì vậy mà họ bị độc của vùng nước dơ , có lúc có thể bị chết đi .
Cho nên các vị Thánh nhân đời đời kiếp kiếp khi đến thế giới Ta bà rất khó sống được , quý vị đọc lịch sử thì biết , bất cứ Minh sư nào cũng đều bị phỉ báng , cũng đều bị người hãm hại , bị người giết hại . Lục Tổ Huệ Năng , đức Phật Thích Ca , Chúa Giêsu Ki Tô cũng không tránh khỏi . Ở Ấn Độ có nhiều vị đại sư bị người ta dùng những hình phạt vô cùng đau đớn để tra tấn , lại bị người phỉ báng , bị rất nhiều người ngộ nhận , rất ít người hiểu rõ và tin họ . Không phải chỉ có người ngoài phỉ báng và ngộ nhận , ngay cả chính học trò của họ cũng phỉ báng họ nữa .
Trong số học trò của tôi cũng có người phỉ báng tôi , nhưng cũng không phải là chuyện lạ gì . Cũng giống như Đề Bà Đạt Đa , cũng là người anh em bà con thân thuộc của Phật , lại là người phỉ báng Phật nhiều nhất . Chúa Giêsu bị người ta đóng đinh là vì ai quý vị có biết không ? Đó là một trong những môn đồ của Ngài đi mật báo cho các quan lại thời đó biết chúa Giêsu là ai , nên họ mới đến bắt Ngài đi ... Quý vị muốn độ chúng sanh , cần phải sớm thành Phật thì tự mình sẽ biết , không cần phải hỏi tôi . Độ chúng sanh là một công việc vô cùng khó khăn , bị áp lực nặng nề và cũng rất đau khổ".
"Vị Minh sư đời thứ năm hay thứ sáu của đạo Sikh bị bắt ngồi trên một cái chảo nóng , dưới ánh nắng thiêu đốt của mặt trời với ngọn lửa cháy ở dưới ! Mặc dù với lực lượng tối cao , Ngài cũng không tránh được việc nầy . Không phải Ngài yếu hèn , nhưng Ngài chịu sự trừng phạt nầy vì lợi ích cho các đệ tử của Ngài . Ngài nhận nghiệp chướng , những nghiệp chướng xấu xa và nặng nề của các đệ tử trên thân thể của Ngài . Cho nên Ngài phải nhận chịu một số hình phạt .
Cũng như chúa Giêsu , Ngài có thể biến mất nếu Ngài muốn , có thể bay đến Thiên đàng , có thể làm một vài thần thông , nhưng Ngài không muốn trốn tránh ma quỷ nên để họ đóng đinh Ngài . Không phải vì Ngài không thể chạy trốn , Ngài có thể chạy trốn , Ngài có thể biến mất nếu Ngài muốn , Ngài có thể làm nhiều thần thông . Ngài đã biến mất nhiều lần theo sự ghi chép trong Thánh kinh . Ngài đã học được nhiều thuật của các đạo sĩ yogi , Ngài có thể biến mất , hiện ra , chữa người bệnh , người mù hoặc đi trên mặt nước qua sông , nhưng Ngài đều không dùng đến . Tại sao ? Bởi vì Ngài muốn rửa sạch nghiệp chướng của các đệ tử vào thời điểm đó .
Mỗi vị Minh sư phải chịu đựng nghiệp chướng của những người đến dưới chân Ngài để cầu sự khai ngộ , bởi vì nghiệp chướng của con người được thâu thập từ đời đời kiếp kiếp , không thể nào tưởng tượng nổi nó to lớn như thế nào ! Đức Phật đã nói rằng : 'Nếu nghiệp chướng của một người có thể thấy được , thì sẽ thấy nó đầy tràn cả vũ trụ'. Nghiệp chướng của một người thôi mà cũng đã đầy tràn cả vũ trụ rồi ! Trong Thánh kinh cũng có nói : khi sanh ra , chúng ta đã có tội rồi . Chúng ta thừa hưởng những tội lỗi trong máu của chúng ta , vậy làm sao chúng ta có thể rửa sạch nó với trí tuệ và sức mạnh hạn hẹp cá nhân chúng ta ? Chúng ta cần Con của Thượng đế , đấng Cứu thế , Minh sư , người biết cách để rửa sạch nó".
-
MINH SƯ VÀ TÔN GIÁO
Chúa Giêsu xác nhận "khi ở thế gian", Ngài có quyền tha tội , tức là có thể rửa tội cho những người đến với Ngài lúc đó : "Nhưng để các ngươi biết rằng khi ở thế gian , Con Người có quyền tha tội". Mác 2:10. Ngài nói với môn đồ , thân thể Ngài là để gánh nghiệp chướng cho họ : "Đây là thân thể Ta , vì các ngươi mà phó cho ... Chén nầy là chén giao ước mới trong huyết Ta , vì các ngươi mà đổ ra". Luca 22:19-20.
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Tại sao người Con duy nhất của Thượng đế lại phải chịu đau đớn , hành hình trên thập tự giá , hoặc một vị như Phật Thích Ca có tất cả quyền lực , lại phải chịu sự hiểu lầm , sỉ nhục và tấn công từ con người thời bấy giờ ? Một phần vì sự vô minh của quần chúng , một phần vì thân xác của vị Minh sư là phải nhận lãnh những nghiệp chướng của đệ tử . Vị Minh sư chỉ có thể làm được việc nầy khi họ có thân xác mà thôi ...
Tình thương lai láng và quyền năng tối thượng có thể rửa sạch hầu hết những đau khổ mà người ta mang đến , nhưng có những phần thừa thãi vẫn còn bám víu vào người được gởi gấm , và thân xác của vị Minh sư phải gánh chịu những đau đớn nầy".
"Muốn làm Minh sư phải có năng lực tiêu hóa nghiệp chướng của chúng sabh . Tôn kính vị thầy quá khứ , hiện tại , vị lai là chuyện đương nhiên , nhưng muốn giải thoát thì phải tìm Minh sư tại thế , là người đã mở cửa trí huệ , đã khai ngộ và có chìa khóa mở cửa trí huệ của chúng ta . Trong kinh điển có nói rằng nếu như gặp được một Chân sư hay Phật tại thế là phước báu lớn nhất , vì nếu không gặp được họ thì không có cách nào giải thoát".
"Thân thể của Minh sư được sinh ra là vì hai lý do . Lý do thứ nhất là để đệ tử của thế giới vật chất nhìn thấy , vì họ chưa thể thấy được hóa thân của vị Minh sư . Lý do thứ hai , thân thể của Minh sư là để hy sinh , nhận lãnh tất cả mọi thứ mà đệ tử của họ cần phải bỏ , hoặc để thâu nhặt nghiệp chướng của đệ tử và kế đó phải rửa sạch .
Phật cũng chịu đau khổ , nhưng về tinh thần . Có một ngày Ngài chịu không nổi nên Ngài bỏ cả đệ tử và đi vào rừng đến ba tháng . Dĩ nhiên Minh sư không thường nhắc đến sự đau khổ bên trong , nhưng nó có . Không có Minh sư nào trốn chạy được điều nầy , nó lộ ra ngoài cơ thể như một bịnh trạng vô căn , hoặc ra ngoài bị công kích hoặc phỉ báng . Áp lực bên trong còn nặng nề hơn sự chịu đựng bên ngoài .
Một số người ganh tỵ nên đã bỏ thuốc độc hại Milarepa , Ngài biết được điều đó nhưng Ngài vẫn chấp nhận điều nầy ... Quý vị không có sự chọn lựa khi Thượng đế muốn để rửa sạch nghiệp chướng của đệ tử . Ramana Maharshi đã chết vì ung thư và cả Swanmi Shivananda nữa . Thế giới nầy là thế giới của phủ định , các Ngài phải tuân theo luật lệ của thế giới nầy , các Ngài không thể phá luật . Đây là đất nước của Ma vương , nếu vào lãnh thổ nầy thì phải tuân theo luật của nó .
Các Thánh nhân xuống đây để lý luận , giải thích cho chúng sanh để họ trọn quyền lựa chọn . Các Ngài không dùng thần thông hoặc thôi miên để dụ dỗ quý vị . Đây là lý do vì sao công việc của Minh sư đầy khó khăn và đau khổ . Luật nhân quả phải được tôn trọng , thí dụ như lúc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập tự giá , thì các đệ tử của Ngài và những người tin Ngài lúc đó đều được rửa nghiệp .
-
MINH SƯ VÀ TÔN GIÁO
Khi một vị Minh sư truyền Tâm Ấn cho cả trăm hoặc cả ngàn người , vị ấy phải có đủ lực lượng cho từng người một . Lực lượng nầy phải thực mạnh để rửa nghiệp chướng trong vạn ức kiếp của người ấy . Để đốt sạch nghiệp chướng của một người và luôn cả trăm đời thân nhân của họ thì phải tốn rất nhiều công lực . Nếu người nào không thấy được ánh sáng hoặc nghe được âm thanh là tại vì nghiệp chướng của người ấy quá nặng nề . Tất cả lực lượng ấy phải mạnh hơn nữa . Người thường không thể chứa đựng nổi lực lượng ấy . Cũng giống như bóng đèn , muốn sáng thì phải chứa đựng điện thế rất cao . Bóng đèn nầy nhìn giống như bóng đèn kia , nhưng cấu tạo khác nhau về sức chứa đựng năng lượng . Để cho quý vị một ánh sáng như vậy , vị Minh sư phải tự mình chịu đựng được loại điện thế cực mạnh nầy , do đó mà thân thể Minh sư đương nhiên phải khác với người thường . Thông thường Minh sư ít đề cập đến chuyện nầy trừ khi có người hỏi đến".
Kinh điển chỉ giới thiệu con đường nhưng không cho chúng ta con đường . Bí quyết để chấm dứt sinh tử luân hồi không nằm trong kinh điển , mà nằm trong tay vị Minh sư tại thế , và năng lực giải thoát nằm trong chính chúng ta . Người nào may mắn nhận ra và tin tưởng vị Minh sư tại thế sẽ đạt được đời sống vĩnh cửu của linh hồn . Chúa Giêsu nói : "Thật vậy , đây chính là ý muốn của Đấng đã sai Ta , hễ ai nhìn biết Con và tin Con , thì được sự sống đời đời". Giăng 6:40.
"Ta là con đường , chân lý và sự sống . Không ai đến với Cha mà không qua Ta . Nếu các ngươi biết Ta thì cũng biết Cha Ta , và từ nay trở đi các ngươi đã biết và đã thấy Ngài". Giăng 14: 6-7. Bất cứ ai muốn đến với Thượng đế phải qua sự trung gian của Ngài lúc đó . Bởi vì khi còn tại thế , vị Minh sư có thể câu thông linh hồn đệ tử với Ngôi Lời và ánh sáng bên trong . Nối kết được với hai thị hiện nầy của Thượng đế , chúng ta mới có thể "biết" và "thấy" Thượng đế , như các môn đồ ngày xưa của Chúa Giêsu "đã biết và thấy Ngài".
Vị Minh sư tại thế bao gồm ba thân : nhục thân , Hóa thân và Pháp thân :
- Nhục thân (physical body) của vị Minh sư là sự thị hiện của Thượng đế ở thế gian nầy . Nhục thân là để cho chúng sinh thấy , nhứt là các đệ tử của Ngài , để thuyết pháp tìm đệ tử , để dạy dỗ đệ tử bên ngoài và để truyền Tâm Ấn . Không có nhục thân không thể truyền Tâm Ấn được , vì đây là luật tâm linh của Thượng Đế . Vì vậy Thượng đế đã phái rất nhiều Minh sư xuống trần qua nhiều thời đại khác nhau .
- Hóa thân (transformation , manifestation bodies) : Một vị Minh sư có vô số Hóa thân . Hóa thân có hình dáng giống như nhục thân , nhưng là thân Ánh sáng của Ngài (radiant body). Hafiz , một nhà thơ thần bí nói : "Giống như một mặt trăng mới mọc , chỉ có Mắt Huệ thanh cao mới có thể thấy được Hóa thân . Sự vinh hiển của Ngài không thị hiện cho tất cả mọi đôi mắt thường".
Minh sư Nanak của đạo Sikhs nói về sự lộng lẫy của Hóa thân : "Hóa thân rực rỡ hào quang của vị Minh sư đẹp mê hồn . Chỉ có vị Chân sư mới có thể thị hiện bằng Hóa thân cho linh hồn thấy".
-
MINH SƯ VÀ TÔN GIÁO
"Gurudev" là danh từ để chỉ Hóa thân của vị Minh sư . Guru có nghĩa là vị Thầy tâm linh , Dev bắt nguồn từ ngữ - căn "Div" trong tiếng Phạn , có nghĩa là ánh sáng . Vì vậy Gurudev chỉ Hóa thân rực rỡ hào quang của Ngài . Mỗi Hóa thân sẽ đi vào Mắt Huệ của từng đệ tử vào lúc Tâm Ấn .
Cho dù đệ tử thấy được Hóa thân hay không , Hóa thân nầy vẫn luôn ở với họ , hướng đẫn họ đến cõi tâm linh vi tế bên trong , dạy dỗ , bảo hộ họ bên trong lẫn bên ngoài trong suốt con đường tâm linh , ngay cả sau khi họ rời bỏ thế gian . Vào lúc đệ tử vãng sanh , Hóa thân sẽ thị hiện để tiếp dẫn linh hồn đệ tử , đưa họ đến cảnh giới đã được dành sẵn cho họ .
Khi một đệ tử đã sẵn sàng đi vào trong vùng tâm linh vi tế bên trong , Hóa thân của Ngài sẽ xuất hiện nơi Mắt Huệ của đệ tử . Khi thấy được Hóa thân , đệ tử có thể nói chuyện và hỏi những điều cần biết , Hóa thân sẽ trả lời .
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói về Hóa thân trong buổi thuyết pháp Tại Trung Tâm Văn Hóa Nhật ở San Paulo , Ba tây ngày 18/6/1989 : "Nếu quý vị cần gặp vị Minh sư thì Ngài liền xuất hiện . Chúng ta gọi đó là Hóa thân hay thân thể ánh sáng . Nó trông giống như xác thân nầy , nhưng lại không có da thịt . Quý vị có thể nắm giữ được nhưng chỉ trong chốc lát thôi , và rồi vị Minh sư tan biến vào trong không gian . Đôi khi quý vị thấy vị Minh sư bay qua cửa sổ , nhưng đó không phải thân xác nầy bay , đó là Hóa thân qua lực lượng đại định của Ngài . Đó là lý do tại sao Phật giáo nói : 'Hàng vạn thân xác , hàng vạn Hóa thân'. Thiên chúa giáo hay Ấn độ giáo gọi là vô sở bất tại , nghĩa là không có nơi nào là Ngài không có , nơi nào Ngài cũng có . Một vị Chân sư có thể có hàng ngàn , hàng vạn , hàng trăm ngàn Hóa thân , hàng triệu Hóa thân để giúp đỡ đệ tử khắp mọi nơi vào bất cứ lúc nào . Nếu một vị thầy không có nhiều Hóa thân , vị đó không thể chăm sóc đệ tử của mình được , và nếu một vị thầy không thể có nhiều Hóa thân thì vậy thầy đó không phải là một Chân sư".
- Pháp thân (Dharma Kaya) của Ngài là tinh túy của Thượng đế , đồng nhất thể với Thượng đế . Vị Minh sư là một sự phối hợp của nhục thân sanh ra từ thân xác của cha mẹ ở thế gian và một pháp thân đến từ Thượng Đế . Dòng Âm lưu nội tại (Ngôi Lời , Diệu Âm) là sự thị hiện của Thượng đế , và vị Minh sư là sự thị hiện của Dòng Âm lưu đó . Khi "Ngôi lời trở thành xác thịt và sống giữa chúng ta". Giăng 1:14 , hay khi "Diệu Âm hóa thân Phật", chúng ta có sự hiện hữu của vị Minh sư tại thế .
Cho nên khi chúng ta đến với một Minh sư , chúng ta nên nhìn Ngài qua cả ba thân nầy . Nếu chúng ta chỉ nhìn vào nhục thân và những hành động bên ngoài của Ngài , sự đánh giá của chúng ta sẽ hoàn toàn sai lạc .
Thông thường , chúng ta thường phát họa trong trí một vị Minh sư theo quan niệm hạn hẹp của chúng ta , theo thói quen và thành kiến của người đời . Chúng ta lồng Ngài vào trong cái khung cứng ngắc chúng ta đã phát họa trong đầu , và muốn Ngài phải giống như những gì chúng ta nghĩ về một Chân sư . Nếu thấy Ngài không giống như những tiêu chuẩn chúng ta áp đặt cho Ngài , chúng ta sẽ kết luận rằng Ngài không phải là Minh sư .
Đầu óc phàm phu của chúng ta sẽ quay cuồng với bao nhiêu câu hỏi . Tại sao Ngài lại cười thành tiếng vậy ? Đáng lẽ ra Ngài chỉ được cười mím chi thôi và phải trang nghiêm như tượng Phật chứ . Tạo sao Ngài lại khóc ? Đáng lẽ Ngài phải như bất động , Ngài là Thánh tại sao Ngài lại còn tình cảm với nhân loại thường tình ? Tại sao Ngài lại giận dữ như thế kia ? Đáng lẽ ra lúc nào Ngài cũng phải đưa mắt hiền từ nhìn chúng sanh với tất cả lòng từ bi mới phải . Tại sao y phục của Ngài lại như thế nầy ? Tại sao Ngài lại trang điểm ? Tại sao Ngài để tóc ? Tại sao Ngài lại mang giày ? Đáng lẽ Ngài phải cạo đầu , đi chân đất và mặc quần áo như các vị tu sĩ ngày xưa mới phải . Tại sao Ngài là đàn bà mà không phải đàn ông ? Đàn bà mà cũng thành Phật được sao ? Tại sao Ngài cũng bị bịnh , cũng già , cũng chết như chúng ta , có khi còn bị hành hạ , đóng đinh , thuốc độc , có vị chết vì ung thư nữa ?
-
MINH SƯ VÀ TÔN GIÁO
Bận rộn nhìn những hiện tượng bên ngoài của Ngài , chúng ta vội vàng phán đoán , chỉ trích , phê bình , mà quên mất một việc quan trọng ; chúng ta phải bình tâm để nhận ra vị Minh sư tại thế . Bởi vì Ngài không phải là những gì chúng ta thường nghĩ và tưởng tượng . Ngài sống trong lớp vỏ của một con người , nhưng Ngài vượt thoát khỏi sự ràng buộc của con người . Ngài sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian .
Vị Minh sư trong thân thể con người bao gồm hai tính chất : cá biệt (personal) và vô cá biệt (impersonal) :
- Cá biệt là những gì thuộc về cá nhân của một con người bình thường , như tiểu sử , hình dáng , cá tính , lối sống riêng tư ... Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Mỗi vị Tổ sư , mỗi vị Giáo chủ hoặc Minh sư , cuộc sống của họ đều không giống nhau . Chúng ta không thể hy vọng hoàn cảnh của mỗi Ngài đều như nhau . Trong 'Thập Ngưu Đồ' có giảng , những người đại tu hành không theo vết chân của các Minh sư đời trước , họ cũng không phỏng theo cuộc sống của các đại sư ngày trước , họ là họ , có cuộc sống riêng của họ".
Nhục thể , cảm xúc và tâm trí của một con người bình thường được Ngài dùng như những phương tiện để gần gũi và dạy dỗ chúng sanh , nhất là các đệ tử của Ngài . Vô Thượng Sư Thanh Hải nói "Những người khai ngộ , nội tâm của họ luôn hoan hỷ tự tại , nhưng vì dạy dỗ chúng sanh , họ phải có những diện mạo khác nhau ... Đối với Phật , giận hay không giận , hỷ nộ ái lạc cũng không có gì là hỷ nộ ái lạc , tất cả đều là phương tiện để độ chúng sanh mà thôi , họ không có lòng phân biệt . Còn không quý vị đi tìm Phật gỗ , cả ngày đều cười hì hì phải không ?"
"Có lúc các Ngài khóc , có lúc các Ngài cười , có lúc các Ngài hình như tức giận hoặc hình như hoan hỷ , nhưng tâm các Ngài vẫn vĩnh viễn là Đạo , vĩnh viễn như như bất động".
"Lòng của một người khai ngộ rất thanh thoát đối với hỷ nộ ái ố . Những tình cảm nầy không chế ngự được họ , đôi khi họ có thể giả bộ để hòa mình với người khác".
- Vô cá biệt là tinh túy của Ngài và chúng ta không thể thấy nó bằng mắt thường , đây chính là cái Pháp thân vô hình vô tướng của Ngài . Vì Pháp thân nầy là Dòng Âm lưu đến từ Nguồn cội (Universal Source , God) nên Pháp thân nầy cũng chính là Thượng đế . Cho nên khi chúng ta đến với vị Minh sư tại thế , chúng ta đến với Thượng đế qua thân thể của một con người .
Vị Minh sư có nhiều cách để độ người . Phật giáo nói Phật tùy chúng sanh mà thị hiện thành những hình tướng khác nhau . Một mặt Ngài thuyết pháp hay làm những việc nào đó để tạo nhân duyên hay gây sự chú ý cho những đệ tử tương lai . Thí dụ như biết người nầy thích đánh cờ tướng , Ngài sẽ chơi cờ tướng thật giỏi ; biết người kia thích thơ , ca hát , Ngài sẽ làm thơ , ngâm thơ và ca hát . Có khi muốn độ một người nào đó trong giới nghệ sĩ , minh tinh hay trình diễn thời trang ... Ngài phải dấn thân vào giới của họ , để tạo cơ hội cho những đệ tử tương lai nầy gặp gỡ Ngài .
Mặt khác , đôi khi chúng ta thấy Ngài làm những hành động rất lạ lùng , khó hiểu , có vẻ như trái ngược với lề lối , tập quán của xã hội , nghịch lý với sự suy nghĩ thường tình của chúng ta về một vị Chân sư . Ngài cố tình làm như vậy như một hình thức gạn lọc trước , để cho những người chưa được chọn sẽ không nhận ra Ngài . Ngài cũng có thể làm như vậy để khảo nghiệm đức tin của đệ tử , kinh Thánh nói : "Hễ cây nào Cha ta trên trời không trồng thì sẽ bị nhổ". Mathiơ 15:13.
-
MINH SƯ VÀ TÔN GIÁO
Trong Radha Soami Teachings kể chuyện Guru Amar Das khi muốn thử đệ tử , Ngài bảo họ làm những bục gỗ , rồi lại bảo họ phá bỏ đi , làm lại cái mới . Sau nhiều lần như vậy , tất cả những đệ tử khác không vâng lời Ngài nữa , họ nói rằng vì Ngài đã già nên đâm ra lẩm cẩm . Nhưng một đệ tử thuận thành vẫn tiếp tục làm và sau đó được chọn làm Minh sư kế thừa , đó là Minh sư Ram Das .
Cũng vậy Guru Nanak có một lần bảo đệ tử ăn xác chết . Ai mà dám ăn xác chết ! Nhưng chỉ có một đệ tử sẵn sàng làm chuyện kinh dị nầy và sau đó đã được chọn làm Minh sư kế thừa , đó là Minh sư Angad Sahib .
Một người bạn làm chung sở với tác giả khi trước kể rằng , một hôm Sư tổ của ông dẫn đệ tử vào xóm điếm tìm một cô gái . Mục đích của Ngài đến với cô gái là để truyền pháp mạch cho cô bởi vì cô có số làm đệ tử của Ngài . Ngoài ra Ngài làm như vậy để thử đức tin của các đệ tử khác đối với mình . Kết quả là một số đệ tử đi theo Ngài lúc đó thấy vậy chịu không nổi đã bỏ Ngài !
Nhị Tổ Huệ Khả vì muốn chứng minh sự thành tâm của mình , đã phải chặt một cánh tay để cầu đạo với Bồ Đề Đạt Ma . Có những nhân duyên cùng nghiệp chướng mắt thường của chúng ta không thể nào nhìn thấu , chỉ có vị Minh sư mới biết được căn duyên nên hành động theo nhân quả của người đó .
Trường hợp của Milarepa , một Minh sư nổi tiếng người Tây Tạng là một thí dụ điển hình . Milarepa , lúc chưa trở thành Minh sư , đã dùng hắc thần thông giết chết rất nhiều người từng làm hại gia đình của Ngài trước đó . Sau đó Ngài biết rằng với nghiệp chướng sâu nặng như vậy , nếu không tìm gặp Minh sư , chắc chắn Ngài phải xuống địa ngục . Sau một thời gian kiếm tìm , Ngài gặp được Chân sư Marpa từ chối . Qua bảy tám năm trời , Marpa hành hạ và đánh chửi Ngài thậm tệ , bắt Ngài xây hết nhà nầy đến nhà khác . Vừa xây xong cái nầy thì Marpa lại bắt Ngài phải phá nó xuống rồi xây cái khác . Ngài phải tự vào rừng kiếm nguyên liệu , chặt cây , khuân đá ... để xây nhà và không có ai được quyền giúp đỡ Ngài .
Thân thể Ngài tơi tả , máu mủ từ những vết thương lở loét bung ra đau đớn vô cùng nhưng Ngài cắn răng chịu đựng . Có lúc Ngài chắt chiu để dành tiền mua thức ăn đem dâng lên thầy . Chẳng những không nhận , Marpa lại còn giận dữ đổ hết thức ăn và quát tháo ầm ĩ . Có khi không làm điều gì sái quấy , Ngài cũng bị Thầy nổi cơn thịnh nộ đuổi đi không thương tiếc , nhưng Ngài vẫn trở lại xin thầy tha thứ . Sự chịu đựng của Ngài cuối cùng đã đạt thành kết quả , sau bảy tám năm trời đau khổ , Ngài đã được thầy truyền pháp Quán Âm .
Có thể chúng ta sẽ tự hỏi nếu Marpa thực sự là Chân sư , tại sao Ngài không có lòng từ bi ? Nếu quả là Thánh , tại sao Ngài không kềm chế được những cơn thịnh nộ của mình ?
Có lẽ Marpa đã phải hành xử như vậy vì Ngài đã nhìn thấy trọn vẹn căn cơ cùng nhân quả của đệ tử . Ngài biết rằng Milarepa là một người tài giỏi , thần thông lỗi lạc , nên cái ngã của Milarepa cũng rất lớn , sẽ làm trở ngại cho con đường tâm linh . Bằng cách hành hạ , chửi bới , la mắng , nhục mạ , Marpa giúp cho Milarepa tập tính nhẫn nhục và khiêm tốn , dần dần bỏ đi cái ngã chấp của mình . Thứ hai là để Milarepa tự rửa đi những nghiệp chướng đã gây ra trong đời nầy . Thứ ba ngoài việc dạy dỗ đệ tử , việc la rầy của vị Minh sư cũng là một cách rửa nghiệp chướng cho họ .
-
MINH SƯ VÀ TÔN GIÁO
Ngoài ra vì Milarepa có mệnh làm Minh sư , những thử thách cam go , đắng cay như vậy sẽ giúp cho Milarepa có đủ sức chịu đựng những khốn khổ khi làm công việc của một Minh sư trong tương lai . Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Được thừa kế làm Minh sư phải chịu nhiều khảo nghiệm khó khăn , lâu dài để thử sức chịu đựng , lòng nhẫn nhục , sự kiên trì và lòng dũng cảm . Không những là đẳng cấp bên trong phải cao mà còn cần đến phong độ bên ngoài , bởi vì người được vinh danh , ca ngợi thế nào cũng gặp sự chống đối , phỉ báng hoặc hảm hại".
Có khi chúng ta thấy vị Minh sư bỗng dưng nổi giận la rầy một đệ tử nào đó , trong khi người nầy không làm điều gì sai quấy cả . Có thể lúc đó vị Thầy thấy nghiệp chướng sắp sửa đến với đệ tử , nên tìm cớ la mắng để rửa bớt nghiệp cho đệ tử đó đã phạm giới luật hay làm một chuyện gì đó có hại cho sự tu hành , nhưng người khác nhìn vào không biết được .
Ngài thấy rất rõ bầu linh khí (aura) của đệ tử hay bất cứ người nào đến với Ngài ; trong bầu linh khí đó , tất cả mọi việc đều được phơi bày như chúng ta nhìn vào tấm kính vậy . Với đầu óc và đôi mắt phàm phu , làm sao chúng ta biết được một người đã làm những gì , chỉ có người ấy và vị Minh sư biết được mà thôi . Cho nên có khi đệ tử bị la không bỏ đi vì biết lỗi của mình , nhưng người không bị la lại động tâm bỏ thầy .
Tùy mỗi đệ tử và tùy từng trường hợp , Ngài dùng những phương pháp cách dạy dỗ khác nhau . Có khi Ngài dùng phương pháp nhẹ nhàng như ân cần chăm sóc , thương mến vỗ về . Nhưng có khi Ngài phải dùng phương cách mạnh mẽ , đau đớn hơn để thức tỉnh họ . Cũng như cái áo hơi dơ thì chỉ cần nhẹ tay cũng giặt sạch , nhưng cái áo dơ quá thì phải chà xát mạnh hơn , có khi phải dùng đến thuốc thật mạnh để tẩy xóa . Trong trường hợp nầy , đương nhiên người được chăm sóc sẽ cảm thấy rất đau đớn . Nếu đạo tâm và đức tin không đủ , ngã chấp còn nhiều , người nầy sẽ bỏ thầy .
Ngoài ra vị Minh sư là tấm gương phản chiếu những gì phát ra từ chúng ta . Có một lần tác giả dự thiền tứ (Bốn ngày) ở Đài Loan . Lúc đó một nữ đồng tu người Trung hoa hỏi một câu gì đó , Vô Thượng Sư Thanh Hải bỗng nổi giận la cho một chặp . Liền sau đó một người khác hỏi Ngài , Ngài nhìn người nầy đầy thương mến và trả lời câu hỏi một cách vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra trước đó .
Người đồng tu ngồi cạnh bỗng nghiêng người nói nhỏ vào tai tác giả : "Tại sao Sư Phụ thay đổi nhanh như chong chóng vậy , mới giận dữ đó liền vui vẻ ngay ?" Tác giả thầm thì : "Có lẽ cô đó có cái gì đó không ổn mà mình không biết được ; còn bà kia có lẽ tâm hồn của bà vui vẻ , đơn thuần , nên được Sư Phụ trả lời một cách vui vẻ . Sư Phụ như một tấm kính chiếu soi gương mặt của chúng ta trong đó . Nếu mình cười , gương mặt trong gương sẽ cười lại với mình , nếu mình giận dữ , gương mặt sẽ phản chiếu lại gương mặt giận dữ của mình".
-
MINH SƯ VÀ TÔN GIÁO
Một thời gian sau , tác giả đọc lại bài tự thuật của một nữ đồng tu người Trung Hoa trên tạp chí của hội Thanh Hải , và nhận ra chính cô là người bị la rầy hôm đó . Cô nói trong kỳ thiền tứ đó , cô bị Sư Phụ la hai lần . Lần đầu , một hôm đến phiên nhóm đồng tu Âu Lạc (Việt Nam) được ngồi gần Ngài , cô muốn ngồi gần Thầy nên chen lẫn vào nhóm đồng tu người Âu Lạc để được ngồi phía trước . Cô nghĩ người Hoa và người Âu Lạc trông cũng giống nhau thôi , làm sao Sư Phụ biết được . Nhưng khi vừa mới bước vào , Ngài biết ngay nên la cô và đuổi cô xuống ngồi với nhóm người Hoa .
Lần thứ nhì , vì muốn được Sư Phụ chú ý đến mình nên cô lại tìm cớ hỏi chuyện , và một lần nữa cô lại bị Ngài la rầy . Tuy đau vì bị la rầy trước mặt mọi người nhưng cô hết sức phục Thầy . Cô tự biết bấy lâu nay cô tu hành rất tệ nên cô mới bị Thầy la khi gặp mặt . Từ ngày đó , cô ăn năn , vâng lời , tin tưởng Thầy và tu hành tinh tấn hơn .
Lực lượng của vị Minh Sư tại thế bất khả tư nghì . Chỉ cần được nhìn Ngài một lần hay chạm vào từ trường tâm linh của Ngài , người hay chúng sinh may mắn đó liền được gieo vào lòng hạt mầm tâm linh vô giá . Đẳng cấp tâm thức liền được hoán chuyển và nâng cao , mặc dù người đó hay chúng sinh đó hoàn toàn không hay biết . Phật Thích Ca đã cầm bình bát đi khất thực để nhiều người có cơ hội được nhìn pháp tướng của Ngài và được gieo duyên với Ngài . Ngài bận áo hở một bên vai , có lẽ vì muốn độ những con chim trời may mắn nhìn xuống thấy một phần thân thể của Ngài .
Trong phần chú giải của cuốn The Ocean Of Love viết : "Trong những sứ mạng của vị Minh Sư , có một sứ mạng đặc biệt là Ngài có quyền năng làm ngắn lại tiến trình thăng hoa của bất cứ chúng sinh nào . Ngài có thể ban phát cho chúng sinh từ những loài thấp được đầu thai làm người ngay , mà không cần trải qua quá trình tiến hóa (evolution) tự nhiên của đẳng cấp tâm linh (tức là đáng lẽ phải thăng hoa từ đất đá , côn trùng , chim chóc , thú vật rồi mới được thân người).
Minh sư Baba Sawan Singh (1859-1948) rất nổi tiếng thời bấy giờ nói : 'Khi một vị Thánh bước đi trên mảnh đất nào , đất đó sẽ biến thành tinh khiết và thiêng liêng . Khi Ngài bước trên cỏ hoặc trong khi bước đi như vậy , nếu vô tình Ngài giẫm chân lên một côn trùng nào , những cây cỏ và côn trùng đó sẽ được ban phát thân người ngay sau khi chết . Nếu trái của một cây nào hoặc hột nào của những cây ngũ cốc nào may mắn được Ngài dùng , những cây đó sẽ được thân người ngay mà không cần kinh qua những đẳng cấp côn trùng , chim chóc hay thú vật .
Ngay cả Ngài dùng tăm xỉa răng hay uống sữa , cái cây may mắn được làm ra cái tăm đó , hoặc con bò may mắn cho ra sữa đó sẽ được ban phát cho thân người ngay sau khi chết . Cũng tương tự như vậy với những con thú nào được Ngài cỡi , hoặc bất cứ những sinh vật khác như kiến , côn trùng ... được may mắn chạm vào dòng nước Ngài tắm , hay bất cứ con chim nào bất ngờ được thấy một phần thân thể trần của một vị Thánh , con chim may mắn đó sẽ được phước báu tương tự'.
-
MINH SƯ VÀ TÔN GIÁO
Những chúng sinh được ban cho thân người , mà không cần trải qua tiến trình tiến hóa tâm linh nầy , thường có những bất lợi như rất khó cho họ thích ứng với đẳng cấp mới cùng hoàn cảnh tâm linh mới ; vì những linh hồn nầy không quen với sự tự do nên thường lạm dụng nó bằng nhiều cách . Tuy nhiên họ lại có lợi điểm ; vì được ban cho thân người trực tiếp từ vị Minh sư , nên họ có khuynh hướng dễ bị lôi cuốn đến vị Minh sư tại thế , và có thể trở thành đệ tử của Ngài . Cho nên nếu có những đệ tử của Minh sư nào có thói quen tiểu thuyết hóa tiền kiếp của họ , hoặc tự nghĩ rằng họ xứng đáng với ân điển của vị Minh sư ban phát cho , họ phải nên tự ngẫm nghĩ lại trong trường hợp nầy .
Đây cũng là một trong những lý do vị Minh sư thường tìm đến những người thấp hèn , tội lỗi để cứu rỗi họ như kinh Thánh đã đề cập : 'Đương khi chúa Giêsu ngồi ăn tại nhà Mathiơ, có nhiều người thâu thuế cùng kẻ xấu nết đến ngồi ăn với Ngài và các môn đồ . Người Pharisi thấy vậy thì nói cùng môn đồ của Ngài rằng : Làm sao thầy của các ngươi lại ngồi ăn chung với họ vậy ? Đức Chúa nghe điều đó bèn phán rằng : Chẳng phải người khoẻ mạnh cần thầy thuốc đâu , song là người bịnh'. Mathiơ 9:10-12.
Ngoài ra , đây cũng là lý do tại sao các Ngài thường gặp rất nhiều phiền phức , gây ra bởi sự thiếu phẩm hạnh và hiểu biết về con đường tâm linh của các đệ tử thuộc về những linh hồn nêu trên".
Khi một người đến với vị Minh sư , Ngài chỉ nhìn vào linh hồn và sự thăng hoa của linh hồn người đó . Ngài không để ý đến những thứ bên ngoài như học thức hay không , giàu hay nghèo , tội lỗi nhiều hay ít ... Mary Magdalene là một cô gái điếm , nhưng bà đã tin nhận Chúa Giêsu là đấng Cứu thế nên đã được Ngài cứu rỗi .
Cho nên khi chúng ta đến với vị Minh sư , chúng ta cũng nên nhìn vào pháp thân của Ngài , vào lực lượng của Thượng đế ngự trị trong Ngài , và không nên phán xét Ngài qua những hành động hay những hiện tượng bên ngoài của Ngài .
-
Phỏng vấn Kỳ Nam , tác giả sách "Thanh Hải Vô Thượng Sư và Pháp Môn Quán Âm"
-
ĐẶC ĐIỂM CỦA MINH SƯ TẠI THẾ
CHƯƠNG 5
ĐẶC ĐIỂM CỦA MINH SƯ TẠI THẾ
Kinh Thánh nói "Ánh sáng đó là ánh sáng thật , đã đến thế gian để soi sáng mọi người . Ngài đã vào trong thế gian , nhưng thế gian chẳng nhận biết Ngài". Giăng 1:9-10. Thật vậy , vị Minh sư là người mang ánh sáng của Thượng đế đến giải thoát cho chúng ta , nhưng khi Ngài xuất hiện bằng nhục thể của một con người , rất khó cho chúng ta nhận ra Ngài , vì Ngài trông cũng không khác gì một con người bình thường . Tuy nhiên có một số đặc điểm có thể chúng ta nhận ra Ngài :
1 - Các Ngài cho chúng ta biết rằng chúng ta chứa đựng lực lượng vĩ đại của Thượng đế bên trong , và chúng ta cũng có khả năng trở thành Minh sư như các Ngài . Đức Phật nói "Ta là Phật đã thành , các con là Phật sẽ thành". Chúa Giêsu nói với người Do Thái : "Há chẳng phải trong Thánh thư của các ngươi có chép : Ta nói : các con là Thiên chúa sao ? " Giăng 10:34.
"Ta là cây nho , các con là cành nho". Giăng 15:5.
"Ai tin Ta sẽ làm việc Ta làm và người ấy sẽ làm những việc lớn hơn nữa". Giăng 14:12.
"Osho nói : - Ta là Phật , các ngươi cũng là Phật nhưng chưa nhận ra . Hôm qua ta còn say ngủ nhưng nay đã thức . Hôm nay các con còn say ngủ nhưng ngày mai sẽ thức . Khi tỉnh thức các con sẽ nhận ra tính Phật của mình". (Trích từ bài "Chu Dịch" của Nguyễn đình Phong).
"Việc đầu tiên Phật làm sau khi giác ngộ là quì xuống tạ ơn Dipankara Buddha (Nhiên Đăng Phật). Ba ngàn năm trước , sau khi nghe Dipankara giảng pháp , Gautama cúi xuống lạy . Trước sự ngạc nhiên của Gautama , Dipankara cúi xuống lạy Gautama .
Gautama hỏi : - Ngài là Phật nên con cúi lạy , nhưng tại sao Ngài cũng cúi lạy con ? Dipankara trả lời : - Ta là Phật nhưng con cũng là Phật tuy con chưa nhận ra . Cúi lạy con là ta cúi lạy Phật tính của con vậy". (Trích từ bài "Chu Dịch" của Nguyên đình Phong).
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Pháp môn của Sư Phụ dạy cho quý vị trở thành Minh sư , chứ không phải chỉ thờ phụng Minh sư thôi . Cho nên quý vị đừng tôn sùng Sư phụ , Sư phụ không cho đệ tử tôn sùng Sư phụ . Sư phụ chỉ dạy họ tìm sự vĩ đại của họ ở đâu , đi tìm chân giá trị của họ để trở thành Minh sư . Nếu quý vị nghĩ là Sư phụ vĩ đại thì Sư phụ sẽ dạy quý vị trở nên giống như Sư phụ vậy".
"Ông thầy hay vị Minh sư không phải là người mà quý vị lệ thuộc vào , nhưng từ những người nầy quý vị mới học hỏi được kinh nghiệm và trí huệ , rồi sau đó tự một mình quý vị bước đi . Nếu vị thầy là người xứng đáng , họ nên dạy học trò theo cách nầy . Điều tối hậu là bên trong vị Minh sư và bên trong của quý vị , qua vị Minh sư quý vị sẽ tìm được điều tối hậu".
"Quý vị phải nương tựa vào chính lực lượng của quý vị để có thể biết được sự vĩ đại của chính mình . Sư Phụ chỉ chỉ ra con đường cho quý vị mà thôi . Cho dù Sư phụ có vĩ đại đến mức độ nào chăng nữa , quý vị cũng không hưởng được lợi ích gì nếu quý vị không cố gắng khám phá ra sự vĩ đại của chính mình và sử dụng nó".
"Công việc của đệ tử là tu tập để trở thành Minh sư , vì vậy quý vị không nên mãi là đệ tử của Sư phụ . Quý vị thậm chí cũng không cần phải làm đệ tử của Sư phụ bởi vì quý vị thật ra đã là Minh sư , nhưng vì quý vị không biết điều nầy mà thôi . Cho nên công việc của Sư phụ là để chỉ cho quý vị biết làm cách nào để nhận thức lại chính mình , có thế thôi".
-
ĐẶC ĐIỂM CỦA MINH SƯ TẠI THẾ
"Những Minh sư đến đây không phải vì muốn chúng ta ca ngợi , vinh danh Ngài , mà là muốn giúp đỡ cho chúng ta biết được chúng ta là ai , và chúng ta và họ đều như nhau . Nếu chúng ta đi theo bước chân giống như họ , thì chúng ta sẽ thấy sự vĩ đại của chúng ta và họ đều như nhau".
2 - Vị Minh sư tại thế là người không những tán thán Pháp môn Quán Âm , mà Ngài còn có quyền năng truyền Tâm Ấn cho đệ tử , tái sinh linh hồn của đệ tử , và cho đệ tử bằng chứng của sự khai ngộ : sự tự thể nghiệm Âm thanh và Ánh sáng bên trong của Thượng đế .
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Còn về lực lượng của thầy , lúc thọ Tâm Ấn quý vị có thể biết được phần nào . Sau một thời gian tu hành , quý vị tự tịnh hóa chính mình thì sẽ được hiểu thêm , khi trí huệ khai mở quý vị sẽ nhận thức được sự vĩ đại của vị Minh sư . Để nhận ra vị Minh sư chân chính , không phải chỉ trong một ngày , nhưng quý vị có thể biết chút ít qua thể nghiệm mà vị nầy đã cho quý vị trong khi giao tiếp hoặc lúc truyền Tâm Ấn".
"Một vị thầy phải có thể cho chúng ta 'sanh mạng', không để cho chúng ta đời đời kiếp kiếp luân hồi sinh tử , vị đó có thể dẫn chúng ta giải thoát , chỉ cho chúng ta tìm được Sư phụ của mình (Phật tính , bản lai diện mục , linh hồn), như vậy mới gọi là thầy . Nếu không thầy chỉ là một thứ tên để xưng hô chứ không có lực lượng thật sự của một Chân sư . Tôn xưng Cha vì người đó như người cha , có thể sanh trở lại chân thể của chúng ta , để cho chúng ta vĩnh viễn không chết".
3 - Các Ngài đều nói rằng chúng ta không cần đi đâu cả để tìm Phật , tìm Thượng đế . Bởi vì Thượng đế không ngự trong những đền thờ hay trong những hình tượng làm bằng bàn tay của con người , mà Thượng đế thực sự ngự trị trong chính cái đền thờ thân thể của chúng ta . Các Ngài cũng không dạy chúng ta tu khổ hạnh , nhịn ăn , đi hành hương , lạy sông , lạy núi , lạy tượng ...
Phật giáo nói "Phật tại tâm", chúng ta nên nội quan quán chiếu để tìm ra vị Phật bên trong của mình . Kinh Thánh nói rõ ràng là Thượng đế ngự trị bên trong chúng ta và khuyên chúng ta đừng thờ lạy những hình tượng làm bằng vàng , đồng , đá , gỗ bên ngoài :
"Những người còn lại , tức là những người không bị giết bởi những tai hoạ ấy , vẫn không ăn năn công việc của tay họ . Họ vẫn không từ bỏ sự thờ lạy các quỷ và các thần tượng làm bằng vàng , bằng bạc , bằng đồng , bằng đá , bằng gỗ là những thứ không thể thấy được , không thể nghe được và không thể đi được". Khải Huyền 9:20.
"Anh chị em há chẳng biết mình là đền thờ đức Chúa trời và đức Thánh linh của đức Chúa trời đang ngự trị trong anh em sao ?" I Côrinhtô 3:21.
"Người ta sẽ không nói : ở đây hay là ở đó , vì nước Đức Chúa Trời ở trong ngươi". Luca 17:21.
"Nhưng đền thờ mà Ngài muốn nói đó là để chỉ về ngôi đền thờ của thân thể Ngài". Giăng 2:21.
"Kìa nhà của đức Chúa trời ở giữa loài người , và Ngài sẽ ngự trong họ". Khải Huyền 21:3.
"Đức Chúa Trời là đấng dựng nên vũ trụ nầy và mọi vật trong đó . Đấng chúa tể của trời và đất nầy không ngự trong các đền thờ do tay loài người làm nên . Ngài cũng không cần con người sùng bái Ngài bởi những bàn tay của họ". Công Vụ 17:24-25.
"Đừng thờ thần tượng như một số người trong vòng họ đã thờ". I Côrinhtô 10:7.
"Vậy xin anh em hãy lánh xa sự thờ thần tượng". I Côrinhtô 10:14.
-
ĐẶC ĐIỂM CỦA MINH SƯ TẠI THẾ
Trong kinh Cựu Ước , điều Răn thứ hai của Đức Chúa Trời nói : "Ngươi chớ làm tượng chạm , cũng đừng quỳ lạy và hầu việc chúng . Con người không được phép làm tượng của người nào hay một vật gì , ở trên Trời hay dưới đất ; cũng không được quỳ lạy trước các hình tượng đó và không phục vụ hay dâng lễ vật cho các hình tượng". Xuất Êdíptôký 20:4-5.
Trong cuốn The Ocean Of Love , Minh sư Kabir cho biết Kal , Giáo chủ Tam giới sẽ tạo nên kinh Vệ đà , Shastras , Simritis và nhiều kinh điển khác để người ta chỉ chú ý đến những thứ nầy , mà quên đi việc quan trọng là đi tìm vị Minh sư tại thế .
Ngài tiết lộ tất cả ba vị thần Brahma , Vishnu và Shiva sẽ đặt nhiều cạm bẫy và từ miệng họ sẽ truyền bá kiến thức và giáo lý của lực lượng Ma vương để giam cầm chúng ta trong Tam giới . Họ sẽ làm cho linh hồn sùng bái đền thờ , những tượng , những hòn đá và sẽ bị bận rộn vào việc đi hành hương , nhịn ăn ... Tất cả thế giới sẽ sùng bái , thờ lạy Thượng đế xuyên qua việc giết người hay thú vật để cúng tế hay cúng quỷ thần .
Ngài cũng nói Kal sẽ làm cho những linh hồn bị cột chặt vào những việc nầy , sẽ đặt ra những việc như tu khổ hạnh , hy sinh như giết người hay vật để tế thần , tạo ra những nghi lễ hàng ngày , đặt ra những luật lệ về đạo đức và nhiều thứ bẫy khác nữa để những linh hồn bị lầm lạc , không thể nhận ra vị Minh sư tại thế .
4 - Vị Chân sư luôn luôn là người cho chứ không phải là người nhận . Ngài không bao giờ sống nhờ vào tiền bạc , tài sản của bất cứ người nào , hoàn toàn không nhận sự cúng dường của bất cứ ai cho sự tiêu xài riêng tư của Ngài , cho dù là đệ tử của Ngài . Ngài tự lo liệu lấy bằng cách làm việc để kiếm sống như tất cả mọi người .
Nhìn vào tấm gương sống của Ngài , đệ tử của Ngài cũng phải tự lực cánh sinh để không bị lệ thuộc vào thế gian và mắc nợ thế gian . Căn cứ vào câu "Phật cho , Ma lấy", chúng ta có thể nhận ra vị Chân sư nhờ vào đặc điểm chỉ cho mà không lấy của Ngài . Nhưng đặc điểm nầy đôi khi lại làm cho những người phàm phu khó lòng hiểu nổi ; vì đã quen với với sự lợi dụng của người đời nên họ đâm ra nghi ngờ , nghĩ rằng làm gì có chuyện chỉ cho mà không nhận . Thánh Phao Lồ nói : "Tôi không ham bạc vàng hay áo quần của ai hết . Anh chị em đã biết rõ là đôi tay nầy đã làm việc để cung cấp nhu cầu của tôi và những người đi với tôi . Chúa Giêsu chính Ngài đã phán 'Ban cho có phước hơn nhận lãnh'."
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Ít nhất người nầy không muốn thứ gì từ quý vị , đó là dấu hiệu an toàn , quý vị có thể bỏ đi bất cứ lúc nào mà không bị thiệt hại gì".
"Những Minh sư không nhận cúng dường để dùng vào việc riêng tư . Họ sinh sống bằng những gì do chính tay của họ làm ra . Đây là điều kiện tiên quyết vì Thượng đế chỉ cho mà không lấy".
Các Ngài đến để hy sinh , dâng hiến và phụng sự cho con người , chứ không phải để được hiến dâng và phục vụ . Chúa Giêsu nói : "Vì Con Người đến không phải để được phục vụ , mà để phục vụ và phó mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người". Mác 10:45.
-
ĐẶC ĐIỂM CỦA MINH SƯ TẠI THẾ
5 - Các Ngài dùng trí huệ , sự khai ngộ , tình thương , lý luận của Ngài để thuyết phục chúng ta . Ngài không dùng thần thông hay bất kỳ sự dụ dỗ nào để lôi kéo chúng ta ngoại trừ trong rất ít trường hợp , Ngài phải dùng thần thông vì một lý do đặc biệt nào đó .
Rarain Dass viết : "Chúa Giêsu đã cố gắng tránh những việc biểu diễn thần thông nơi công chúng . Ngài dặn rằng : 'Hãy coi chừng , đừng nói với ai điều gì ... Nhưng người ấy (Một người bị bịnh phung được chữa lành khi Ngài đưa tay chạm vào người ấy) đi ra rao báo cho nhiều người và đồn rao chuyện này ra , đến nổi Ngài không thể vào thành một cách công khai được'. Mác 1:44-45.
'Khi đám đông tụ lại càng đông hơn , Chúa Giêsu bắt đầu phán : Thế hệ nầy là một thế hệ gian tà , họ đòi xem một dấu lạ , nhưng họ sẽ không được ban cho dấu lạ nào , ngoại trừ dấu lạ của Giôna . Vì Giôna đã trở thành một dấu lạ cho dân Ninie thế nào thì Con Người cũng sẽ thành một dấu lạ cho thế hệ nầy thế ấy'. Luca 11:29-30.
Dĩ nhiên những đệ tử sau khi thọ Tâm Ấn với vị Minh sư và tiến bộ bên trong sẽ nhận được rất nhiều bằng chứng về những phép lạ nầy".
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Những người tu pháp môn Quán Âm phải vì trí huệ mà đến , với giáo lý của Sư Phụ phải hiểu cho rõ ràng , tin tưởng Sư Phụ mà đến , tin tưởng pháp môn Quán Âm mà đến , chứ không phải vì những lý do khác , có hiểu ý của Sư Phụ không ?
Cho nên Sư Phụ không cho quý vị (đệ tử) dùng bất cứ một diệu kế nào , bất cứ thần thông nào , mưu kế nào để thu hút người khác đến . Sư Phụ cũng không cho phép quý vị dùng thần thông để cứu bịnh cho người , không cho quý vị coi bói toán ... Nếu như Sư Phụ muốn pháp môn Quán Âm truyền ra rất mau , chỉ cần sử dụng thần thông cứu bịnh thì cả Đài Loan sẽ chạy đến , hà tất phải dùng pháp môn bói toán cỏn con của quý vị . Sư Phụ có rất nhiều pháp môn để sử dụng , nhưng Sư Phụ học Phật rất tự tại , ai muốn đến thì đến , Sư Phụ không dùng bất cứ diệu kế nào để lôi cuốn người khác".
"Phật Bồ Tát không cố ý độ người hay dùng thần thông quyến rũ người khác hay làm những gì đặc biệt . Tình trạng nầy tự nhiên mà có , nếu như còn cố ý là vẫn chưa phải là Đạo . Nếu như Sư Phụ còn phải đi lấy nước cho quý vị uống , nghĩa là Sư Phụ vẫn chưa phải là nước . Nếu Sư Phụ là nước , quý vị sẽ biết liền . Chúng ta chỉ đụng vào thân thể sẽ ướt liền , cảm thấy mát liền , cũng có thể vốc lên uống".
6 - Dù bị người đương thời chống đối và phỉ báng dữ dội , Ngài vẫn thẳng thắn , kiên trì , dũng cảm và nhẫn nhục để hoàn thành sứ mạng Thượng Đế giao phó cho Ngài . Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Các Minh sư rất kiên tâm , dũng cảm và chịu đựng . Tâm chịu đựng chân chính là bất luận người khác phỉ báng điều gì vô lý , vẫn tiếp tục hoằng pháp . Không phải gặp phỉ báng thì chùn chân thoái bước , không phải hễ người ta nói chúng ta là ngoại đạo thì lập tức trốn chạy , cho rằng người ta nói như vậy tôi rất e ngại , không dám đi giảng kinh nữa . Không thể như vậy được , tán thán và phỉ báng đều như nhau , người ta phỉ báng lại càng nên tiếp tục hoằng pháp nữa .
-
ĐẶC ĐIỂM CỦA MINH SƯ TẠI THẾ
Những người phỉ báng cũng là Phật , Bồ tát , sự cản trở của họ cũng là trợ giúp , tại sao vậy ? Vì có thể gạt những người không xứng đáng ra bên ngoài . Họ nghe một chút ít phê bình bên ngoài thì tin liền người nầy người kia là ngoại đạo , những người đó căn bản không đáng được dạy dỗ , dạy họ sẽ rất phiền . Nghe người ta phê bình một câu là lập tức tin theo , không có trí huệ phân biệt chuyện thị phi . Những người đó đương nhiên là bị cản ở bên ngoài . Họ sẽ đi quảng cáo người nầy người kia là ngoại đạo ... Những người ưa nghe chuyện nhảm lập tức sẽ tin ngay , tự nhiên không muốn đến nghe kinh , tự nhiên không muốn đến học đạo . Cho nên những người phỉ báng cũng rất đỡ rất nhiều , không phải nói làm như vậy là xấu , nghịch lại Sư phụ , mà là Sư Phụ rất cám ơn những người đó , nhưng vì họ không phỉ báng trước mặt Sư phụ nên Sư phụ không có cơ hội cám ơn họ .
Độ chúng sinh là một chuyện không đơn giản , căn cơ chúng sinh bất đồng , cần phải dạy dỗ mỗi người một cách riêng . Lúc Phật còn tại thế mở hội Pháp hoa , có năm ngàn người rời khỏi pháp hội của Ngài , cũng phỉ báng Ngài . Ở Ấn độ hơn hai ngàn năm về trước cũng đã vậy rồi , huống chi hiện tại . Cho nên những người phỉ báng tức là Bồ tát , quý vị đừng ra ngoài công kích họ".
Người đời chống đối , phỉ báng các Ngài vì nhiều lý do :
- Lý do thứ nhứt là vì họ không nhận ra Ngài và không hiểu được giáo lý của Ngài . Chúa Giêsu nói : "Khi một người nghe ta rao giảng về đạo của Nước Trời mà không hiểu , thì ác quỷ đến cướp giật đi những gì đã gieo vào lòng người ấy . Đây là hạt giống đã rơi trên mặt đường". Mathiơ 13:19.
Phật Thích Ca sau khi thành Đạo đã có ý muốn nhập Niết bàn , vì Ngài nghĩ rằng việc đắc pháp của Ngài thật là sâu xa , người đời khó mà hiểu được , chỉ có Phật mới hiểu được Phật mà thôi . Bởi vì tâm trí họ bị che lấp bởi tham sân si , tà kiến , kiêu mạn , tà mê , còn vì bạc phước độn căn , không đủ trí huệ . Nhưng nhờ lúc ấy có Đại Phạm Vương đến xin ; vì lòng từ bi , Ngài đã ở lại truyền bá pháp môn Quán Âm , giải thoát sinh tử luân hồi cho những người đến với Ngài lúc ấy .
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Bị phỉ báng là chuyện tự nhiên bởi hai người không cùng trí huệ , hiểu biết như nhau , hướng nhìn cũng khác nhau . Phật Thích Ca đã từng nói ngoài Phật ra hoặc những Bồ tát đẳng cấp cao , không ai có thể hiểu được Phật . Những loại trí huệ vô lượng vô biên nếu chúng ta không đạt được , không vận dụng trí huệ nầy , thì làm sao chúng ta hiểu được".
"Mỗi lần có một vị giáo chủ ra đời , giáo lý của Ngài dạy thông thường người khác không chịu chấp nhận . Chân lý đã thất truyền lâu rồi , người đời sau đều chỉ nghe người ta nói mà thôi , tự mình không thể nghiệm cho nên tưởng rằng Ngài dạy những thứ gì khác , liền phỉ báng".
-
ĐẶC ĐIỂM CỦA MINH SƯ TẠI THẾ
- Lý do thứ hai là vì Ngài luôn nói sự thật , và không nói để làm vừa lòng người nghe . Ngài nói thẳng những hình thức bên ngoài như nghi lễ , thờ cúng những tượng , hành hương , nhịn ăn , khổ hạnh ... đều không dẫn chúng ta đến việc giải thoát , hãy đến với các Ngài khi các Ngài còn tại thế để được dẫn dắt về nhà . Những gì Ngài nói không giống như những gì chúng ta thường làm , thường nghe nên chúng ta cho rằng Ngài là ngoại đạo .
Bình thường các Ngài không bao giờ muốn nói về địa vị tâm linh của mình , nhưng nếu có người hỏi , Ngài phải nói sự thật . Thí dụ như có người hỏi Ngài có phải là đấng Cứu rỗi , Phật , Thánh không . Ngài sẽ trả lời phải , và khi nói ra sự thật nầy những hiểm nguy , rắc rối sẽ đến với Ngài ; bởi vì người không tin sẽ cho rằng Ngài kiêu mạn nên phỉ báng hay tìm cách giết hại Ngài .
Trong một buổi thuyết pháp , có người hỏi Vô Thượng Sư Thanh Hải có phải Ngài là đấng Cứu rỗi không . Ngài trả lời : "Nếu tôi trả lời phải , tôi có bị đóng đinh không ? Còn nếu tôi trả lời không thì tôi đến đây để làm gì ?"
Thật ra Minh sư là những người khiêm tốn nhất thế gian . Vô Thượng Sư Thanh Hải nói lúc các Ngài đắc đạo , phản ứng đầu tiên của các Ngài là rất ngạc nhiên , vì thấy rằng tất cả chúng sanh đều là Phật , là Thánh , tại sao họ lại không biết !
Đọc bài thơ sau đây của Vô Thượng Sư Thanh Hải , chúng ta sẽ cảm nhận được tâm trạng của Ngài cũng như các Minh sư khác khi thành đạo . Lúc ấy , các Ngài thấy "không có chúng sanh để cứu độ", vì biết rằng tất cả chúng sanh đều là Phật , là Thánh .
Sắc Không
Bước một bước là trở về nguyên thủy ,
Lùi một ly là trở lại trần ai !
Thì vẫn vậy năm qua và tháng lại
Khác gì đâu thế tục với liên đài ...
Ta vẫn ngỡ Niết bàn là thế thế ,
Nào ngờ đâu lầm lạc đã bao ngày !
Phút khai ngộ ngỡ ngàng đâu tứ đại
Hề càn khôn ! Một giấc mơ dài !
Mới rõ Phật bốn mươi năm lặng lẽ
Tổ Đạt Ma cũng chẳng thốt một lời .
Rồi mai đây về đâu mà giải thoát ,
Chúng sanh đâu mà độ khỏi luân hồi .
-
ĐẶC ĐIỂM CỦA MINH SƯ TẠI THẾ
- Lý do thứ ba người đời chống đối vị Minh sư vì họ hoang mang , nghĩ rằng nếu pháp môn Quán Âm là chánh pháp tại sao không truyền công khai cho đại chúng , mà chỉ truyền cho đệ tử trong vòng bí mật .
Có hai loại giáo pháp : Một loại là Hiển giáo (exoterics), giáo lý bên ngoài , được công khai truyền bá trong công chúng (ngoại giáo công truyền). Đó là những lời thuyết pháp trước công chúng của vị Minh sư hay kinh điển , sách vỡ của Ngài . Loại thứ hai là Mật pháp (esoterics), được vị thầy truyền trực tiếp và bí mật cho đệ tử (nội giáo bí truyền) khi Ngài còn tại thế .
Các tôn giáo chỉ có hiển pháp mà không có mật pháp , Pháp môn Quán Âm bao gồm cả hai : vừa có giáo lý của Minh sư bên trong , vừa có Mật pháp do Ngài truyền đạt bên trong .
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn của Phật giáo , Ngũ Tổ biết Huệ Năng là người có căn duyên , ngộ đạo nên muốn truyền pháp Quán Âm cho Huệ Năng : "Hôm sau Tổ lén đến nhà giã gạo , lấy gậy gõ lên cối ba cái rồi bỏ đi . Huệ Năng hiểu ý Tổ , nên canh ba vào thất . Tổ dùng áo cà sa che lại không cho người thấy , rồi truyền phép Đốn ngộ giáo cho Huệ Năng".
Ngũ tổ đã phải "lén" đến nhà giã gạo , và vì không muốn cho người khác biết nên phải dùng tín hiệu "lấy cây gậy gõ lên cối ba lần", lại "lấy áo cà sa che lại không cho người thấy" khi truyền pháp .
Ngũ Tổ nói với Huệ Năng : "Còn pháp thì lấy tâm truyền tâm , khiến cho người tự mình sáng tỏ , tự mình hiểu biết . Từ xưa chư Phật chỉ truyền cái bổn thể (bổn tánh , Phật tánh) là cội rễ của các pháp và chỉ trao 'kín' cái bổn tâm mà thôi".
Bồ Đề Đạt Ma đã dùng phép Đốn Ngộ , dùng tâm truyền tâm "trực chỉ nhơn tâm , kiến tánh thành Phật", bí mật truyền ngoài các giáo lý phổ thông "giáo ngoại biệt truyền". Đây là chủ yếu của phái Bát Nhã Thiền tông , thuộc về Đại Đạo , là chánh pháp của Phật giáo . Kinh Thánh cũng nói rằng đây là mạt pháp , chỉ truyền cho những người được lựa chọn khi chúa Giêsu còn tại thế : "Cha Ta đã trao mọi sự cho Ta . Không ai biết rõ Con ngoài Cha , cũng không ai biết rõ Cha ngoài Con , và kẻ Con chọn (đệ tử) để giải bày cho". Laca 10:22. "Ta đã cho các người (môn đồ) biết những bí mật của Thiên Quốc , nhưng đối với những người ngoài (người chưa thọ pháp với Ngài), thì vẫn phải dùng ẩn dụ mà nói , để họ xem mà không thấy , lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết". Luca 8:10, Mác 4:11-12. Đệ tử của chúa Giêsu cũng phải thực hành pháp môn trong bí mật : "Nhưng khi người cầu nguyện , hãy vào phòng riêng , đóng cửa lại rồi cầu nguyện với Cha ngươi ở nơi kín nhiệm đó , và Cha ngươi là đấng thấy trong chỗ kín nhiệm đó sẽ thưởng cho ngươi". Mathiơ 6:6.
-
ĐẶC ĐIỂM CỦA MINH SƯ TẠI THẾ
7 - Có một vài dấu hiệu khi vị Minh sư tại thế xuất hiện ; đó là sự ồn ào , phỉ báng và chống đối của người đời , và có khi Ngài cố tình gây ra những việc như vậy . Minh sư Huzur Baba Sawan trong cuốn Philosophy of the Masters (Triết lý của các Minh sư), ấn bản tiếng Anh lần đầu tiên năm 1973 tại Ấn độ viết :
"Bất cứ khi nào những vị Phật , Thánh hay những Đấng thiêng liêng xuất hiện , đôi khi Ngài tạo nên một bầu không khí làm cho những người trí óc còn phàm phu không ưa và rất khó chịu . Sở dĩ Ngài làm như vậy để những người nô lệ của thế giới nầy và những kẻ chỉ biết tôn thờ tiền bạc , thường bu quanh Ngài như ruồi , sẽ tản đi nơi khác , để cho những người thành tâm cầu đạo không bị làm phiền . Chính Ngài cố ý gây nên những chỉ trích , phê bình đó .
Chẳng lẽ không có ai giữ cửa cho các Ngài sao ? Dĩ nhiên phải có người gác cửa , để những người phàm phu không thể chen chân vào được . Những hành động phỉ báng và những người phỉ báng chính là những hộ pháp cho các Ngài , ngăn cản không cho những người không xứng đáng đến gần Ngài .
Minh sư Nanak nói bất cứ khi nào vị Minh sư xuất hiện , Ngài thường bị những người theo những hình thức bên ngoài của các tôn giáo phê bình và chỉ trích . Chỉ có một số ít người theo Ngài , và rồi họ cũng bị người đời chỉ trích , gièm pha . Người ta sẽ quên di sự hội nhập với Dòng Âm Lưu nội tại , mà chỉ đọc những chữ viết hay quỳ gối đọc những lời cầu nguyện . Người ta sẽ tụng niệm những tên của các Minh sư , mà không biết đến con đường cứu rỗi bên trong".
8 - Vị Minh sư có biện tài vô ngại . Bất cứ thắc mắc nào liên quan đến bất luận việc gì , Ngài đều có thể trả lời một cách nhanh chóng , thông suốt và rõ ràng ; trong lời nói của Ngài có sức mạnh của một sự tin chắc và chúng ta có thể cảm nhận được . Bởi vì sự hiểu biết của Ngài không đến từ kinh điển , sách vở , kiến thức thế gian , nhưng đến từ chân lý và trí huệ của Thượng đế . Chúa Giêsu nói : "Chúng ta nói điều chúng ta biết , chúng ta làm chứng điều chúng ta thấy , thế mà các ngươi không chịu nhận những lời chứng của Ta". Giăng 3:11.
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Không thể chứng minh được nhiều một người sau khi khai ngộ . Quý vị nhìn thấy Phật Thích Ca có gì khác những người Ấn độ khác không ? Không có , quý vị đi Ấn độ sẽ thấy phần đông những người Ấn độ đều giống như Phật Thích Ca vậy . Một số người Do thái cũng giống như Chúa Giêsu vậy . Sau khi họ khai ngộ , có thể chúng ta nhận không ra , nhưng lúc chúng ta nói chuyện hoặc là đặc câu hỏi với họ , họ trả lời một cách lưu loát , nhanh chóng , không cần phải suy nghĩ . Bất cứ câu hỏi gì họ cũng có thể trả lời , từ điểm nầy chúng ta biết được họ có một thứ gì khác thường bên trong . Nếu họ truyền pháp cho chúng ta , chúng ta có một chút ấn chứng thể nghiệm của khai ngộ giống như kinh điển đã nói vậy , thì chúng ta có thể kết luận người đó đã được khai ngộ . Không theo học với người đó thì chúng ta sẽ không hiểu được nhiều . Càng học với họ chúng ta càng biết được người đó vĩ đại như thế nào . Nếu chỉ đứng ngoài nhìn vào thì họ cũng giống như người bình thường mà thôi".
-
ĐẶC ĐIỂM CỦA MINH SƯ TẠI THẾ
9 - Trong lúc Ngài đang thuyết pháp hay nói chuyện , nếu chúng ta có một thắc mắc nào đó nhưng chưa kịp hỏi , tự nhiên sau đó Ngài sẽ giải đáp cho chúng ta .
10 - Khi ở trong sự hiện diện của Ngài , chúng ta cảm thấy bị lôi cuốn đến Ngài một cách mãnh liệt . Chúng ta ngây ngất đắm chìm trong niềm hạnh phúc , an lạc và tình thương lai láng tỏa ra từ Ngài . Chúng ta không muốn xa Ngài dù chỉ một bước , không muốn rời mắt khỏi Ngài dù chỉ một giây . Tại sao lại lạ lùng như vậy ? Đây chỉ là luật đồng tánh tương ứng với nhau . Ngài chứa đựng cái ái lực bao la của Thượng Đế bên trong ; ái lực nầy sâu đậm gấp triệu lần so với tình yêu cha mẹ , con cái hay nam nữ thường tình . Cho nên cái ái lực nhỏ của chúng ta sẽ bị cái ái lực lớn của Ngài hấp dẫn , như sắt bị hút bởi nam châm , như con thiêu thân lao mình vào ánh sáng , như ong bướm bị quyến rũ bởi mật ngọt , hương hoa .
Trong kinh Thánh , Mary Magdalene rất thương yêu chúa Giêsu : "Mary lấy một cân dầu cam tùng nguyên chất rất quý giá xức chân đức chúa Giêsu , rồi lấy tóc mình mà lau . Mùi thơm ngào ngạt tỏa ra khắp nhà". Giăng 12:3 , Luca 7:37-38. Sự quý trọng và tình thương thắm thiết của Bà dành cho Ngài đã làm cho những người phàm phu ngộ nhận , vì họ không thể nào hiểu được tình yêu thiêng liêng và sâu đậm giữa đệ tử với vị Minh sư .
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Một người khai ngộ có tình yêu rộng lớn hơn nên lôi cuốn được nhiều người . Mọi người cảm thấy được an tâm , thương mến và bảo bọc . Người đời không hiểu được điều nầy ; họ nhìn chúa Giêsu hay các bậc giác ngộ khác với cặp mắt tầm thường , tham lam và phàm phu".
"Minh sư đạt được ái lực của siêu thế giới rồi , khi ra ngoài mọi người cảm thấy hình như ta có cái gì hấp dẫn , dễ thương không thể diễn tả được , và họ chỉ muốn nhìn chúng ta , theo sau chúng ta . Chúng ta chỉ cần nhìn họ một lần , mọi người cũng cảm thấy dễ chịu rồi , khỏi cần ta nói thương yêu họ . Ái lực nầy thuộc siêu Tam giới vượt khỏi tình yêu nam nữ , tình phụ mẫu , khiến kẻ địch cũng bị cảm động".
Cũng sức hấp dẫn mãnh liệt nầy từ vị Minh sư , người đời không thể nào hiểu nổi , nên cho rằng có lẽ vị thầy bỏ bùa hay làm pháp thuật để câu hồn . Nếu Ngài bỏ bùa hay câu hồn thì sẽ bỏ hết cho tất cả mọi người , tại sao chỉ "câu" có một thiểu số mà thôi ? Trong số hàng tỷ dân trên thế giới , bao nhiêu người may mắn đã đến với Ngài ? Trong số những người đến dự những buổi thuyết pháp của Ngài , chỉ có một số ít xin thọ pháp với Ngài mà thôi .
Ngoài ra thông thường mục đích của người bỏ bùa là để lấy tiền bạc , tài sản của người bị bùa hay lợi dụng họ điều gì đó . Vị Minh sư không bao giờ lấy tiền bạc hay lợi dụng đệ tử để làm bất cứ điều gì cho cá nhân Ngài . Sau khi thọ Tâm Ấn , mỗi đệ tử về nhà tự tu . Vị thầy thậm chí không biết mặt hay danh tánh họ , không cần biết họ ở đâu , cũng không màng để ý đến nhứng thứ bên ngoài như giàu nghèo , tốt xấu , học thức hay vô học ... Nhưng bên trong Ngài biết rõ từng người , vì sau khi thọ pháp hai linh hồn đã được kết hợp với nhau .
Hơn nữa , khi nhìn một người bị bỏ bùa chúng ta sẽ biết ngay , họ trông thất sắc , thất thần , ngơ ngáo , hôn trầm . Chúng ta hãy nhìn những người đã thọ Tâm Ấn xem thần sắc họ như thế nào , họ có tươi sáng hơn xưa không , có sáng suốt không , có vẫn làm ăn sinh sống đàng hoàng như một người bình thường không ? Hãy quan sát và nhận xét , chúng ta sẽ có câu trả lời .
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Tại sao Trời không cứu nổi mình , quý vị có hiểu không ? Tại vì con người là một chúng sanh cao nhất trong vũ trụ . Chúng sanh không muốn Trời đến là Trời cũng không dám đến . Chúng sanh không cầu là Phật không độ được . Quý vị rất cao quý , rất vĩ đại ; nếu quý vị không cho phép , không có ông Phật nào độ được hết . Cho nên đừng nói là Sư phụ dụ dỗ , dùng bùa ngãi . Dùng sao được ?"
Chúng ta có ngạc nhiên không khi một đoàn thể bị cho là tà đạo , trong khi họ giữ giới luật rất nghiêm minh và thiền định mỗi ngày theo giáo pháp tất cả các Minh sư tự cổ chí kim đã truyền dạy . Trong Lục Độ Ba La Mật của Phật giáo có bố thí , trì giới , nhẫn nhục , tinh tấn , thiền định , trí huệ . Những người tu pháp môn Quán Âm là những người thực sự thực hành Lục Độ nầy . Đức chúa Giêsu đã thiền định bốn mươi ngày trước khi Ngài thành Thánh , đức Phật cũng đã thiền định bốn mươi chín Ngài trước khi Ngài thành chánh quả . Nếu các Ngài không hành thiền trước thời gian đó , làm sao các Ngài có thể ngồi một lúc lâu đến bốn mươi hay bốn mươi chín ngày ?
Chúng ta hãy bình tâm nhận xét cẩn thận , hãy theo pháp của vị Minh sư và đừng nhìn vào những hiện tượng bên ngoài của Ngài . Tà hay không tà rất dễ thấy . Có thể trong tâm linh chúng ta không nhận ra Ngài , chưa biết được sự vĩ đại của Ngài , nhưng chúng ta cũng có thể nhận ra Ngài qua những đặc điểm kể trên .
Chúng ta cũng có thể nhận xét Ngài qua gương sống đầy tình thương , vị tha và tinh thần hy sinh cao cả của Ngài , cũng như qua những giới luật (không sát sanh , không nói dối , không trộm cướp , không tà dâm , không cờ bạc , không hút thuốc , không uống rượu , không xì ke , ma túy) mà Ngài đòi hỏi đệ tử của Ngài phải tuân theo .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM DÒNG ÂM LƯU NỘI TẠI (NGÔI LỜI , DIỆU ÂM)
Các Minh Sư tự cổ chí kim đã ca ngợi pháp môn Quán Âm "Quan Yin method" là loại yoga cao đẳng nhất trong tất cả các loại yoga ; bởi vì thực tập môn nầy sẽ dẫn đến việc giải thoát sinh tử luân hồi , đưa linh hồn về hội nhập với đấng Tối cao .
Đức tin vào Thượng đế và con đường của các Minh sư không phải là tôn giáo (non-denomination). Pháp môn Quán Âm là một ngành khoa học tâm linh (spiritual science) hay ngành khoa học của linh hồn (soul science). Pháp môn nầy được vị Minh sư truyền cho đệ tử lúc Ngài còn tại thế .
Con đường của các Minh sư vì vậy không có những lễ nghi , hình thức bên ngoài , không có tu sĩ , đền thờ , nhịn ăn , khổ hạnh , hành hương ... mà chỉ có sự thực hành thiền dòng Âm lưu và ánh sáng bên trong của Thượng đế . Bất cứ ai , không phân biệt chủng tộc , địa vị xã hội , giàu nghèo , học thức hay không ... cũng đều có thể vào pháp môn .
Các Minh sư gọi pháp môn Quán Âm bằng nhiều tên khác nhau , nhưng giáo lý của các Ngài cũng như cách thực tập pháp môn nầy từ cổ chí kim không bao giờ thay đổi . Vì pháp môn nầy không phải do con người hay bất cứ vị Minh sư nào đặt ra , mà đây là con đường thiêng liêng đã có từ xa xưa của đấng Tối Cao . Lục Tổ Huệ Năng nói : "Giáo pháp (pháp mạch) là do bậc Thánh xưa truyền lại , chẳng phải tự trí của Huệ Năng". Thánh kinh nói : "Như Ngài đã phán trước qua miệng của các Tiên tri Thánh của Ngài đã có từ xưa". Luca 1:70.
Chân lý , Lẽ Thật hay Sự Thật (the Truth) thường được đề cập trong các kinh điển không phải là những danh từ trống không để chúng ta bàn cãi , lý luận bằng lý trí của con người . Chân lý là sự thị hiện của Thượng đế (God's manifestation) trong thân thể con người , là "Dòng Âm Lưu nội tại" (the inner Sound Current) có quyền năng đưa chúng ta về lại đấng Tối Cao .
Dòng Âm lưu được đề cập rất nhiều trong kinh điển của các tôn giáo , nhưng phần đông những tín đồ của các tôn giáo không biết nó là gì . Dòng Âm lưu được gọi bằng nhiều tên khác nhau như Âm nhạc Thiên đường (the Heavenly Music), Nhạc Trời (the Audible Life Stream), Nội Âm (the Shab), Âm thanh Vĩnh cửu (The Eternal Sound), Âm nhạc Vũ trụ (Music of the Sphere), Logos (Thánh từ) ...
Các nhà Huyền học Ba tư gọi nội âm nầy là Shaghi-i-Sultan-ui-Azkar . Kinh Koran gọi là Kalma , Isme-i-Azam , Bang-i-Asmani , Kalam-i-Illahi , có nghĩa là Âm nhạc Thiên đường . Kinh Vệ đà gọi là Nad hay Udgit . Kinh Adi Granth của Đạo Sikhs gọi là Nam , Ram Nam , Hari Nam , Gurbani , Bani and Dhun ...
Phật giáo gọi là Dòng Âm Lưu là Phật Âm , Nước Cam Lồ ... Thiên chúa giáo gọi là Ngôi Lời (the Word), Đức Thánh Linh (the Holy Ghost), Nước Nguồn Sống (the Living Water), Thần Ngôn Thiên Chúa ... Lão giáo gọi nội âm nầy là Tào , Đạo .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM DÒNG ÂM LƯU NỘI TẠI (NGÔI LỜI , DIỆU ÂM)
Tất cả những tên nầy chỉ là những danh từ chúng ta có thể nói hoặc viết ra , nhưng cái Nội Âm thần thánh , thiêng liêng âm vang trong mỗi chúng ta , chúng ta không thể nói hay viết ra được . Những danh xưng do con người đặt ra luôn thay đổi với thời gian và tùy theo người muốn nói đến chúng bằng cách nầy hay cách khác , nhưng dòng Âm lưu nội tại thuộc về Thượng đế , vĩnh viễn trường tồn và bất biến . Danh xưng chỉ là những cái vỏ trống rỗng , trong khi chính dòng Âm Lưu mới là Chân lý , tinh túy của Thượng đế bên trong .
Có khi nào chúng ta tự hỏi tại sao những đền thờ của các tôn giáo , người ta thường thắp đèn và đổ chuông , đánh trống , đánh coòng , đánh phèn la ... Chắc phải có cái gì bên trong giống nhau , nên họ đã làm thành những biểu tượng bên ngoài tương tự như vậy . Đạo Sikhs và Ấn độ giáo rung chuông , đánh coòng và thắp đèn trong những ngôi đền của họ . Thiên chúa giáo cũng đổ chuông trên nóc giáo đường và thắp đèn cầy trong nhà nhà thờ . Trong những ngôi chùa của Phật giáo cũng đánh chuông , gõ mõ ...
Minh sư Charan Singh nói : "Những tiếng chuông reo vang ở những gác chuông nhà thờ và những ngôi đền Ấn độ giáo có ý nghĩa gì ? Đây là một câu hỏi mà có một lần người ta đặt ra với một giáo sĩ Ấn độ giáo và một thầy cả , và cả hai vị nầy chỉ lắp bắp mà không thể trả lời thỏa đáng được . Những sách vở , kho tàng độc nhất của những tu sĩ và thầy cả , phần lớn đều im lặng về đề tài nầy . Có một số ít đề cập đến , nhưng những học giả lại không hiểu được một cách thấu đáo vì không có sự dẫn dắt của một vị Chân sư còn tại thế".
Những tiếng chuông , tiếng coòng , tiếng trống bên ngoài chỉ là những nhắc nhở về tiếng chuông , tiếng coòng , tiếng trống , những Âm thanh bên trong . Những ngọn nến bên ngoài chỉ là những biểu tượng (symbols) cho Ánh sáng bên trong của Chân thể chúng ta .
Mỗi tôn giáo có những hình thức , lễ nghi riêng biệt khác nhau , nhưng tinh túy nằm tận cùng trong mỗi tôn giáo đều giống nhau . Khi chúng ta tu pháp môn Quán Âm , chúng ta sẽ biết rằng tất cả các tôn giáo đều bắt đầu từ một nguồn cội . Nguồn cội đó là Sự Thật hay Chân lý của vũ trụ : Dòng Âm lưu và ánh sáng nội tại , mà vị Giáo chủ của mỗi tôn giáo ban cho đệ tử của Ngài khi Ngài còn tại thế .
Trong cuốn The Path (Con Đường) xuất bản năm 1969 , Minh sư Charan Singh viết : "Chúng ta thấy những gì xảy ra trên thế giới nầy ? Những người tưởng nhớ Thượng Đế gọi Ngài là Wah-i-Guru bắt đầu tự gọi họ là những người đạo Sikhs ; những người nhớ Ngài như là Allah gọi họ là những người Hồi Giáo ; trong khi những người nhớ Ngài như là Ram gọi họ là những người Ấn Độ Giáo . Chúng ta trở nên quá hẹp hòi đến nổi chúng ta khó có thể đối mặt với nhau dù chúng ta đều có cùng một đấng Cha lành .
Nếu chúng ta thấm nhập dòng tâm thức của chúng ta với Tên Thật nầy , tất cả những bất đồng , tranh chấp , dị biệt sẽ chấm dứt . Chúng ta thực sự không có tôn phái hay quốc gia nào . Những sự xung đột chỉ kéo dài khi chúng ta bị điếc không nghe được Âm nhạc của Tên Thật nầy".
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM DÒNG ÂM LƯU NỘI TẠI (NGÔI LỜI , DIỆU ÂM)
Nguyễn Hoài Vân trong bài "Sáng Thế Ký Đọc Bởi Một Người Việt Nam" đăng trong Thế Kỷ 21 viết : "Tử Thư nói : Thấy 'ánh sáng', ánh sáng nền tảng , màu trắng của Đại Nhật Như Lai (Vairocana). Vị Phật của Chân Không (Phật Tổ Tối Cao , Thượng Đế) nầy là khởi điểm của tất cả , từ đó mà thị hiện thành vạn pháp . Sáng thế ký cũng đặt ánh sáng ở điểm khởi thủy của sự tác thành vạn vật . Trong Tử Thư , nếu người chết thấy 'ánh sáng nguyên thuỷ' mà nhận ra rằng mình không thực có , mà chỉ là sự thị hiện của ánh sáng ấy , thì liền hòa nhập với đức Đại Nhật Như Lai (Chân Không) và được giải thoát .
Trong các kinh nghiệm 'gần chết sống lại' (near death experience), người ta cũng thường ghi nhận việc nhìn thấy ánh sáng . Trong truyền thống Ky Tô giáo thì người ta nguyện người chết được đặt trong ánh sáng như trong đoạn kinh Requiem Aeternam , phỏng theo Esdras , tôi dịch thoát như sau :
Trong giấc ngủ muôn đời
Xin dang tay đón người
Đặt người trong Ánh sáng
Nguồn sáng của Bầu Trời
Được chan hòa trong ánh sáng , người chết trở về điểm khởi thủy , nơi chỉ còn Thiên chúa , để qua Ánh sáng ấy , trực diện với Ngài và (hy vọng) nhận biết Ngài , để được giải thoát .
Tôi có từng đọc Nguyễn Kết trong Thế Kỷ 21 , cho rằng nếu bạn leo được lên một hạt quang tử (photon) và duy chuyển với tốc độ của ánh sáng , thì bạn sẽ không còn thấy thời gian trôi nữa , không còn quá khứ , vị lai mà chỉ còn hiện tại , giây lát , lúc nào cũng là lúc nầy . Bạn sẽ thấy 'Big Bang' và tận thế cùng lúc . Đức Phật đản sanh và nước Pháp thắng giải túc cầu thế giới 2006 trong một khoảng khắc duy nhất . Bạn cũng sẽ được trực diện với Thiên chúa , ít nhứt là lúc Ngài tuyên bố : Ánh sáng hãy hiện hữu".
Khi chúng ta nhập định vào trong Ánh sáng và Âm thanh mầu nhiệm của Thượng đế , những ảo tưởng của tâm trí về thời gian và không gian của thế giới vật chất sẽ không còn hiện hữu . Lúc đó sẽ không có ở đây hay ở đó , không còn quá khứ hay tương lai mà chỉ còn Chân Như , không đến mà cũng không đi , ở một nơi nhưng đồng thời cũng ở mọi nơi , ở mọi nơi nhưng đồng thời cũng ở một nơi . Đó là đẳng cấp tâm thức đồng nhất thể với Thượng đế .
Từ thế giới vật chất lên những tầng tâm linh cao hơn có năm giai đoạn chánh ; ở mỗi giai đoạn hay mỗi cõi có những Âm thanh riêng cho cõi đó . Vì vậy có năm Âm thanh chính cho năm cõi tâm linh . Bất cứ hành giả nào đi vào con đường Quán Âm cũng sẽ nhận được những Âm thanh nầy cho đến khi bước vào cõi vĩnh cửu , không sanh không diệt các Minh sư gọi là Thiên quốc , Niết bàn , Tuyệt đối , Sach Khand hay Radha Soami Lok .
Trong thực tế dòng Âm lưu chỉ là một vì nó bắt nguồn từ Thượng đế và nó là Thượng đế . Nhưng ở mỗi cõi khác nhau , dòng Âm lưu thị hiện thành những âm thanh khác nhau . Cũng như khi một dòng nước chảy xuống từ núi cao chúng ta nghe tiếng thác đổ . Khi nó chảy qua những khe đá , chúng ta nghe tiếng suối reo róc rách . Khi nó chảy qua đồng bằng , chúng ta nghe tiếng cuồn cuồn của một con sông . Khi nó chảy ra biển , chúng ta nghe tiếng sóng vỗ ầm ầm . Vị Minh sư tại thế sau khi truyền Tâm Ấn cho đệ tử , sẽ đem dòng thần thức của đệ tử đi qua những cõi nầy , hòa nhập linh hồn họ với năm Tên Thực hay Âm thanh thần thánh và dẫn họ về lại Ngôi Nhà của Thượng đế .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM DÒNG ÂM LƯU NỘI TẠI (NGÔI LỜI , DIỆU ÂM)
Chúng ta hãy cùng nhau đọc lại kinh điển của các tôn giáo để tìm hiểu về dòng Âm Lưu nội tại nầy , để nhận biết rằng tất cả các tôn giáo đều bắt nguồn từ pháp môn Quán Âm .
Hầu hết những kinh điển của các tôn giáo lớn trên thế giới đều chỉ dạy chúng ta hãy quay vào bên trong để tìm lại Thiên Quốc hay quốc độ của mình .
Lão Tử nói : "Từ vô lượng kiếp đến nay , ta nhờ xem tâm mà đắc đạo".
Socrates nói : "Chúng ta không thấy được chúng ta thật sự là gì . Tất cả những gì chúng ta thấy được chỉ là cái bóng của chúng ta mà thôi".
Nhà bác học Einstein nói : "Không có cái gì sinh ra cũng như không có cái gì biến mất , mà chỉ có sự thay đổi của trạng thái vật chất".
Pháp môn Quán Âm là pháp môn giúp chúng ta tìm thấy lại cái "tâm", cái Chân thể "không sinh ra cũng như không biến mất" của mình , để có thể nhận biết lại "chúng ta thật sự là gì" mà các bậc thiện tri thức đã nói ở trên .
Nguyễn văn Thọ viết rong bài "Ra Đời Vào Đạo", Hoa Sen số 32 : "Đọc lịch sử đức Phật ta thấy Ngài đã thụ pháp với Đại Sư Arada Kalama về học thuyết tiền Samkya (đại khái là phép nội quan quán chiếu).
Đạo Lão với những chủ trương : 'Thiên tại nội , nhân tại ngoại' (Nam Hoa kinh), hoặc 'Đi ra ngoài là cầu cạnh vào ngoại vật để mong hoàn thành ; nội quan quán chiếu là thấy trong tâm có đầy đủ tất cả' (Liệt Tử , Xung Hư Chân kinh). Mục đích của đạo Lão là chỉ vẽ cho ta nội giáo chân truyền . Nho giáo chủ trương cả vạn vật ở trong ta . Mạnh tử cũng nói quay vào trong mà tìm đạo ấy .
Tất cả đều chủ trương nội giáo . Có điều lạ là theo đà thời gian , tất cả các đạo giáo lớn đều biến từ 'nội giáo chân truyền' thành 'ngoại giáo công truyền'. Vì thấy làm như vậy mới có người theo".
"Có điều lạ là đạo nào cũng cho mình là Chân đạo , còn đạo khác là tà đạo ; mặc dù chính bản chất của mình vốn là tà đạo . Tà đạo vì không nhìn ra được Chân bản thể của con người , chân thể của vũ trụ , chân giá trị của con người , mục đích chân chính của cuộc tiến hóa quần sinh . Ngoại đạo vì chỉ biết những lễ nghi hình thức hời hợt bên ngoài , chạy theo những phù phiếm , phiến diện bên ngoài , mà ù cạc về những điều trọng yếu , những lý sự tiềm ẩn bên trong vũ trụ và con người".
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM DÒNG ÂM LƯU NỘI TẠI (NGÔI LỜI , DIỆU ÂM)
"Đại Đạo tâm linh chỉ có một mục đích duy nhứt là thành Phật , thành Trời chứ không chủ trương lại Phật , lạy Trời , làm tôi tớ cho Trời , cho Phật . Nó không có lễ nghi , hình thức , không chủ trương xì xụp van vái . Nó chỉ có một mục đích duy nhứt là giúp con người tìm ra cái Bản thể thần linh siêu việt nơi mình . Chúng ta muốn gọi nó là gì cũng được : là Tuyệt đối , là Allah ... nhưng đừng bao giờ quên nó , xa lìa nó".
"Thực ra từ trước đến nay , dù nói xa nói gần , tôi vẫn thường đề cập đến cái Đại Đạo tâm truyền ấy ; khi thì tôi gọi đó là Đại Đạo , khi thì tôi gọi đó là Tinh hoa các tôn giáo , khi thì tôi gọi là đạo Huyền Đồng . Cái Đạo nầy thật ra nó đã tiềm ẩn sẵn trong lòng mọi người , tôi chỉ muốn khơi động nó lên , chứ thực ra nó đã có từ muôn thuở .
Cái Đạo nầy bắt đầu có từ khi mà Bản thể vô biên tế của vũ trụ nầy bắt đầu phóng phát , tán phân , bắt đầu hình hiện thành quần sinh vũ trụ . Khi đã phóng phát , tán phân thành quần sinh vũ trụ nầy rồi , thì Đại thể vô biên , linh minh huyền diệu ấy lại tiềm ẩn sẵn trong lòng sâu của vũ trụ , quần sinh và con người .
Như vậy vũ trụ , quần sinh và con người có hai bình diện : Một là bình diện Bản thể , duy nhất bất khả phân , thường hằng vĩnh cửu , siêu tuyệt , tuyệt đối . Tùy cung cách trình bày , cảm nhĩ của các bậc Thánh hiền mà bản thể ấy mang nhiều danh hiệu như : Hư , Vô , Vô cực , Thái cực , Chân Tâm , Chân như , Thượng đế , Allah , Trời , Jehovah , Elohim , Atman , Niết bàn , Nước Trời ... Đó cũng là cõi Thiêng , siêu sinh tử , siêu không gian , siêu thời gian .
Hai là bình diện Hiện tượng , hình tướng biến thiên , đa tạp , lệ thuộc vào vòng hình danh , sắc , tướng , không gian , thời gian , vòng duyên nghiệp , sinh tử , luân hồi , có danh mà không có thực , phù du , hư ảo , như những áng mây bồng bềnh trên khung trời thẳm , hay như những bọt bèo biến hiện trên mặt trùng dương vô biên , vô tận . Đây là thế giới của cá nhân , cá tính , của những gì vô minh , hư ảo . Đây là 'nước thế gian' theo danh từ Tân Ước , hay 'cõi tục', hồng trần tục lụy , bể khổ bến mê nói theo kiểu Á Đông .
Khi đã nhìn rõ được hai phương diện nầy , tự nhiên một câu hỏi được nêu lên : Giữa cái khổ và cái lạc , cái biến và cái hằng , cái giả và cái chân nói trên , chúng ta sẽ chọn cái gì ? Dĩ nhiên là ta phải chọn cái Thường Hằng , vĩnh cửu , cái gì là chân thực , cái gì là quang minh chính đại , cái gì là lý tưởng .
Tất cả những phương tiện dẫn từ Phù sinh đến Trường sinh , từ hiện tượng tới Bản thể , đó gọi là Đại Đạo , vì nó là con đường duy nhất mà nhân loại bắt buộc phải băng qua để tiến tới trường sinh , vĩnh cửu .
Khi một người tiến từ phù sinh lên trường sinh , từ hiện tượng vào tới Bản thể , thì sự kiện ấy được mệnh danh là giải thoát , nhập Niết bàn , phối Thiên , đắc Đạo , thực hiện Tự tính (Self-Realization), thực hiện Thượng đế (God-Realization)".
"Đại Đạo Tâm linh" ông Nguyễn văn Thọ đề cập đến , chính là con đường dẫn dắt đến sự liễu ngộ Chân thể của mình và liễu ngộ Thượng đế . Đại Đạo Tâm linh vì vậy cũng là một danh xưng khác để gọi Pháp môn Quán Âm , bởi vì pháp môn Quán Âm cũng dẫn đến cùng một cứu cánh .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM DÒNG ÂM LƯU NỘI TẠI (NGÔI LỜI , DIỆU ÂM)
Muốn chuyển hóa tâm thức từ phù sinh , vô thường thành Bản thể hay Chân Ngã (Self) trường sinh , vĩnh cửu , con đường duy nhứt của chúng ta là phải dựa vào dòng Âm lưu nội tại .
Minh sư Nanak , Giáo chủ của đạo Sikhs nói : "Chính Diệu Âm đem đến sự vinh hiển trong Thượng Đế . Không dâng hiến cho Diệu Âm , không một người nào có thể được cứu rỗi . Bao lâu mà chúng ta chưa khám phá được Diệu Âm , bóng tối của vô minh trong chúng ta sẽ không tiêu tan , chúng ta sẽ không thể nào nhận biết Thượng Đế . Người hoàn hảo là người thấm nhập trong Diệu Âm . Chỉ cần một ánh lửa Diệu Âm của Thượng Đế do Minh Sư châm vào , mọi tội lỗi tồn kho của chúng ta đều tiêu tán".
"Nếu người tìm đạo một lần được nối với Âm thanh bên trong , Âm thanh đó sẽ không bao giờ rời bỏ người đó và người đó sẽ về lại với Thượng Đế . Nhờ Ân sủng của vị Chân sư , chúng ta được sống trong từ trường của dòng Âm lưu và dòng Âm lưu sẽ kéo chúng ta lên với Thượng Đế . Nương vào dòng Âm lưu chúng ta sẽ tìm ra hướng Ngôi Nhà thật sự của chúng ta , nương vào Ánh sáng , chúng ta được dẫn dắt lên trên con đường tìm về Nguồn Cội".
Minh sư Kabir Sahib nói : "Giống như một đống cỏ khô bị đốt thành tro bụi vì một ngọn lửa , tất cả mọi tội lỗi của chúng ta sẽ đều bị thiêu huỷ khi Diệu Âm đi vào trong chúng ta . Khi chúng ta thực hành thiền quán Diệu Âm , tất cả mọi tội lỗi của chúng ta sẽ được rửa sạch . Sự vinh hiển thực sự nằm trong Diệu Âm ; ngay cả một người cùi , da lở lói vì nhiễm trùng cũng được ban ân điển nếu người đó câu thông với Diệu Âm . Diệu Âm của các Minh sư không ở bên ngoài , nó hiện hữu bên trong thân thể của chúng ta".
Minh sư Swami Ji nói : "Diệu Âm đốt sạch tất cả những nghiệp chướng tích lũy từ đời đời kiếp kiếp . Diệu Âm làm cho chúng ta hòa nhập với Thượng Đế".
Dòng Âm lưu là lực lượng của Thượng đế , đã sáng tạo và nuôi dưỡng toàn thể vũ trụ . Lão tử nói : "Tào (Đạo) đã lập nên thế giới".
Trong cuốn The Path , Minh sư Charan Singh viết : "Dòng Âm Lưu , Ngôi Lời hay Diệu Âm đã sáng tạo vũ trụ . Một khi Thượng Đế thu hồi lại lực lượng bên trong đã nuôi dưỡng tất cả mọi vật , vũ trụ sẽ bị lâm vào sự hủy diệt (dissolution) và đại hủy diệt . Toàn thể vũ trụ bao gồm năm thành phần là Đất , Nước , Gió , Lửa và Linh khí Ê-te . Tất cả mọi thứ chúng ta thấy trong thế giới nầy đều có một hay nhiều hơn những thành phần nầy . Tất cả năm thành phần nầy đối nghịch nhau nhưng chúng được hòa hợp với nhau và nuôi dưỡng bởi lực lượng của Dòng Âm Lưu nầy .
Khi lực lượng bên trong nầy bị rút lại , nước sẽ làm tan vỡ đất , lửa sẽ làm khô nước , không khí sẽ làm tiêu tán lửa và linh khí ê-te sẽ thiêu hủy không khí , tất cả thế giới sẽ bị tan rã . Thân thể chúng ta bao gồm năm thành phần đó , khi chúng ta còn có Dòng Âm Lưu nầy bên trong chúng ta , chúng ta còn sống trong thế giới nầy , nhưng khi lực lượng của Dòng Âm Lưu nầy bị lấy đi , thân thể của chúng ta sẽ chết và tan rã . Năm thành phần sẽ trở về tụ hợp với nguồn cội của chúng ta và chúng ta không còn hiện hữu nữa".
"Những nhà Minh triết và Thấu thị của Ấn Độ cổ xưa nói trong kinh Vệ Đà : nhờ vào Akash-Bani (Âm thanh Thần thánh), thế giới đã được sáng tạo . Kinh Koran nói Kalma (Âm Thanh) đã sáng tạo mười bốn tầng trời . Triết lý Trung hoa xa xưa cũng nói Tào (Đạo , Âm Lưu) đã lập nên thế giới .
Các Minh sư của đạo Sihks cũng đề cập đến sự quan trọng của Dòng Âm Lưu nầy . Arjan Dev , Minh sư thứ năm của Đạo Sihks nói : 'Tất cả mọi sinh vật lớn hay nhỏ , tất cả các tầng Trời đều phải dựa vào lực lượng của dòng Âm lưu'. Amar Das , Minh sư thứ ba của Đạo Sihks nói : 'Tất cả mọi thứ chúng ta thấy trên thế giới đều là do sự sáng tạo của Diệu Âm . Những người không biết đến Diệu Âm đều là những người mù và điếc . Không có Diệu Âm thì không có hy vọng nào , chúng ta không thể được cứu rỗi cũng như thoát khỏi bánh xe sinh tử luân hồi . Người nào không tìm kiếm Thượng Đế bên trong mà tìm bên ngoài sẽ không tìm được Diệu Âm và sẽ bị đắm chìm trong đau khổ .
Những người tìm Diệu Âm bên ngoài thân thể sẽ không tìm thấy nó . Nếu một vật nằm trong nhà , làm sao chúng ta có thể tìm thấy nó nếu chúng ta cứ tìm kiếm bên ngoài ?" Các Minh sư Ấn độ gọi pháp môn Quán Âm là "Surat Shab Yoga". Trong tiếng Phạn , Yoga có nghĩa là sự hội nhập , Surat là dòng thần thức , linh hồn hay Phật tính , và Shab có nghĩa là Dòng Âm lưu nội tại .
Surat Shab Yoga là pháp môn thực hành việc hội nhập linh hồn với Âm thanh và ánh sáng bên trong của Thượng đế . Âm thanh và Ánh sáng sẽ giúp chúng ta tìm lại Chân ngã của mình , liễu ngộ Thượng đế và thành đồng nhất với Ngài .
Pháp môn Quán Âm không phải là một con đường mù quán , dị đoan , tin tưởng vào một cái gì không có thực và không chứng minh được . Nó là một ngành khoa học tâm linh , nhờ vào Âm thanh và Ánh sáng bên trong , hành giả có thể chứng nghiệm được trong chính cái phòng thí nghiệm thân thể của mình .
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Pháp môn Quán Âm rất là nhanh . Đời đời kiếp kiếp nghiệp chướng gì cũng tiêu hết , tiêu lập tức , tiêu liền , nhứt định là phải thành công thôi , không có cách gì mà không thành công hết . Những người nào tu pháp môn Quán Âm mà không thành Phật , thì chuyện đó không thể có được . Cũng như bây giờ đem hai cục kẹo để gần hai cục kẹo mà nói không thể nào thành bốn , thì điều đó không thể có được . Tu pháp môn Quán Âm cũng như vậy , không thể nào không thành công , không thể nào không tiến hóa tâm linh , không thể nào không khai ngộ được cả".
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG PHẬT GIÁO
CHƯƠNG 7
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG PHẬT GIÁO
Trong các kinh điển Phật giáo , chư vị Phật , Bồ Tát đều tán thán Pháp môn Quán Âm , các Ngài đều dạy chúng ta hãy quay vào bên trong để tìm lại Phật tánh hay bản lai diện mục của mình . Phật Thích Ca nói : "Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh xưa nay chẳng sanh , chẳng diệt , bởi vì mê ngộ nên có thăng trầm".
Trong "Lục Độ Ba La Mật" của Phật giáo , ngoài bốn pháp tu đầu là bố thí , trì giới , nhẫn nhục , tinh tấn , còn có thiền định và trí huệ . Có thiền định mới phát sinh trí huệ , hai phép nầy đi đôi với nhau . Nhưng thiền đinh cũng phải đúng pháp môn mới có thể mở cánh cửa trí huệ tiềm tàng trong chúng ta , và chính trí huệ nầy sẽ đưa chúng ta đến bờ giải thoát . Trong tiếng Phạn "Thiền định" gọi là Dhyana và "Trí huệ" (Wisdom) gọi là Prajna (Bát nhã). "Bát nhã ba la mật" tiếng Trung Hoa gọi là "Trí huệ đáo bỉ ngạn (Trí huệ đến bờ bên kia)". Đây là hai phép cao nhất trong sáu pháp tu của chư vị Phật , Bồ tát , còn được gọi là "thiền Ba la mật" (Dhyana paramita). Thiền Ba la mật , phép tu mở Trí huệ để vượt qua biển sanh tử luân hồi và trở thành Minh sư (Phật , Thánh), chính là Pháp môn Quán Âm mà các Minh sư trong quá khứ đã tán thán , và Vô Thượng Sư Thanh Hải đang truyền bá ngày nay .
Trong Phật giáo , Pháp môn Quán Âm đã được gọi bằng nhiều danh từ khác nhau : Đại đạo , Đốn ngộ , Kiến tánh thành Phật , Đà-ra-ni , Kim Cang , Viên giác , Nhĩ căn viên thông , Phản văn văn tự tánh , Phổ độ ...
Phật giáo cũng đã dùng rất nhiều danh từ khác nhau để chỉ Chân ngã "Self" hay linh hồn của chúng ta : bản lai diện mục , Phật tánh , tự tánh , bổn lai chân tánh , bổn thể , Phật tâm , bổn tâm , Diệu âm , Kim Cang tâm , tự tâm , trực tâm , Chân Phật , thanh tịnh pháp thân ...
Thiền sư Hoàn thượng Minh Trực , một dịch giả của Pháp Bửu Đàn Kinh viết trong phần Lời Tựa : "Ngày xưa Đạt Ma Tổ sư qua Đông độ cũng đã dùng Chánh pháp Nhãn tàng mà đặng quả Niết bàn . Phép phối hiệp Nhãn và Tâm là phép Thiền định tập trung thần quang mà chiếu vào tâm khiếu , gọi là hồi quang phản chiếu . Tu hạnh nầy thì lìa khỏi ngũ trược , các sự phiền não trần lao không làm rối tự tâm . Thế là đắc cảnh chân không , phát đại Trí Huệ mà chứng quả Chánh chơn giác hay là Niết bàn Diệu tâm vậy . Kinh gọi phản bổn hoàn nguyên , chính là chỉ chỗ bí quyết nầy .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG PHẬT GIÁO
Như Lai Chánh pháp Nhãn tàng với Niết bàn Diệu tâm là bí quyết của Tổ , Tổ tương truyền bằng tâm , ngoài các giáo lý phổ thông , cho nên gọi là 'giáo ngoại biệt truyền'. Ấy là phép huyền diệu nhiệm mầu thuộc về Đại Đạo (Grand Symbol), là cang yếu của Phật pháp di truyền trong phái Bát Nhã Thiền tông vậy".
"Chánh pháp Nhãn tàng (mở Mắt Huệ để thấy ánh sáng) hiệp với Niết bàn Diệu tâm" cũng chính là Pháp môn Quán Âm , bởi vì khi truyền pháp Quán Âm hay truyền Tâm Ấn , vị Minh sư nối kết "Diệu Tâm" (linh hồn) với ánh sáng bên trong .
Ngày nay một số Phật tử đến chùa thỉnh khăn "Đà-Ra-Ni" để đắp mặt cho người thân đã qua đời , và áo "Kim quang" để mặc cho họ , với hy vọng họ sẽ được siêu thoát . Đây là những hình thức bên ngoài còn rơi rớt lại của Pháp môn Quán Âm ngày xưa . Áo Kim quang là biểu tượng của Ánh sáng bên trong và khăn Đà Ra Ni là biểu tượng của Âm thanh bên trong , vì chữ "Dhara" (đà-ra) trong tiếng Phạn có nghĩa là Âm thanh . Kinh Viên Giác nói : "Nầy các thiện nam , Vô Thượng Pháp Vương có một pháp môn Đại Đà Ra Ni gọi là Viên Giác , từ đó lưu xuất tất cả thanh tịnh Chơn như , Bồ đề , Niết bàn và Ba La Mật , dạy dỗ cho các Bồ tát".
Muốn được giải thoát , chúng ta phải tìm đến vị Minh sư tại thế để Ngài truyền pháp môn Quán Âm . Từ đó chúng ta sẽ thực sự cảm nhận Âm thanh và ánh sáng nội tại , chứ không phải làm những hình thức bên ngoài . Âm thanh và ánh sáng bên trong mới có năng lực tiêu trừ nghiệp chướng , giúp cho linh hồn giải thoát , về hội nhập với Phật Tổ Tối Cao .
Việc thực hành pháp môn Quán Âm gồm có hai phần : thiền quán Âm thanh và Ánh sáng nội tại . Kinh điển Phật giáo nói rất nhiều về hai thị hiện nầy của Thượng đế hay Phật Tổ Tối Cao . Trong kinh Pháp Hoa , phẩm Pháp Sư Công Đức nói "Tai Thanh tịnh" có thể nghe những Diệu Âm bên trong như tiếng chuông , tiếng trống , tiếng phèn la , Âm nhạc Phạm thiên ... Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm có đề cập đến Diệu Âm , Quán Thế Âm , Hải triều Âm , Phạm Âm (tiếng Om là một trong những Phạm Âm) và Thắng bỉ thế gian âm .
Trong kinh Lăng Nghiêm , để đáp lại lời yêu cầu của đệ tử A Nan , Phật Thích Ca bảo hai mươi lăm vị Bồ Tát hãy bày tỏ những chỗ viên thông trong pháp tu của họ . Các Ngài nói nhờ vào pháp môn thiền quán Âm thanh và Ánh sáng bên trong mà được thành chánh quả . Xin trích dẫn một vài thí dụ trong kinh :
- Ngài Ma Ha Ca Diếp nói rằng kiếp trước Ngài ở thế gian , được thọ pháp với Phật Nhựt Nguyệt Kim Quang mà được ngộ nhập vào trong ánh sáng : "Cứ thấp đèn nối bóng quang minh".
"Thân của tôi thường viên mãn tụ cái sắc kim quang , hễ cổi áo ra thì ánh sáng chiếu cả mặt trời". Ý câu nầy muốn nói Ngài tu pháp môn Quán Âm nên thấy ánh sáng phát ra toàn thân . Kinh Thánh nói "Khi mắt ngươi còn lại một , thân thể ngươi sẽ tràn đầy ánh sáng".
- Bồ tát A Na Luật Đà nói nhờ pháp Nhãn căn (Mắt trong) Lạc kiến chiếu minh mà được vào viên thông : "Pháp ấy toàn là công phu xây cái thấy lại mà thấy Tự tánh", tức là quay vào bên trong để thấy ánh sáng của Phật tánh .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG PHẬT GIÁO
- Bồ tát Xá Lợi Phất nói nhờ pháp Nhãn thức (Mắt trong) mà "tri kiến quang minh cực điểm". Khi Ngài thấy ánh sáng rực rỡ thì trí huệ khai mở "soi tỏ đến chỗ cực sâu xa , bất kể sự gì cũng được minh liễu".
- Bồ tát Phổ Hiền nói nhờ nơi Nhĩ thức (Tai trong) "Tôi chỉ dùng nhĩ thức mà phân biệt chỗ biết , chỗ thấy của chúng sanh", nên được thông suốt hết "soi khắp pháp giới mà đặng phần tự tại".
- Bồ tát Lưu Ly Quang Vương Tử nói nhờ nơi "Phong đại" mà được vào chánh định : "Xét cái lực của gió nguyên không nương đâu , mà tôi ngộ được tâm Bồ Đề vào chỗ chánh định".
"Cho nên tam thiên đại thiên thế giới cùng bao nhiêu chúng sanh , trong đó có khác nào như một cái vò nhốt trăm vạn muỗi mòng , vo vo kêu loạn trong khoảng rộng , càng sanh cuồng cáo". Ngài Lưu Ly đã tiết lộ những Diệu Âm như tiếng gió , tiếng của nhiều côn trùng , và Ngài cũng thấy được ánh sáng của tự tánh bên trong : "Thân tâm tôi phát khởi quang minh".
Kinh Thánh cũng nói về tiếng gió bên trong : "Chớ ngạc nhiên về điều Ta nói với các ngươi . Các ngươi phải được sanh lại . Gió muốn thổi đi đâu thì thổi . Ngươi nghe tiếng Gió nhưng không biết Gió từ đâu đến và sẽ đi đâu . Ai sinh ra bởi đức Thánh linh (NGôi Lời , Diệu Âm) thì cũng như vậy". Giăng 3:7-8.
- Bồ tát Đại Thế Chí nói nhờ kiến đại cái tánh Phật bên trong mà ngộ nhập : "Tôi dùng cái hương quang niệm Phật mà trang nghiêm cái tánh Phật trong thân tâm tôi ... lấy cái tâm niệm Phật mà chứng đặng vô sanh nhẫn". Ngài nói hằng hà sa số kiếp về trước , Ngài được Phật Siêu Nhựt Nguyệt Quang dạy ngài pháp "niệm Phật chánh định". Niệm Phật chánh định có nghĩa là khi hành giả hành thiền vào chánh định , sẽ kiến tánh Phật của mình , sẽ giao tiếp được với vị Phật bên trong , chứ không phải là miệng niệm bên ngoài . Khi đã câu thông với vị Phật của mình , chúng ta mới tưởng nhớ đến Ngài như lời thuyết dụ của Siêu Nhựt Nguyệt Quang Phật : "Như hai người đều nhớ nhau , hai cái nhớ đều khắn khít , thì chắc là gặp thấy nhau".
Bồ tát còn nói : "Hễ niệm thì có Phật , niệm đâu thì Phật đó , cảnh Tây phương thường ở nơi tâm , chẳng cần mượn phương tiện , mà tâm đặng mở tỏ". Khi chúng ta "niệm Phật" cũng vào được chánh định và có kết quả như Bồ tát "hễ niệm thì có Phật , thấy được cảnh Tây phương trong tâm", thì đó mới là "Niệm Phật chánh định". Cho nên "niệm Phật" ở đây muốn nói đến việc kiến tánh Phật bên trong của mình , chứ không phải miệng niệm bên ngoài .
Ngài nói "Gần Phật nhiễm Phật rồi thì tâm cũng thành Phật , cũng như gần hương nhiễm hương rồi thì thân cũng thành hương". Khi chúng ta chưa bao giờ gần Phật , trông thấy Phật , làm sao chúng ta có thể hình dung ra Ngài để nhớ nhung , quán tưởng . Cho nên "gần Phật" có nghĩa là gặp được vị Chân sư tại thế , và nhờ đó chúng ta cũng có thể thành Phật như Ngài "Tâm cũng thành Phật , thân cũng thành hương".
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG PHẬT GIÁO
Nếu để ý , chúng ta thấy tên của những vị Phật như Đại Nhật Như Lai , Nhựt Nguyệt Kim Quang , Siêu Nhật Nguyệt Quang đều có chữ "nhựt , nguyệt", ý muốn chỉ đến ánh sáng của chư vị Phật .
- Sau khi hai mươi bốn vị Bồ tát tường thuật về pháp môn của mình rồi . Quán Thế Âm Bồ Tát liền đứng dậy đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn và bạch rằng :
"Bạch Thế Tôn ! Tôi nhớ hằng hà sa số kiếp về trước , có một vị Phật ra đời hiệu Quan Âm . Tôi nhờ Phật đó phát Bồ đề tâm . Phật đó dạy tôi theo nơi Nghe (Văn), Nghỉ , Tu mà vào chỗ chánh định . Khi những trần cảnh sở đối đã diệt , bỗng nhiên tôi vượt khỏi thế gian và không bị tam giới ràng buộc nữa . Chỉ thấy mười phương tròn sáng , liền được công đức thù thắng : trên hiệp tâm bản Diệu giác của chư Phật trong mười phương và đồng với Như lai một từ lực , dưới hiệp với chúng sanh trong sáu đường .
Mỗi người tu mỗi pháp khác nhau , còn riêng tôi thì chỉ do chỗ đặng căn bản viên thông , chỉ tại nơi môn 'Nhĩ căn phát diệu' rồi tu thân tâm mầu nhiệm , ngâm bọc tất cả pháp giới . Do tôi tu tập cái tánh bổn diệu của 'Nhĩ căn viên thông', sau khi cái bản căn đã được thanh tịnh rồi thì tôi dạo chơi các thế giới (Những cảnh giới tâm linh vi tế bên trong). Nay Phật hỏi viên thông , thì tôi chỉ do một cửa , nơi căn Lỗ Tai soi tròn chính định , nên tùy tâm thị hiện các nơi đều tự tại ; thế thì nguyên nhơn thiệt do cái tướng vào Dòng (dòng Âm Lưu nội tại) mới nhập được chỗ chính định , thành tựu đạo Bồ Đề bậc nhứt . Thầy của tôi là Quan Âm Như Lai khen tôi khéo đặng cái pháp môn viên thông , nên ở giữa Đại Hội thọ ký cho tôi là Quán Thế Âm . Bởi tôi xem nghe mười phương đều được tròn sáng nên cái danh Quán Thế Âm của tôi khắp cả mười phương thế giới".
Nhờ tu pháp "Nhĩ căn viên thông", nghe Âm thanh bằng tai trong , tức pháp môn Quán Âm , Bồ tát Quán Thế Âm đạt được tần số chấn động lực với Phật Tổ Tối Cao "đồng với Như Lai một từ lực", thành đồng nhất thể với tất cả vạn vật trong vũ trụ "Hiệp với chúng sang trong sáu đường". Pháp thân Ngài bao trùm tất cả pháp giới , trở thành vô sở bất tại , có thể hiện hữu cùng khắp mọi nơi "tôi dạo chơi các thế giới", và có thể thị hiện bất cứ nơi nào "tùy tâm thị hiện các nơi đều tự tại".
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Kinh điển không phải là cốt tủy của bất cứ tôn giáo nào , chỉ là cách chỉ dẫn để tìm cốt tủy tôn giáo đó mà thôi . Tu pháp môn Quán Âm không phải chỉ niệm Phật Quán Âm thôi . Niệm Quán Âm là một việc tu nhỏ , ở dưới , sơ cấp , niệm Quan Thế Âm Bồ tát để cầu Ngài giúp đỡ . Còn cao cấp Quán Thế Âm Bồ tát là mình biến thành cùng với Quan Thế Âm Bồ tát , cùng với Ngài thành một , vạn vật đồng nhất thể . Từ đó mình có thể nghe được tiếng kêu cứu của tất cả mọi người".
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG PHẬT GIÁO
Những đoạn sau đây trong kinh Lăng Nghiêm đã đề cập đến Diệu Âm , Ánh sáng cùng những linh ảnh bên trong : "Đang lúc Phật phóng quang (ánh sáng) thì những rừng cây , ao , đầm đều diễn tiến Pháp Âm (Diệu Âm). Ánh sáng giao dệt như lưới tơ báu , các đại chúng trong hội đều được nghe thấy (Âm thanh , Ánh sáng) cái điều chưa từng có và đắc pháp Kim Cang Tam Muội cả .
Liền trong khi ấy , Trời rưới bông sen bá bảo xanh vàng trắng đỏ xen lộn mười phương hư không , thanh sắc bảy thứ báu , các tướng núi sông , đất liền nơi cõi Ta Bà nầy đều ẩn mất , chỉ thấy vi trần quốc độ trong mười phương hiệp lại thành một cõi và nghe Phạm Âm phúng tụng , ca vịnh tự nhiên vang rền .
Lúc đó đức Phật mới bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi , trong hai mươi lăm pháp tu hành của hai mươi lăm vị Bồ tát đó , pháp nào hợp với căn của A Nan , và sau khi đức Phật tịch diệt rồi , chúng sanh cõi nầy muốn vào bực Bồ tát , cầu đạo Vô Thượng thì nên dùng pháp môn nào cho dễ thành tựu . Bồ tát Văn Thù thưa rằng Ngài chọn pháp "Nhĩ căn viên thông".
Ngài nói tất cả các vị Phật nhiều như bụi vi trần của quá khứ , hiện tại và vị lai đều nhờ pháp môn Nhĩ căn viên thông mà đạt được Đạo . Các bậc Bồ tát , các người tu học trong đời hiện tại và vị lai cũng đều phải nương vào pháp môn nầy để đến Niết bàn . Phật Thế Tôn đã đem pháp môn nầy cứu đời mạt kiếp . Chính Ngài cũng chứng quả từ pháp môn nầy chứ không phải chỉ có Phật Quán Thế Âm . Ngài nguyện để lại pháp nầy cho người sau cứ nương theo đó mà hành , đừng nghi hoặc , vì đó là phương tiện dễ thành tựu nhất . Nên Ngài cũng đem dạy cho A Nan và những kẻ trầm luân thời Mạt kiếp làm căn bản tu hành để viên thông siêu thoát .
Chúng ta thấy tai của các vị Phật và Bồ tát được người ta tạc hoặc phát họa rất lớn . Tai lớn để ám chỉ việc nghe âm thanh bên trong , chứ không phải khi các Ngài thành Phật rồi tai của các Ngài dài lớn thêm ra .
Trong kinh Lăng Nghiêm , đức Phật nói : "Hình hài tan rã nhưng tánh Nghe chẳng mê , còn hoài . Nếu bỏ được tâm sanh diệt , chẳng chạy theo các trần cảnh sở đối , chỉ giữ nguyên tánh chơn thường mà xoay các căn soi trở vào trong , thì tánh thể thường quan thị hiện sáng tỏ (ánh sáng), căn , trần và thức tâm đều tiêu lạc". "Tánh Nghe" là khả năng "Nghe" của linh hồn hay Phật tính ; bởi vì linh hồn có hai tính năng : nghe Âm thanh (Surat , hearing faculty) và thấy ánh sáng (Nirat ,seeing faculty).
Đức Thế Tôn nói rằng nên hiểu rõ cái Chân tánh của mình xưa nay là Phật , trong tâm có Phật . Trong chúng ta ai cũng có Phật tánh , cho nên chúng ta không cần phải cầu xin , lễ bái bên ngoài mà hãy quay vào bên trong để tìm lại Phật tánh của mình qua sự giúp đỡ của vị Minh sư tại thế .
Trong kinh A Di Đà , Minh sư Thích Ca nói với ngài Xá Lợi Phất : "Cõi nước của đức Phậtt A Di Đà thường trỗi những Âm nhạc cõi trời ... Có những làn gió hiu hiu thổi rung các hàng cây báu , cùng những mạng lưới báu , phát ra những tiếng vi diệu , ví như trăm nghìn thứ âm nhạc đồng thời trỗi lên". Đoạn kinh nầy đã tiết lộ những Diệu Âm của thế giới tâm linh bên trong : tiếng chim hót , tiếng gió thổi , tiếng vi diệu của nhiều thứ âm nhạc cõi trời đồng thời trỗi lên . Kinh Thánh cũng có nói đến tiếng của nhiều nhạc khí trỗi lên cùng một lúc .
Trong Đại Thừa Kim Cang kinh , Bồ tát Văn Thù Sư Lợi xin đức Phật cho biết vì sao gọi là kinh Kim Cang . Đức Thế Tôn nói : "Kim Cang là Tánh (Phật tánh) của mình , còn kinh là tâm (bổn tâm) của mình , nếu người nào rõ tâm của mình , thấy Tánh mình , người nầy tự trong người có kinh , nên sáu căn thường hiện ra sáng suốt , chói lòa (ánh sáng) trời đất , đầy đủ công đức như cát sông Hằng". Khi một người kiến tánh Phật của mình , câu thông được với ánh sáng bên trong sẽ thấy hào quang hiện ra chói lòa .
Email : luukynam@yahoo.com
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG PHẬT GIÁO
Đức Phật cũng nói : "Có một pháp Đà La Ni tên là Kim Cang Tâm hay khiến cho chúng sanh một phen Thấy (ánh sáng), một phen Nghe (Diệu Âm) liền đặng đạo quả . Kim Cang Tâm nầy người người vẫn có , không kẻ nào không , cái tâm bình đẳng của chúng sanh nầy tự biết lấy , tự hỏi lấy". Pháp Đà Ra Ni tên là Kim Cang Tâm tức là pháp môn Quán Âm , bởi vì khi truyền Tâm Ấn , vị Minh Sư tại thế nối kết Kim Cang Tâm (Phật tánh) của chúng ta với Diệu Âm (đà ra) và ánh sáng bên trong .
Đức Phật còn nói rằng tụng kinh Kim Cang không thể thành Phật , chúng ta phải thực hành pháp môn Kim Cang mới thấy được tánh Phật của mình : "Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh , xưa nay chẳng sanh chẳng diệt , bởi vì mê ngộ nên có thăng trầm . Nếu có thiện nam tín nữ muốn cầu đạo , mà không rõ được tâm mình thì không thể thành Phật được . Nếu có người rõ được tâm , thấy được tánh , y theo Phật dạy tu hành , quyết định thành Phật , còn hơn công đức tụng ba mươi muôn biến kinh Kim Cang cũng không sánh kịp . Tại sao ? Hết thảy các đức Phật và các pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề của chư Phật đều tự nơi tâm mình phát sinh ra vô cùng vô tận , không hư không lộn , nên gọi là ngộ Phật Tâm cho nên Phật cùng chúng sanh tâm tánh như nhau , tại người tu người không tu , tin cùng chẳng tin , nên có người làm Phật có người làm chúng sinh".
Đức Phật nói rõ thêm về ý nghĩa của việc thọ trì kinh Kim Cang : "Người nào thường nghe Tâm Phật của mình , thường nói pháp , thường độ sanh , thường làm việc Phật mới gọi là thọ trì kinh Kim Cang". Cho nên thọ trì kinh Kim Cang là phải "nghe tâm Phật của mình", chứ không phải là tụng niệm kinh như chúng ta thường làm .
Cái Tâm Phật nầy cũng chính là Thanh Tịnh Pháp Thân đức Phật đã nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : "Thanh tịnh Pháp thân ấy là chơn chánh thanh tịnh , vọng tánh của chúng sanh chỉ thấy nhục thân mà không thấy Pháp thân xưa nay thanh tịnh , không sinh không diệt , không hoại không thành . Tại chỗ phàm phu gọi là tâm tánh , tại chỗ thánh hiền gọi là thánh tánh , trong trời đất thì gọi là thiên tánh , tại chỗ Bồ tát thì gọi là Phật tánh , tại chỗ chư Phật gọi là Thanh Tịnh Pháp thân .
Nếu không tu hành thì không thể ngộ được bản lai diện mục . Nếu người muốn đạt được giác ngộ mà không cầu thầy (Minh sư) chứng minh cho , lâu ngày sẽ thành tà ma ngoại đạo , thành yêu quái phỉnh gạt chúng sinh , hiện đời sẽ bị pháp luật nhà nước hình phạt , chết rồi sẽ bị đoạ vào ác đạo , một khi mất thân người muôn kiếp khó phục hồi được".
Đức Phật khuyên chúng ta hãy tìm Minh sư để học đạo chân chính , vì nếu không có sự khai mở và hướng dẫn của Minh sư , chúng ta sẽ rơi vào tà đạo .
Pháp môn Quán Âm là pháp môn của đấng Tối Cao chứ không phải do con người hay các Minh sư đặt ra . Vì vậy pháp môn nầy trước sau như một không bao giờ thay đổi , và ai cũng có thể thành Phật nếu nhận ra vị Minh sư tại thế và thọ pháp với Ngài . Đức Phật nói : "Bằng có thiện nam tín nữ đặng nghe , tin theo giáo pháp của người nầy chỉ dạy đều là chính nhân , đều đặng chánh quả . Cho nên bất luận tuổi tác , nam nữ , giàu sang , nghèo hèn , có chức tước trong xã hội hay không , nếu tu hành chánh pháp đều cũng thành Phật đạo".
Ngài nói bài kệ như vầy :
"Bằng có nam có nữ ,
Đặng gặp Chơn Minh sư .
Tu hành đặng chánh pháp ,
Không ai chẳng thành Phật".
Đức Phật đã dùng chữ "gặp" để nói đến vị Minh Sư tại thế . Nếu vị Minh sư đã qua đời rồi làm sao chúng ta có thể gặp được Ngài ?
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG PHẬT GIÁO
Minh sư là một linh hồn đã vượt siêu Tam giới , đã thành đồng nhất thể với Phật Tổ Tối Cao . Một linh hồn đã được giải thoát mới có thể giải thoát những linh hồn khác . Nếu chúng ta chưa được siêu thoát , làm sao chúng ta có thể siêu độ cho người khác được ?
Vị Minh sư là người đã ngộ được Chân ngã của mình , và có thể làm cho Chân ngã của người khác thức tỉnh bằng cách truyền Tâm Ấn Phật cho họ : "Nếu có người biết tỉnh ngộ thì đặng danh hiệu Bồ tát , đặng thông các phép bí mật của Phật , chơn chánh truyền thọ cho người".
Lục Tổ Huệ Năng nói : "Nay ta ở chùa Địa Phạn thuyết pháp Đốn giáo nầy , nguyện cho chúng sanh nghe được pháp nầy liền kiến tánh thành Phật". Phép Đốn Ngộ cũng là pháp môn Quán Âm hay "Tức Khắc Khai Ngộ" Vô Thượng Sư Thanh Hải đang truyền bá , bởi vì người thọ pháp ngay tức khắc "nghe" được Diệu Âm bên trong .
Lục tổ nói tụng niệm bên ngoài mà không thực hành , chúng ta sẽ không kiến tánh thành Phật : "Người đời suốt ngày miệng niệm Bát nhã nhưng chẳng nhận được Tự tánh Bát nhã , cũng như nói ăn mà chẳng no , miệng chỉ thuyết 'không' mà muôn kiếp chẳng thấy được Tánh , rốt cuộc vô ích . Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật là tiếng Phạn , dịch là Đại Trí Huệ đến bờ bên kia ; đây là phải tâm hành , chẳng ở miệng niệm . Miệng niệm tâm chẳng hành thì cũng như huyễn hóa . Miệng niệm tâm hành thì tâm và miệng tương ứng . Bản tánh là Phật , lìa tánh chẳng có Phật".
Tổ Bồ Đề Đạt Ma cũng nói những lời pháp tương tự với Lương Võ Đế : "Tâm là Phật . Không có Phật ngoài Tâm . Xem giác ngộ và Niết bàn như là những sự vật ở ngoài tâm , đó là điều sai lầm .
Có ích gì sự cúng kiến , hoằng pháp , nhiệt thành , giữ giới , bố thí , cầu kinh , đọc kinh và tất cả những thứ khác ? Chỉ có một điều duy nhất là nhìn thấy Phật nơi mình , sự nhìn thấy nầy đưa đến giải thoát và Niết bàn . Không có bất cứ cuốn kinh nào hay bất cứ sự tu khổ hạnh nào có thể đưa ta ra khỏi luân hồi . Sư học kinh và tu khổ hạnh hoàn toàn vô ích , phù phiếm . Không có cuốn sách nào đáng cho ta mở ra đọc . Trong sự an tĩnh , vô vi hoàn toàn hãy kiến tánh nơi mình , nơi Tâm mình , đó mới đúng là Phật , và chỉ học nhìn thấy Phật tánh thôi mới là điều duy nhất đáng học .
Tất cả những hình tượng khác đều là sương mù và ảo ảnh . Hãy nhìn Phật nơi mình , đó mới là sự nhìn thấy chân Phật duy nhất mà thôi . Phật tánh ở trong mỗi người và đều giống nhau trong tất cả mọi người .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG PHẬT GIÁO
Chỉ có một tội duy nhất , đó là tội vô minh , tội không nhận ra Phật tánh nơi mình . Tội lỗi nầy rất nặng , vì nó giữ ta trong cõi vô thường ... Pháp thân nầy đã có từ vĩnh cửu , trải qua những luân hồi , thăng trầm của nhiều kiếp , nó vẫn không sanh không diệt , không thêm không bớt , không dơ nhiễm và không phải tự tẩy sạch , không yêu không ghét , không đến không đi , không đàn ông không đàn bà , không già không trẻ , không tu không tục , không có không không . Nó không một mà cũng không nhiều , không Thánh không phàm , không hình tượng , không quan năng , không được , không mất . Nó đi vào tất cả và không có gì ngăn trở . Nó ung dung trong những kiếp liên tiếp , trong dòng sanh tử . Tất cả chúng sanh và vận mạng của chúng sanh đều quy về nó . Chính nó mà ta gọi là tâm (bổn tâm , Phật tính). Đừng lộn tâm với trái tim bằng thịt . Chính Pháp thân nầy mà ta phải ngó nơi mình ...
Mỗi người hãy tự chiêm ngưỡng , lãnh hội được nó cho mình . Ngoài những tên khác , người ta còn gọi nó là Thánh thể . Lãnh hội được nó là sự giác ngộ , giải thoát và đưa ta ra khỏi xao động thế tục mà đức Thích Ca gọi là sự cuồng loạn vĩ đại . Chính sự giác ngộ đưa về trong sự an nghỉ của hư không ...
Pháp thân vô hình , bất biến và không thể hủ diệt được . Chẳng có Phật nào khác ngoài Pháp thân , bởi vì Pháp thân ở nơi tất cả chư Phật , và Pháp thân cũng ở nơi tất cả mọi người . Vì thế nhắc lại rằng chẳng cần kinh kệ , chẳng cần bất cứ một sự cúng tế nào cả , không cần phải tìm cái gì ở ngoài mình , bởi vì tất cả nơi mình ...
'Phật' là một tiếng Ấn Độ , chứ không phải tên một người , và có nghĩa là giác ngộ , là linh giác mà mọi người đều có thể đạt được . Sự giác ngộ nầy chính là Thiền mà chúng ta hướng vọng . Thiền không có nghĩa là tham thiền suy tưởng nào cả . Đối với ta , chỉ đạt đến thiền là khi ta thấy được Phật tánh của chính mình . Đối với ta , một người có thể đọc thuộc vô số kinh luận mà không kiến tánh chỉ là một kẻ phàm tục tầm thường . Đạo lý của ta khó hiểu đối với nhiều người , bởi vì những tiếng không đủ khả năng để diễn tả kết quả của nó , chỉ có kẻ nào đã đạt đến thì mới hiểu được mà thôi .
Ta chỉ có thể nói với môn đồ của ta như vầy thôi : 'Các ngươi phải đạt được Phật tánh nơi các ngươi , tức là Pháp thân , Thánh thể ở trong các ngươi'. Làm thế nào để có thể diễn tả Pháp thân giản dị và trong sạch , không pha trộn , không hợp thành ? Không thể nào diễn tả được , bởi vì không thể nói ra được , cho nên những kinh nghiệm đều vô ích . Đó là những câu chuyện đi quanh vấn đề ...
Sự kiến tánh cũng giống như một thức ăn , cũng giản dị và lập tức như thế . Người ta không bao giờ lý thuyết viển vông chung quanh sự nuốt thức ăn ấy . Ta biết nuốt hay không biết nuốt , chỉ có thế thôi . Kẻ nào tưởng tượng một thực tại khác ngoài Phật tánh bên trong , và tìm xác định thực tại ấy , kẻ ấy sa vào lỗi lầm ... Pháp thân rất giản dị , ta không thể tạo ra được , chỉ lãnh ngộ thôi ...
Những kinh kệ , tu khổ hạnh , những sự học hành nghiên cứu chẳng có ích lợi gì cả . Tại sao có một số người đã chuẩn bị đàng hoàng , thành tâm đứng đắn mà vẫn không đạt đến được ? Bởi vì nghiệp chướng của họ chống đối lại . Sự hôn mê mù quáng của họ , sự sai làm chai cứng của họ và sự bất lực của họ là hình phạt của những tội lỗi của họ trong quá khứ . Họ chưa trả hết nợ . Họ chưa đủ trong sạch để đạt được sự giác ngộ , và trường hợp nầy có thể xảy ra đối với những thầy tu ; trong khi đó ngay đến những kẻ phàm tục có gia đình lại có thể đạt được giác ngộ . Đây là việc nợ nần tinh thần và nỗ lực cá nhân chứ không phải địa vị xã hội .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG PHẬT GIÁO
Đối với những người nào đã khám phá lại bóng hình (Pháp thân) mình và không còn bị trói buộc bởi bất cứ một hệ lụy nào , thì bất cứ một hành động nào của thể xác vật chất cũng không thể làm ô uế Pháp thân . Đối với người nầy , không có bất cứ sự đau khổ hay khoái lạc nào có thể ảnh hưởng đến Pháp thân . một kẻ phàm tục có gia đình và một người đồ tể cũng có thể là một vị Phật . Kẻ nào đã lãnh hội được Phật tánh thì không còn tạo nghiệp nữa dù làm bất cứ hành động nào , bởi vì kẻ ấy đã giác ngộ . Nghiệp chỉ đeo đuổi những kẻ nào chưa giác ngộ , vì vẫn còn trong vòng ngu tối vô minh . Chính sự ngu muội nầy tạo ra dòng đầu thai luân hồi của địa ngục , làm thú và làm người . Tất cả nợ nần tinh thần chấm dứt ngay khi sự giác ngộ phá hủy vô minh . Kẻ giác ngộ không làm tội lỗi nữa và cũng không thể phạm tội nữa . Tâm kẻ ấy đã được ấn dấu như hai mươi bảy vị Tổ sư trước ta đã nói thế .
Ta đến nước Trung Hoa nầy để truyền Tâm Ấn , đạo lý mới lạ ở đây chưa ai biết . Phật ở trong tâm của mỗi người . Giữ giới luật , tu khổ hạnh , cầu kinh , học vấn , nghĩa lý , tất cả những thứ nầy chẳng dùng được việc gì cả . Mục đích duy nhất mà mỗi người phải đạt đến là sự giác ngộ . Kẻ nào đạt được sự giác ngộ là một vị Phật , một vị Phật với tất cả các chư Phật , dù kẻ ấy không đọc được một chữ đi nữa cũng thế . Là Phật nghĩa là thấy Phật tánh nơi mình , nơi Tâm mình , Tâm của Tâm mình , bản thể vô hình và không rờ mó được , mong manh như hư không . Tâm ấy mọi người đều mang trong mình .
Hỡi Tâm ! Người lớn đến nổi bao trùm cả thế giới , Người nhỏ đến nổi mũi kim không thể xuyên qua được , hỡi Tâm của ta , Người là Phật , mà chính vì Người mà ta phải lao đao qua Trung quốc để giảng truyền đạo lý".
(Trích từ Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma , Tổ sư Thiền tông của Phạm Công Thiện , theo tài liệu của Leon Wieger , Trần Thi xuất bản năm 1987 California , USA).
Bồ Đề Đạt Ma trong Đạt Ma Huyết Mạch Luận nói : "Nếu niệm Phật mà chỉ niệm bằng miệng , không minh tâm kiến tánh , thì chỉ lãng phí thời gian mà thôi".
"Nếu không kiến tánh , chỉ dựa vào niệm Phật , tụng kinh , bố thí , trì giới , đó là phỉ báng Phật , chứ nói chi đến thành Phật".
"Mộng mà thấy nguồn sáng xuất hiện , sáng hơn cả ánh thái dương , thì tất cả dư tập sắp dứt , pháp giới chân thật thấy được . Nếu có việc nầy , tức là bước đầu của sự thành đạo đã đến , nên tự biết chẳng nên nói cùng người .
Hoặc trong vườn , rừng yên tĩnh , khi đi đứng nằm ngồi , mắt thấy nguồn sáng , hoặc lớn hoặc nhỏ , chẳng nên nói cùng ai , cũng đừng nên chú ý , đấy chỉ là tự tánh quang minh .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG PHẬT GIÁO
Hoặc trong đêm tối vắng lặng , khi đi đứng nằm ngồi , mắt chợt loé sáng chẳng khác chi ban ngày , chẳng nên cho là quái dị , đó là tự tâm soi sáng .
Hoặc giữa mộng trong đêm , thấy trăng sao rõ rệt . Đó là duyên nghiệp tự tánh sắp dứt . Chẳng nên nói cùng người . Nếu thấy được tự tánh , thì chẳng cần đọc kinh niệm Phật , học rộng biết nhiều vô ích . Để giúp thần thức hết hôn mê , nên mới có giáo nghĩa để chỉ bày về tâm ; còn nếu đã hiểu rõ được tâm , thì còn coi giáo nghĩa kinh điển làm gì".
Khi một người đắc đạo , chúng ta thường nói người đó "thành Phật" hay "thành Thánh", nhưng thật ra tất cả chúng ta đều đã là Phật , là Thánh rồi , bởi vì tất cả chúng ta đều có Phật tánh , Thánh tánh bên trong . Pháp môn Quán Âm giúp chúng ta dần dần nhớ lại lực lượng vĩ đại nầy của mình , nhận biết trở lại mình cũng là Phật , cũng là Thánh . Đây là sự liễu ngộ "Tâm" mà Bồ Đề Đạt Ma muốn nói ở trên .
Lục tổ Huệ Năng nói Phật và chúng sanh đều giống như nhau , chỉ khác nhau ở chỗ Phật là người ngộ rồi , còn chúng sanh là người chưa khai ngộ : "Tìm Phật ở nơi tâm , chớ nên cầu bên ngoài . Tự tâm mê tức là chúng sanh , tự tâm giác ngộ tức là Phật".
"Khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh , lúc một niệm khai ngộ thì chúng sanh tức Phật . Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm , vậy sao chẳng ở trong tự tâm đốn ngộ , thấy chơn như bản tánh ? Kinh Phạm Võng nói : 'Tự tánh vốn thanh tịnh , nếu nhận được tự tâm , thấy được bản tánh , tức thành Phật đạo'. Kinh Duy Ma Cật nói : 'Ngay lúc đó thoát nhiên đốn ngộ , liền được bổn tâm'. Ta ở nơi Hòa thượng Hoằng Nhẫn vừa nghe câu nói liền đốn ngộ , đốn thấy chơn như bản tánh , cho nên hoằng dương giáo pháp nầy , khiến hành giả đốn ngộ Bồ đề , mọi người tự thấy bổn tâm , tự kiến bản tánh".
"Tâm ta tự có Phật , Phật ở tâm mình , mới thiệt là chân Phật . Nếu tự mình không có tâm Phật , thì tìm chơn Phật nơi nào ? Cái tự tâm của chúng ngươi là Phật , chớ khá hồ nghi".
"Nếu ngộ pháp nầy , ngay trong một niệm tâm liền sáng tỏ , ấy là khai ngộ tri kiến Phật . Phật tức là giác , chia làm bốn cửa : khai giác tri kiến , nhập giác tri kiến . Nếu nghe khai thị liền được ngộ nhập tức là ngộ giác tri kiến , do đó bổn lai chơn tánh liền được hiển hiện".
"Tự tánh Như Lai trong tâm địa phóng đại quang minh (ánh sáng), ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh , phá hết lục dục chư thiên , tự tánh chiếu soi , bên trong liền trừ tam độc , các tội địa ngục nhất thời tan rã , trong ngoài sáng tỏ , chẳng khác Tây phương . Nếu chẳng tu như vậy , Tây phương làm sao đến được ?"
Chúng ta cũng không cần niệm Phật cầu nguyện vãng sanh về thế giới Tây phương của A Di Đà Phật hay bất cứ nơi nào , bởi vì cõi tịnh độ không phải ở đây , ở đó , mà nó ở trong chính Phật tính của chúng ta . Lục Tổ nói : "Tây phương là tự tánh , không cần cầu vãng sanh".
"Kẻ mê niệm Phật cầu sanh nơi khác , người ngộ tự tin nơi tâm (tâm Phật) cho nên Phật nói : 'Tâm tịnh Phật độ tịnh'. Kẻ mê chẳng rõ tự tánh , chẳng biết tịnh độ trong thân , cầu nguyện nơi Đông nơi Tây , người ngộ thì ở đâu cũng vậy . Nếu ngộ được pháp Vô Sanh , thấy Tây phương chỉ trong chốc lát , chẳng ngộ tự tâm mà niệm Phật thì con đường vãng sanh xa xôi làm sao đến được !"
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG PHẬT GIÁO
"Nói nhất hạnh tam muội là ở tất cả mọi nơi , đi đứng nằm ngồi thường hành trực tâm . Kinh Duy Ma Cật nói : 'Trực tâm là đạo tràng , trực tâm là tịnh độ', chớ nên tâm hạnh quanh co , miệng thì nói trực , nói nhất hạnh tam muội mà chẳng hành trực tâm".
Lục tổ khuyên chúng ta hãy tìm vị Minh sư tại thế hay thiện tri thức để nhờ Ngài giúp đỡ : "Nếu chẳng tự ngộ , phải tìm người đã khai ngộ pháp tối thượng thừa (Minh sư) chỉ ngay đường lối chánh pháp , vì thiện tri thức có nhân duyên lớn giáo hóa dẫn dắt khiến hành giả được kiến tánh , tất cả đều do thiện tri thức mà được kiến lập".
Ngài nói chúng ta nên quy y với chính vị Phật bên trong của mình , bởi vì tất cả trí huệ đều hiện hữu trong Phật tánh của chúng ta . Nếu chúng ta chưa thấy được tánh Phật của mình thì chúng ta dựa vào đâu để quy y : "Cả thảy trí Bát Nhã đều do trong tánh mình mà sanh chớ chẳng phải do nơi ngoài mà vào . Cái trí bát nhã vốn không lớn không nhỏ , chỉ vì cái tự tâm của chúng sanh mê ngộ chẳng đồng mà thôi . Lòng mê chỉ thấy bề ngoài , tu hành tìm Phật mà chưa tỏ bổn tánh của mình tức là người chưa thấy tánh . Nên tu hạnh nầy mà tự quy y . Phàm phu chẳng hiểu , từ sáng đến tối thọ tam quy y , nếu nói quy y Phật , Phật ở chỗ nào ? Nếu chẳng thấy Phật thì dựa vào đâu mà quy y ? Nói lại thành vọng . Mọi người hãy xem xét kỹ , chớ lầm dụng tâm , trong kinh nói rõ ràng là quy y tự tánh Phật , chẳng nói quy y tha Phật".
Quy y thực sự là "quy y Chân Phật" của mình , không phải là hình thức quy y bên ngoài . Ngài nói : "Nếu gặp được thiện tri thức , nghe được chánh pháp , tự trừ mê vọng , trong ngoài đều sáng , vạn pháp đều hiện nơi tự tánh , người kiến tánh cũng vậy . Đây gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật , tự tâm quy y tự tánh tức là quy y Chơn Phật".
Sau khi lượt duyệt qua những kinh điển của Phật giáo , chúng ta thấy rằng tất cả chư vị Phật , Bồ tát đều tán thán pháp môn Quán Âm , đều nói chúng ta hãy quay vào bên trong để tìm lại Phật tính của mình . Muốn thực hiện được điều nầy , chúng ta phải câu thông với Diệu Âm và ánh sáng bên trong qua sự giúp đỡ của vị Minh sư tại thế . Sau khi thọ Tâm Ấn với Ngài , con đường liễu thoát sanh tử luân hồi tìm về Phật Tổ Tối Cao mới thực sự bắt đầu .
Qua những kinh điển Phật giáo , chúng ta thấy những người tu phép Phật ngày xưa đã cảm nhận được ánh sáng bên trong , và nghe được những Nội Âm như Phạm âm , Hải triều âm , Thắng bỉ thế gian âm , tiếng chuông , tiếng trống , tiếng chim kêu , tiếng gió thổi , những âm nhạc cõi Trời , những tiếng vi diệu ví như trăm nghìn thứ âm nhạc đồng thời trỗi lên ...
Những người tu pháp môn Quán Âm ngày nay với Vô Thượng Thanh Hải cũng cảm nhận được những thể nghiệm Âm thanh như kinh điển Phật giáo đã đề cập đến . Vì vậy pháp môn Quán Âm "Tức khắc khai ngộ" Vô Thượng Sư Thanh Hải đang truyền bá chính là pháp môn "Đốn Ngộ", tức khắc kiến tánh thành Phật của Thiền tông Phật giáo ngày xưa .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG THIÊN CHÚA GIÁO
CHƯƠNG 8
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG
THIÊN CHÚA GIÁO
Phúc âm theo thánh Giăng bắt đầu bằng phần quan trọng sau đây : "Ban đầu có Ngôi Lời . Ngôi Lời ở cùng đức Chúa Trời và Ngôi Lời là đức Chúa Trời . Muôn vật bởi Ngài làm nên , chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài . Trong Ngài có sự sống , sự sống là ánh sáng của loài người". Giăng 1:1-4
Nếu Ngôi Lời là chữ viết hay lời nói của con người , thì chữ viết và lời nói đó không thể nào có từ nguyên thủy "Ban đầu có Ngôi Lời", "ở cùng đức Chúa Trời", "là đức Chúa Trời", "làm nên tất cả muôn vật" được , và trong ngôn ngữ đó không thể nào "có sự sống và ánh sáng của loài người".
"Ngôi Lời đã vào trong thế gian và thế gian đã được làm nên bởi Ngài ; nhưng thế gian chẳng nhận biết Ngài". Giăng 1:10. Nếu Ngôi Lời là ngôn ngữ của con người , ngôn ngữ đó làm sao tạo nên thế gian được .
Trong cuốn Sant Mat And The Bible xuất bản năm 1941 , Narain Das viết : "Ngôi Lời không thể nào được nói đến như một chữ viết hay một lời nói được . Thánh Moses sống cách đây chỉ có năm ngàn năm và Chúa Giêsu đã đến đây trễ hơn nữa , gần hai mươi thế kỷ qua . Vì vậy nên tất cả những gì họ diễn tả hay nói ra không thể là Ngôi Lời được vì Ngôi Lời đã có từ ban đầu 'Ban đầu có Ngôi Lời'. Ngôi lời hay dòng Âm lưu nguyên thủy nầy đã làm nên toàn cõi vũ trụ 'chẳng vật chi được làm nên mà không bởi Ngài', và vị Minh Sư tại thế chính là sự thị hiện sống của dòng Âm lưu đó như thánh Giăng đã nói 'Ngôi Lời trở thành xác thịt và ngự trị trong chúng ta'. Lời nói hay ngôn ngữ con người không thể nào trở thành nhục thể và ngự trị trong chúng ta được".
Kinh Thánh đã nói đến sự vĩ đại của Ngôi Lời trong việc cứu rỗi linh hồn , nhưng thế gian ít có ai biết đến . Chúng ta hãy đọc lại kinh Thánh để tìm hiểu Ngôi Lời thật sự là gì , và tại sao Ngôi Lời có một tầm vóc quan trọng trong Thánh kinh cũng như trong tất cả các kinh điển của tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới .
"Ta đã cho các ngươi (môn đồ) biết được bí mật của Thiên Quốc , nhưng đối với những người khác thì dùng ẩn dụ mà nói , để họ xem mà không thấy , lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết". Luca 8:10. Cái bí mật Chúa Giê Su đã tiết lộ với môn đồ của Ngài là gì , và tại sao Ngài lại phải dùng ẩn dụ để nói với những người không phải là môn đồ ?
"Hỡi Cha ! Là Chúa của Trời Đất , Con rất đội ơn Cha , vì Cha đã giấu những điều nầy với kẻ khôn ngoan , người sáng dạ , mà chỉ tỏ ra cho những con trẻ hay". Mathiơ 11:25. Thượng đế đã giấu điều gì với "kẻ không ngoan , người sáng dạ" và ai là người khôn ngoan , sáng dạ ?
"Đức chúa Trời đã cho họ một tâm linh u mê , mắt họ không thấy , tai họ không nghe cho đến ngày nay". Romans 11:8. Tại sao đức Chúa Trời lại cho họ một tâm linh u mê , để mắt họ không thể "thấy" và tai họ không thể "nghe" ? Tai và mắt ở đây có nghĩa là gì ?
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG THIÊN CHÚA GIÁO
"Các ngươi sẽ nghe nhưng chẳng hiểu chi , các ngươi quả có nhìn nhưng chẳng thấy chi". Công vụ 28:26. Người thế gian nghe gì mà không hiểu , nhìn mà chẳng thấy ?
"Các ngươi chưa khi nào nghe Tiếng Ngài và cũng chưa hề thấy hình dạng Ngài , và Lời Ngài cũng không ở trong các ngươi , vì các ngươi không tin Đấng đã sai đến . Các ngươi nghiên cứu kinh Thánh , vì các ngươi nghĩ rằng các ngươi sẽ tìm được sự sống đời đời ở trong đó . Hãy biết rằng kinh Thánh được viết ra để làm chứng về Ta đây . Thế mà các ngươi lại không muốn đến cùng ta để được sự sống ... Ta nhân danh Cha Ta mà đến , thì các ngươi không nhận Ta , nhưng nếu có ai nhân danh mình mà đến , thì các ngươi sẽ nhận người ấy liền". Giăng 5:37-43. Tiếng Ngài , Lời Ngài , hình dạng Ngài là gì ? Tại sao người đương thời không nhận ra Ngài ?
"Phước thay cho mắt các ngươi , vì thấy được ; và cho tai các ngươi , vì nghe được . Vì Ta nói cùng ngươi , có nhiều tiên tri và người công chính ước thấy những gì các ngươi thấy , mà không được thấy , mong nghe những gì các ngươi nghe , mà không được nghe". Mathiơ 13:16-17. Mắt của môn đồ thấy gì và tai họ nghe gì mà những người khác không thể nghe thấy được ?
"Con vì họ (môn đồ của Ngài) mà cầu nguyện , chẳng phải vì thế gian mà cầu nguyện , nhưng vì kẻ mà Cha đã giao cho con (môn đồ), bởi chưng họ thuộc về Cha". Giăng 17:9. Tại sao chúa Giêsu đã không cầu nguyện cho tất cả mọi người trên thế gian , mà Ngài chỉ cầu nguyện cho môn đồ của Ngài ?
"Các ngươi sẽ biết Chân Lý và Chân Lý sẽ giải thoát các ngươi". Giăng 8:32. Chân Lý , Sự thật hay Lẽ thật (the Truth) chúa Giêsu và các Minh sư thường nói đến là gì và tại sao Chân lý nầy có thể giải thoát chúng ta ?
"Ba Ngôi" trong Thiên chúa giáo là Cha , Con và đức Thánh linh . Cha là Thượng đế , Con là Con Trời hay vị Minh sư , còn "đức Thánh linh" là ai ?
"Danh của Thượng đế ở trong một ngọn tháp kiên cố ; những người chính trực chạy vào trú ngụ trong đó và được bình an". Châm ngôn 18:10. Những người chính trực là ai và Danh của Thượng đế là gì ?
Chúa Giêsu nói "sự cầu nguyện" hay ân sủng nầy Ngài ban cho những môn đồ , không phải cho người thế gian , bởi vì đệ tử hay môn đồ là những người được Thượng đế lựa chọn "bởi họ thuộc về Cha". Thượng đế đã giấu sự bí mật với những "kẻ khôn ngoan , người sáng dạ", là những người trí thức thích biện luận , tranh cãi , nghiên cứu những kiến thức thế gian , kinh điển , sách vở . Nhưng người lại ban nó cho những người có tâm hồn đơn sơ như con trẻ : "Hãy để con trẻ đến cùng ta , đừng ngăn trở , vì nước Thiên đàng thuộc về những kẻ giống như con trẻ vậy". Mathiơ 19:14.
"Sợi dây bạc" (Silver cord) nối thân xác với linh hồn của chúng ta , khi sợi dây bạc bị đứt , linh hồn lìa khỏi xác . "Sợi chỉ vàng" (Golden thread) nối linh hồn của chúng ta với Thượng đế . Khi không câu thông được với sợi chỉ vàng , chúng ta bị ngăn cách với Ngài . "Sợi chỉ vàng" các Minh sư thường đề cập đến là gì ?
"Sợi chỉ vàng", lực lượng tối cao của Thượng đế ngự trị bên trong các Minh sư tại thế và trong mỗi chúng ta , được gọi bằng nhiều tên khác nhau qua những thời đại khác nhau , chính là Dòng Âm Lưu nội tại hay Âm thanh bên trong . Thiên chúa giáo gọi dòng Âm lưu là Ngôi Lời (the Word), đức Thánh linh (the Holy Ghost), Nước Nguồn Sống (The Living Water), Thánh từ , Phúc âm , tiếng của Thượng đế , Danh , Chân lý , Lẽ thật , Sự thật ...
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG THIÊN CHÚA GIÁO
Khi sợi chỉ vàng nguyên thủy , tinh tuyền và bất biến nầy được khâu kết lại với nhục thể của con người , con người đặc biệt đó sẽ trở thành Con Trời hay vị Minh sư tại thế . Nói một cách khác , khi Ngôi Lời của Thượng đế mặc vào hình dáng của một con người , chúng ta có vị Minh sư tại thế "Ngôi Lời trở thành xác thịt và sống giữa chúng ta". Giăng 1:14
Dù các Minh sư ra đời nơi trời Đông hoặc trời Tây , vào thời đại này hay thời đại khác , mặc vào thân xác nầy hay thân xác khác , lực lượng của dòng Âm lưu thị hiện trong các Ngài cũng chỉ là một , bởi vì dòng Âm lưu nầy chính là Thượng đế .
"Những người chính trực" là những người được nối kết với Ngôi Lời , sẽ được che chở và trú ngụ trong sự bình an . Trong khi những người không tin nhận Chúa Giêsu lúc đó đã không được Ngài câu thông với Ngôi Lời và ánh sáng bên trong "các ngươi chưa nghe Tiếng Ngài (Âm thanh), chưa thấy Ngài (ánh sáng), và Lời (Ngôi Lời) Ngài cũng không có trong các ngươi".
Ngôi Lời là một lực lượng uyên thuyên (original ennergy , power) có thật đến từ Thượng Đế , không phải là lời nói của một người nào hay là chữ viết trong kinh điển . Vì vậy Diệu Âm không nằm trong kinh điển Phật giáo , Ngôi Lời không chứa đựng trong kinh điển Thiên Chúa giáo , Kalma không nằm trong kinh điển Hồi giáo , Vak không nằm trong kinh Vệ đà , Ram Dhun không nằm trong kinh điển Ấn độ giáo ...
Chúa Giêsu nói lý do người đời không thấy được Thượng đế vì họ bận rộn nghiên cứu kinh Thánh , nghĩ rằng họ sẽ tìm thấy được sự sống vĩnh cửu trong đó . Nhưng sự sống đời đời không nằm trong kinh điển , qua những gì chúng ta có thể quan sát bên ngoài , mà lại ở trong chính ngôi đền thân thể của con người . Ngài nói : "Vương quốc đức Chúa trời không đến bằng những gì các ngươi có thể quan sát được ... Vương của đức Chúa trời đang ở trong các ngươi". Luca 17:20-21.
Đọc giáo lý chỉ là giai đoạn của lý thuyết , ước mơ và tìm hiểu . Muốn biết ước mơ nầy thành sự thật và ấn chứng cho những gì chúng ta đã đọc và tìm kiếm , chúng ta phải tiến đến giai đoạn thực hành . Giai đoạn thực hành là giai đoạn thuộc linh , vị Minh sư tại thế cho chúng ta thực sự nếm hương vị Ngôi Lời đã được đề cập trong kinh điển . Muốn thành Bác sĩ , chúng ta không những chỉ đọc sách giáo khoa về Y khoa , chúng ta cần phải thực tập trong bệnh viện dưới sự chỉ dẫn trực tiếp của một Bác sĩ đang còn sống .
Kinh Thánh nói đức tin phải đi đôi với việc thực hành mới đạt thành kết quả : "Xác chẳng có hồn thì chết , đức tin nhưng không có thực hành cũng chết như vậy". Gia cơ 2:26.
Thánh Phao Lồ nói : "Sự cắt bì chỉ ở bên ngoài và trên thân xác mà thôi thì không phải là sự cắt bì thật . Sự cắt bì thật là sự cắt bì trong tấm lòng , bằng đức Thánh linh (Ngôi Lời), chứ không phải bằng văn tự". Rôma 2:28-29.
Minh sư Charan Singh viết : "Đọc sách hay kinh điển , chúng ta chỉ đạt được những kiến thức , lý thuyết mà thôi . Những cuộc tranh luận của những triết gia không gì hơn là một cái lưới nhện làm cho chúng ta bị vướng mắc vào và bị cản trở không thoát ra ngoài được .
Đôi khi chúng ta bị thói quen thích bàn cãi , lý luận một các phức tạp . Chúng ta bắt đầu kiêu hãnh tự cho mình là những học giả vĩ đại hay những nhà trí thức uyên thâm , và coi những người khác như là những người ngu dốt hay mù chữ , rồi chúng ta trở nên tự cao , tự đắc . Nhưng trên con đường nhận biết Thượng đế chúng ta phải hoàn đồng như một đứa bé . Việc đọc sách cũng như chùi rửa một cái chén . Nếu cả cuộc đời chúng ta kỳ cọ nó mà không bỏ cái gì vào trong đó thì thật là uổng phí thời giờ . Cái chén dơ đầu óc của chúng ta cần được chùi rửa , để có thể đổ đầy vào đó mật ngọt của nước Cam lồ thiêng liêng : dòng Âm lưu nội tại".
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG THIÊN CHÚA GIÁO
Minh sư Bulletshah làm sáng tỏ thêm : "Hỡi các bạn , hãy đóng lại tất cả những cuốn sách của kiến thức thế gian để đón chờ Diệu Âm , vì đó mới là Trí tuệ của Thượng đế". Trong cuốn Sant Mat And The Bible , Narain Dass viết : "Chúng ta giống như bộ máy truyền thanh , nhạc Thiên đàng âm vang khắp nơi quanh chúng ta trong từng nguyên tử , nhưng chúng ta bị điếc nên không nghe được . Vị Minh sư là người có thể điều chỉnh làn sóng của máy thâu thanh , nơi ngự trị của linh hồn . Với sự thực hành trong một vị thế nào đó , đệ tử sẽ tiếp nhận được làn sóng âm nhạc cõi trên nầy . Cái radio có đó , nhưng có làm gì được nếu nó không được chỉnh bởi vị Minh sư ? Thánh Phao Lồ và các vị Thánh khác đã nghe những âm nhạc được ghi lại trong Khải Huyền , bởi vì họ đã được 'điều chỉnh' bởi chúa Giêsu . Có bao nhiêu người Thiên chúa giáo ngày nay được nghe những âm thanh thần thánh nầy ?"
"Dòng Âm Lưu nội tại nầy là Chân lý của vũ trụ , là Sự sáng , Ánh sáng , Tình thương , Thánh thiện và Vinh hiển , là tinh túy của Thượng đế . Thần Ngôn Thiên Chúa nầy chính là 'Ngôi Lời đã mất' của dòng tu kín Tam Điển (Masonic Order). Chúng ta phải cám ơn đấng Toàn Năng vì 'Ngôi Lời đã mất' nầy hiện giờ đã được tìm thấy lại ở vị Minh sư tại thế".
Con người có ngôn ngữ của con người , loài vật có ngôn ngữ của loài vật . Thượng đế có ngôn ngữ đặc biệt của Ngài là Ngôi lời và Ánh sáng thiêng liêng bên trong để giao tiếp với chúng ta . Để được câu thông với hai thị hiện nầy , chúng ta phải nhờ đến sự giúp đỡ của vị Minh sư tại thế . Bởi vì con người chỉ có thể học hỏi từ con người , và Thượng đế muốn cứu rỗi con người phải xuyên qua vị Minh sư tại thế .
Minh sư Giêsu nói : "Ai nghe Lời của Ta mà tin Đấng đã sai Ta , thì được sự sống đời đời , và thoát khỏi sự phán xét , vượt khỏi sự chết mà đến sự sống". Giăng 5:24.
Minh sư Swami Ji nói : "Không có Minh sư và Diệu Âm (Ngôi Lời), không một ai có thể vượt qua đại dương của thế gian nầy".
Minh sư Nanak nói : "Kho tàng Diệu Âm tiềm ẩn trong chúng ta , và cái chìa khóa để vào kho tàng nầy nằm trong tay của vị Minh sư tại thế".
Chỉ có vị Chân sư tại thế mới có thể tiết lộ cho đệ tử về sự bí mật của Ngôi Lời . Vào lúc truyền Tâm Ấn (Initiation) hay Rửa Tội Bằng Đức Thánh Linh (real Baptism), trong im lặng vị Minh sư khai mở Con Mắt thuộc linh (Mắt Huệ) của đệ tử , câu thông linh hồn với Ngôi Lời và Ánh sáng bên trong .
Khi câu thông được với Âm thanh , chúng ta sẽ được giải thoát và đạt được đời sống vĩnh cửu , bởi vì Ngôi Lời có năng lực tiêu trừ nghiệp chướng : "Các ngươi được rửa sạch bằng Ngôi Lời như Ta đã phán với các ngươi". Giăng 15:3.
"Nếu các ngươi hằng ở trong Ngôi Lời của ta , thì mới thật là môn đồ ta , và các ngươi sẽ biết Lẽ Thật , và Lẽ Thật sẽ làm cho các ngươi được giải thoát". Giăng 8:31-32.
Sau khi được "Rửa Tội Bằng Đức Thánh Linh và Bằng Lửa (ánh sáng)", mỗi ngày hành giả hành thiền , trong im lặng lắng nghe những tiếng Nhạc Trời huyền diệu âm vang thánh thót bên trong và cảm nhận ánh sáng thiêng liêng của Thượng đế . Ánh sáng sẽ mở mang trí huệ , Âm thanh sẽ dần dần hóa giải nghiệp chướng , đồng thời nâng cao độ rung hay tần số chấn động lực của linh hồn , kéo linh hồn lên cao .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG THIÊN CHÚA GIÁO
Khi đạt đến tần số chấn động lực của cõi tâm linh thứ tư (cõi linh hồn), hay "cộng hưởng" (tune in) với của tâm thức của cõi nầy , hành giả sẽ nhận biết lại Chân ngã , Phật tánh hay linh hồn của mình (Self-realization). Khi đạt đến tần số chấn động lực của cõi thứ năm , hành giả sẽ nhận biết Thượng đế hay "liễu ngộ Thượng đế" (God-realization) và trở thành đồng nhất thể với Ngài .
Một khi Ngôi Lời đã được ban cho đệ tử , Ngôi Lời nầy sẽ vĩnh viễn ở cùng họ , bảo hộ , giải thoát và dẫn dắt họ tìm lại sự vĩnh cửu : "Trời đất sẽ tan biến , nhưng Lời (Ngôi Lời) của ta sẽ chẳng bao giờ mất". Mathiơ 24:35.
"Ta ban cho họ (môn đồ) sự sống đời đời (Ngôi Lời), họ sẽ chẳng bao giờ chết nữa , và cũng sẽ không có một ai cướp sự sống ấy ra khỏi tay ta". Giăng 10:28.
Cuốn The Essene Gospel Of John (Phúc Âm Essene của Thánh Giăng) đã được tiến sĩ Edmond Bordeaux Szekely dịch năm 1959 từ tiếng Xy-ri , tiếng cổ Do thái , và Hội Quốc Tế Sinh Vật Học đã xuất bản năm 1981 tại Hoa Kỳ , dưới tựa đề The Essene Gospel Of Peace . The Teachings of the Elect . Book four (Phúc Âm Essene Hòa Bình . Giáo lý của Người Được Chọn . Quyển Bốn).
Trong đó Chúa Giêsu nói : "Ta nói thật cho các ngươi biết , có Mạch sống thiêng liêng sinh ra Đất Mẹ và tất cả Thiên thần . Mạch sống nầy , đối với những đứa con của thế gian , không thể thấy được bằng mắt ; nhưng những đứa con của Ánh sáng được ban cho bí quyết câu thông với thiên thần , và mắt tâm linh của ngươi sẽ được mở ra và ngươi sẽ thấy , sẽ nghe và sẽ liên lạc được với Mạch sống thiêng liêng đã sanh ra Đất Mẹ . Ngươi sẽ hội nhập vào Mạch sống thiêng liêng ấy , và với sự êm dịu vô biên , nó sẽ mang ngươi trở về đời sống vĩnh cửu trên Thiên quốc của đức Chúa Cha".
"Khi mặt trời lên cao trên những từng trời , ngươi hãy để Nguồi Suối Âm thanh thiêng liêng (The Holy Stream of Sound , Ngôi Lời) rót vào tai ngươi , bởi vì nó chỉ có thể được nghe trong im lặng ... Đây mới chính là Tiếng Nói của Thượng đế (The Voice of God); bởi vì khi đã được viết , từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời , Ngôi Lời ở với Thượng đế và Ngôi Lời là Thượng đế . Hãy cảm nhận nó và trong sự im lặng của thủy triều ban trưa , hãy tắm trong nó và hãy để cho nhịp điệu thánh thót của Âm nhạc Thượng đế âm vang trong tai ngươi , cho đến khi ngươi nhập làm một với Dòng Âm lưu thiêng liêng nầy . Đây là Dòng Âm lưu đã tạo nên trời đất , thế giới , những núi non và những thiên hà trên từng trời cao nhất .
Và ngươi sẽ tắm trong Dòng Âm lưu nầy và Âm nhạc của nó sẽ tràn ngập trong ngươi , bởi vì từ nguyên thủy chúng ta đã cùng nhau hiện hữu , san sẻ trong Dòng Âm lưu đã sáng tạo toàn cõi vũ trụ . Và sự tuôn chảy ầm ầm của Dòng Âm lưu nầy sẽ tràn ngập thân thể ngươi , và ngươi sẽ run rẩy trước sức mạnh của nó ... Dòng Âm Lưu nầy sẽ đưa ngươi tới những Vương quốc vô tận của đấng Tối Cao , nơi đó những âm điệu của thế giới lên xuống nhịp nhàng".
"Những giây phút trước khi ngủ , ngươi hãy nghĩ đến những ngôi sao rực rỡ , huy hoàng , những ngôi sao trắng sáng chói từ xa . Bởi vì những ý tưởng trước khi ngươi ngủ cũng giống như cây cung của một người thiện xạ , người ấy sẽ bắn mũi tên đến nơi nào người ấy nhắm hay muốn . Hãy hướng tâm tưởng của ngươi trước khi ngủ đến những vì sao , bởi vì những ngôi sao là Ánh sáng . Bởi vì Ánh sáng của Thượng đế ngàn lần sáng hơn ánh sáng của mặt trời . Hãy bước vào trong Dòng Ánh sáng thiêng liêng để vĩnh viễn không còn bị xiềng xích vào cái chết và thoát ra khỏi những ràng buộc của thế gian , hãy bước lên Dòng Ánh sáng thiêng liêng , bay xuyên qua những ngôi sao sáng ngời để vào Thiên quốc vô tận của đức Chúa Cha .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG THIÊN CHÚA GIÁO
"Khi mặt trời lên cao trên những từng trời , ngươi hãy để Nguồn Suối Âm thanh thiêng liêng (The Holy Stream of Sound , Ngôi Lời) rót vào tai ngươi , bởi vì nó chỉ có thể được nghe trong im lặng ... Đây mới chính là Tiếng Nói của Thượng đế (The Voice of God); bởi vì khi đã được viết , từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời , Ngôi Lời ở với Thượng đế và Ngôi Lời là Thượng đế . Hãy cảm nhận nó và trong sự im lặng của thủy triều ban trưa , hãy tắm trong nó và hãy để cho nhịp điệu thánh thót của Âm nhạc Thượng đế âm vang trong tai ngươi , cho đến khi ngươi nhập làm một với Dòng Âm lưu thiêng liêng nầy . Đây là Dòng Âm lưu đã tạo nên trời đất , thế giới , những núi non và những thiên hà trên từng trời cao nhất .
Và ngươi sẽ tắm trong Dòng Âm lưu nầy và Âm nhạc của nó sẽ tràn ngập trong ngươi , bởi vì từ nguyên thủy chúng ta đã cùng nhau hiện hữu , san sẻ trong Dòng Âm lưu đã sáng tạo toàn cõi vũ trụ . Và sự tuôn chảy ầm ầm của Dòng Âm lưu này sẽ tràn ngập thân thể ngươi , và ngươi sẽ rung rẩy trước sức mạnh của nó ... Dòng Âm lưu nầy sẽ đưa ngươi tới những Vương quốc vô tận của đấng Tối Cao , nơi đó những âm điệu của thế giới lên xuống nhịp nhàng".
"Những giây phút trước khi ngủ , ngươi hãy nghĩ đến những ngôi sao rực rỡ , huy hoàng , những ngôi sao trắng sáng chói từ xa . Bởi vì những ý tưởng trước khi ngươi ngủ cũng giống như cây cung của một người thiện xạ , người ấy sẽ bắn mũi tên đến nơi nào người ấy nhắm hay muốn . Hãy hướng tâm tưởng của ngươi trước khi ngủ đến những vì sao , bởi vì những ngôi sao là Ánh sáng . Bởi vì Ánh sáng của Thượng đế ngàn lần sáng hơn ánh sáng của mặt trời . Hãy bước vào trong Dòng Ánh sáng thiêng liêng để vĩnh viễn không còn bị xiềng xích vào cái chết và thoát ra khỏi những ràng buộc của thế gian , hãy bước lên Dòng Ánh sáng thiêng liêng , bay xuyên qua những ngôi sao sáng ngời để vào Thiên quốc vô tận của đức Chúa Cha .
Hãy dang đôi cánh Ánh sáng của ngươi , và trong tận cùng của tâm tưởng , bay cao với những vì sao đến những từng trời , nơi đó có nhiều mặt trời chói lọi . Bởi vì từ nguyên thủy , Thánh giới phán rằng : 'Hãy có ánh sáng và ánh sáng hiện hữu'. Và ngươi sẽ nhập làm một với nó , và lực lượng của Ánh sáng thiêng liêng sẽ chan hòa toàn thân ngươi và ngươi sẽ rung rẩy trước vũ lực của nó ... Ngươi sẽ nhập làm một với Ánh sáng và nằm trong vòng tay che chở của đức Chúa Cha".
"Ta nói thật với các ngươi , thân thể của các ngươi sanh ra không phải chỉ để thở , ăn và suy nghĩ , nhưng nó được làm ra để đi vào trong Mạch Sống thiêng liêng (Holy Stream of Life , Ngôi Lời). Tai của các ngươi được làm ra không phải chỉ để nghe tiếng người nói , tiếng chim hót và khúc nhạc mưa rơi , nhưng nó được dùng để nghe Dòng Âm lưu thiêng liêng . Mắt của các ngươi không phải chỉ để nhìn bình minh và hoàn hôn , nhìn sóng lúa lăn tăn và đọc những lời trong cuốn sách Thánh , nhưng nó còn được tạo ra để nhìn Dòng Ánh sáng thiêng liêng . Một ngày nào đó thân thể các ngươi sẽ trở về với các bụi , mắt và tai của ngươi cũng theo về với đất mẹ , nhưng Mạch Sống , Dòng Âm lưu và Dòng Ánh sáng thiêng liêng nầy đã không bao giờ sinh và không bao giờ tử . Hãy bước vào những Dòng thiêng liêng nầy vì nó sẽ dẫn ngươi đến Vương quốc của đức Chúa Cha và thành đồng nhất thể với Ngài .
Ta không thể nói gì hơn được nữa , bởi vì những Nguồn Sống nầy sẽ dẫn ngươi đến một nơi mà ở đó không còn ngôn từ nữa , và ngay cả những sách Thánh thiêng liêng cũng không thể nào ghi lại được".
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG THIÊN CHÚA GIÁO
Kinh Thánh nói rất rõ về sự chuyển hóa tâm thức hay tái sinh linh hồn khi đệ tử được Rửa Tội bằng Ngôi Lời : "Nầy là sự huyền bí tôi muốn tỏ cho anh em : Chúng ta không ngủ hết đâu , nhưng hết thảy sẽ biến hóa . Trong giây phút , trong nháy mắt lúc tiếng kèn chót thổi , và những kẻ chết sẽ sống lại từ bản thể hư nát chuyển sang bản thể không hư nát , và chúng ta đều sẽ biến hóa . Khi nào thể hay hư nát nầy mặc lấy bản thể bất diệt , khi nào thể hay hư nát nầy mặc lấy bản thể bất tử thì được ứng nghiệm lời kinh Thánh rằng : Sự chết đã bị nuốt mất trong sự thắng". I Cô Rinh Tô 15:51-54.
Kinh Thánh đã diễn tả sự thức tỉnh tâm linh như việc người chết sẽ sống dậy , người điếc sẽ nghe , người mù sẽ thấy và người què sẽ đi được , khi họ cảm nhận ánh sáng và Âm thanh bên trong .
Cũng như phép "đốn ngộ" trực chỉ chơn tâm , kiến tánh thành Phật trong Thiền tông Phật giáo hay phép "tức khắc khai ngộ" Vô Thượng Sư Thanh Hải đang truyền bá , thánh Phao Lồ nói sự Rửa Tội Bằng Đức Thánh Linh xảy ra chỉ "trong giây lát , trong chớp mắt". Người thọ pháp sẽ tức khắc nghe được tiếng kèn (Ngôi Lời) bên trong và linh hồn người ấy sẽ sống lại "vì tiếng kèn sẽ vang lên và những kẻ chết sẽ sống lại". Sự tái sinh ở đây không phải là sự sống dậy của nhục thể "thịt và máu chẳng hưởng nước Đức Chúa Trời" mà là sự tái sinh tâm linh . "Kẻ chết" ý muốn nói những linh hồn còn say ngủ ; tuy nhiên "chúng ta không ngủ hết" vì khi nghe được Ngôi Lời , linh hồn sẽ thức tỉnh , "hết thảy sẽ biến hóa" từ thể hư nát sang thể bất tử của linh hồn .
Đây là sự tái sinh tâm linh , không phải là sự tái sinh của nhục thể : "Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt , hễ chi sanh bởi Thánh Linh là Thánh Linh". Giăng 3:6. Người nào được tái sinh bằng tâm linh đều cảm nhận được những "Tiếng thiêng liêng" bên trong : "Chúng ta nói về ơn đó , không cậy lời nói mà sự khôn ngoan của loài người đã dạy đâu , song cậy sự khôn ngoan mà đức Thánh linh đã dạy , dùng Tiếng Thiêng Liêng để giải bày sự thiêng liêng". I Cô Rinh 2:13-14.
Chúa Giêsu nói đến sự tái sinh linh hồn khi Ngài đề cập đến những người chết sống dậy từ những ngôi mộ : "Giờ sắp đến và bây giờ đã đến rồi , ấy là khi những kẻ chết được nghe Tiếng Con đức Chúa Trời (Ngôi Lời) và ai nghe sẽ được sông ... Chớ ngạc nhiên về điều ấy , vì giờ đến , là khi mọi kẻ trong mồ mả sẽ nghe Tiếng Ngài mà ra khỏi". Giăng 5:25-28.
"Những người ở trong mồ mả" ám chỉ đến những người tuy còn sống trong thể xác , nhưng linh hồn vì chưa được thức tỉnh nên kể như chết ; chứ không phải là những người đã chết thực sự rồi , đang nằm trong mồ mả bỗng đứng dậy đi ra như những cái thây ma đang rửa nát hay những bộ xương khô . Những linh hồn được câu thông với Ngôi Lời "nghe tiếng Ngài" sẽ được tái sinh và cứu rỗi "ra khỏi".
Thánh Phao Lồ nói " "Sự sống lại của kẻ chết cũng như vậy . Thân thể đã gieo ra là hư nát , mà sống lại là không hư nát , đã gieo ra là nhục thể , mà sống lại là vinh ... đã gieo ra là khí huyết , mà sống lại là thể Thiêng liêng (linh hồn)". I Cô Rinh 15:42-44.
Thánh Giăng Báptít nói đến việc chúa Giêsu sẽ truyền Tâm Ấn hay làm Báptêm Bằng Đức Thánh Linh : "Tôi làm Báp têm cho các người bằng nước , nhưng có Đấng đến sau tôi (chúa Giêsu), Ngài có quyền năng hơn tôi , Ngài sẽ làm Báp têm cho các người bằng đức Thánh linh và bằng lửa . Tay Ngài sẽ cầm cào lúa mà làm sạch sân lúa mình ... Còn trấu thì Ngài sẽ cho đốt trong lửa không hề tắt". Luca 3:16-17.
"Làm Báp têm bằng đức Thánh linh" tức là Rửa Tội bằng Âm thanh , Ngôi Lời ; "bằng lửa" có nghĩa là bằng Ánh sáng bên trong . Khi làm Báptêm , vị Minh sư tại thế sẽ gánh chịu nghiệp chướng cho đệ tử "Ngài làm sạch sân lúa của mình", đốt nghiệp chướng cho họ "đốt trong lửa". Ánh sáng được truyền qua cho đệ tử sẽ mãi mãi ở với họ , vĩnh viễn không bao giờ tắt "lửa không hề tắt".
-
Khi chịu phép Báptêm với Giăng Baptít , chúa Giêsu thể nghiệm ngay tức khắc những ấn chứng bên trong : "Khi chịu phép Báp têm xong , vừa khi lên khỏi Nước , Ngài thấy các từng Trời mở ra và đức Thánh linh ngự xuống trên mình Ngài như chim bồ câu". Mác 1:10. Đây mới đúng là sự Rửa Tội thực sự . Mắt thuộc linh (Mắt Huệ) của Ngài được khai mở , Ngài liền nhìn thấy những cảnh Trời và cảm nhận được Ngôi Lời "đức Thánh linh ngự xuống trên mình".
Chúa Giêsu nói người đời chỉ biết làm những lễ nghi , hình thức bên ngoài "các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết", mà không được truyền mật pháp Ngôi Lời bên trong như các đệ tử của Ngài "chúng ta thờ lạy việc chúng ta biết : "Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết , chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết ... Khi những kẻ thờ phượng thật lấy Thánh Linh và lẽ Lẽ Thật mà thờ Cha ; ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy . Đức Chúa trời là Thánh linh nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy Thánh linh và Lẽ thật mà thờ lạy". Giăng 4:22-24.
Cũng như tất cả các kinh điển của các tôn giáo lớn , kinh Thánh nói rất rõ ; chỉ khi nào linh hồn được tái sinh và nối kết với Ngôi Lời , chúng ta mới được vào Thiên quốc :
"Nếu các người chẳng được sinh lại thì không thể thấy được Vương quốc của đức Chúa Trời". Giăng 3:3.
"Nếu một người chẳng nhờ Nước và đấng Thánh linh mà sinh ra , thì không thể vào Vương quốc đức Chúa trời ... Chớ ngạc nhiên về điều Ta nói với ngươi . Các ngươi phải được sanh lại". Giăng 3:5-7.
"Nhưng hễ ai uống Nước Ta thì sẽ không bao giờ khát nữa . Nước Ta cho sẽ thành một mạch nước trong người ấy tuôn ra cho đến sự sống đời đời". 4:14.
"Người nào khát , hãy đến với Ta mà uống . Ai tin Ta thì Sông Nước Hằng Sống sẽ từ trong người ấy tuôn chảy ra , y như kinh Thánh đã ghi chép vậy". Giăng 7:37-38.
"Nước và đức Thánh linh" chúa Giêsu muốn nói đến là Nước Nguồn Sống , Nước Lũ hay Ngôi Lời . Một khi Ngôi Lời đã được ban cho đệ tử , Ngôi lời sẽ dẫn dắt họ đến đời sống sống vĩnh cửu . Thánh Phao Lồ nói : "Ai gieo cho đức Thánh linh thì sẽ bởi đức Thánh linh mà gặt sự sống đời đời". Galati 6:8.
-
THANH HẢI VÔ THƯỢNG SƯ và PHÁP MÔN QUÁN ÂM - Tác giả : LƯU THỊ KỲ NAM
Sự sống của linh hồn quan trọng hơn sự chết của nhục thể đã được Chúa Giêsu nhấn mạnh trong đoạn sau đây : "Có một môn đồ thưa cùng Ngài rằng : Lạy Chúa xin Chúa cho tôi về chôn cha tôi trước đã . Nhưng Chúa Giêsu phán rằng : Để kẻ chết chôn kẻ chết , còn ngươi hãy theo Ta". Mathiơ 8:21-22.
Hai chữ "kẻ chết" đều ý muốn nói đến những người còn sống nhưng linh hồn chưa được thức tỉnh thì cũng kể như chết về tâm linh (spiritual death). Hai chữ "kẻ chết" sau là những người đã chết về thể xác (physical death) rồi , tức là cái thây ma không còn linh hồn trong đó . Ngài muốn nhắn nhủ với môn đồ rằng đừng quá để ý đến những kẻ còn sống nhưng linh hồn thì như chết và những kẻ đã chết thật rồi với thế giới nầy ; việc quan trọng hơn là hãy theo con đường của Ngài để được cứu rỗi .
Những Ngôi Lời bên trong như "Tiếng Gió , Tiếng Kèn , Tiếng Sấm Nổ , Động Đất , Mưa Đá , Tiếng Sư Tử gầm , Âm thanh nhiều Dòng nước đổ , Âm thanh của nhiều Hạc cầm , Âm thanh những Nhạc khí cũng nhảy lên một lúc , Tiếng của nhiều Dòng nước , Tiếng Kêu Lớn từ trời , Tiếng Kèn của đức Chúa trời , Tiếng Nước Lớn"... đã được tìm thấy trong kinh Thánh :
"Chớ ngạc nhiên về điều Ta nói với ngươi . Các ngươi phải được sanh lại . Gió muốn thổi đi đâu thì thổi . Ngươi nghe tiếng Gió nhưng không biết Gió từ đâu đến và sẽ đi đâu . Ai sinh ra bởi đức Thánh linh thì cũng vậy". Giăng 3:7-8. Đoạn nầy nói rõ ràng người nào được tái sinh bởi Ngôi Lời hay đức Thánh linh sẽ nghe được tiếng gió . (Trong kinh Lăng Nghiêm của Phật giáo , Bồ tát Lưu Ly Quang Vương Tử nói : "Xét cái lực của gió nguyên không nương đâu , mà tôi ngộ được tâm Bồ đề vào chỗ chánh định").
"Đến ngày lễ Ngũ Tuần , môn đồ nhóm họp tại một chỗ . Thình lình có tiếng từ Trời đến như Tiếng Gió ào ào , đầy khắp nhà môn đồ ngồi . Các môn đồ thấy lưỡi rời rạc từng cái một , như lưỡi bằng Lửa hiện ra , đậu trên mỗi người trong bọn mình . Hết thảy đều được đầy dẫy đức Thánh linh , khởi sự nói các thứ Tiếng khác , theo như Đức Thánh linh cho mình nói". Công Vụ Các Sứ Đồ 2:1-4.
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG THIÊN CHÚA GIÁO
"Môn đồ nhóm họp lại một chỗ" ý muốn nói họ đến một nơi nào đó để ngồi thiền chung nhóm (group meditation) với nhau trong bí mật . Họ đã cảm nhận được Ánh sáng "lưỡi bằng Lửa", và tuỳ theo đẳng cấp tâm thức của mỗi người , họ cảm nhận được những Ngôi Lời khác nhau "khởi sự nói đến các thứ Tiếng khác theo như đức Thánh linh cho mình nói".
"Kế đó tôi nhìn xem , nầy một cái cửa đã mở ở trên Trời và tiếng đầu tiên tôi nghe như tiếng Kèn Trumpet , phán cùng tôi rằng : Hãy lên đây và Ta sẽ cho ngươi thấy điều sau nầy phải xảy ra . Tôi đi thẳng lên đó và hoà nhập vào đó". Khải Huyền 4:1.
"Ngài sẽ sai Thiên sứ mình dùng Tiếng Kèn lớn mà nhóm lại những người được chọn lựa của Ngài ở khắp bốn phương trời". Mathiơ 24:31. Môn đồ là "những người được chọn lựa ở khắp mọi nơi" được nghe Tiếng Kèn bên trong .
"Vào ngày của Chúa , tôi được ở trong đức Thánh linh và tôi nghe đàng sau tôi có một tiếng lớn , âm vang như tiếng Kèn ... Ở giữa các cây đèn (ánh sáng) ấy có ai trông giống như Con Người , mặc áo choàng dài tới chân , ngang ngực có thắc đai bằng vàng . Đầu và tóc Ngài trắng như lông chiên trắng , như tuyết . Mắt Ngài như ngọn lửa hừng ... Tiếng Ngài như Tiếng Của Nhiều Dòng Nước ... Tay phải Ngài cầm bảy ngôi sao ... và mặt Ngài như mặt trời lúc đang nắng chói ". Khải huyền 1:10-16.
"Khi có tiếng kêu lớn từ trời và tiếng Kèn của Thượng đế , và khi chính Ngài giáng xuống trái đất thì những ai đã chết trong sự tin cậy Chúa Giêsu sẽ phục sinh trước hết". I Tê Xa Lô Ni Ca 4:16.
Những người tin nhận Chúa Giêsu khi Ngài còn tại thế đã phục sinh , vì họ đã được Ngài nối kết với Tiếng Kèn của đức Chúa Trời bên trong .
" Sau đó tôi nhìn xem và kìa một cánh cửa mở ra trên trời , và tiếng mà tôi đã được nghe trước đây , âm vang như một Tiếng Kèn ... Lập tức tôi được ở trong đức Thánh Linh và kìa có một cái ngai được đặt ra trên trời ... trên ngai đó một đấng đang ngồi . Từ trong tay ngài phát ra những chớp nhoáng (ánh sáng), âm vang và Sấm sét". Khải Huyền 4:1-5.
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG THIÊN CHÚA GIÁO
"Rồi đền thờ đức Chúa Trời ở trên trời mở ra ... Bấy giờ có sét chớp , âm vang , sấm nổ , động đất và mưa đá xảy ra". Khải Huyền 11:19.
"Đoạn vị Thiên sứ lấy lửa trên bàn thờ bỏ đầy vào lư hương , rồi ném nó xuống đất , thì liền có Sấm nổ , âm vang , sét chớp (ánh sáng) và động đất". Khải Huyền 8:5.
"Vị thiên sứ kêu lên một tiếng lớn như Tiếng Sư tử gầm . Khi vị thiên sứ ấy kêu lên , thì bảy Tiếng Sấm đáp lời vang rền ... Nhưng trong những ngày Tiếng Kèn của thiên sứ thứ bảy vang lên , thì sự huyền bí của đức Chúa trời sẽ được trọn". Khải Huyền 10:3-7.
"Tôi nghe một âm thanh ở trên trời , như Âm Thanh Của Nhiều Dòng Nước đổ (Nước Nguồn Sống , Nước Lũ ; Phật giáo gọi là Hải Triều Âm), rồi như tiếng Sấm nổ lớn . Âm thanh tôi nghe đó lại giống như Âm Thanh Của Nhiều Hạc Cầm do những Nhạc khí khảy lên cùng một lúc". Khải Huyền 14:2.
"Đoạn tôi nghe có tiếng gì như tiếng của một đám đông rất lớn , rồi như Tiếng Của Nhiều Dòng Nước , rồi như tiếng của nhiều tiếng Sấm nổ lớn". Khải Huyền 19:6.
Trong kinh Cựu Ước , khi đức Chúa trời hiện ra trên núi Sinai , cũng có đề cập đến Âm thanh và ánh sáng : "Qua sáng ngày thứ ba , có sấm vang chớp nhoáng và tiếng kèn thổi rất vang động ... đức Giêhôva ở trong lửa (ánh sáng) giáng lâm nơi đó". Xuất Êdíptôký 19:16-18.
"Tiếng Ngài giống như Tiếng Nước Lớn , và đất sáng rực (Ánh sáng) vì vinh quang Ngài". Exêchien 43:2.
Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của Ngài trong việc truyền đạt Ánh sáng và Âm thanh mà Ngài gọi là "bánh của sự sống , thịt Ta , huyết Ta" cho những người đã đến với Ngài để chịu phép Báp Têm lúc đó : "Ấy là Cha ta đã ban cho các ngươi thứ bánh thật đến từ Trời . Vì bánh của đức Chúa Trời chính là Đấng từ Trời xuống để ban sự sống cho thế gian ... Ta là bánh của sự sống . Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói , và ai tin Ta sẽ không bao giờ khát nữa . Nhưng Ta đã bảo các ngươi , các ngươi đã thấy Ta mà không chịu tin Ta". giăng 6:32-33.
Cũng như các Minh sư khác không được đa số người đương thời tin tưởng , những người ở vào thời đại Ngài cũng đã không chịu tin nhận Ngài .
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG THIÊN CHÚA GIÁO
Quả thật ta nói cùng ngươi , hễ ai tin thì được sự sống đời đời . Ta là bánh của sự sống , đây là bánh từ Trời xuống , hầu cho ai ăn chẳng hề chết . Ta là bánh hằng sống từ trên Trời xuống , nếu ai ăn bánh ấy thì sẽ sống vô cùng , và bánh mà Ta đã ban cho vì sự sống của thế gian tức là thịt Ta ... Nếu các ngươi chẳng ăn thịt của Con Người , cũng không uống huyết Ngài thì chẳng có sự sống đời đời ; nơi ngày sau rốt , sẽ khiến người đó sống lại . Vì thịt Ta thật là đồ ăn và uống huyết Ta thì ở trong Ta , và Ta ở trong người ấy . Như Cha hằng sống đã sai Ta , và Ta sống nhờ Cha thể nào , thì những người ăn Ta , cũng sẽ sống nhờ Ta thể ấy ... Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời". Giăng 6:48-58.
Ngày nay chúng ta làm sao tìm cho được Chúa Giêsu để ăn thịt và uống huyết Ngài để được sống đời đời ? Đoạn trên Ngài đã dùng ẩn dụ để nói về Âm thanh và Ánh sáng mà Ngài gọi là "huyết Ta , bánh , thịt Ta" khi Ngài còn tại thế . Những người nào được Ngài ban cho Ngôi Lời và ánh sáng sẽ được sống trong vĩnh cửu như Ngài .
Tây Du Ký kể chuyện Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh , ma quỷ cứ muốn bắt Ngài để ăn thịt . Chúng biết biết Ngài là người được trường sanh bất tử , nên nghĩ rằng nếu mình ăn thịt của người bất tử nầy mình cũng sẽ được trường sanh ! "Thịt" của Tam Tạng trong truyện đó cũng chỉ là một lối nói ẩn dụ .
Trong đêm Chúa Giêsu sắp bị nộp , Ngài nói với môn đồ : "Chén nầy là chén giao ước mới trong huyết Ta . Hãy làm điều nầy , hãy thường uống chén nầy , để nhớ đến Ta". I Côrinhtô 11:25. "Chén nầy" tức là chén Ngôi Lời ; bởi vì Chân thể của vị Minh sư là Âm thanh và ánh sáng , mỗi ngày thiền quán hai thị hiện nầy tức là tưởng nhớ đến Ngài .
Pháp Môn Quán Âm là pháp môn của Thượng đế , không phải do con người hay các Minh sư đặt ra . Cho nên tự cổ chí kim đều được truyền đạt như nhau và cách thực hành cũng đều giống nhau . Bất cứ ai nhận ra vị Minh sư và đến thọ pháp với Ngài lúc Ngài còn tại thế cũng đều có thể tu , không phân biệt chủng tộc , giàu nghèo , học thức hay không . Khi thọ pháp Báp têm , tất cả đều được hưởng cùng một ân sủng , được uống cùng một chén Ngôi Lời : "Vì cùng một đức Thánh Linh (Ngôi Lời) mà tất cả chúng ta đều được Báp têm vào một thân , bất luận là người Do Thái hay Hy Lạp ; bất kể nô lệ hay tự do . Tất cả đều được uống chung một đức Thánh Linh". I Côrinhtô 12:13.
-
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG THIÊN CHÚA GIÁO
Ánh sáng được đề cập đến trong Thánh kinh và các tôn giáo là ánh sáng thực sự của Thượng đế : "Ánh sáng đó là ánh sáng thật đã đến thế gian để soi sáng mọi người". Giăng 1:9, và vị Minh sư tại thế là người đem ánh sáng đến cho chúng ta : "Ta là ánh sáng của thế gian . Người nào theo ta thì sẽ không đi trong tối tăm , nhưng có ánh sáng của sự sống". Giăng 8:12.
Kinh Cựu Ước viết : "Thiên chúa nói : Ánh sáng hãy hiện hữu , và ánh sáng hiện hữu". Sáng thế ký 1:3. Ánh sáng hiện hữu vào ngày thứ nhứt không thể là ánh sáng mặt trời , mặt trăng hay ngôi sao được , bởi vì cho đến ngày thứ tư những thiên thể nầy mới được tạo nên theo kinh Cựu Ước . Cho nên có thể nói rằng ánh sáng nầy là cái ánh sáng nguyên thủy , thiêng liêng và đặc biệt của Thiên chúa .
Thánh Augustine đã diễn tả về cái ánh sáng nầy : "Tôi vào và ngắm nhìn ánh sáng với con mắt của linh hồn tôi . Ánh sáng nầy không giống như ánh sáng thông thường mà chúng ta thấy ... Người biết được Sự Thật sẽ biết được ánh sáng nầy là gì , và ai biết được Ánh sáng sẽ biết đến đời sống vĩnh cửu". Ánh sáng nầy chúng ta không thể thấy bằng mắt thường bởi vì nó "không giống như ánh sáng thông thường", mà chỉ có thể thấy được bằng Huệ Nhãn "con mắt của linh hồn". Người nào biết được Sự Thật (Ngôi Lời) cũng sẽ biết được ánh sáng , bởi vì khi được Rửa Tội bằng đức Thánh linh , người thọ pháp sẽ được nối kết với Âm thanh và Ánh sáng bên trong .
Đọc lại kinh điển của Thiên chúa giáo nói về Âm thanh và Ánh sáng bên trong , chúng ta có thể biết rằng Minh sư Giêsu cũng đã truyền pháp Quán Âm cho môn đồ của Ngài lúc Ngài còn tại thế .
Nếu ngày nay khi được Rửa Tội , chúng ta cũng cảm nhận được ánh sáng bên trong như "lửa , sét chớp". vàn nghe được những Ngôi Lời như "tiếng gió , tiếng sấm , tiếng kèn , tiếng sư tử gầm , âm thanh của nhiều dòng nước đổ , âm thanh nhiều hạc cầm , những nhạc khí khảy lên cùng một lúc" ..., chúng ta có thể biết rằng chúng ta đi đúng con đường chúa Giêsu đã dạy cho các đệ tử của Ngài lúc trước .
Nói một cách khác , nhờ so sánh những thể nghiệm bên trong của mình với những ứng chứng của các bậc tiền bối đã được ghi chép trong các kinh điển , hành giả mới biết vị Thầy là Chân sư , mới tin tưởng pháp môn Quán Âm là chánh pháp .
Âm thanh và ánh sáng mỗi người cảm nhận được có thể không giống nhau tùy theo đẳng cấp tâm thức của họ trước khi và sau khi thọ pháp . Tuy nhiên , nếu hai người có cùng một đẳng cấp như nhau , họ cảm nhận được Âm thanh và Ánh sáng như nhau .
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Đây là một nghành khoa học rất là chính xác , còn hơn những khoa học chính xác nhất trên thế giới nầy nữa . Những môn khoa học trên thế giới nầy nhiều khi mình thấy nó đúng , nhưng ngày mai có người khác chứng minh là sai . Còn môn khoa học mà Sư phụ và các đồng tu theo học bây giờ không sai một mảy may nào hết . Thí dụ mỗi người có một trình độ khác nhau , nhưng con đường họ đi lên tuần tự giống y như nhau . Như vậy là mình biết nó chính xác .
Thí dụ như trong lúc ttruyền Tâm Ấn có mười người , mỗi người có một trình độ khác nhau , người ở bậc nầy , người ở bậc kia . Thí dụ có hai người có trình độ (tâm linh) bằng nhau thì hai người sẽ thấy y như nhau , đại khái giống nhau hoặc có những thể nghiệm giống nhau . Nhưng không phải người nào cũng có trình độ như người nào , thí dụ bốn người có trình độ thứ nhất , ba người có trình độ thứ hai , hai người nữa ở trình độ thứ tư hoặc một người trình độ thứ năm . Những người nào ở trình độ nào đó thì có chứng nghiệm của trình độ đó . Cho nên mình biết rằng môn khoa học nầy rất là chính xác".
Thượng Đế đã giấu một kho tàng vô giá là Ngôi Lời bên trong thân thể con người , nhưng chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm cái gì cũng ở bên ngoài . Chúng ta không ngờ rằng cái bí mật Ngôi Lời , lực lượng cứu rỗi , lại nằm trong chính đền thờ thân thể con người , và bao lâu chúng ta chưa nhận ra vị Minh sự tại thế , con đường tìm về Thượng Đế sẽ không thể nào tìm thấy được .
-
THANH HẢI VÔ THƯỢNG SƯ và PHÁP MÔN QUÁN ÂM - Tác giả : LƯU THỊ KỲ NAM
CHƯƠNG 9
THANH HẢI VÔ THƯỢNG SƯ VÀ
PHÁP MÔN QUÁN ÂM
Mục đích của Minh sư đến đây là để giúp chúng ta nhớ lại địa vị cao cả của mình , địa vị Minh sư (Phật , Thánh) tất cả chúng ta đều có nhưng chúng ta đã quên mất . Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Sư Phụ không đến đây để dạy quý vị trở thành tín đồ , Sư Phụ đến đây để dạy cho quý vị trở thành Minh Sư".
"Tôi không muốn quí vị cứ mãi hoài làm đệ tử của tôi , tôi muốn quý vị cố gắng tu hành đến một ngày nào đó quý vị sẽ nhận ra mình là ai , biết lại cái địa vị cao quí của mình mà hằng lâu nay quí vị đã quên mất , để quí vị trở thành vị Minh Sư của chính mình . Lúc đó quí vị sẽ biết rằng tất cả mọi người cũng đều là Vô Thượng Sư , bởi vì tất cả chúng ta đều chứa đựng lực lượng Vô thượng của Thượng Đế bên trong chúng ta".
"Cái tinh tuý của giáo lý không nằm trong kinh điển của bất cứ tôn giáo nào . Giáo lý thật sự ở trong chính chúng ta . Vì vậy các vị Minh sư chỉ nhắc lại cho chúng ta rằng Thiên Chúa ngự trị bên trong mỗi chúng ta . Đức Phật nói 'Phật tại tâm , tất cả chúng sinh đều là Phật'. Chúa Giê Su nói Thượng đế ở bên trong chúng ta , có nghĩa quý vị là Thượng Đế . Ai có thể dạy cho Phật ? Ai có thể dạy cho Thượng đế điều gì được ? Vì vậy vị Minh sư chỉ cố gắng đánh thức lực lượng hay trí huệ vĩ đại bên trong của chính quý vị mà thôi".
Các Ngài cũng không đến đây để được chúng ta ca ngợi hay tán thán . Mục đích duy nhất của các Ngài là hoàn thành sứ mạng Thượng đế đã giao phó cho các Ngài khi các Ngài còn tại thế : đem về cho Thượng đế những linh hồn đã đến thời điểm .
Vì biết được địa vị tâm linh cao cả của các Ngài , người đời thường gọi các Ngài bằng những danh xưng (titles) rất tôn kính như Đại Minh sư (the Great Master), Minh sư Toàn năng (the Almighty Master), Minh sư Hoàn hảo (the Perfect Master), Vô thượng sư (the Supreme Master) ... Những chữ Toàn năng , Vĩ đại , Hoàn hảo , Vô thượng sư ... chỉ là những danh xưng khác nhau cùng chỉ đến một lực lượng tối cao của Thượng đế ngự trị trong thân xác các Ngài . Cho nên khi chúng ta tôn sùng một vị Minh sư , không phải chúng ta tôn sùng con người bên ngoài của Ngài , mà là tôn sùng lực lượng siêu việt của Thượng đế ngự trị bên trong Ngài . Khi chúng ta thấy Ngài là chúng ta thấy Thượng đế trong hình dáng của một con người .