-
Sự Ích Lợi Về Tu Hành Pháp Môn Quán Âm
Những người siêng năng tu hành thì trong thời gian ngắn , một ngày , hai ngày hay là 1 tuần lễ , nhận biết được ngay sự lợi ích của tu hành và lực lượng quán âm như thế nào , cảm giác được đời sống và tánh tình con người biến đổi , trí huệ mở mang , khác hẳn với lúc trước . Không cần phải quảng cáo cũng biết được , bởi vì người tu pháp môn này không nín được , cứ nói ra , như ly nước quá đầy tự nhiên sẽ chảy ra , tu Pháp Môn Quán Âm là pháp môn có 1 không 2 trong vũ trụ này .
Quí vị vốn nên nghe hiểu tiếng Quan Thoại mới đúng . Ở Đài Loan nhỏ như vậy đã có hai , ba thứ tiếng , bởi vì ngôn ngữ khác nhau , cho nên thế giới chiến tranh không ngừng . Nếu như mọi người dùng ngôn ngữ "Quán Âm" là tốt nhất , chỉ có 1 thứ âm thanh , chúng sinh nào cũng hiểu được . Cho nên Phật nói 1 thứ âm thanh , 1 thứ ngôn ngữ , tất cả chúng sinh tùy theo đẳng cấp của mình nghe điều có thể hiểu được là ý nghĩa đó . Âm thanh này , âm nhạc đẹp đẽ , âm thanh bên trong , như hệ thống điện thoại , chỉ cần chúng ta tiếp thông với tổng đài , muốn gọi đến Âu Châu , Mỹ Châu hay Đài Loan đều được hết , không sao hết .
Tiếp nói được đường dây , chúng ta không còn cô độc , muốn nói chuyện với ai , liên lạc với ai cũng được . Người đối thoại biết ngay chúng ta đang ở nơi nào , vạn nhất mà chúng ta có chuyện gì , gọi 1 cú điện thoại thì chỉ trong vòng 2 phút mọi người đều biết . Cảnh sát hay là thân nhân , bạn bè đều đến giúp đỡ , có phải như vậy không ? Trước kia không có điện thoại , chúng ta muốn kiếm 1 người đến giúp đỡ cũng không phải dễ . Có người chết trong nhà đã mấy ngày không có ai biết , có người bệnh cũng không ai biết , bây giờ ai cũng có điện thoại , cho nên rất tiện . Cho dù chúng ta bệnh nặng không thể đi đứng , chỉ cần gọi điện thoại , y sĩ cũng đến coi bệnh chúng ta , hay là xe cứu thương đến chở chúng ta đến bệnh viện . Luôn cả xe tắc xi cũng có thể ghé đến trước cửa nhà để đón người , thật là tiện hết sức .
Hệ thống quán âm thì cũng như vậy . Âm thanh này hay là âm nhạc bên trong này giống như là 1 hệ thống , hay 1 đường dây , liên hợp tất cả chúng sinh . Cho nên chỉ cần nhập vào hệ thống này thì không còn biệt lập nữa , bởi vì chúng ta đều giao thông được với tất cả chúng sinh . Tu hành càng nhiều , sử dụng hệ thống này càng nhiều , thì càng nhận thức được những chúng sinh khác . Nói thí dụ , chúng ta sử dụng điện thoại càng nhiều , tượng trưng chúng ta quen biết bạn càng nhiều . Giao thông với càng nhiều người , tượng trưng có càng nhiều người nhận biết chúng ta , biết được chúng ta ở đâu . Chúng sanh nào cũng đều có thứ âm thanh bên trong đó , cho nên hễ chúng ta nhập vào "âm lưu" này thì sẽ nhận biết được tất cả chúng sinh , chim , kiến , lẫn cả chúng sinh vi tế , chúng ta cũng hiểu biết .
Nếu như có người ở nước Mỹ gọi tên của chúng ta , chúng ta cũng biết được . Có người ở nước Pháp tưởng nhớ chúng ta , chúng ta cũng biết liền . Chúng ta có thể dùng hóa thân của chúng ta đi thăm họ , nếu như họ tu hành cao , họ có thể dùng hóa thân đến gặp chúng ta . Cũng như nguyên lý của truyền hình hay là điện thoại truyền hình , mình nói chuyện tại nhà , cũng có thể nhìn thấy người bên đó nói chuyện . Hệ thống âm thanh này gọi là hệ thống quán âm đó , còn vi tế hơn hệ thống điện thoại . Còn có hiệu nghiệm hơn là nó không cần dùng đường dây , không cần tiền , không cần ai biết mình liên lạc với người nào , mình có muốn đi thăm ai cũng không ai biết , bất cứ muốn đi đến đâu , cũng không cần vé máy bay , không cần gì hết , không cần đi 1 bước , không cần nói 1 lời , 1 tí ti ý niệm cũng không cần khởi . Hệ thống này là tự động nhất , đơn giản nhất , mau nhất , cho nên tu Pháp Môn Quán Âm , giao thông với Phật Bồ Tát bên trên , giao thông với 3 đường khổ bên dưới , cho nên mới nói "Trên đền bốn ơn nặng , dưới bớt ba đường khổ" , lúc đó mới có thể nói như vậy được . Khi còn chưa tu Pháp Môn Quán Âm thì không có cách nào làm được như vậy . Bởi vì khi còn chưa có giao tiếp được với lực lượng của tạo hóa thì không thể nói ta muốn độ chúng sanh . Tự mình muốn độ mình còn chưa độ được , ngày mai không biết mình sẽ ở đâu , không biết chừng nào vãng sanh thì càng đừng nên nói độ chúng sanh nào hết .
-
Sự Ích Lợi Về Tu Hành Pháp Môn Quán Âm
Phần đông quí vị đều nghe hiểu tiếng Quan Thoại , Sư Phụ nghĩ ít nhất cũng có 90% nghe hiểu . Không hiểu cũng không sao , trí huệ của quí vị sẽ hiểu , bản tâm của quí vị , Phật tâm của quí vị sẽ hiểu . Thật ra quí vị nhìn mắt Sư Phụ cũng đã hiểu rồi , chúng ta nghe nói 1 cặp tình nhân thương yêu nhau , 2 người chỉ cần đưa mắt nhìn nhau là đủ rồi . Nếu như họ chỉ cần nhìn như vậy có có thể giao thông với nhau , vậy Sư Phụ sao không có thể giao thông với quí vị bằng cách đó ?
Cho nên pháp môn này có thể nói là pháp môn "thanh tịnh" , không cần nói chuyện . Khi Sư Phụ truyền pháp cũng không có nói chuyện , lúc thiền thất lại càng không thể nói chuyện , khi gặp Sư Phụ cũng không có gì để nói , như vậy có phải là pháp môn "thanh tinh" không ? Đương nhiên quí vị nghe nói nên "quán âm" nhưng chúng ta rất thanh tịnh . Quán cái âm thanh này không có ai biết được , người bên cạnh không biết được . Âm thanh này , đẳng cấp này , không có ai có thể lấy mất được , không có ai có thể cưỡng bách chúng ta rời khỏi thứ tâm cảnh đó .
Nói ví dụ chúng ta là Phật tử , quy y hòa thượng Quảng Khâm , có 1 pháp danh . Mỗi ngày chúng ta cứ lễ bái hình của hòa thượng Quảng Khâm , hay là niệm Phật lạy Phật . Có người Thiên Chúa Giáo đồ trông thấy như vậy họ không thích , họ sẽ đến công kích tính ngưỡng của chúng ta , bởi vì thứ lễ bái này thuộc về hình tướng bề ngoài , người ngoài họ thấy được , họ biết được mình đang tu hành . Nhưng khi chúng ta tu Pháp Môn Quán Âm thì không ai biết được . Mình ngồi trên xe công cộng cũng thiền được , ở nơi công viên cũng thiền được , ở trong nhà tắm cũng thiền được , ở bất cứ nơi nào , giờ nào chúng ta cũng có thể thiền được .
Tu hành 1 thời gian rồi , cho dù chúng ta làm gì , cũng sống chung với cái âm thanh đó . Âm thanh đó vĩnh viễn không rời khỏi chúng ta , nó là người bạn trung thành nhất . Nó không có ích kỷ , bất cứ lúc nào mình cần gì nó cũng cho , mình có khó khăn gì nó cũng giúp . Nó làm bất cứ công việc gì cho mình , mình không cần phải lo những gì , kỳ vọng những gì , cũng tự nhiên thành Phật . Cho nên nói đi cũng là thiền , ăn uống cũng là thiền , ngủ cũng là thiền , trong đời sống đi đứng ngồi nằm đều là thiền , là ý nghĩa đó .
-
Sự Ích Lợi Về Tu Hành Pháp Môn Quán Âm
Nhưng nếu như còn chưa đạt đến trình độ đó , đừng có biện luận về "thiền" quá nhiều , thiền cần phải như thế nào , thế nào . Đối với người mà họ đã tu đạt đến sinh hoạt tức là thiền mà nói , khi họ nghe người khác biện luận nên như thế nào thế nào , thì họ sẽ cảm thấy buồn cười . Nhưng lúc đó họ cũng không muốn nói gì hết , bởi vì biết rồi nói ra cũng không làm được gì , rất ít người có thứ trí huệ đó để hiểu họ , tâm thiền cởi mở cũng không có thể thọ thứ pháp môn tối cao mà cũng đơn giản tự nhiên nhất .
Sư Phụ giới thiệu thêm về Pháp Môn Quán Âm , đương nhiên , đây vẫn chưa phải là truyền pháp , truyền pháp không có nói ra lời . Muốn được Pháp Môn Quán Âm thì phải đợi đến lúc Sư Phụ không có nói , lúc đó mới được pháp . Đừng có tưởng rằng Sư Phụ nói nhiều như vậy là họ được Pháp Môn Quán Âm . Pháp Môn Quán Âm bao gồm 3 phần hợp lại thành Pháp Môn Quán Âm .
Thứ nhất là dùng trí huệ của chúng ta . Trên thế giới này , nhất định đầu óc của người nào cũng có "niệm" một thứ chuyện . Thí dụ , vợ thì "niệm" chồng , chồng thì "niệm" vợ , người này "niệm" học hành , người kia "niệm" công việc . Có người thì "niệm" ác niệm , hay là niệm danh lợi , nhưng chỉ có niệm A Di Đà Phật thì mới giảm bớt được phiền nảo .Chúng ta biết được Phật A Di Đà tượng trưng cho Vô Lượng Quang , tự Ngài là Vô Lượng Quang chớ không phải là có thân người . Nếu như còn thấy hình tướng của Phật A Di Đà thì vẫn còn ngừng tại giai đoạn âm sắc , vẫn chưa phải là cảnh giới cứu cánh nhất . Vô Lượng Quang nghĩa là gì ? Nó tượng trưng cho mỗi 1 chúng ta đã có phẩm chất trong sạch bên trong . Chúng ta có rất nhiều phẩm chất , thí dụ : tham , sân , si , phiền , não , khai ngộ , vô minh , từ bi , ác tâm vân vân ... , chúng ta "niệm" A Di Đà Phật là chỉ để thức tỉnh chúng ta , thức tỉnh cái phẩm chất quang minh trong hạ ý thức , lực lượng quang minh . "Niệm" Quán Thế Âm Bồ Tát là để thức tỉnh chúng ta cái phẩm chất từ bi trong hạ ý thức . "Niệm" Đại Thế Chí Bồ Tát là để thức tỉnh chúng ta trong cái hạ ý thức có cái lực lượng này , kỳ vọng tự chúng ta có thể phát triển được những phẩm chất cao quí đó . Ý nghĩa của "Niệm Phật Tam Bảo" là như vậy .
Phật Tam Bảo là Phật A Di Đà , Quán Thế Âm Bồ Tát , Đại Thế Chí Bồ Tát . Chúng ta nên có sự khai ngộ , có ánh sáng , cũng như Phật A Di Đà vậy , có trí huệ có lực lượng như Đại Thế Chí Bồ Tát , có lòng từ bi như Quán Thế Âm Bồ Tát . Cho nên Phật Tam Bảo tượng trưng cho chỗ tốt nhất của chúng ta , nếu như chúng ta niệm 3 Ngài đó là chúng ta đương cầu xin chỗ tốt của chúng ta nhưng quí vị niệm như vậy cũng không có ít lợi nhiều , bởi vì không hiểu Phật A Di Đà là ai cho nên không thể "niệm" , niệm rồi cũng không thể giao thông .
Thí dụ chúng ta nghe nói Tây Thi rất đẹp nhưng chưa từng thấy bao giờ , đều chỉ nghe nói mà thôi cho nên không có tưởng niệm cô ta , chỉ biết tưởng niệm vợ mà thôi , bởi vì không nhận thức được Tây Thi , không biết cô ta đẹp như thế nào . Đương nhiên Tây Thi rất có thể đẹp hơn vợ mình nhưng nàng đã đi lâu rồi , mình không có nhận biết được Tây Thi , làn da mái tóc của nàng cũng không thể tưởng tượng được thì làm sao mà tưởng niệm nàng ? Có phải không ?
-
Sự Ích Lợi Về Tu Hành Pháp Môn Quán Âm
Cũng như vậy , quí vị niệm A Di Đà Phật , niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cũng không có ích lợi gì lắm . Bởi vì còn chưa có giao thông với Phật A Di Đà chính thật , chưa có nhìn thấy được Vô Lượng Quang , chưa có giao thông với Vô Lượng Quang này , chưa có giao thông với lực lượng lớn của tạo hóa nên Sư Phụ mới nói "Danh bất khả danh" . Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cũng không có giao thông với tâm từ bi của Ngài cho nên niệm cũng không có ích gì lắm , chỉ có được chuyên tâm 1 chút , phiền não giảm bớt đi được 1 chút mà thôi , huống chi quí vị đều dùng miện niệm chứ không phải "tưởng niệm" .
Bởi vì khi mình "niệm" vợ , thường nghĩ đến hôm qua cải lộn với vợ , người này sao mà tởn quá , mình phải ly hôn (mọi người cười) . Nếu như mình tưởng niệm vợ như vậy thì tự nhiên chúng ta khởi tâm phiền não . Nếu như chúng ta chuyên tâm niệm A Di Đà Phật , 1 lòng chỉ nghĩ đến Phật A Di Đà thì sẽ quên đi người vợ hung hăng hay là người chồng chán ghét , phiền não sẽ tự nhiên bớt đi 1 chút . Chuyên tâm niệm Phật chỉ giúp ích như vậy thôi , không có thể cứu cánh giải thoát , không thể sanh Tây Phương . Cho dù có qua nước Mỹ cũng phải mua vé máy bay , làm sao dùng miệng niệm mà có thể đi Tây Phương được ? Thật không có lý nào , đi Tây Phương không có dễ vậy đâu .
Còn "niệm" Phật sẽ giảm bớt phiền não , con người tự nhiên thông minh 1 chút , an tâm 1 chút , đó là phước báu của niệm Phật , không phải không có . Nhưng phải dùng trí huệ của chúng ta quán sát , tại sao có phước báu ? Không phải đui mù mê tín , thấy người ta niệm A Di Đà Phật , mình cũng niệm theo A Di Đà Phật , lúc đó nếu như có người đến hỏi cái gì đó , mình rất có thể bực mình hỏi :" Muốn hỏi gì ?" (mọi người cười) . Nếu như lúc đó có trẻ nhỏ đến làm ồn , mình sẽ bảo nó đừng có hỏi nhiều , không biết chừng thuận tay dùng xâu chuổi đuổi nó đi , như vậy là họ "niệm Phật" .
Phật A Di Đà là Vô Lượng Quang , tượng trưng cho phẩm chất quang minh của chúng ta . Quán Thế Âm Bồ Tát tượng trưng cho lòng từ bi của chúng ta . Đại Thế Chí Bồ Tát tượng trưng cho lực lượng của chúng ta . Nhưng ngoài 3 phương diện , chúng ta còn có phẩm chất của nhiều phương diện khác nhưng chúng ta không thể phát triển những phẩm chất này . Cho nên có người niệm 88 vị Phật hầu có thể bao hàm nhiều phẩm chất hơn . Có người niệm 1 vạn vị Phật . Có người niệm 3 vạn vị Phật , niệm rất nhiều rất nhiều Phật . Mười phương 3 đời Phật rất nhiều , vì sao phải nhiều như vậy ? Bởi vì 1 vị Phật thành Phật rồi , họ nhập vào cái vòng tự do này thành con người tự tại . Còn vũ trụ từ trước đến giờ có nhiều người tu hành thành Phật cho nên lần lần càng nhiều Phật , rất có thể sau này Sư Phụ thành Phật , quí vị sẽ niệm Nam Mô Thanh Hả Phật (mọi người cười) như vậy lại thêm 1 vị Phật .
-
Sự Ích Lợi Về Tu Hành Pháp Môn Quán Âm
Niệm Phật nhiều như vậy tại sao lại có phiền não nhiều thêm ? Vì sao trí huệ còn chưa mở , còn chưa thành Phật ? Quí vị có biết tại sao không ? Cũng như mình niệm sữa bò , có sữa bò để uống không ? Muốn uống sữa bò phải đến nơi bán sữa , chỉ cần lấy tay chỉ 1 cái , không cần mở miệng chỉ cần có tiền , họ liền đem sữa bò cho mình uống . Nếu không mình ở nhà niệm 1 vạn lần sữa bò , sữa bò , cũng không có ích gì (mọi người cười) , sữa bò cũng không chạy đến cho mình . Lúc cần tiền cũng không ở nhà niệm tiền , tiền , tiền là có tiền . Mình nên đến ngân hàng , đưa chi phiếu cho họ , không cần phải nói gì đặc biệt , họ cũng biết được ý mình , bởi vì họ đã nhận thức được trong ngân hàng có tiền , cho nên có thể tức khắc lấy tiền đưa cho mình .
Cho nên người tu hành cao họ sẽ nói niệm Phật là gì ? Bởi vì họ đã là Phật rồi , đã thành bạn của Phật rồi , lúc đó không cần nói gì hết , chỉ cần nhìn mắt là được rồi . Nói ví dụ , khi còn chưa quen nhau , nên gọi điện thoại , viết thơ hay là đến thăm . Nhưng đã gặp hai ba lần rồi thì sau này chỉ cần nhìn mắt là đã biết nhau rồi , không cần nói gì hết . Giống như vậy , cách "niệm Phật" chính là phải nhận biết Phật , như vậy mới có thể tưởng niệm Phật . Bây giờ tuy chúng ta niệm Phật nhiều như vậy nhưng không có nhận biết Phật thì cũng không có ích lợi , cũng như không đi ngân hàng lãnh tiền mà cứ ở nhà niệm tiền vậy . Tuy niệm rất nhiều Phật nhưng đều niệm Phật cô đơn . Chúng ta chỉ niệm Phật nhỏ , không niệm Phật lớn , ý của Sư Phụ không phải nói Phật này lớn hơn Phật kia nhưng công việc của họ khác nhau , có hiểu không ?
Cho nên Phật Thích Ca tán thán Phật A Di Đà , bảo người niệm danh hiệu của Phật A Di Đà , nhưng danh hiệu của Ngài không thể gọi được . Quí vị không biết cho nên niệm không có rõ ràng . Quí vị tưởng rằng miệng niệm A Di Đà Phật giống như Sư Phụ bây giờ quảng cáo bánh . Nhưng trên thực tế bánh là 1 vật khác , không phải những gì Sư Phụ nói đây là bánh . Chúng ta niệm A Di Đà Phật , Ngài tượng trưng cho ánh sáng rực rỡ của chúng ta . Quán Thế Âm Bồ Tát tượng trưng cho tâm từ bi của chúng ta ... , nhưng còn những vị khác chúng ta không có niệm , cho nên còn thiếu sót rất nhiều .
-
Sự Ích Lợi Về Tu Hành Pháp Môn Quán Âm
Nói thí dụ , người lính thời xưa thường dùng mâu và thuẫn để bảo hộ cho thân thể . Ngoài ra họ còn mặc áo giáp , cả thân người đều được áo giáp che đậy , chỉ còn để cặp mắt . Cho nên muốn giết người đó , phải đâm ngay chỗ không có áo giáp bảo hộ , còn không thì phải tìm cách đánh bay mũ của họ , để cho đầu họ ló ra , như vậy mới có thể giết họ . Cũng như vậy , chúng ta miệng niệm A Di Đà Phật , Quán Thế Âm Bồ Tát còn có nhiều chỗ hở , áo giáp này chưa đủ tốt , chỉ có thể bảo hộ 1 phần thân thể mà thôi , còn những phần khác thì lộ ra ngoài .
Bởi vì Phật A Di Đà chỉ là giáo chủ của Tây Phương mà thôi . Đông Phương còn có Phật Dược Sư . Nam , Bắc, trên , dưới phương còn có rất nhiều Phật , chứ không phải chỉ có Đông , Tây , Nam , Bắc mà thôi , còn có 10 phương 3 đời Phật , như vậy đến chừng nào chúng ta mới có thể niệm hết ? Mỗi thế giới đều có 1 vị giáo chủ tối cao , nếu như chúng ta không có nhận biết được vị giáo chủ này , có niệm như thế nào cũng chỉ niệm 1 phần nhỏ mà thôi . Niệm Phật đều có ích , đều có phước báu nhưng công việc của họ khác nhau .
Nói thí dụ chúng ta muốn đến hoàng cung thì cần nên biết địa điểm . Nếu như không trực tiếp đi tìm ông vua mà lại làm ngược đi tìm những quan thần thì lạc đường rồi , bởi vì đó không phải là mục đích tối cao . Niệm Phật A Di Đà cũng có ích nhưng Ngài chỉ là giáo chủ của cõi Tây Phương mà thôi , không phải là giáo chủ của toàn cõi vũ trụ . Mỗi 1 thế giới đều có rất nhiều Đông , Tây , Nam , Bắc , 10 phương và 3 cõi Phật . Nhưng mỗi 1 thế giới đều có 1 vị giáo chủ tối cao , nếu như chúng ta nhận biết được vị Phật giáo chủ này thì niệm danh hiệu của Ngài sẽ có lực lượng hơn . Nhưng mà cho dù biết được vị giáo chủ này mà không có người giới thiệu thì cũng không có ích lợi gì .
Cho nên tìm 1 vị Sư Phụ chân chính rất là quan trọng bởi vì vị Sư Phụ đó là bạn với vị giáo chủ tối cao , có thể dẫn mình đi , giới thiệu đây là đệ tử , đây là bạn , như vậy mới được . thí dụ như chúng ta đều biết tổng thống Ronald Reagan của Mỹ . Tuy rằng Sư Phụ biết được tên của vị tổng thống , cũng biết được đó là vị đại diện tối cao của Mỹ , nhưng không có giúp ích gì cho Sư Phụ , bởi vì không có người dẫn Sư Phụ tới tòa Bạch Ốc giới thiệu với tổng thống , cho biết vị này là Thanh Hải Pháp Sư , rất tốt nên giúp vị này hoằng pháp . Rồi người giới thiệu mới nói với Sư Phụ đây là vị tổng thống , là người bạn tốt nhất của tôi , nếu như Sư Phụ có gặp khó khăn gì thì có thể đi tìm vị tổng thống này để giải quyết dùm vấn đề .
-
Sự Ích Lợi Về Tu Hành Pháp Môn Quán Âm
Cho nên biết tên Phật A Di Đà không có ích gì , quen biết với Phật A Di Đà mới có ích . Bởi vì danh hiệu này không phải tượng trưng Ngài , không có quan hệ đến Ngài , người nào cũng có thể gọi tên . Tại Mỹ cũng có người đồng tên với tổng thống Mỹ nhưng không có ích gì cho chúng ta . Cho nên muốn niệm Phật gì thì cần phải có 1 người bạn đã quen biết với vị Phật đó giới thiệu cho mình . Quen biết rồi vị Phật đó mới có thể bảo hộ mình , còn không thì không có ích gì , hiểu chưa ?
Sư Phụ cũng biết tên ông Ronald Reagan nhưng nếu như thấy thông hành đã hết hạn thì Sư Phụ phải rời Mỹ . Tên của tổng thống không có giúp ích gì cho Sư Phụ , cho dù Sư Phụ cứ ở nhà niệm danh hiệu của tổng thống , vị tổng thống cũng không có giúp đỡ cho Sư Phụ bởi vì Sư Phụ không có quen biết với vị tổng thống . Vị tổng thống đó không quen biết Sư Phụ , cũng không biết Sư Phụ là ai , Sư Phụ không có quyền xin tổng thống giúp đỡ . Nhưng nếu như có 1 người bạn của tổng thống đó viết lá thơ giới thiệu Sư Phụ cho vị tổng thống , trong thơ nói rằng , có lẽ có 1 ngày bạn của tôi sẽ đến thăm ông , tên của người đó là như vậy , hy vọng ông có thể giúp đỡ người này . Rồi người giới thiệu lại nói với Sư Phụ biết là đã giới thiệu Sư Phụ cho vị tổng thống đó rồi , ông ta sẽ giúp đỡ Sư Phụ . Sư Phụ đến nước đó , ông ta nhất định sẽ cho nhập cảnh , có hiểu ý của Sư Phụ chưa ?
Quí vị niệm Phật rất có thể còn chưa thấy Phật nhưng khi có 1 vị Minh Sư chân thật dạy mình niệm Phật thì khác với lúc không có Minh Sư dạy nhưng vị Minh Sư đó phải đích thân nhận biết Phật rồi mới có thể dạy mình niệm vị Phật đó . Phật Thích Ca dạy người "niệm" Phật A Di Đà bởi vì Ngài đã nhận thức được Phật A Di Đà . Ngài dẫn đệ tử đến đó bảo đảm với Phật A Di Đà rằng đệ tử của Ngài là người tốt , họ đều ăn chay , tu hành , tọa thiền , có đạo đức , vân vân ... , như vậy nên Phật A Di Đà giúp đỡ họ . Cho nên đệ tử của Phật Thích Ca niệm Phật lúc đó có ích dụng , bây giờ đa số người dùng miệng niệm Phật không có ích lợi lắm . Trừ khi rất chuyên tâm mới có thể giảm bớt được phiền não , niệm Phật như vậy còn có đôi chút hữu ích .
-
Sự Ích Lợi Về Tu Hành Pháp Môn Quán Âm
Hồi nãy Sư Phụ đã nói , Phật A Di Đà chỉ là giáo chủ của Tây Phương mà thôi , không phải là giáo chủ của toàn cõi vũ trụ . Vậy khi chúng ta niệm Tây Phương mà tâm chúng ta dính tại Nam Phương , như vậy chúng ta cũng không có đến được Tây Phương . Cho nên tốt nhất là niệm Phật tối cao mới an toàn , bởi vì bất cứ mình rơi ở nơi nào cũng gặp được Phật . Bất cứ chỗ nào , chỉ cần có Phật là được rồi , chứ không phải chỉ có thể đi Tây Phương , có hiểu chưa ? Bởi vì mình không nhận biết được Phật A Di Đà chân thật , mình không thể chuyên tâm đến Tây Phương .
Cho nên niệm danh hiệu của những vị Phật tối cao là tốt nhất , những danh hiệu của những vị Phật tối cao này không có nói trên kinh điển , bởi vì "danh khả danh , phi thường danh" , muốn nói cũng không ra được . Nếu muốn nhận thức thì phải có thầy giới thiệu mới biết được . Loại thầy đó rất có thể là bạn của Phật hay là nhân viên làm việc cho Phật hay là người đày tớ của Phật . Nhưng cũng không sao , người đầy tớ của Phật cũng quen biết Phật , họ có thể dẫn chúng ta đi xem Phật . Nói thí dụ mình quen biết vị nấu bếp của vị vua , có phải hay lắm không ? Có 1 ngày mình cũng thấy được vua , nếu như mình quen biết những vị quan thần thì không có hữu ích lắm , rất có thể mình vĩnh viễn không thấy vua . Nếu như chúng ta quen biết người đày tớ của Phật , như vậy là tốt nhất , là cách gặp Phật trực tiếp nhất .
Cho nên quí vị không cần đoán đẳng cấp của Sư Phụ , chỉ cần nhận biết Sư Phụ là người hầu của Phật là được rồi , là người nấu cơm cho Phật , là người quen biết Phật , được người này giới thiệu là hữu dụng nhất . Nếu như chúng ta quen biết người nấu bếp của vua , vạn nhất chúng ta gặp khó khăn , người này sẽ nói dùm vài lời với vị vua , nhưng 1 vị quan cao cấp của chính phủ rất có thể không biết nói 1 lời , bởi vì không dám , gặp vua không biết chừng sẽ phát rung !
Vị quan đó không biết chừng cũng không có gặp vua , ngoại trừ trong trường hợp lễ lớn , bởi vì phải giữ an ninh cho vua , không để người xấu đến gia hại vua , ngoại trừ cái công việc đó , vị quan cũng không có lời có thể nói chuyện với vua , cho nên họ không có thể bảo đảm mình sẽ gặp vua . Cho nên chúng ta muốn quen biết Phật thì phải tìm loại người đã từng quen biết Phật . Thí dụ như người đày tớ của Phật , họ như là người làm việc lặt vặt trong văn phòng . Họ quen biết ông chủ , nếu mình muốn gặp ông chủ thì nên quen biết thứ người đó , họ quen với ông chủ hơn , gần gũi hơn , họ dẫn mình đi gặp ông chủ mau lẹ hơn .
Cho nên muốn tu Pháp Môn Quán Âm nên dùng "nội tâm" tu thì mới có 1 chút thể nghiệm , mới biết được tu Pháp Môn Quán Âm này rồi sẽ như thế nào , cũng mới có thể hiểu rõ vị giáo chủ tối cao tên là gì ? Cái "Danh bất khả danh" là như thế nào . Bởi vì chỉ nhìn của vua , nghe tên của vua , cái đó chưa phải là vua , vua không phải là hình cũng không phải là tên , mình muốn quen biết vua là 1 chuyện khác . Cũng như vậy , dùng ngôn ngữ phàm phu để xưng hô , tên cũng không phải là Phật , muốn quen biết Phật , quen biết tên thật này , cũng là "Danh bất khả danh" , là 1 chuyện khác . Ồ , không đơn giản chút nào !
-
Sự Ích Lợi Về Tu Hành Pháp Môn Quán Âm
Bởi vì chúng ta đã quen dùng đầu óc tưởng niệm rất nhiều thứ . Niệm chồng , niệm vợ , niệm thế gian , niệm phiền não ... nếu như so sánh với tưởng niệm đồ vật của thế gian thì chúng ta niệm Phật A Di Đà có ích lợi hơn . Nhưng niệm Phật A di Đà chỉ có thể đánh thức chỗ sáng sủa của chúng ta , niệm Quán Thế Âm Bồ Tát chỉ có thể phát triển lòng từ bi của chúng ta . Nếu như chúng ta muốn niệm Phật , có loại Phật hiệu tốt hơn để đánh thức toàn bộ phẩm chất tốt nhất của chúng ta , để cho nó phát triển thêm ra , niệm thứ Phật hiệu đó là tốt nhất . Nhưng Phật hiệu tốt nhất thì không thể nói ra được . Bởi vì đầu óc của chúng ta thích niệm , cái gì cũng muốn niệm , niệm rất nhiều cho nên Sư Phụ cũng cho mình cái tên để niệm , niệm cái tên tốt nhất , có lực lượng nhất , miện tên đó có thể phát triển toàn bộ phẩm chất cao quí không thể nghị bàn của chúng ta .
Pháp Môn Quán Âm của Sư Phụ cũng dạy người "Niệm Phật" nhưng không phải niệm A Di Đà Phật mà là niệm Phật cao hơn , có lực lượng hơn . Bởi vì khi niệm lực lượng của Sư Phụ (Phật lực của Sư Phụ ở bên trong) sẽ gia trì tên này , cho nên niệm mới có cảm ứng tốt . Cho dù niệm A di Đà Phật , nếu như có lực lượng gia trì của Sư Phụ , cũng có cảm ứng như thường . Vạn nhất không bỏ được A Di Đà Phật , tâm ấn rồi cũng có thể niệm thêm A Di Đà Phật (mọi người cười) , cũng có cảm ứng . Trước khi tâm ấn niệm A Di Đà Phật không có ích dụng nhiều vì tình trạng khác nhau , vì trước kia không có lực lượng hậu thuẩn này , cũng như có dây điện mà không có điện vậy , nên không có công dụng thật tế .
Tuy rằng quí vị niệm tiền , tiền , tiền nhưng trong túi quí vị thì không có tiền . Cho nên có niệm người ta cũng không tin , mình cần phải tự có thì người khác mới tin . Không phải nói mình có tiền là đủ rồi , nếu như phong độ của chúng ta không giống người rộng lượng có tiền , người ta cũng không tin . Người có tiền khí thế nói chuyện của họ khác với người không có tiền , điểm đó chúng ta có thể ngửi được , cũng có thể nhận ra được , có phải vậy không ?
Nói thí dụ có người muốn đến giết mình , nhưng nếu như mình nói với giọng run run , tôi ... tôi ... tôi ... không ... không ... không ... có sợ , nhà tôi có ... có súng , ngươi ... không ... không có thể ... hại ... tôi ... , họ nghe đã biết mình không có can đảm . Cho nên niệm Phật nếu như có lực lượng của Sư Phụ bảo hộ , gặp ma cũng không sợ . Có lực lượng của Sư Phụ làm hậu thuẫn , mình không có niệm chỉ nhớ đến Sư Phụ mà thôi , ma quỉ đã sợ lắm rồi , không dám đến gần mình .
Pháp Môn Quán Âm của Sư Phụ cũng bao gồm niệm Phật . Niệm Phật chính thật tối cao , có lực lượng lớn nhất , có thể chính thật giúp đỡ quí vị . Chưa niệm hết Phật hiệu , ma đã chạy mất rồi , thứ ma giả dạng biến hóa ra Phật Bồ Tát đó , một giây cũng không dám lưu lại , người xấu cũng không dám gần gũi . Cho nên họ rất ghét mình , sẽ tìm mọi cách để công kích mình , bởi vì họ chịu không nổi lực lượng của Phật hiệu , như vậy mới thật sự là "niệm" Phật .
-
Sự Ích Lợi Về Tu Hành Pháp Môn Quán Âm
Niệm Phật hiệu này còn có thể giao thông với Vô Lượng Quang , ánh sáng của A Di Đà Phật . Mỗi ngày sống chung với ánh sáng này , ngủ với ánh sáng này , ăn cơm với ánh sáng này , đi đứng ngồi nằm cũng không rời nó , sau này ở chỗ nào cũng có ánh sáng , đó mới là "Vô Lượng Quang" . Ánh sáng này không thể đo lường , không có chỗ nào không có nó , cho nên xưng là Vô Lượng Quang . Giao thông được với Vô Lượng quang này , mỗi ngày đều có thể thấy được ánh sáng , sống chung với nó , nó bảo hộ chúng ta , phát triển chỗ tốt của chúng ta , mở trí huệ của chúng ta , dẫn chúng ta tới cõi Tây Phương Tịnh Độ , đi đến cõi Phật , đi đến cảnh giới cao .
Ngoài cái niệm Phật , quán ánh sáng , còn có "quán" âm thanh chấn động mỹ miều bên trong , âm lưu của vũ trụ , không phải là âm thanh bên ngoài . Nhưng bất cứ là "Quán ánh sáng" , "Quán âm" , hay là "niệm Phật" , đều cần phải nhờ Sư Phụ truyền pháp mới có được . Lúc truyền pháp hoàn toàn không có nói chuyện , cho nên gọi là "truyền tâm ấn" dùng "tâm" truyền . Tâm là gì ? Là bản tâm của chúng ta , chân tâm của chúng ta , không phải tâm của ý niệm , cho nên lúc truyền pháp không cần phải nói .
Chúng ta thường nói thiền không cần phải dùng đến ngôn ngữ là chỉ ý nghĩa đó . Nếu như còn cần dùng đến ngôn ngữ vẫn chưa phải là truyền pháp . Bởi vì vốn không có "Pháp" , lúc truyền mới có "Pháp" , tuy gọi là "Pháp" , kỳ thực cũng không có "Pháp" cho nên gọi là "Vô Tướng Pháp" . Lục Tổ Huệ Năng có nói Ngài truyền "Vô Tướng Pháp" . Trong Tâm Kinh cũng có nói giống nhau , Phật Thích Ca diễn tả Pháp này là "Chư Pháp Không Tướng" . Ngoài ra Phật còn diễn tả pháp này là "Bất sanh bất diệt , bất cấu bất tịnh , bất tăng bất giảm , thị cố không trung vô sắc , vô thọ tưởng hành thức , vô nhãn , nhỉ , tỷ , thiệt , thân , ý ... vô nhãn giới , nãi chí vô ý thức giới ..."
Cái gì cũng không có là "Pháp Vô Tướng" , nhưng cũng không phải không có , cho nên gọi là "Danh khả danh , phi thường danh". Nói không ra được , nhưng có đủ tất cả , tất cả đều ở trong "Pháp Vô Tướng" , trong "Âm lưu" , trong "Âm bất khả âm" , "Danh bất khả danh" này , cho nên xưng là Pháp Vô Tướng . Nhưng nếu không có truyền thì không có pháp , chỉ có lúc truyền pháp mới có thể được "Pháp" , nhất định là điểm đó . Điểm này khi Sư Phụ truyền pháp , người nào cũng có thể thể nghiệm được . Trước khi truyền pháp và sau khi truyền pháp hoàn toàn khác nhau . Khi truyền pháp tuy không nói chuyện , tuy rằng không có "Pháp" để truyền , nhưng chúng ta được "Pháp" , điểm này chúng ta sẽ biết , rõ ràng cũng như 1 với 1 biến thành 2 .
Không phải thiền không dùng ngôn ngữ cho nên không có thiền . Cũng không phải bởi vì pháp không có tướng , cho nên Sư Phụ không thể truyền pháp cho quí vị . Đương nhiên Sư Phụ có thể truyền pháp , nhưng không có thể dùng ngôn ngữ nói ra , cho nên gọi là "truyền tâm ấn" là đủ rồi . Lấy tâm truyền tâm , lúc đó tâm của quí vị "mở" rồi , không cần phải nói gì nữa .
Cho dù Sư Phụ ở đây tán thán Pháp Môn Quán Âm một trăm năm , một vạn năm , một ức năm cũng không thể nói hết được . Chỉ có người thật tình tu hành mới biết được , mới nhận thức được . Sau này cho dù có 1 ngày không tọa thiền , không tu Pháp Môn Quán Âm là toàn thân như phát ngứa , như là có chuyện gì không đúng cho nên cảm nhận ngay được cái lực lượng này không thể nghị bàn đến mức độ nào .
Trong tất cả kinh điển , Phật Thích Ca đều tán thán Pháp Môn Quán Âm . Trong Kinh Phổ Môn Ngài nói "Nếu như chúng ta biết được danh hiệu của Quán Âm , có nhiều công đức hơn niệm trăm ngàn vạn ức tên của Bồ Tát , còn nhiều công đức hơn cúng dường trăm ngàn vạn ức Bồ Tát ." Bởi vì tên của Ngài không phải là quán âm , tên của Ngài là "bất khả danh" , là âm lưu của vũ trụ .
Cho nên người tu Pháp Môn Quán Âm có công đức nhất , cao quí nhất , điểm đó những vị đã được thọ pháp rồi thì biết rõ nhất .
-
Nghiệp Chướng Từ Đâu Tới ?
Nghiệp Chướng Từ Đâu Tới ?
Hôm nay , Sư Phụ nói tới "Pháp Môn Quán Âm" , đúng ra mục lục này phải đợi tới ngày cuối cùng mới nói , tại vì mọi người muốn biết gấp , cho nên hôm nay Sư Phụ nói trước . Nếu quí vị muốn hiểu biết Pháp Môn Quán Âm , trước tiên phải biết cái gì là "Âm" ? Cái gì là "Quán Âm" ? "Quán" là "Quán Tưởng" , "Âm" là "Âm Thanh" . Bình thường lúc chúng ta muốn quán niệm 1 người đều là đầu óc phàm phu mà quán tưởng người đó . Ví dụ như đôi mắt người đó lớn hay nhỏ , người đó cao hay thấp , mập hay ốm , và luôn cả tính tình ... Cái quán tưởng này và tình hình thực tế , lúc nào cũng có xê xích ; nếu dùng đầu óc phàm phu của chúng ta mà đi phán xét Phật tánh thì sự sai lệch này thật không thể tưởng tượng được .
Cho nên phải dùng "trí huệ" để mà quán xét . "Trí huệ" này mọi người đều có nhưng không phải mọi người đều biết dùng . Nhân loại có phát minh và sáng tạo rất nhiều đồ đạc , hay học rất nhiều thứ trên thế gian này , cái này là do sự vô minh chứ không phải trí huệ . Cho dù như vậy , nếu không có trí huệ thì không có cách nào học tập và nhận thấy 1 cái gì cả , tại vì thông minh là đến từ trí huệ , đó là 1 phần nhỏ trong trí huệ mà thôi .
Bây giờ chúng ta nói đến âm thanh phổ thông trên thế gian trước , rồi sẽ nói đến âm thanh của siêu thế giới - Phật âm . Từ xưa đến nay , trong sinh hoạt của chúng ta âm nhạc chiếm đi 1 phần rất là quan trọng . Chúng ta rất khó mà tưởng tượng , nếu thế giới này mà không có âm nhạc thì trong sinh hoạt sẽ có biết bao nhiêu là điều khổ não . Nhạc cổ điển hơi nhu hòa , nghe xong tâm hồn rất là khoái lạc , rất bình an , rất hiền lương , cho nên thời cổ có rất nhiều vị quân tử cao quí , hiền lương . Hiện đại có các loại nhạc kích động , nếu có người từ nhỏ bị ảnh hưởng bởi âm thanh này , sẽ biến thành rất khó dạy , tại vì người đó tượng trưng cho phong độ và cá tánh của người hiện đại .
Ở bệnh viện thần kinh , bác sĩ cũng thường để cho bệnh nhân nghe loại âm nhạc nhu hòa để cho tâm thần của họ được lắng dịu xuống . Lúc chúng ta làm việc mệt mỏi hay là cảm thấy không vui , lúc đó chúng ta nghe âm nhạc thì sẽ cảm thấy thoải mái và tâm hồn cũng lắng dịu xuống .
Ở trong vũ trụ , bất cứ vật gì cũng đều có chấn động , chấn động này sẽ biến thành âm thanh , cũng như đài phát thanh phát ra làng sóng âm thanh . Sau khi chấn động được thâu nhận qua sự chuyển tiếp của máy thâu băng thì sẽ biến thành âm thanh . Vạn vật trong vũ trụ đều có chấn động , mỗi vật có sự chấn động khác nhau , bất cứ là đá sỏi , cây cỏ , người ... , đều có sức chấn động riêng biệt của nó . Cũng vì có sự chấn động riêng biệt của nó , cho nên giữa người và động vật , giữa người và người , giữa chồng và vợ không dễ mà có sự kết hợp .
Có 1 số người phát ra làn sóng chấn động rất là không hòa nhã , có người khi gần họ thì liền cảm thấy rất là không hợp . Ngược lại có 1 số người phát ra chấn động tốt . Khi nói chuyện , họ tạo ra 1 bầu không khí rất là hòa nhã , làm cho người chung quanh cảm thấy rất yên lòng , rất vui . Chấn động ở 1 vài nơi khi chúng ta tới gần thì sẽ cảm thấy rất vui . Nếu có người có sức chấn động không tốt , khi người đó tới nơi nào thì lập tức làm cho người ở đó bâng khuâng và lo âu không an . Tại vì làn sóng chấn động của người đó quá thấp , có thể nói nghiệp chướng và ác tâm của người đó quá nặng , và âm khí của người đó quá nặng mà dương khí của những người gần bên hơi nhiều , âm và dương không thể phối hợp với nhau , cho nên mới tạo ra cảm giác bâng khuâng và lo âu không an .
-
Nghiệp Chướng Từ Đâu Tới ?
Ở trên địa cầu này , không phải mỗi nơi đều có làn sóng chấn động giống nhau , vì trên địa cầu có đủ loại khoáng chất rải rác ra các nơi khác nhau . Cho nên người tu hành thường thường cảm thấy ở nơi nào cũng không yên ổn nhưng đối với người tu hành chân chính mà nói , nơi nào cũng là tịnh độ , nơi nào cũng là đất thánh . Nói thì dễ nhưng làm thì khó , có bao nhiêu người chân chính đạt tới cảnh giới này ? Chịu nổi cái bầu không khí không hòa nhã này ? Chỉ trừ một thiểu số người vô minh gần giống như sỏi đá . Một số người không tu hành cũng có thể cảm giác được , những người tu hành càng cao thì càng nhạy cảm mà thôi . Nhưng khi họ tu hành đạt tới cảnh giới cao nhất , thì ngược lại , đối với họ mọi nơi đều biến thành không có phân biệt .
Không cần biết chúng ta sống chung với người nào , cũng đều bị ảnh hưởng với chấn động của họ . Nếu người ấy có khí độ hòa nhã thì chúng ta sẽ cảm thấy hòa nhã hơn . Nếu người ấy kích động thì chúng ta cũng sẽ cảm thấy bị kích động . Chúng ta thường nghe nói Phật Bồ Tát gánh nghiệp chướng của chúng sinh , đó là bởi vì các Ngài có thể mang cái chấn động lực có ảnh hưởng xấu phát ra từ chúng sinh , còn gọi là nghiệp chướng mà thu nhận vào trong người các Ngài mà mang chấn động tốt của tự mình đổi cho những người ấy . Đó là nhờ vào cái lực lượng của người tu hành , các Ngài có thể rửa sạch nghiệp chướng đó rất lẹ . Cần bao nhiêu thì giờ để rửa nghiệp chướng thì tùy thuộc vào bao nhiêu nghiệp chướng các Ngài thâu nhận vào . Trong lúc họ còn chưa rữa sạch nghiệp chướng này thì vẫn bị nghiệp chướng này ảnh hưởng . Cho nên rất có thể các Ngài bị bệnh hoặc bị người ta phỉ báng , đôi lúc bị giết chết .
Ví dụ như Chúa Giê Su vì lãnh nghiệp chướng của chúng sinh mà bị đóng đinh trên cây thánh giá . Ngay cả Phật Thích Ca Mâu Ni , chúng ta hình như không có nghe là Ngài lãnh nghiệp chướng gì của ai nhưng mà trong kinh điển có ghi chép lại :" Có một người đã từng giết chết 99 người , sau này muốn giết luôn cả Phật nhưng giết không thành , trái lại còn được Phật độ , sau này cũng tu thành quả A La Hán ." Nếu như Phật không có lãnh nghiệp chướng dùm người ấy , vậy nghiệp chướng giết người của người ấy đi đâu rồi ? Giết biết bao nhiêu người cũng thành quả A La Hán , có phải là nghịch với luật nhân quả chăng ? Không phải , đó là vì công đức của Phật Thích Ca Mâu Ni rất lớn , Ngài có phước báu vô lượng , vô biên , rất đủ để Ngài thanh toán tất cả nghiệp chướng , không thành vấn đề , không phải người ấy không còn chịu nhận quả báo mà là Phật Thích Ca Mâu Ni đã lãnh dùm .
Cho nên từ xưa đến nay , người muốn được giải thoát đều phải tìm vị đại minh sư trước , vì nếu chúng ta mới tu hành mà chỉ nhờ vào lực lượng của chính mình thì rất khó trả hết nghiệp chướng . Chỉ có đại minh sư ấy , nhờ cái đại phước báu đời đời tu hành , các Ngài mới có thể vừa chỉ dẫn chúng ta đường đi , vừa giúp chúng ta mang hành lý vì các Ngài có đủ lực lượng . Người thường có lực lượng của người thường . Người tu hành có lực lượng của người tu hành . Lực lượng ấy có thể chúng ta không thấy được nhưng lại là vô lượng , vô biên , tuyệt đối không phải lực lượng của thân thể mà có thể sánh bì . Quí vị nghe nói sau khi theo Sư Phụ truyền Tâm Ấn thì 5 đời được siêu sanh . Đó là nhờ vào cái lực lượng tu hành mang hết tất cả lên trên cho nên mới nói lực lượng của sự tu hành rất quí báu , bao nhiêu tiền cũng không mua được , bao nhiêu quyền uy cũng không thể đổi lấy lực lượng này .
Đôi lúc Sư Phụ thuyết pháp , cảm giác rất là thoải mái nhưng đôi khi lại cảm thấy bị vật gì đè tới thuyết pháp không nổi và cảm thấy rất là mệt . Trong lúc truyền Tâm Ấn cho người cũng vậy , có lúc rất thuận lợi không có vấn đề gì , có lúc lại bị mệt như sắp chết . Đó là do những người tới nghe thuyết pháp hoặc tới xin truyền Tâm Ấn có làn sóng chấn động khác nhau . Cái chấn động khác nhau này tạo thành bởi cái gì ? Nó tạo thành bởi luật nhân quả , có liên quan tới nghiệp chướng đời đời kiếp kiếp của chúng sinh .
-
Nghiệp Chướng Từ Đâu Tới ?
Chúng ta vốn là Phật ; Chúa Giê Su cũng nói , chúng ta đều là con của Thượng Đế . Tuy là vậy thì tại sao có người giàu có , có người lại quá nghèo ? Có người rất thông minh ? Có người lại rất ngu si ? Có người rất lương thiện ? Có người lại rất gian dối ? Thứ nhất là vì tuy chúng ta vốn là Phật nhưng khi chúng ta tới cái thế giới Ta Bà , cứ lựa hướng thấp mà đi , quên đi cái đại trí huệ của mình . Thứ nhì là vì bị ảnh hưởng của thế giới mình ở .
Thế giới này khác với thế giới của cảnh giới cao . Thế giới của cảnh giới cao có thể giúp chúng ta tu hành tiến bộ , làm cho chúng ta càng ngày càng thoải mái , càng ngày càng cao quí , còn hoàn cảnh của thế giới Ta Bà này rất dễ làm cho sự tu hành của chúng ta bị thụt lùi , càng ngày càng ngu dốt , càng ngày càng hư hỏng . Trên thế giới cực lạc , muốn gì được đấy , không có sự dau khổ , còn ở thế giới Ta Bà này cần phải cùng với thiên nhiên phấn đấu mới có thể tồn tại được . Cho đến Phật Thích Ca Mâu Ni cũng phải ăn cơm , cũng phải dùng vật chất trên thế giới này mới có thể tồn tại được . Thế giới này có hình , có sắc , có lạnh , có nóng , có đẹp , có xấu , có nam , có nữ và có sự phân biệt , so với thế giới cực lạc đều không giống nhau .
Ở đó không hình , không sắc là thế giới không phân biệt . Cho nên khi chúng ta tới thế giới này thì biến thành một chúng sinh hướng về bên ngoài , thấy thức ăn là sanh khởi niệm ăn , thấy vật chất là khởi niệm thích hoặc không thích . Từ cái tâm chúng ta thường bị cái thích thú vật chất thu hút , vì thế mà từ từ quên đi cái đại trí huệ của tự mình , chúng ta với cái đại lực lượng của vũ trụ càng ngày càng xa lìa , biến thành một con người cô đơn .
Tất cả vật chất vốn là thuộc về chúng ta nhưng vì chúng ta chỉ để ý trên một vài thứ vật chất mà chúng ta ưa thích cho nên chúng ta vô tình tự cột mình trong một phạm vi nhỏ , làm cho tình trạng bất phân biệt (trên thế giới cực lạc đều là một loại thân thể màu kim , không có phân biệt nam nữ) trở thành hửu phân biệt . Từ cái tâm của chúng ta toàn tâm toàn ý đi ưa thích một , hai người hoặc vật chất , làm cho tự mình càng ngày càng cô đơn , cắt đứt với đại lực lượng của vũ trụ , biến thành một lực lượng nhỏ bé , tích tắc là xài hết . Cũng như một con người ở trên sông Hoàng Hà mà theo đuổi những vật chất , vì bỏ hết tâm vào tình trạng đó thì sẽ tự nhiên quên trở về nguyên quán nhưng khi người ấy muốn xài nước thì chỉ có thể tạm thời ở lân cận tìm một chút nước để uống , dĩ nhiên là không đủ nước để xài .
Cho nên chúng ta càng ngày càng biến thành yếu đuối , càng ngày càng không đủ trí huệ ; trí huệ càng không đủ thì càng phát ra tâm tham lam . Từ sự cảm thấy không an toàn thì càng muốn chiếm lấy nhiều đồ , cái tư tưởng tham sân si từ đó mà sanh ra ; cái tư tưởng ấy tạo thành một từ trường đặc biệt bao quanh chúng ta , dĩ nhiên sẽ thu hút tình trạng càng kích động đến từ trường của chúng ta , người này hơi nhu hòa thu hút vật chất nhu hòa và hình thành một cái mà ta gọi là nghiệp chướng .
Chúng ta thường thấy một số người , bất luận họ làm điều gì , họ cũng đều làm sai . Đây là do từ trường của họ cứ hút những lực lượng không tốt hay là những lực lượng chướng ngại , lực lượng ngu , lực lượng ma chướng , nguyên do là không thể thu hút được cái đại trí huệ nào ở bên cạnh . Có một số người có bản tính động vật rất mạnh , đây cũng vì là từ trường của họ hay cũng vì là thói quen đời đời , kiếp kiếp vẫn chưa sửa tốt . Khi từ trường của chúng ta từ từ hướng về phía tốt mà cải biến thì cái đó tượng trưng cho chúng ta đang bắt đầu lên trên ấy . Phải tốn bao lâu mới có thể cải biến tốt , cái này còn tùy tâm của chúng ta có đơn thuần hay không . Trong kinh điển hoặc Kinh Đạo Đức đã từng đề cập tới phải biến thành cái tâm thiện chân thì mới có thể trở về Thiên Quốc .
-
Nghiệp Chướng Từ Đâu Tới ?
Muốn cải biến cái thói quen hoặc cái từ trường của chúng ta không phải dễ dàng , tuyệt đối không thể nhờ vào cái phương pháp nín hơi thở hay là tập YOGA thì có thể cải biến được . Vì thói quen đã bị đầu óc kiềm chế cho nên muốn cải biến thói quen là phải cải biến đầu óc của chúng ta , chỉ nhờ vào quán đơn điền , quán hơi thở ... thì không đủ dùng , chỉ có tu Pháp Môn Quán Âm mới là phương pháp đúng nhất .
Tại vì cái âm thanh này là "Phật âm" , là âm thanh bản tánh ; khi vạn vật trong vũ trụ chưa hình thành thì đã có cái âm thanh này rồi . Cái âm thanh này là "Thắng bỉ thế gian âm" cho nên dùng nhĩ căn phàm phu nghe không được ; nhưng bất cứ chúng sinh nào cũng nghe được , chỉ tùy theo đẳng cấp khác nhau thì nghe được âm thanh khác nhau mà thôi . Bất cứ vật gì trong vũ trụ cũng đều có chấn động cho nên đều có âm thanh; cho dù là đá sỏi cũng có âm thanh nhưng rất vi tế cho nên dùng tai thịt nghe không được , chỉ có dùng trí huệ mới nghe được . Cho nên nói "Quán Âm" mà không dùng âm thanh . Bất cứ chúng sinh nào cũng có âm thanh , cũng có trí huệ , vậy tại sao không phải bất cứ ai cũng có thể quán cái âm thanh này ? Tại vì họ không có cái chìa khóa , không biết âm thanh ở đâu cho nên trước tiên cần phải tìm một vị sư phụ nào đó mà có thể mở cái cửa này .
Tại sao cái âm thanh này lại quan trọng như thế ? Tại vì vạn vật trong vũ trụ đều tạo thành bởi cùng một âm thanh ; từ cảnh giới cao tới cảnh giới thấp cũng đều là liên hợp cùng với cái âm thanh này . Hồi nãy có nhắc tới chấn động của một số người không thể phối hợp với chấn động của một số người khác cho nên khó mà sống chung với nhau . Cũng như vậy , từ chấn động của chúng ta với chấn động của động vật hoặc một nơi nào đó không thể phối hợp cho nên chúng rất khó mà sống chung được với động vật hay sống luôn ở một nơi nào đó . Nếu có người ở mãi một chỗ nào đó , chưa chắc họ tốt hơn chúng ta ; rất có thể chấn động của họ quá thấp hay là chấn động của họ giống với chấn động của động vật cho nên mới không có cảm giác gì cả .
Ví dụ như con heo , con cóc sống ở nơi dơ bẩn lại cảm thấy tự nhiên . Cái này rõ ràng là tại sao có chỗ làm cho một người cảm thấy khó chịu mà lại có người có thể sinh sống tại đó mà lại không cảm thấy gì cả và lại vui vẻ , đó là vì họ có thể phối hợp với bầu không khí ở địa phương đó ; còn cái chấn động của chúng ta cao hơn , nhu hòa hơn thì không thể phối hợp với chấn động thấp đó cho nên mới không thể tiếp tục sống ở nơi đó . Không thể tiếp tục sống ở nơi ấy không phải là bản năng của họ cao hơn chúng ta mà là người lương thiện lúc nào cũng không thể sống chung với người ác .
Nếu có người muốn cải biến cái định mệnh thì phải dùng cái âm thanh cao nhất này , chúng ta hiện giờ chỉ có một bộ phận nhỏ , vả lại âm thanh chấn động không cao , cùng sống chung với thế giới có động vật , tức là vật cùng loại thì tụ với nhau .
-
Nghiệp Chướng Từ Đâu Tới ?
Nhưng có một loại âm thanh bao hàm tất cả chúng sanh , đó tức là "Phật Âm" , âm thanh bản tánh . Nếu chúng ta tu cái âm thanh này sẽ nâng cao chấn động lực của chúng ta , nâng cái đẳng cấp của chúng ta càng ngày càng cao . Từ bề ngoài nhìn vào có lẽ không khác đối với hồi xưa nhưng thân thể có thể phát ra ánh sáng , lúc thuyết pháp mọi người đều thích nghe , muốn độ người cũng đơn giản , tại vì chấn động của chúng ta đã cải biến , biến thành hơi nhu hòa , có thể làm cho người khác an tâm , giải thoát . Chấn động của họ sẽ bị chúng ta bao quanh , chúng ta cho họ chấn động tốt , mang chấn động xấu của họ tiêu trừ . Cũng như một người có lúc máu huyết không tốt , bác sĩ sẽ dùng máu tốt để đổi máu xấu của người ấy . Trong thùng nước khi nước không sạch , chúng ta sẽ mang nước dơ đổ đi mới có thể đổ một thùng nước sạch vào . Nhưng nếu chấn động của chúng ta không đủ tốt thì không thể nào đổi chấn động xấu của người khác , nếu không hậu quả sẽ rắc rối . Cho nên nếu muốn độ chúng sinh trước tiên cần phải nên tu hành .
Hồi nãy đã đề cặp đến sự sinh sống trên thế giới Ta Bà này thì phải dùng cái công cụ của thế gian này , cái dụng cụ này (Sư Phụ tự chỉ mình) không thể nói tiếng Trung Hoa giỏi , cái dụng cụ này (Sư Phụ chỉ thông dịch viên Anh Văn) không thể nói tiếng Anh giỏi , cái dụng cụ này (chỉ thông dịch viên Đài Loan) không thể nhớ hết nguyên vẹn . Tất cả đều không hoàn mỹ cho nên mới có quá nhiều phiền phức này . Tất cả mọi người đều đi Tây Phương thì không có vấn đề này . Quí vị muốn đi Tây Phương không ? (đại chúng đáp : muốn) . Nếu mà muốn thì phải tu Pháp Môn Quán Âm , đây là con đường tốt nhất vãng sanh Tây Phương .
Niệm A Di Đà Phật , trước tiên phải nhận biết A Di Đà Phật mới là "niệm Phật" chân chính . Nếu chỉ dùng miệng mà niệm A Di Đà Phật , đó chỉ là đẳng cấp A B C mà thôi . Tại vì "niệm" là tưởng niệm , chứ không phải là khẩu niệm . Nếu không nhận biết Phật thì làm sao mà tưởng niệm Phật ? Cho nên quí vị đừng tưởng rằng Pháp Môn Quán Âm không phải niệm Phật . Đây là cách niệm cao nhất , niệm Phật chân chính chứ không phải mỗi ngày la hét tên của A Di Đà Phật mới là niệm Phật , làm như vậy chỉ làm Ngài nhức đầu thêm mà thôi .
Hồi nãy Sư Phụ có nói vạn vật trong vũ trụ đều có âm thanh , vạn vật trong vũ trụ đều tạo thành bởi âm thanh . Cái này trong Kinh Đạo Đức có nói :" Đạo khả đạo , phi thường đạo ; danh khả danh phi thường danh , vô danh thiên địa chi thủy , hữu danh vạn vật chi mẫu ". "Danh" hay "Đạo" tất cả chỉ cái âm thanh này hay là cái động lực này , chỉ là cổ văn và kim văn khi dùng thì có thể hơi khác nhau . Thật ra đều chỉ cùng một sự việc , điều này Sư Phụ nghĩ quí vị nên hiểu rõ .
Vạn vật trong vũ trụ đều từ cái "danh" hoặc "âm thanh" tạo ra nhưng tại vì chúng ta là "người" cho nên chúng ta có được một bộ phận cao nhất của âm thanh và có thể có khả năng hoàn toàn thâu góp tất cả âm thanh . Còn động vật không đủ đẳng cấp để có thể hoàn toàn thâu góp được cái âm thanh này . Nếu chúng ta tu hành và nương vào cái âm thanh này , chúng ta sẽ nâng cao mình mãi mãi , để cho mình thu được cái âm thanh này càng nhiều thì đẳng cấp càng cao , cho đến khi hoàn toàn được trọn cái âm thanh thì mới thôi . Lúc đó chúng ta có thể phối hợp với bất cứ chúng sinh nào trong vũ trụ . Bởi vì mỗi chúng sinh là một bộ phận trong cái âm thanh này mà chúng ta đã hoàn toàn thâu được trọn cái âm thanh này rồi cho nên đối với chúng ta mà nói , nơi nào cũng là tịnh độ , mọi người đều là Phật , tất cả chúng sinh đều có Phật tánh , tới lúc đó mới đúng là thật sự có hiểu biết , nếu không cũng chỉ là "Tôi nghe nói rằng" mà thôi , không cách nào phân biệt được cái nào là thật , cái nào là giả .
-
Nghiệp Chướng Từ Đâu Tới ?
Cho nên tự mình có thể nghiệm , đọc kinh hoặc là nghe thể nghiệm của người khác đều khác nhau . Đọc kinh điển là đọc thấy cái thể nghiệm của người khác , chúng ta tu Pháp Môn Quán Âm cũng có thể nghiệm của tự mình , có thể so sánh với những gì đã ghi xuống trong kinh điển , coi có phải giống như thể nghiệm của người xưa , đôi lúc thể nghiệm của mình còn cao hơn họ , cũng không phải chúng ta cao hơn họ , mà là khi họ viết lại thể nghiệm đó , có lẽ đẳng cấp của họ không cao lắm , nếu so với đẳng cấp trong lúc họ ghi xuống rất có thể đã cao hơn một chút .
Bây giờ chúng ta đã biết cái âm thanh đó có ảnh hưởng to lớn như thế nào , bất cứ chúng sinh nào cũng có sức chấn động hay âm thanh đó , rồi gây ảnh hưởng cho nhau . Cái thế giới này khác với thế giới cực lạc , tại vì thế giới này có động vật , có người xấu , có người tốt , có người bạo động , có người thanh tịnh , có người sung sướng , có người đau khổ ; rất nhiều loại người sống lẫn lộn với nhau . Chúng ta sống trong trạng thái trộn lẫn , rất khó mà an tâm tu hành , toàn là bị chướng ngại hay bầu không khí không tốt làm phiền chúng ta ; nhưng nếu chúng ta có thể chuyên tâm tu hành thì sẽ tiến bộ rất lẹ .
Cho nên rất nhiều thiên nhân ưa thích đầu thai làm người , tại vì phải có cái thân thể này mới có thể tu hành . Chúng ta thường nghĩ cái thân thể này vô dụng nhưng không có nó lại không có cách nào tu hành . Cái thân thể này rất quí báu , phải nên lo lắng giữ gìn nó , ăn thức ăn có đủ dinh dưỡng nhưng đừng háu ăn ; phải bảo vệ thân thể , không nên để nó quá lạnh , quá nóng , quá khổ , quá mỏi mệt . Tu khổ hạnh không phải là tốt , đó là tự hành hạ mình , tự hành hạ mình là phạm tội rất nặng . Tự mình là Phật quá khứ , Phật hiện tại , Phật vị lai thì nên tôn trọng chính mình , tại sao phải tu khổ hạnh để tự hành hạ mình ? Nhưng nếu trong tình trạng không thể tránh khỏi thì khác .
Ví dụ , quí vị nghe Sư Phụ kể trong lúc tu hành ở Hy Mã Lạp Sơn , mỗi ngày chỉ ăn một tí rau sống , tại vì ở đó đất hơi cao , không khí hơi loãng , nhiệt độ thấp , áp xuất cũng thấp , bất cứ là nấu cơm hay nấu rau cũng rất khó mà chín . Ăn rau sống hơi đơn giản , chỉ cần dùng nước sông Hằng rửa sơ sơ , bỏ một tí muối là ăn được , chứ không phải Sư Phụ cố ý tu khổ hạnh . Sư Phụ ở trên núi tại Đài Loan , trong chùa bế quan 3 tháng cũng vậy , mỗi ngày chỉ ăn 1 tí cơm và muối mè , uống tí nước mà thôi . Vì lúc đó không ai lo lắng , nếu mỗi ngày đều đi chợ mua rau cải thì còn gì là bế quan ? Biến thành bế cải rồi (đại chúng cười) . Cái này đều là vì tình trạng ép buộc cho nên có gì ăn nấy , tuyệt đối không phải tu khổ hạnh . Tu khổ hạnh không thể thành Phật , tu khổ hạnh thì biến thành người khổ , chúng ta sinh sống hằng ngày đã đủ khổ rồi , tại sao phải tu khổ hạnh nữa ?
Muốn thành Phật phải tu Pháp Môn Quán Âm , dùng trí huệ quán âm thanh nguyên thủy , tại vì cái âm thanh tạo ra vạn vật trong vũ trụ , là lực lượng mạnh nhất trong vũ trụ , cũng là trí huệ cao nhất trong vũ trụ . Nếu chúng ta không nhờ vào cái lực lượng này , đại trí huệ này để tu hành , vậy phải nhờ vào những gì ? Tại sao phải nhờ vào cái bụng nhỏ bé tối thui (chỉ đơn điền) hay là cái hô hấp vô thường để tu hành ? Nếu khi chúng ta thiền thân thể không cử động hay là không hô hấp , lúc ấy làm sao tu ?
Nhưng nếu nhờ vào cái đại lực lượng để tu hành , cho dù thân thể không thể cử động , hay là luôn cả bị thương nặng cũng không sao , tại vì người chủ của chúng ta với âm thanh này đã liên kết rồi , nó đã được giải thoát , không liên quan gì tới cơ thể này , cho nên đương nhiên vẫn có thể tiếp tục tu hành , nó vẫn có thể tiếp tục lo lắng cho sinh mạng của chúng ta để cho chúng ta tiếp tục tiến bộ . Cho nên nhờ cái gì cũng không đúng , chỉ khi chỉ nên nhờ vào cái âm thanh lớn nhất , cao nhất , nguyên thủy nhất , cái âm thanh có trước nhất trước khi chúng ta chưa tới . Vạn vật trong vũ trụ chưa tạo thành thì nó đã tồn tại , cho dù sau khi Tam giới bị huỷ mất nó vẫn tồn tại . Chỉ có nhờ vào cái lực lượng vĩnh cửu tu hành mới có thể đạt được sự vĩnh viễn tồn tại , nếu nhờ vào cái hô hấp vô thường chỉ có thể đạt được sự vô thường .
-
Nghiệp Chướng Từ Đâu Tới ?
Cho nên trong Kinh Lăng Nghiêm , Phật Thích Ca Mâu Ni có nói , bất cứ tu hành pháp môn nào cũng đều là chỉ tạm thời sử dụng , không phải là pháp môn vĩnh cửu , chỉ có Pháp Môn Quán Âm mới là vĩnh cửu , mới là pháp môn thật sự để tu hành . Nếu sau khi chúng ta tu Pháp Môn Quán Âm cũng sẽ đồng ý cách nói của Ngài . Lúc thiền thất (thiền bế quan bảy ngày) , Sư Phụ cũng có lúc dạy đệ tử một pháp môn khác ; ví dụ có đệ tử nói chỗ này không khoẻ , chỗ kia không khoẻ thì Sư Phụ sẽ kêu người ấy nằm xuống , làm mười cái hoặc một trăm cái hô hấp , cái này là vì người ấy trong lúc đó có một tí chướng ngại , Sư Phụ mới dạy người ấy phương pháp này để sức khoẻ người đó khoẻ một tí , chứ không phải Sư Phụ dạy pháp môn lạ nào . Nhưng có người không hiểu thì sẽ tưởng Sư Phụ dạy nhiều pháp môn .
Một thí dụ khác , có người quá thích nói chuyện , họ hỏi Sư Phụ có cách nào để họ nói ít một tí thì Sư Phụ dạy người đó để lưỡi ở hàm trên . Thật ra đây là một phương pháp để trị những người thích nói chuyện mà thôi , khi vấn đề đã được giải quyết thì cũng phải tu Pháp Môn Quán Âm . Cho nên thành thật mà nói , hô hấp hay là để lưỡi ở hàm trên không thể tính là một loại pháp môn , chỉ có thể nói là một phương tiện mà thôi .
Cũng như lúc ăn cơm , trên bàn có rau cải , có tàu hũ , có mì căn ... , nhưng có người mới bắt đầu ăn chay , còn chưa thích khẩu vị đó thì phải thêm một tí da vị như là tiêu , tương ... thì có thể cảm thấy ngon hơn một tí nhưng mà gia vị không thể thay thế cho cơm . Cũng như vậy , trừ Pháp Môn Quán Âm ra , còn tất cả các pháp môn khác chỉ là gia vị mà thôi , không thể thay thế cho bữa cơm chính .
Trong kinh điển đã từng đề cập tới , nguyên thủy của vũ trụ chỉ là một loại âm thanh Word , âm thanh này sống chung với Thượng Đế , vạn vật đều tạo thành bởi cái âm thanh này , không có vật nào mà không sanh ra từ cái âm thanh này . "In the beginning was the word (sound) , and the word was with God , and word was God , everything was made by this , and nothing was not made by this". Đạo lý của Kinh Đạo Đức cũng nói như vậy . Lão Tử nói :" Đạo khả đạo , phi thường đạo ; danh khả danh , phi thường danh ; vô danh thiên địa chi thủy , hữu danh vạn vật chi mẫu ". Lúc bắt đầu có cái "danh bất khả danh" này , vạn vật trong vũ trụ mới được sáng tạo ra .
Trong "Upanishad" , đây là một bộ kinh rất nổi tiếng của Ấn Độ , đều nói đúng cùng một đạo lý , "In the beginning was the word" , vừa bắt đầu tạo hóa là cái âm thanh này . Lúc âm thanh này phát ra vạn vật trong vũ trụ đều tạo ta cả . Cái âm thanh này là Thượng Đế , cái âm thanh này là Tạo Hóa , đều nói lên một sự việc giống nhau , tại vì Phật Thích Ca , Lão Tử , Thánh Kinh , Ấn Độ Giáo , Hồi Giáo đều nói cùng một đạo lý . Sau khi tu Pháp Môn Quán Âm và đi nghiêng cứu thêm các kinh điển khác thì có thể hiểu .
Sau khi khai ngộ thì sẽ hiểu , bất cứ kinh điển nào cũng đều nói cùng một thứ , chỉ có từ ngữ các tôn giáo không giống nhau mà thôi . Vì người đời tam sao thất bổn và hiểu sai giáo lý của giáo chủ họ cho nên biến thành rất có nhiều môn phái . Những sự chia rẽ này là do sự lầm lẫn mà tạo thành . Ví dụ như , hiện giờ Sư Phụ dạy Pháp Môn Quán Âm , pháp môn này ở Đài Loan không có người nào hoặc pháp sư nào dạy qua cho nên rất có thể họ nghĩ rằng Sư Phụ dạy pháp môn ngoại đạo .
-
Nghiệp Chướng Từ Đâu Tới ?
Rất có thể họ không thấu hiểu ý nghĩa của câu "Thậm thâm vi diệu" trong Kinh A Di Đà Phật cho nên không cách nào hiểu tại vì sao Sư Phụ không dạy người ta niệm A Di Đà Phật . Sau khi quí vị tu Pháp Môn Quán Âm thì sẽ hiểu , chứ Sư Phụ không có dạy pháp môn nào khác . Pháp Môn Niệm Phật , Pháp Môn Quán Âm , Pháp Môn Kim Cang đều giống nhau , khi hiểu thì tất cả đều giống nhau cả .
Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy một pháp môn mà thôi , còn tất cả các pháp môn khác đều do chính chúng ta đặt ra cho nên sau khi Phật nhập Niết Bàn rồi , chúng ta biến thành nhiều môn phái . Sau khi Phật rời khỏi thế giới này , rất có thể đại đệ tử của Ngài đi chỗ khác truyên Pháp Môn Quán Âm nhưng chỗ đó chỉ nhận biết Phật Giáo của người phổ biến ra mà thôi . Cho nên khi đại đệ tử ấy ra dạy Pháp Môn Quán Âm thì hình thành tông phái khác nhau , ví dụ như phái Tịnh Độ , phái Cao Đài ... thật ra các Ngài đều dạy cùng một thứ . Tại vì Sư Phụ đã tu qua rất nhiều tôn phái nên Sư Phụ mới rõ . Những gì Sư Phụ đã nói đều là từ thể nghiệm cá nhân . Ở Bành Hồ , Sư Phụ đã từng nói qua , pháp môn khác nhau , không có chỗ nào khác nhau . Ở đây Sư Phụ không muốn nói nhiều , nếu quí vị muốn nghe thì có thể thỉnh băng thuyết pháp tại Bành Hồ về mà nghe .
VẤN : Niệm Phật có lợi hay không ?
ĐÁP : Có lợi nhưng lợi không nhiều , nhưng niệm Phật còn tốt hơn niệm những việc trên thế gian này , tại vì đầu óc của con người rất khó mà không niệm một cái gì cả . Bình thường thì thích niệm chồng , niệm vợ , niệm danh lợi , niệm một đống phiền não . Nếu tập trung chỉ niệm Phật , ít nhất tạm thời có thể bỏ xuống đồ đạt trên thế gian này , làm cho đầu óc thanh tịnh một tí cho nên mới nói niệm Phật còn đỡ hơn niệm thế gian . Nhưng khi niệm Phật nên chuyên "tâm niệm" , không nên chỉ dùng "khẩu niệm" , nếu đầu óc vẫn nghĩ bậy bạ thì niệm cho nhiều cũng vô ích , càng niệm càng phiền . Trước khi chưa theo Sư Phụ học Pháp Môn Quán Âm người đang niệm Phật có phải là nên tiếp tục niệm Phật hay không ? Dĩ nhiên tại vì họ không còn gì để lựa chọn .
VẤN : Xin hỏi niệm Kinh và đọc Kinh , cái nào tốt hơn ?
ĐÁP : Quí vị thích gì thì làm cái đó , nếu không hiểu ý nghĩa của Kinh thì đọc cũng không tốt , niệm cũng không tốt (ý của Sư Phụ muốn nói , quí vị có thể niệm nhưng nếu không hiểu ý nghĩa của kinh thì nên đổi qua đọc , rất có thể sẽ dễ dàng hiểu ý nghĩa của kinh) , nếu quí vị cảm thấy đọc kinh sẽ dễ hiểu thì quí vị đọc kinh hoặc niệm kinh là có công đức . Nhưng nếu chỉ đọc mà không hiểu ý nghĩa của kinh cũng không có công đức , tại vì đọc chỉ hiểu ý mà thôi chứ không có thể nghiệm thực tế .
VẤN : Xin hỏi đọc kinh và niệm kinh có công đức không ?
ĐÁP : Sư Phụ kể cho quí vị nghe một câu chuyện , có một ngày Bồ Đề Đạt Ma gặp một vị pháp sư , vị pháp sư ấy rất ưa thích niệm Kinh Niết Bàn , Bồ Đề Đạt Ma mới hỏi vị pháp sư :" Ông niệm cái này có lợi ích gì ?" Vi pháp sư đáp :" Niệm cái này có thể thành Phật , liểu thoát sanh tử ." Bồ Đề Đạt Ma nói :" Cho tôi quyển kinh này để tôi mang nó đốt đi , coi bánh vẽ bằng tay có thể no bụng không ?"
Đây là giải đáp của Sư Phụ , vừa ý không ? Đây là Bồ Đề Đạt Ma nói , không phải Sư Phụ nói , Sư Phụ bây giờ rất sợ nói thể nghiệm của tự mình .
-
Nghiệp Chướng Từ Đâu Tới ?
VẤN : Xin hỏi Sư Phụ , nếu niệm kinh không có công đức , vậy ở ngoài kia có rất nhiều người niệm kinh thì phải làm sao ?
ĐÁP : Sư Phụ không có kêu họ đừng có niệm kinh , họ có thể tiếp tục niệm kinh , Sư Phụ cũng không dám kêu họ đừng có niệm kinh , thật ra nói ra cũng vô dụng mà thôi ! Ở đây có năm , sáu chục người mà thôi . Ở ngoài kia có năm sáu chục vạn người niệm kinh , Sư Phụ không thể đi nói từng người , từng người và cũng không thích làm chuyện đó . Niệm kinh hay không niệm là chuyện của họ , trên thế gian này lúc nào cũng có chuyện xảy ra , Sư Phụ tu hành thì chỉ lo chuyện của Sư Phụ , ai hỏi thì nói , còn không hỏi thì không nói .
Niệm kinh còn tốt hơn niệm chuyện thế gian , tại sao lại không thể niệm ? (Tất cả cười) . Niệm kinh còn tốt hơn niệm tiểu thuyết ! Sư Phụ rất tán thán niệm kinh , ít nhất họ còn nghĩ đến Phật , nghĩ đến Pháp , nghĩ đến Tăng , không có hoàn toàn quên lãng , còn nhớ một tí tí . Nếu không niệm kinh , có lúc làm không ra chuyện tốt nào , tối ngày cứ đi nói chuyện tào lao tại vì cái miệng thích nói quá mà ! Cho nên đọc kinh cũng có lợi , về nhà mệt rồi không thể nói chuyện thị phi của người khác (Tất cả cười) .
VẤN : Khi chúng con niệm Phật có thể niệm tới một trình độ nào , tức là cho dù không niệm bên tai cũng có âm thanh Phật , xin hỏi hiện tượng này là xấu hay tốt ?
ĐÁP : Không thật tốt cũng không thật xấu . Lúc ấy , quí vị đã biến thành cái máy thâu băng (tất cả cười) , lục căn lục trần của chúng ta quen rồi , nghe quá đầy rồi , thì có thể phát ra , cũng như nước trong ly này , nếu khi để quá nhiều nước thì cũng sẽ tràn ra . Niệm Phật quá nhiều thì biến thành cái máy thâu băng , vậy có thể đỡ tốn tiền mua băng thâu rồi (tất cả cười) .
VẤN : Trong ba thứ độc , loại nào khó dứt đoạn nhất ?
ĐÁP : Đây là do người tạo ra , có người hơi "tham" , có người hơi "sân" , có người hơi "si" . (Còn theo kinh nghiệm của Sư Phụ thì sao ?) Sư Phụ cũng khó mà dứt đoạn ba cái này . Sư Phụ rất là tham , rất là sân , rất là si .
Tham những gì cao quí nhất , tham cả vũ trụ , Sư Phụ muốn thành Phật (tất cả đều vỗ tay) .
Sư Phụ rất sân là vì chúng sanh quá vô minh . Tất cả chúng sinh đều có cái bảo châu này nhưng không biết dùng , Sư Phụ rất là giận ! Cho nên không thể dứt cái sân này .
Và Sư Phụ cũng đại si , tại vì đã mê cái "đạo" này , bây giờ không thể trở về ; phải tiếp tục hướng lên , khi lên là không thể quay trở lại . Nếu quí vị mê một người con gái , rất có thể một ngày quí vị tỉnh dậy . Ví dụ quí vị thích một người con gái nhưng nếu có một ngày người con gái đó biến thành người xấu xí thì quí vị không còn thích nàng nữa . Nhưng Sư Phụ đã mê cuồng cái "đạo" này thì vĩnh viễn không tỉnh dậy nữa , không người nào có thể khuyên Sư Phụ trở đầu cho nên tham sân si của Sư Phụ rất là khó dứt đoạn (Mọi người vỗ tay) .
-
Nghiệp Chướng Từ Đâu Tới ?
VẤN : Niệm Kinh không giúp gì cho sự thành Phật nhưng đối với nhân thiên phước báu có giúp đỡ gì không ?
Con đã từng đọc một quyển sách , có người khi gặp tai nạn , vì lý do niệm Kinh A Di Đà , kết quả trốn được nhóm quân lính đang theo đuổi , tại sao người ấy niệm kinh mà có thể trốn khỏi tai nạn ấy ?
ĐÁP : Tôi không biết người ấy là tại vì niệm kinh mới tránh khỏi tai nạn hay là tại phước báu của người ấy , hay là tại vì cũng trông lúc đó , quân lính cũng không trông thấy người ấy . Nếu quí vị tin người ấy thì quí vị có thể niệm kinh , niệm kinh rất tốt . Nhưng liên quan đến phước báu hay không có phước báu thì Sư Phụ không thể nói , không cần lo cái này . Có phước báu cũng chỉ là nhân thiên phước báu mà thôi , rất ít , phước báu ít không thể dùng . Đối với Sư Phụ mà nói , tại vì Sư Phụ rất tham mà cho nên loại phước báu nhỏ này đối với Sư Phụ như không có . Mặc dù Sư Phụ nói là không có , thật ra cũng có một chút thì quí vị cứ tiếp tục niệm kinh đi (mọi người cười) , niệm kinh rất tốt , ít nhất chúng ta nhớ Phật nói những gì . Những gì Phật nói so với những gì thế gian nói đều tốt hơn cả . Nó có thể làm cho đầu óc chúng ta có thêm ảnh hưởng tốt , có một tư tưởng và quan niệm tốt .
VẤN : Chúng con có thể được dùng Kinh Phổ Môn để mà giải thích tư tưởng của Lão Tử không ?
ĐÁP : Được . Nếu quí vị gặp những người Đạo Giáo thì dùng tư tưởng của Lão Tử để mà giải thích Kinh Phổ Môn . Nếu gặp những người Phật Giáo thì dùng Kinh Phổ Môn giải thích tư tưởng Lão Tử ; linh hoạt mà dùng , tâm không có quái ngại , không có phân biệt . Nhưng nhất định thấu hiểu cho rõ ràng rồi mới có thể nói tâm không có quái ngại ; nếu không , sẽ không giải thích được gì , bị người khác hỏi một cái là sẽ có trở ngại . Cho nên phải hoàn toàn thấu hiểu mới có thể giải thích cho người khác nghe . Ví dụ hôm nay , quí vị nghe Sư Phụ thuyết pháp nói kinh điển gì cũng đều nói giống nhau , sau khi về nhà thì lập tức nói cho người nhà nghe , người nhà sẽ nêu ra rất nhiều câu hỏi để hỏi quí vị , tại vì quí vị chưa có thể nghiệm thực tế cho nên sẽ bị bắt bí , không thể trả lời được .
VẤN : Nói một cách khác không cần biết là một tín đồ Đạo Giáo hay là Cơ Đốc Giáo , nếu tu hành cao họ có thể hiểu nội dung trong Kinh Thánh hay không ?
ĐÁP : Nếu người ấy tu hành rất cao như quí vị nói , dĩ nhiên là có thể hiểu . Thật ra , Phật Giáo vốn là không có , trước khi Phật Thích Ca Mâu Ni chưa tới , Phật Giáo từ đâu tới ? Chỗ nào là có Phật Giáo , Phật là gì ? Một người hoàn toàn khai ngộ tức là Phật , cho nên một Lão Giáo Đồ (chỉ Đạo Gia) hoàn toàn khai ngộ , cũng có thể tự xưng là Phật . Tất cả người nào cũng là tín đồ Phật Giáo , họ chỉ cần làm một người tốt , người có đạo đức , có tu hành , chứ không cần phải có pháp danh hoặc quy y theo một vị pháp sư nào mới là tín đồ Phật Giáo . Cái hàm ý của Phật Giáo không phải là nhỏ , Phật Giáo rất lớn , Lão Giáo rất lớn , Cơ Đốc Giáo cũng rất lớn . Chỉ có chúng ta tự mình mang cái tôn giáo làm nhỏ hẹp lại . Đây là điều sai lầm của chúng ta , chứ không phải ý chính của giáo chủ là như vậy .
VẤN : Sư Phụ nói "Âm thanh" có phải là giống như âm thanh mà chúng con nghe hàng ngày không ?
ĐÁP : Không giống nhau , âm thanh này phải được truyền pháp xong mới nghe được , người bình thường nghe không được .
VẤN : Người tại gia có thể tu Pháp Môn Quán Âm không ?
ĐÁP : Được . Phật Thích Ca Mâu Ni cũng có rất nhiều đệ tử tại gia , trong Kinh Lăng Nghiêm có hai mươi lăm vị Bồ Tát đã nói ra thể nghiệm tu hành của họ , hơn phân nửa đệ tử tường thuật thể nghiệm tu hành tại gia của họ , người tại gia càng nên tu Pháp Môn Quán Âm này .
-
Nghiệp Chướng Từ Đâu Tới ?
VẤN : Nhiệp chướng có thể dựa vào tu hành mà tiêu trừ đi không ? Hay là sau một cơn bệnh nặng mới có thể tiêu trừ ?
ĐÁP : Nếu tu hành tốt có thể tiêu trừ nghiệp chướng , nếu không tu hành cho dù có bệnh nặng cũng không thể tiêu trừ . Tại vì một cơn bệnh không đủ để trả nghiệp chướng to lớn như vậy . Phân nữa nghiệp chướng dùng lửa đốt thì mau hơn . Tu Pháp Môn Quán Âm nghiệp chướng rất mau được tiêu trừ , tại vì Sư Phụ có thể thay thế quí vị gánh vác phân nửa nghiệp chướng rồi .
VẤN : Tu Pháp Môn Quán Âm có phải cần có Sư Phụ truyền pháp mới có thể tu hay không ? Nếu không gặp được Sư Phụ thì vĩnh viễn không cách nào mà tu hành ?
ĐÁP : Đúng , nếu không gặp được Sư Phụ chân chính thì không cách nào tu . Rất có thể đôi lúc quí vị nghe được một tí âm thanh nhưng lại không hiểu cái này là cái gì ? Ngày hôm sau quí vị muốn nghe nữa thì không chừng lại không nghe được nữa nhưng mà sau khi truyền pháp , âm thanh này vĩnh viễn tồn tại .
VẤN : Khi Sư Phụ truyền pháp , có điều kiện hoặc qui chế gì không ?
ĐÁP : Chỉ cần hiện giờ bắt đầu ăn chay là được . Không phải bảo quí vị quy y người này (Sư Phụ tự chỉ mình) mà là quy y cái âm thanh , cái đại lực lượng hoặc là cái "Bản lai diện mục" . Sư Phụ chỉ là chỉ đạo cho quí vị tu hành mà thôi cho nên không có qui chế . Sư Phụ không cần quí vị biến thành đệ tử của Sư Phụ , cũng không cần quí vị cúng dường . Sư Phụ biết cái pháp môn này nên nói cho quí vị biết , tu hành chân chính vẫn là phải nhờ vào tự mình .
Có một số người sau khi quy y pháp sư nào , vĩnh viễn biến thành đệ tử của họ , không thể bỏ được , muốn học pháp môn khác cũng không được , cái này như là bị cột lại cho nên tôi không thích nghe chuyện quy y . Nếu quí vị cần thì tôi truyền pháp cho quí vị để quí vị mở ra cái tài sãn của tự mình và tự mình xài . Những cái này quí vị vốn đã có rồi tôi không có cho quí vị cái gì , Sư Phụ chỉ là giúp quí vị mở trí huệ để quí vị kết nối với lực lượng của tự mình cùng với cái lực lượng vũ trụ . Khi lực lượng chấn động nguyên thủy kết nối , bảo tàng vô tận đều thuộc quí vị , quí vị tự hưởng thụ . Cho nên không cần quy y Sư Phụ . Quy y với cái người phàm phu này đâu có hữu ích gì .
-
Nghiệp Chướng Từ Đâu Tới ?
VẤN : Hồi nãy Sư Phụ nói :" Người muốn tu Pháp Môn Quán Âm nhất định phải ăn chay mới được nhưng mà chúng con sinh sống ở cõi Ta Bà này vì phải phối hợp đời sống tình trạng trên thực tế không cách nào ăn chay thì làm sao ?
ĐÁP : Đừng mượn lý do . Quí vị không lo đến sự đau khổ của chúng sinh , người ăn thịt của chúng sinh thì làm sao thành Bồ Tát ? Quí vị không thể ăn chay , Sư Phụ cũng không có cách nào khác cả . Câu hỏi này , Sư Phụ không muốn đáp . Tuy đã phát tâm muốn cứu độ chúng sinh phải nên hy sinh khẩu vị của mình một tí , phải thắng cái chướng ngại nhỏ này . Hôm nay chỗ nào cũng có tiệm bán đồ chay , hay là tìm tàu hũ hoặc mì căn tự nấu lấy , cái này đều là chuyện nhỏ bé , hơn nữa người tại Ấn Độ đều ăn chay , họ không có mì căn , tàu hũ ; đều ăn loại đậu và cơm , họ cũng không có bất cứ trở ngại nào .
VẤN : Xin hỏi Sư Phụ "Pháp Môn Quán Âm" mà Sư Phụ nói và Kinh Lăng Nghiêm nói "Pháp Môn Viên Thông" có giống nhau hay không ?
ĐÁP : Giống . Nhưng mà trong Kinh Lăng Nghiêm không có đề cặp tới cách nào để tu Pháp Môn Quán Âm , chỉ là tán thán Pháp Môn Quán Âm mà thôi , nếu muốn tu Pháp Môn Quán Âm , trước tiên phải tìm một vị thầy để dạy quí vị .
VẤN : Xin hỏi Sư Phụ , có người Sư Phụ truyền nối hay không ?
ĐÁP : Có . Bắt đầu từ Phật Thích Ca Mâu Ni truyền nối xuống .
VẤN : Xin hỏi sư phụ của Sư Phụ là người quốc gia nào ?
ĐÁP : Ấn Độ . Nhưng ở Việt Nam cũng có ; ở Việt Nam cũng có nhiều vị tu hành Pháp Môn Quán Âm .
VẤN : Con có một người học trò , mẹ của người học trò đã phá thai , xin hỏi nên làm cách nào ?
ĐÁP : Đã phái thai rồi , bây giờ còn nói cái này ra làm gì nữa ? (Xin hỏi tình trạng này , làm pháp hội thủy lục có ích gì không ?) Nếu sau khi quí vị giết người , đi sám hối với cảnh sát thì có lợi gì không ? Họ có thể nào cứu quí vị không ? Cho dù đi trình với tổng thống hoặc pháp quan nào để mà sám hối cũng không có giúp ích gì , họ chỉ có thể giam quí vị vào trong tù ở , đây là cứu quí vị , để quí vị tự trả nghiệp chướng đấy . Làm pháp hội thủy lục , làm chi vậy ? Dùng cái tâm của phàm phu để sám hối , làm sao mà tiêu trừ nghiệp chướng ? Cái tâm phàm phu vốn đã đủ đen tối rồi , dùng nước dơ , rữa đồ dơ , rữa cách nào cũng không rữa sạch được .
VẤN : Thích Ca Mâu Ni Phật cũng tu khổ hạnh mà tại sao Sư Phụ nói :"Tu khổ hạnh không có lợi gì ?"
ĐÁP : Sau khi Ngài tu khổ hạnh , cuối cùng thấu hiểu tu khổ hạnh là vô dụng , khổ hạnh rất là vô đạo lý . Trong lúc Ngài sắp chết , mới tỉnh dậy , Ngài hối hận và bắt đầu dùng thức ăn , uống sửa , ăn bánh , thân thể mới từ từ kháng phục trở lại . Sư Phụ không phải tu khổ hạnh mới ốm và nhỏ con như vậy mà là Sư Phụ ăn không vô . Bình thường cũng ăn rất ít , đôi lúc luôn cả cơm cũng không có ăn , ăn cơm như là uống nước lã vậy , không có mùi vị gì cả , chỉ sợ thân thể này chịu không nổi nên miễn cưỡng ăn một tí .
-
Re: Các Bài KHAI THỊ
VẤN : Trong quá trình khi chúng ta tu hành , có phải là không được như một số người khác , ăn chơi nhậu nhẹt hay là tham lam hưởng thụ ?
ĐÁP : Có gì để hưởng thụ ? Một ngày 3 cữ cơm đã quá đủ rồi . Bao tử của chúng ta có hạn , dù cho quí vị muốn ăn nhiều thêm 1 tí cũng đựng không nổi . Nói tới áo quần , nhiều nhất mỗi lần chỉ mặc hai ba bộ mà thôi . Tất cả sự vật , vừa đủ là được rồi . Sau khi tu Pháp Môn Quán Âm , nếu tu hành cao , người khác cho quí vị cái gì , quí vị sẽ tự nhiên không nhận , cho dù là tiền , cũng không lấy . Có gì thì xài nấy , tâm đừng có tham .
VẤN : Theo trình độ của Sư Phụ mà đọc kinh thì cảm thấy gì ?
ĐÁP : Tôi từ nhỏ đã bắt đầu đọc kinh , bây giờ sắp trả bài ra được , đọc kinh đối với tôi , có lúc cũng là cần thiết , tại vì phải làm tham khảo . Ví dụ như Sư Phụ đề cập tới tu hành như thế nào mới là tu hành đúng , nếu không dùng lời nói của Chúa Giê Su và Phật Thích Ca Mâu Ni ra để ấn chứng thì quí vị tuyệt đối không tin tu là cái gì ? Vừa ra đạo , tuổi còn trẻ , nói gì người khác cũng không dễ mà tin cho nên Sư Phụ phải dùng Kinh Lăng Nghiêm , lời của Thánh Kinh hoặc lời của Lão Tử để mà chứng minh , quí vị mới tin , vì đây là thói quen của chúng ta , chúng ta chỉ có vẽ tin tưởng vị đại tu hành ở cổ đại , bây giờ nếu có Bồ Tát sống đứng trước mặt quí vị , quí vị cũng sẽ không cung kính Ngài và cũng không tin Ngài .
VẤN : Xin hỏi Sư Phụ , khi Sư Phụ đọc kinh là văn gì ?
ĐÁP : Sư Phụ cái gì cũng đọc , cái này đối với quí vị có quan hệ gì ?(Đại chúng cười)
VẤN : Tại vì chữ Trung Hoa trong Kinh Lăng Nghiêm rất khó , cho nên con đoán là có lẽ Sư Phụ đọc không hiểu .
ĐÁP : Sư Phụ đọc chữ Việt như vậy có được không ? (Đại chúng cười)
VẤN : con rất thích Kinh Pháp Hoa và Kinh Lăng Nghiêm , Sư Phụ có thể khai thị không ?
ĐÁP : Bây giờ làm sao nói Kinh Pháp Hoa ? Bây giờ không có thì giờ , ngày khác nói .
VẤN : Trong Kinh Pháp Hoa , Phẩm Pháp Sư Công Đức , có đề cập tới cái âm thanh , xin Sư Phụ khai thị thêm .
ĐÁP : Trừ ra Phẩm Pháp Sư Công Đức , trong Phẩm Phổ Môn cũng đề cập tới "Phạm âm , hải triều âm , thắng bỉ thế gian âm ." Trong Phẩm Pháp Sư Công Đức có nói , nếu pháp sư đã đạt tới trình độ có thể giảng Kinh Pháp Hoa , mũi của Ngài có đủ 800 công đức , tai có 1200 công đức , mắt có 800 công đức , có công đức đó , Ngài chỉ cần tai phàm cũng nghe được tiếng của Phạm Thiên hay tiếng từ địa ngục ; cũng có thể nghe được tiếng chuông , tiếng trống , tiếng hải triều tiếng bên ngoài , tiếng bên trong ... Cũng có thể nghe được tất cả âm thanh . Âm thanh bên trong ý chỉ cái gì , đó tức là trong Kinh Phổ Môn đã nói là cái thắng bỉ thế gian âm , Kinh Pháp Môn quá dài , nếu muốn nói nên để ngày khác nói .
-
Các Pháp Môn Tu Hành Đều Là Pháp Môn Quán Âm
Các Pháp Môn Tu Hành Đều Là Pháp Môn Quán Âm
Hôm nay nói đến Kinh Kim Cang , kinh nào cũng là Kinh Kim Cang , Kinh Kim Cang không phải là Kinh Kim Cang nhưng phải dùng ngôn ngữ để nói , cho nên mới gọi là Kinh Kim Cang .
Có một ngày Sư Phụ truyền pháp cho một người , cô ta như bị ma nhập , quí vị có biết người bị ma nhập như thế nào không ? Tẩu hỏa nhập ma tức là con người nếu như tu hành không tốt , tự ý bậy bạ , hay là gặp thầy không tốt , pháp môn không tốt , hay là tự mình không đủ đơn thuần , tu hành với tình trạng đó thì sẽ tẩu hỏa nhập ma . Bị ma nhập là con người bị ma xâm chiếm , thân xác vẫn là người đó , nhưng thần thức bị ma đuổi đi , ma dùng thân thể của người đó làm chuyện bậy bạ , tay bắt ấn , chân bắt ấn , đầu bắt ấn gì đó ... , hay là nói lời kỳ cục gì đó , tai nghe có người nói chuyện , bảo người đó làm gì đó , rồi hành vi cử động đều khác người thường , có lúc nói như thế này , có lúc nói như thế nọ , tự mình cũng không biết nói cái gì , đôi khi bị ma ép làm chuyện gì , tự họ cũng không thể kềm chế mình , chúng ta nói là ma nhập .
Sư Phụ truyền pháp cho người bị ma nhập , không phải Sư Phụ muốn truyền pháp , Sư Phụ cũng không biết trước , bởi vì có người đồng tu đem một người bạn đến , Sư Phụ thường gọi học trò của Sư Phụ là đồng tu , bởi vì họ theo Sư Phụ cùng chung tu hành , tu một pháp môn giống nhau , cho nên gọi đồng tu .
Bạn của vị đồng tu đó bị ma nhập đã mấy năm rồi , cho nên người đồng tu đó mới dẫn cô ta đến giới thiệu cho Sư Phụ , bởi vì người đồng tu này là học trò của Sư Phụ , cho nên vì người đó Sư Phụ mới truyền pháp cho người bị ma nhập này , tuy rằng cô ta bị ma nhập nhiều năm , nhưng con người rất tốt , cô ta ăn chay , lạy Phật , niệm Phật , tọa thiền , muốn giải thoát ... , nhưng bởi vì trước kia tu pháp môn không tốt , hay không có thầy giỏi , nên biến thành hình dáng như vậy .
Lúc Sư Phụ truyền pháp cho cô ta , có tới mấy con ma đều chạy ra cùng một lúc . Bề ngoài của cô này thấy rất bình thường , nếu như quí vị gặp cô ta lần đầu tiên sẽ không biết cô ta bị ma nhập đâu , ngày thường cô ta nói chuyện , cũng không có cái gì không đúng . Nhưng khi truyền tâm ấn , có tới mấy con ma chạy ra , đánh giặc với nhau , thật là ghê . Lúc đó những vị đồng tu tại đó đều rất sợ , bởi vì khi ma nó ra , không giống như người thường , mặt của cô ta đều biến dạng , nhìn rất khủng khiếp , tiếng nói của một trong mấy con ma giống như tiếng chó sủa , có tiếng thì như sư tử gầm , rất khó nghe , có con nói tiếng Hẹ , có con nói giọng của người Trung hoa đại lục , cô này từ trước đến nay đâu có biết tiếng Hẹ .
Sư Phụ bảo cô ta niệm Phật , cô ta không dám niệm , Sư Phụ miễn cưỡng bảo cô ta niệm , cô ta niệm ra tiếng gì mà biến điệu hết , làm cho các đồng tu tại đó đều nổi da gà . Có con niệm ra như tiếng chó sủa ; có con hơi hiền , mới chửi các con ma kia , bảo tụi nó đừng có niệm như vậy , phải niệm đàng hoàng một chút , Ngài là một vị pháp sư rất tốt , nên đảnh lễ Ngài . Buổi truyền pháp hôm đó như là mở một buổi tiệc náo nhiệt . Một con ma nói với các con ma khác : Tôi không phục vị Sư Phụ này , nhưng bởi vì vị này có Pháp Môn Kim Cang , cho nên trước mặt Ngài , tôi cần phải tôn kính nghe lệnh . Các con ma này thật lợi hại , dám mở cuộc hội họp tại chỗ của Sư Phụ .
-
Các Pháp Môn Tu Hành Đều Là Pháp Môn Quán Âm
Tại sao Sư Phụ nói chuyện này cho quí vị nghe ? Sư Phụ vốn không muốn nói chuyện này , nhưng nếu không nói quí vị sẽ đem nhiều người bị ma nhập đến cho Sư Phụ thì mệt lằm , Sư Phụ không thích . Sư Phụ nói thật cho quí vị rõ , cứu một người bị ma nhập rất phiền phức , không dễ dàng , cần phải dùng rất nhiều lực lượng , người thường như vậy có lúc còn không thể cứu , cứu người bị ma nhập càng khó hơn , có hiểu không ? Người bình thường đối với lời của Sư Phụ , nghe còn chưa vào tai , người bị ma nhập có có nhiều chướng ngại hơn người thường , càng không dễ tin Sư Phụ .
Nhưng vì sao Sư Phụ muốn nói câu chuyện này ? Bởi vì như vừa mới nói , kinh điển nào cũng là Kinh Kim Cang . Pháp Môn Kim Cang tức là Pháp Môn Quán Âm , trong Kinh Kim Cang Phật có nói với ông Tu Bồ Đề , cần phải tu Pháp Môn Kim Cang , nhưng Phật nói với những người khác lại nói Pháp Môn Quán Âm . Hôm qua Sư Phụ cũng có nói , trong Kinh Pháp Hoa , phẩm Phổ Môn là nói về Pháp Môn Phổ Độ , trong Kinh A Di Đà của Tịnh Độ Tông , là Pháp Môn A Di Đà hay Tịnh Độ , trong Kinh Pháp Bảo Đàn Kinh , lại biến thành Pháp Môn Bát Nhã Ba La Mật , chút nữa Sư Phụ sẽ nói cho quí vị rõ vì sao Sư Phụ nói như vậy ?
Hôm qua , Sư Phụ có nói , trong Kinh A Di Đà , có nói đến cái âm thanh này , quí vị còn nhớ trong kinh nói đến cái âm nhạc du dương ở bên trong đó không ? Trong Kinh Lăng Nghiêm cũng có nói đến pháp Quán Âm này , hai mươi lăm vị Bồ Tát tự mỗi người nói đến , khi họ khai ngộ họ nghe được những âm thanh nào , trong phẩm Phổ Môn cũng có nói "Phạm Âm , Hải Triều Âm , Thắng Bỉ Thế Gian Âm". Nếu như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ nói tiếng hải triều bên ngoài , như vậy dân ở đảo Bành Hồ đều khai ngộ hết rồi (mọi người cười) , bởi vì dân ở đó mỗi ngày đều được nghe tiếng hải triều phải không ? Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đương nhiên không phải nói như vậy .
Nếu như nói hải triều âm là chỉ tiếng sóng biển ở thế giới bên ngoài , vậy còn Phạn Âm thì sao ? Làm sao mới nghe được tiếng Phạn Âm ? Đi lên núi tìm ? Hay là ra bờ biển để tìm ? Ở đâu cũng không cách nào tìm được . Phạn âm là chữ của Phạn ngữ , tiếng Phạn là tiếng Ấn Độ , nếu thật như vậy , chẳng lẽ chúng ta đi Ấn Độ nghe tiếng Phạn , rồi có thể khai ngộ hay sao ? Lẽ tất nhiên là không phải như vậy , thì thế nào mới là Thắng Bỉ Thế Gian Âm ? Từ đâu mới có thể tìm được ? Nghe được ?
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói những thứ âm thanh đó là những thứ âm thanh bên trong , âm thanh khi khai ngộ , là âm thanh Phật , là pháp môn tu hành của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát , không phải chỉ có âm thanh thông thường nghe ở bên ngoài , cho nên mới nói "Thắng Bỉ Thế Gian Âm" , đây là cái chứng minh thứ nhất . Bây giờ Sư Phụ còn muốn nói cho quí vị rõ , Phẩm Phổ Môn , Kinh A Di Đà , Kinh Bát Nhã Ba La Mật , Kinh Lăng Nghiêm , đều nói cùng một lý .
Bởi vì Kinh Lăng Nghiêm không phải là Kinh Lăng Nghiêm , chỉ là giới thiệu pháp môn mà thôi , vẫn chưa phải chính thực là Kinh Lăng Nghiêm , Kinh Kim Cang cũng không phải là Kinh Kim Cang , kinh chính của Kinh Kim Cang chỉ có lúc truyền pháp mới có , vì sao Sư Phụ nói như vậy ? Bởi vì Lục Tổ Huệ Năng lần đầu tiên nghe Kinh Kim Cang đã khai ngộ , nhưng Ngài còn phải đến chỗ của Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn , nghe Ngũ Tổ truyền cho Ngài Pháp môn Kim Cang này .
Kinh Kim Cang khác với Pháp Kim Cang , thí dụ Sư Phụ quảng cáo bánh , nói rằng thứ bánh này rất ngon , ai ăn loại bánh này , thân thể khoẻ mạnh , thứ bánh này ngon ngọt nhất , chất nó tốt nhất , là thứ bánh hạng nhất , rất quí , người thường không thể nào mua được . Nếu như quí vị dùng máy thâu băng , thâu những lời Sư Phụ đã nói , về nhà chỉ có nghe Sư Phụ quảng cáo bánh mà thôi , chứ không ăn được bánh . Cho dù quí vị có đọc vài lần , cũng không biết được loại bánh này là bánh gì ? Nhưng nếu như không hiểu , sẽ tưởng rằng những gì Sư Phụ nói là bánh . May là mọi người đều nhận biết bánh là gì , cho nên chúng ta có thể phán đoán được .
-
Các Pháp Môn Tu Hành Đều Là Pháp Môn Quán Âm
Nhưng kinh điển là "thậm thâm vị diệu pháp" , chúng ta không rõ được , Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ra đi hơn 2500 năm , chúng ta không có cách nào hỏi Ngài , tự tưởng rằng niệm Kinh Kim Cang như vậy là đủ rồi , là bao gồm hết rồi , không phải như vậy đâu , Kinh Kim Cang không phải là Kinh Kim Cang , nếu như có thể dùng ngôn ngữ để đọc , thì không phải là chân kinh , có thể dùng mắt đọc cũng không phải là kinh điển , có thể dùng tai nghe , cũng không phải là chân kinh .
Chính thật Kinh Kim Cang , cần phải có minh sư truyền pháp mới đắc được . Chính thật Kinh Bát Nhã Ba La Mật cũng phải có minh sư truyền pháp mới có thể hiểu biết được . Chính thật Phẩm Phổ Môn cũng phải có minh sư truyền pháp mới có thể nghe được . Chính thật Kinh A Di Đà phải có minh sư truyền pháp mới có thể chứng nghiệm được .
Sư Phụ thấy hôm nay thôi đừng giảng kinh , bởi vì những gì Sư Phụ biết , không cách nào nói cho quí vị nghe , thật vậy , lúc Sư Phụ giảng kinh , còn tự lắc đầu , tự nghĩ mình nên nói cái gì , nên giảng cái gì , mới có thể đem sự hiểu biết của đẳng cấp của Sư Phụ nói ra cho quí vị hiểu . Ôi khó quá ! Nhưng Sư Phụ có thể dùng thí dụ như nước có thể có nhiều cái tên để gọi , tiếng Đài Loan , tiếng Quan Thoại , tiếng Pháp , tiếng Đức , tiếng Anh , tiếng Tây Ban Nha ... Nếu như Sư Phụ gặp một người Đức , Sư Phụ nên nói WASSER , gặp người Pháp nên nói L'EAU , gặp người Anh nên nói WATER , gặp người Trung Hoa nên nói THỦY ...
Phật Thích Ca Mâu Ni cũng vậy , bởi vì có người ưa thích cái tên Pháp Môn Kim Cang cho nên Ngài nói , đây là "Pháp Môn Kim Cang" . Có người thích A Di Đà Phật , thích Tây Phương Tịnh Độ , đây là "Pháp Môn Tịnh Độ" , các ngươi tu pháp môn này , nhất định có thể đi đến Tây Phương . Trên thực tế , nhất định sẽ đi Tây Phương , bởi vì Pháp Môn Quán Âm , có thể cho chúng ta nghe được cái âm thanh mỹ miều này , cũng như Kinh A di Đà đã diễn tả vậy . Có người thích Quán Thế Âm Bồ Tát hơn , cho nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói , đây là Pháp Môn Quán Âm , các ngươi tu pháp môn này , sẽ rất gần gũi với Quán Âm , các ngươi sẽ nghe được "Phạm Âm , Hải Triều Âm , Thắng Bỉ Thế Gian Âm" , cũng như Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát vậy .
Người nghe đương nhiên rất vui thích , sẽ nói , dạ , dạ , xin Ngài truyền cho con Pháp Môn Quán Âm này . Người ưa thích Phật A Di Đà sẽ nói :"Dạ , xin Ngài truyền cho con Pháp Môn Vô Lượng Quang , con rất thích giao thông với cái Vô Lượng quang này , con rất thích nghe cái âm nhạc mỹ diệu của Tây Phương , xin Ngài truyền liền cho con . Có người đã quen tu thiền rồi , cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni mới nói với họ , đây là Pháp Môn Bát Nhã Ba La Mật Đa , là lực lượng tối cao , là pháp môn có trí huệ tối cao , các ngươi tu pháp môn này , liền tức khắc khai ngộ .
Bởi vì người tu thiền thường cho rằng Kinh A Di Đà là để cho người thường tu , còn "ta" phải tu thiền , cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni mới bảo họ , ngươi tu cái pháp này , tức là tu thiền , nhất định có thể khai ngộ , mở trí huệ lớn . Chữ Phạn của Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa là MAHA PRAJNA PARAMITA , ý của nó là trí huệ lớn , có người ưa thích trí huệ lớn , cho nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo họ , đây là pháp môn của đại trí huệ , ngươi tu pháp môn này , nhất định sẽ có đại trí huệ .
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phải nói như vậy mới có thể tiện lợi độ chúng sanh . Dùng thứ tiếng nào để gọi nước cũng được , không có gì không đúng , chỉ cần có nước uống thì được rồi , gọi tên có khác biệt cũng không sao . Cho nên Phật đối với nhiều người gọi các tên khác nhau , nhưng các pháp môn Ngài truyền đều "như nhau" .
-
Các Pháp Môn Tu Hành Đều Là Pháp Môn Quán Âm
Trong kinh điển của chúng ta không tìm ra pháp môn , pháp môn không thể viết ra , bởi vì khi truyền pháp , Sư Phụ không dùng lời nói . Trước khi truyền pháp và sau khi truyền pháp , Sư Phụ phải giảng giải một tí , bởi vì muốn giới thiệu pháp môn , nhưng trong lúc truyền pháp , Sư Phụ không nói gì hết , chỉ ngồi đó , không nhúc nhích , một lời cũng không nói . Khi truyền pháp , không dùng mắt , không dùng tai , không dùng ý , không dùng đầu óc , không dùng thân , khẩu , ý đều quên hết , đều bỏ qua một bên . Cái xác thân này có thể dùng để ngủ , tai có thể dùng để nghe thị phi , nghe người ta quảng cáo bánh , nhưng lúc ăn bánh , không có cần sáu căn , cái gì cũng không cần .
Người nào tin liền là vì có thiện căn , có thiện căn lớn , và biểu thị tâm rất đơn thuần , cho nên gặp Sư Phụ là tin , không cần nói gì đã tin rồi , đó là vì có thiện căn , có duyên với nhau . Nhưng chúng ta vốn không nên tin quá dễ dàng , muốn tin cái gì , đều phải có chứng minh .
Quí vị đều nghe nói đến Lục Tổ Huệ Năng , vị thiền sư rất nổi danh , Ngài đi đến chỗ Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn để cầu pháp . Tám Tháng sau , có một ngày , Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn bảo Huệ Năng đến phòng của Lục Tổ , nửa đêm truyền Pháp Kim Cang cho Ngài . Truyền pháp xong rồi Lục Tổ cần phải ra đi , âm thầm ẩn tu , 16 năm sau Ngài mới trở ra truyền pháp cho người khác .
Chúng ta đọc Lục Tổ Đàn Kinh , chương thứ 1 , Ngài giới thiệu cái pháp môn này cho 1000 người nghe , Ngài nói pháp môn của Ngài là pháp môn "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa", nó biểu thị Pháp Môn Kim Cang , Pháp Môn Bát Nhã Ba La Mật Đa là đồng nghĩa . Pháp Môn Quán Âm và Pháp Môn Bát Nhã Ba La Mật Đa đều như nhau , đoạn đầu của tâm kinh đã nói :" Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời , chiếu kiến ngũ uẩn giai không , độ nhất thiết khổ ách ..." Ý nói , khi Ngài nhập thiền định thậm thâm , soi thấy năm thứ uẩn đều đã không thoát được tất cả khổ đau ... , đó là vì Ngài dùng Pháp Môn Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa để nhập định .
Bây giờ Sư Phụ hỏi quí vị , Quán Tự Tại Bồ Tát là gì ? (Đáp : Quán Thế Âm Bồ Tát) , Quán Thế Âm Bồ Tát tu pháp môn gì ? (Đáp : Pháp Môn Quán Âm) , đúng , nếu như vậy , có phải biểu thị Pháp Môn Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa tức là Pháp Môn Quán Âm hay không ? Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời , chúng ta có thể nói thành Quán Thế Âm Bồ Tát hành thâm Quán Âm Pháp Môn thời , chiếu kiến ngũ uẩn giai không , độ nhất thiết khổ ách ...
Như vậy biểu thị cái gì ? Pháp môn Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa và Pháp Môn Quán Âm đều như nhau . Lục Tổ Huệ Năng cũng tu pháp môn này , Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn tu Pháp Môn kim Cang và Lục Tổ Huệ Năng tu Pháp môn Bát Nhã Ba La Mật Đa là đồng một pháp môn .
Tu Pháp Môn Quán Âm không phải dùng nhĩ căn để tu , không phải dùng nhãn căn để tu , cũng không có ý dùng ý căn để tu , cho nên mới nói "Quán Âm" , chứ không phải "thính âm". Cũng không phải dùng cái gì để quán , Sư Phụ mới nói , không phải dùng mắt , tai , mũi , lưỡi , thân , ý để quán . Tại Trung Hoa có một vị thiền sư của Tào Động Tông , Ngài viết một quyển sách chỉ cách tu hành của Tào Động Tông , trong đó có nói , tu theo phái Tào Động Tông là không dùng tai , mắt , mũi , thân , miệng , ý các căn , như vậy mới chính là Tào Động . Người tu Pháp Môn Quán Âm đều biết , chúng ta không dùng sáu căn để tu ; nói như vậy Tào Động và Pháp Môn Quán Âm có phải là cùng một thứ hay không ?
-
Các Pháp Môn Tu Hành Đều Là Pháp Môn Quán Âm
Ngoài ra trong Đạo Đức Kinh , Lão Tử có nói đến cái "Danh bất khả danh" (wordless word) là mẹ của vạn vật , (chương thứ nhất : Danh khả danh , phi thường danh . Vô danh thiên địa cho khởi , hữu danh vạn vật cho mẫu) , ý của Lão Tử là , vốn là không có , cho đến khi bắt đầu có cái "danh bất khả danh", lúc đó mới sáng tạo ra vũ trụ vạn vật .
Trong Thánh Kinh của đạo Công Giáo , có đề cập tới đạo lý giống nhau này , trên Thánh Kinh nói :" Vũ trụ tối sơ là một thứ âm thanh (word) , cái âm thanh này là một thể , cái âm thanh này tức là Thượng Đế , vạn vật đều do cái âm thanh này tạo ra , không có một cái gì không do cái âm thanh này tạo ra". (In the beginning was (sound) , anh the word was with God , and word was God , everything was made by this and nothing was not made by this .) Người đọc qua luận ngôn biết được có một lần Khổng Tử nghe âm nhạc đến quên mất mình , ba tháng sau vẫn còn say sưa trong cái âm nhạc đó ; chúng ta nên hiểu rằng , đó là chỉ cái âm thanh bên trong , nghe âm nhạc của thế giới này không có cái sức hút lớn như vậy đâu .
Kinh Vệ Đà của Ấn Độ , và các kinh điển khác có nhắc đến cái âm thanh của vũ trụ tối cổ , nó giống như âm thanh OM , họ xưng là Shabd (âm thanh) , chúng ta đọc truyện Huyền Trang (Đường Tăng Tam Tạng) biết được Ngài và các pháp sư khác , trong nhiều thời kỳ khác nhau đi Ấn Độ , thời gian ở lại , Ngài đã học qua pháp môn Shabd (âm thanh) . Trong Kinh Khả Lan của Hồi Giáo , MOHAMET cũng có nói đến cái âm thanh của vũ trụ , nhưng Ngài xử dụng tên khác . Thí dụ : NAAM , ANHAD-NAAD , UDGIT , KALAM-I-QADIM , BANG-I-ILAHI , NIDA-I-ASMANI , SAUT-I-SARMAD , KATHA , KIRTANRAG ...
Thật ra , tất cả các vị đại sư đều nói đồng một ý , Sư Phụ tu Pháp Môn Quán Âm mới hiểu biết , khi chưa tu pháp môn này , rất có thể không biết chỗ nào như nhau , chỗ nào khác nhau .
Có một ngày Sư Phụ truyền pháp cho một vị tỳ kheo , người đó vốn tu theo Thiên Đài Tông , nhưng chỉ tu đến một đẳng cấp nào đó , thì không thể nào lên được nữa , chỉ ngừng tại cái đẳng cấp đó mà thôi , vị đó cầu đạo rất thành khẩn , rất khiêm tốn , lạy 3 lạy cầu đạo , Sư Phụ vốn không muốn truyền pháp cho người tỳ kheo đó , Sư Phụ rất sợ , bởi vì tỳ kheo từ trước đến nay đều tự cho là cao hơn tỳ kheo ni , sao lại có tỳ kheo đó đến đảnh lễ Sư Phụ , muốn cầu pháp . Cho nên Sư Phụ rất lo , cho dù có truyền pháp cho vị đó , vị đó có nghe hiểu không ? Rốt cuộc vị đó cũng hiểu biết được .
Sau khi truyền pháp cho vị đó rồi , vị đó mới nói pháp môn này rất giống phái Thiên Đài , Sư Phụ đáp đúng vậy , vốn là pháp môn giống nhau , minh sư là phái Thiên Đài , hay minh sư là phái Tàu Động , hay minh sư là Pháp Môn Quán Âm , là thiền , là A Di Đà , là Phổ Môn ... , nếu như không có minh sư chính thực để truyền pháp chỉ là miệng niệm mà thôi , niệm bên ngoài , không có lực lượng truyền pháp này thì không được gì hết . Bất cứ pháp môn nào , nếu chúng ta chỉ biết một nửa , truyền cho người ta một nửa , thì không chính thật là pháp môn trọn vẹn , không đủ kéo người ta lên , lên đến một nửa của cảnh giới thì ngưng lại , bởi vì không biết được còn có cảnh giới cao hơn một chút , cũng không biết làm sao đi lên .
Phái Thiên Đài , phái Tàu Động , phái Lâm Tế , Sư Phụ mới nói Ngài Huệ Năng và phái Lâm Tế , còn có tịnh Độ Tông , Pháp Môn Quán Âm , Pháp Môn Bát Nhã Ba La Mật Đa , đều là như nhau , nhưng nếu không có cái lực lượng truyền pháp thì không như nhau , có minh sư , có cái lực lượng truyền pháp , pháp môn gì cũng như nhau , bởi vì lúc truyền pháp không nói chuyện , không có pháp gì có thể nói , có thể truyền , nhưng nếu không có truyền thì cũng không có pháp , cái pháp môn này , Lục Tổ Huệ Năng gọi là "pháp môn vô tướng"
Hôm qua Sư Phụ có nói rồi , bất cứ tông phái nào vốn đều giống nhau , các vị đại sư đi rồi , không có cao đồ , không có đệ tử tốt để có thể tiếp nối truyền pháp , cho nên pháp môn bị thất truyền , bị mất , sau này những chỗ khác rất có thể có đệ tử tốt xuất hiện , rất có thể người đó đến Ấn Độ , hay là Đài Loan , hay là Đại Lục , người đó ở một nơi khác tu hành đắc đạo , họ tiếp tục truyền pháp , không nhất định phải theo Sư Phụ của họ truyền pháp cùng một chỗ , cũng không nhất định thuyết pháp y như Sư Phụ của họ , rất có thể họ dùng ngôn ngữ khác , hay là danh từ khác .
-
Các Pháp Môn Tu Hành Đều Là Pháp Môn Quán Âm
Thí dụ Lục Tổ Huệ Năng , Ngũ Tổ truyền cho Ngài Pháp Môn Kim Cang , Chân Kinh Kim Cang , nhưng lúc Ngài truyền pháp , Ngài nói đây là Pháp Môn Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa , nhưng ý nó đều giống nhau . Pháp môn đó truyền đến Đại Lục Trung Hoa , biến thành phái Lâm Tế , phái Tào Động . Lâm Tế là tên Tổ Sư của phái Lâm Tế , Phật Thích Ca Mâu Ni đi rồi , chúng ta nói chúng ta là Phật Giáo , Giê Su Ki Tô đi rồi , chúng ta nói chúng ta là Ki Tô Giáo , Lão Tử đi rồi , chúng ta nói chúng ta là Lão Giáo (Đạo Giáo) , thật ra hoàn toàn giống nhau .
Các minh sư chỉ dạy các giáo lý giống nhau , đều với mục đích cứu người được giải thoát , và đều truyền pháp môn giống nhau như nhau , chỉ có một pháp môn có thể giúp người ta được giải thoát , đó là cái Pháp Môn Quán Âm , không cần mình gọi nó là gì : Tịnh Độ , Phổ Môn , Bát Nhã Ba La Mật Đa , hay là Pháp Môn Kim Cang , gọi là pháp môn gì cũng không sao , đều giống như nhau , chỉ cần có thể giúp người giải thoát , tức là Pháp Môn Quán Âm .
Phật Âm bên trong có thể giúp cho chúng ta giải thoát , cho nên trong Kinh Lăng Nghiêm , Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tán thán Pháp Môn Quán Âm , có cái lực lượng bất khả tư nghị , Ngài nói mười phương ba đời chư Phật , đều tu Pháp Môn Quán Âm , mới có thể đạt được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (ANUTARA SAMYAK SAMBODHI) tức là đạt được cái tối cao , vô thượng chánh đẳng chánh giác , bên Thiên Chúa Giáo gọi là Thượng Đế , đối với họ Thượng Đế là tối cao , đối với Phật Giáo Đồ , vô thượng chánh đẳng chánh giác là tối cao . Vô thượng tức là không có cái gì có thể siêu vượt nó , không có cái gì cao hơn nó , cho nên gọi là vô thượng . Đối với tín đồ Cơ Đốc Giáo Thượng Đế là tối cao , cũng như ta gọi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác vậy , đều chỉ cảnh giới tối cao của giải thoát (highest ideal) của trí huệ lớn nhất .
Nhưng vì người sau này không có khai ngộ , không hiểu kinh điển , phiên dịch sai lầm , thêm vào kinh diển ý kiến phàm phu , cho nên tôn giáo càng ngày càng sai lệch với nguyên ý của những vị giáo chủ . Chúng ta biết được , ngay cả Phật Giáo , cũng có rất nhiều tông phái lớn nhỏ , tình trạng của các tôn giáo khác cũng như nhau , nếu như hiểu được cái nghĩa chính của các tôn giáo , thì không còn tranh chấp , đánh giặc với nhau .
Ở Việt Nam cũng có một vị pháp sư truyền pháp môn tương tự như Pháp Môn Quán Âm , vị đó giải thích A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là "hư không đại định" , ý của hư không mà vị đó nói là : ngay lúc đó , ngay chỗ đó , không có quí vị , không có chúng sanh , không có Phật , lúc đó nhập vào thậm thâm đại định . Nhưng bởi vì nhiều người tin Phật Giáo , không có hiểu nghĩa đó , và cũng không thích giáo pháp đó , mới nói vị đó là ngoại đạo , vị đó cũng dạy người bố thí , trì giới , nhẫn nhục , tinh tấn , thiền định và trí huệ .
Có lẽ vị đó không lấy Kinh Kim Cang để giảng kinh , vị đó không phải cầm quyển Kinh Kim Cang giải thích theo văn tự trên đó như : thứ nhất bố thí , thứ 2 trì giới , thứ 3 ... không phải làm như vậy , nhưng vị đó nói theo cái cách của mình cũng như nhau , vị đó cũng dạy người làm việc tốt , không sát sanh , không trộm cướp , không uống rượu , không tà dâm , không vọng ngữ ... , nhưng chỉ không nói cho rõ lắm mà thôi , vị đó cũng không dùng danh từ ngũ giới để dạy người , mà chỉ nói mình phải làm một con người đạo đức , không sát sanh , không tà dâm , nội dung của nó cũng như ngũ giới .
Vị đó cũng dạy Pháp Môn Quán Âm , có lẽ vị đó đã theo học một vị minh sư , đắc đạo rồi , cũng đi truyền pháp cho người khác nhưng vị đó không dùng danh từ Pháp Môn Quán Âm , mà gọi pháp đó là "pháp lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp" , cách vô vi của vị đó giống y như cái chủ trương vô vi của Lão Giáo đều không dùng tâm ngã chấp đi làm , làm cái gì cũng như không có làm vậy .
-
Các Pháp Môn Tu Hành Đều Là Pháp Môn Quán Âm
Sư Phụ không có theo vị đó học , cũng chưa từng gặp qua , nhưng Sư Phụ đọc được pháp môn vị đó viết trên sách , biết ngay là Pháp môn Quán Âm . Cái pháp môn này vốn không thể viết ra được , nhưng đôi khi vị đó cũng thố lộ một chút , cho nên Sư Phụ biết được vị đó dạy Pháp Môn Quán Âm . Nếu không hiểu vị đó nói gì , rất có thể Sư Phụ cũng sẽ nói vị đó là ngoại đạo , nhưng bởi vì tu pháp môn này , trí huệ lớn mở ra , nhìn tất cả những gì rất minh bạch , rất rõ ràng , như soi gương vậy , tất cả những gì đều phản chiếu rành mạch , bởi vì trong gương không có một chút bụi nào , cho nên mới thấy được rõ ràng như vậy .
Nếu không chúng ta mỗi ngày cứ đi công kích người ta , nói Phật Giáo tốt , Thiên Chúa Giáo không tốt , hay Thiên Chúa Giáo tốt , Phật Giáo không tốt ... Chúng ta không tự hiểu biết , không tin tôn giáo nào , đối với chúng ta sẽ không có ích lợi nhiều , tuy rằng sẽ có nhân thiên phước báu (phước báu dành cho cõi người và trời) , có thể tự mình an ủi một chút , nhưng không thể hiểu mình là ai , cũng không biết mình là Phật , cho nên đối với chúng ta hầu như không có ích lợi gì (vì vẫn còn trong luân hồi sinh tử).
Cho nên có pháp sư hay thiền sư , họ nói rằng không có hiệu dụng , chỉ có thể dùng để nấu ăn . Đôi khi Sư Phụ cũng nói như vậy , bởi vì Sư Phụ đọc kinh điển cảm thấy rất thất vọng , chỉ đọc kinh không thể nào làm cho người được giải thoát , có người chấp vào kinh điển quá chặt , họ đến gặp Sư Phụ , không phải để cầu pháp , mà là để biện luận , họ nói , trong Kinh Kim Cang có nói , nên niệm Kinh Kim Cang mới có thể khai ngộ , mới có thể thành Phật . Không phải đâu , trong Kinh Kim Cang có nói "trì" Kinh Kim Cang , chứ không phải "niệm" Kinh kim Cang , trì giới nó khác hẳn với niệm giới , cho nên "trì kinh" có khác hẳn với "niệm kinh" .
Giáo đồ không có thể thọ Bồ Tát giới rồi về nhà ngày ngày cứ niệm , niệm , niệm , tưởng rằng như vậy là đủ rồi , làm sao đủ được ? Cần nên trì Bồ Tát giới , hành Bồ Tát đạo . Đối với kinh điển cũng vậy , cứ niệm Kinh Kim Cang không có công dụng , nếu là niệm cho Phật nghe , Phật đã biết rồi , mà niệm cho Phật nghe làm gì ? Nếu như niệm cho người khác nghe , người ta nghe không hiểu , có giúp ích gì ? Chỉ có tu hành mới có thể biết kinh điển .
Từ lúc nhỏ Sư Phụ đã bắt đầu niệm Kinh Kim Cang rồi , bởi vì mọi người đều nói niệm Kinh Kim Cang rất hữu ích , rốt cuộc Sư Phụ niệm mấy chục năm , cũng không có khai ngộ . Sư Phụ không hiểu Lục Tổ Huệ Năng niệm kinh đó có ích gì không , nhưng Sư Phụ niệm kinh đó không có ích gì , cũng không hiểu Phật Thích Ca Mâu Ni nói gì trong đó .
Khi tu Pháp Môn Quán Âm rồi , không bao lâu coi lại kinh điển thì thấy đã khác rồi , đọc kinh rất là minh bạch , đọc rồi cũng muốn đốt nó , bởi vì quá hiểu , và đã hiểu rồi cho nên có thể đốt , trước khi còn chưa hiểu , cho dù để kinh trên đầu , một bước một lạy , hai bước hai lạy , cũng không có ích lợi , không có khai ngộ , không có biết được mình là ai , chỉ có lạy Phật , làm đệ tử của Phật , đánh giầy cho Phật , làm như vậy để làm gì ? Phật nói nên thành Phật , không phải lạy Phật , lạy Phật cũng được nhưng phải hiểu Phật là ai mới có thể lạy . Nếu như quí vị không biết được người vợ tương lai của quí vị , dáng người như thế nào mà mỗi ngày cứ tưởng niệm người ta , làm sao tưởng nhớ được ?
Cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni nói :" Tin Phật nhưng không hiểu Phật là phỉ báng Phật ." Bồ Đề Đạt Ma thấy có một người niệm Kinh Niết Bàn , liền hỏi người đó :" Nhà ngươi niệm cái này làm gì ?" Người đó đáp :" Niệm Kinh Niết Bàn sẽ khai ngộ , sẽ thành Phật ." Bồ Đề Đạt Ma nói :" Đưa kinh ấy cho tôi , tôi phải đốt cái đồ gạt người này ." Có câu :" Bánh vẽ không no bụng ." là ý nghĩa đó . Bởi vì trong kinh điển , không có lực lượng truyền pháp , cũng không có pháp môn , kinh điển chỉ là để giới thiệu Pháp Môn Quán Âm mà thôi , bởi vì khi truyền pháp không có dùng ngôn ngữ để nói , cho nên chúng ta nghe nói :" thiền không có dùng ngôn ngữ " là ý đó .
-
Các Pháp Môn Tu Hành Đều Là Pháp Môn Quán Âm
Nói thí dụ hôm nay Sư Phụ tán thán Pháp Môn Quán Âm , nói cả tiếng đồng hồ , đều là nói Pháp Môn Quán Âm , nói rõ cho người ta hiểu nếu như có người biết Quán Âm , sẽ có vô lượng , vô biên công đức . Ý của Sư Phụ là chỉ có Pháp Môn Quán Âm , sẽ có vô lượng công đức , nếu như về nhà chỉ nghe băng giảng kinh của Sư Phụ , tuy cũng có phước báu , nhưng không phải cứu cánh giải thoát . Cho nên phải "trì" Pháp Môn Quán Âm , "trì" Quán Âm , "trì" phẩm Phổ Môn , "trì" cái gì ? Là tu hành .
Nói thí dụ "niệm giới" không có dụng , "trì giới" mới có dụng , năm giới là :" Không sát sanh , không uống rượu ..." Chúng ta ở nhà niệm năm giới này , có công dụng không ? Không ! Cho nên nhiều người nói họ là Phật tử , họ đi qui y mười người , mười lăm người , năm chục người Hòa Thượng , có năm chục cái pháp danh , thu thập các thứ pháp danh , nhưng cứ vẫn ăn thịt , uống rượu bởi vì không hiểu "không sát sanh" là gì ? Có dù có thọ giới với năm chục vị pháp sư , về nhà nếu không trì giới , cũng không có ích lợi , phải đốt cái chứng chỉ qui y đi , mới coi cho được là người chân thật , còn không chỉ là gạt người , như vậy còn xưng là Phật tử để làm gì ? Phật rất từ bi , Ngài thấy chúng sinh đang chơi trò tu hành Ngài sẽ cười . (mọi người cười) Ngài sẽ nói :" Chúng nó đang làm trò gì ? Không hiểu được năm giới , đùa đi đùa lại , tìm pháp sư thu thập pháp danh làm gì ? Có ích lợi gì ?" Có hiểu chưa ? Nhiều người thọ giới rồi vẫn còn ăn thịt . Hôm qua Sư Phụ nói đến vấn đề ăn thịt , ăn thịt là gián tiếp sát sinh , gián tiếp giết mà thấy vui , cũng là sát sinh , không có người ăn thịt thì không có người giết để bán . Trong Kinh Lăng Già có nói rất rõ , Phật nói :" Đại Huệ , phàm là người sát sinh , phần nhiều là vì có người muốn ăn , nếu không có người ăn , thì không có chuyện sát sanh , cho nên ai ăn thịt và sát sinh đồng một tội ."
VẤN : Tu pháp môn này cần điều kiện gì không ?
ĐÁP : Hôm qua Sư Phụ có nói , không có điều kiện gì đặc biệt , người nào cũng có thể tu , nhưng cần phải trì giới , trì giới cũng không phải là giới , vốn không có giới gì phải trì , trên pháp luật đã có qui định , không có thể trộm cướp , chứ không phải tu hành rồi mới không có thể trộm cướp . Không sát sinh vốn cần phải giữ lấy . Khổng Tử nói :" Cái gì mình không muốn thì đừng để cho người khác phải chịu ." Xưa kia ở Trung Quốc đã có những lời đó rồi , không cần phải tu hành mới biết .
Chúng ta đã không muốn bị giết , sao còn kích thích người khác sát sinh cho chúng ta ăn ? Lúc bị giết hại đau khổ đến thế nào , động vật nó cũng tham sống sợ chết , điều đó chúng ta rất rõ , chúng ta làm sao nhẫn tâm thấy chúng đau khổ ? Hưởng thụ cái kết quả đau khổ của chúng ? Cái đau khổ của chúng biến thành cái hưởng thụ ngon miệng của cá nhân chúng ta . Vốn đã không nên sát sanh rồi , cho nên không sát sinh cũng không phải là giới gì . Khi thân nhân của chúng ta chết , chúng ta cũng không dám ăn cái thây đó , sao lại dám ăn cái thây của chúng sinh khác ?
Động vật vốn rất là dơ , thông thường chúng ta không thể tưởng nổi , ôm hôn chó , bò , gà , dê hay ngủ chung với chúng nó , làm sao có thể lấy thây xác bỏ vào miệng cao quí của chúng ta ? Miệng vốn là để nói chuyện đạo đức , dùng để học tập thư tự cao sang , sao lại trở ngược biến thành cửa lớn của mồ mả ? Làm cái xác thân cao quí của chúng ta biến thành mồ mả chôn thây xác ; có người không dám ngủ tại nghĩa địa nhưng cả ngày ngủ với cái mồ mả ở tại cái bụng mình mà không biết sợ . Động vật cũng có lòng tham sống sợ chết ; nếu mà chúng nó không tham sống sợ chết , chúng ta còn có thể giết nhưng mà chúng nó không muốn chết , chúng ta cứ cưỡng bách chúng nó chết , như vậy thật không công bình .
Cỏ cây rau cỏ không có biết nói , nếu như mắt trí huệ của chúng ta mở ra , chúng ta sẽ biết , nó muốn mình đến ăn , nó nói :" Tôi đã chuẩn bị rồi , hái tôi về nấu ." Nhưng động vật hoàn toàn không muốn chết , không muốn bị giết hại nhưng chúng ta cứ cưỡng bách chúng nó chết , làm như vậy không đúng , như vậy là dùng bạo lực . con người chúng ta thông minh hơn , cường trán hơn , có thể bắt động vật nhỏ yếu đuối , rọc xác nó , nhưng mình làm như vậy không phải là thái độ của người quân tử .
-
Các Pháp Môn Tu Hành Đều Là Pháp Môn Quán Âm
Quí vị có biết binh pháp không ? Khi đánh giặc , lực lượng của đôi bên đều cần phải như nhau , mới có thể đánh , nếu như bên yếu thế đã bị bại trận rồi , chúng ta cũng không giết họ , nhưng chúng ta lại giết hại động vật bé nhỏ , động vật còn yếu hơn bên quân bại trận , nó không thể tự bảo hộ , gặp người sợ muốn chết , lật đật chạy trốn mà chúng ta cứ tiếp tục đuổi giết , cá sống trong biển , không có quan hệ đến mình , chúng ta lại kéo lưới bắt nó . Động vật ở trên núi không có liên hệ đến mình , mình lại săn bắn đuổi giết , rồi đem về nhà ăn , như vậy là không đúng , không có hợp lý "đạo" .
Rau cải nó không có tham sống sợ chết , nó không có thứ cảm giác , hơn 90% trong rau là nước , thành phần cảm giác rất ít , ý thức rất ít . Trái lại , ý thức của động vật rất nhiều , không thua gì con người , cho nên chúng ta thấy ngựa , chó , rất trung thành , nó biết nhận chủ nhân của nó , rất có ái tâm , nên nói rằng động vật có cảm giác như con người . Đôi khi chủ của nó chết , nó rất đau buồn , không muốn ăn , qua vài ngày sau có lẽ nó cũng vãng sanh . Có nhiều ngựa và chó thật tình trung thành như vậy .
Cho nên chúng ta đừng có ăn chúng , cái ý thức và sự thông minh của động vật rất giống con người , cho nên chúng ta không thể cưỡng bách chúng , giết hại chúng , cũng không nên thấy người ta giết chúng mà tâm vui mừng ăn thịt của chúng , hưởng thụ cái đau khổ của chúng . Vì sao muốn làm Bồ Tát ? Bởi vì muốn giải thoát đau khổ , đồng thời cũng muốn độ chúng sinh liễu thoát đau khổ , hiện giờ nếu còn muốn độ chúng sinh đau khổ trước mắt , vậy phải chờ đến phút nào mới có thể độ ? Đợi cho mình thành Bồ Tát thì chúng sinh đã bị "giải thoát vào bụng" hết rồi . (mọi người cười)
Cho nên làm Bồ Tát nhất định phải phát tâm từ bi , coi chúng sinh như là thân nhân của mình vậy , như vậy mới có thể thành Bồ Tát , nếu như bây giờ không thể học làm Bồ Tát từ bi , sau này làm sao đi Tây Phương ? Cõi Tây Phương chỉ có Bồ Tát đại công đức , đại từ bi mới có thể ở . Trong kinh A Di Đà cũng có nói , không có thể dùng cái phước báu nhỏ sanh cõi Tây Phương , tu hành nên lấy từ bi làm trọng , mỗi tôn giáo đều nhấn mạnh điểm đó . Sao chúng ta lại không phát tâm từ bi để có thể vãng sanh tịnh độ Tây Phương ?
Thuở nhỏ Sư Phụ có trồng một loại bông , chúng ta gọi nó là bông vạn thọ , nếu muốn nó đẹp , thì đợi cho nó lớn cho đến độ cao nào đó , nhổ cái tim của nó , như vậy bông vạn thọ mới mọc sai , ra bông mới nhiều , còn không thì nó mọc rất nhỏ chỉ có hai ba cái bông , hai ba cái nhánh mà thôi . Nhưng nếu mình ngắt tim nó đi , nó sẽ mọc rất lớn , rất mập , có nhiều bông , có phải không ?
Còn như rau thơm và cải , mình ngắt một cành , nó ra hai ba bốn cành , có phải không ? Nhiều loại cải đều như vậy . Cho nên mình dùng mắt thịt cũng có thể thấy , mình ăn nó , nó thích lắm , nó mọc càng nhiều , mình không ăn nó , nó sẽ buồn bực , rất có thể chỉ mọc một cây một trái , ăn hết rồi nó chết luôn . Nếu quí vị không tin Sư Phụ , ngày mai ở nhà trồng cây bông vạn thọ , ngắt đi đọt giữa , sau này nó mọc rất lớn . Quí vị có thể trồng hai cây , một cây thì ngắt tim , một cây thì để nguyên , quí vị sẽ thấy có cái gì khác biệt .
Cho nên rau cải , cây cỏ nó thích người ta hái ăn , quí vị chặt một nhánh cây , không bao lâu , nó sẽ mọc ra nhánh mới , nhưng nếu như chúng ta chém gà , giết bò , chúng nó không thể tiếp tục sinh trưởng , chém một cái là nó chết tươi . cho nên không nhất định phải mở con mắt trí huệ , dùng mắt thịt chúng ta cũng có thể quan sát được , cũng có thể có biết được rau cải cỏ cây thích người ta ăn nó hay không ? Động vật có thích người ta chém nó , giết nó hay không ?
Nếu như tu Pháp Môn Quán Âm , mỗi ngày cần phải "quán âm tọa thiền" hai tiếng rưỡi đồng hồ , mới có thể đủ sức rửa sạch cái nghiệp chướng của chúng ta , mới có thể đi Tây Phương . Nghiệp chướng của chúng ta nhiều như thế , không có thể nào muốn đi là đi , cần phải "niệm" Phật đến nhất tâm bất loạn . Nhưng nếu như không có phương pháp , niệm cách nào cũng là nhất tâm rất loạn , cho nên muốn nhất tâm bất loạn , cần phải tọa thiền hai tiếng rưỡi đồng hồ mới có thể như ý . Như vậy mới thật sự là "niệm Phật" .
Niệm là tưởng niệm , chúng ta có thể nói hai tiếng rưỡi đó là chính thật tưởng niệm Phật , như vậy mới là "niệm" Phật , "niệm" của nhất tâm bất loạn . Bởi vì lúc tọa thiền bỏ hết những việc trên đời , hai tiếng rưỡi đó , đều là dùng thân , khẩu , ý thật để cúng dường Phật . Mỗi ngày chúng ta có hai tiếng rưỡi đồng hồ , cúng dường Phật hai tiếng rưỡi đồng hồ , chỉ chiếm có một phần mười của một ngày mà thôi , nhưng đa số người lại có quá nhiều lý do như : Tại vì quá bận , vì là người tại gia , vì là người có chồng , vì có vợ , vì có con , vì có công việc ...
Tu Pháp Môn Quán Âm , cần phải dùng thân , khẩu , ý cúng dường Phật hai tiếng rưỡi đồng hồ , dùng cái "ta" thật ngồi tưởng "niệm" Phật , cho nên có thể "niệm" Phật nhất tâm bất loạn , chứ không phải đợi cho chúng ta nhập định mới có thể nhất tâm bất loạn .
Đó là quy củ tu hành Pháp Môn Quán Âm của chúng ta , cần phải ăn chay , nên tọa thiền hai tiếng rưỡi đồng hồ , chỉ vậy thôi . Khi tọa thiền "niệm" Phật , nhưng muốn "niệm" cũng phải có phương pháp , cần phải biết "tưởng niệm" như thế nào mới có ích dụng . Những gì Sư Phụ đã nói cho quí vị nghe ở đây , vẫn còn là ở bên ngoài , vẫn còn là mô tả bánh , ly đựng nước mà thôi , nước vẫn ở trong đó , quí vị còn chưa có uống được nước và cũng chưa có ăn được bánh .
-
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Ngày 16-2-1987
Peng Hu
Hôm nay , Sư Phụ giảng về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni , Ngài nói chúng sinh đều có Phật Tánh , nhưng tại sao chúng ta lại tìm không được ? Cũng như chúng ta nghe nói "Phật tại tâm" nhưng tại sao chúng ta không cảm nhận ? Đức Phật nói tất cả chúng sinh đều là Phật , nhưng tại sao lại có nhiều người xấu và có nhiều người tốt ? Hôm nay Sư Phụ muốn nói về vấn đề này .
Vài ngày trước , Sư Phụ có nói về đất Tịnh Độ và đất Uế Độ , quí vị còn nhớ không ? Giữa đất Tịnh Độ và đất Uế Độ còn có một thế giới nằm giữa hai vùng đó . Thế giới đó rất là đen tối , không có đường lối , không có ánh sáng . Chúng ta nghe nói đất Tịnh Độ do Đức Phật A Di Đà làm chủ , nơi đó không có ác nghiệp , không có nam , không có nữ , không có địa ngục , không có ác tánh . Thiên Chúa Giáo gọi đó là Thiên Quốc , Đức Phật Thích Ca Mâu Ni gọi đó là Phật Tánh , hay Bản Lai Diện Mục . Chúa Giê Su Ki Tô cũng nói về Thiên Quốc , Ngài nói :" Thiên Quốc ở bên trong chúng ta ", nhưng tại sao chúng ta tìm không ra ? Nếu như Thiên Quốc ở bên trong người đó , thì người đó phải là người lương thiện có phải không ? Nhưng chúng ta thấy nhân loại không phải ai cũng là người lương thiện , chúng ta tự hỏi tại sao vậy ? Cái lý do là bởi vì cõi Uế Độ và Tịnh Độ không tiếp thông được với nhau .
Trong vũ trụ bao gồm cả Tam Giới . Trong Tam Giới có sáu cõi luân hồi là : Người , Trời , A-Tu-La , Ngạ Quỉ , Địa Ngục và Súc Sanh . Bên trên Tam Giới là cõi Tịnh Độ , là nơi cư ngụ của Phật . Chúng ta thường nói "Phật quang thường chiếu", ý nói là "Vô Lượng Quang" có khắp mọi nơi , nhưng tại sao trong Tam Giới của chúng ta lại không có Phật Quang này ? Tại sao thế giới này gây ra loạn lạc ? Lý do là ở giữa đó bị một thế giới rất là đen tối ngăn cách ra mà thôi . Khi Sư Phụ nói vũ trụ , quí vị đừng có cho rằng nó chỉ ở bên ngoài . Thế giới này ở bên trong chúng ta . Chúng ta là vũ trụ nhỏ , vũ trụ ở bên ngoài như thế nào , thì ở bên trong chúng ta cũng y như vậy , do đó thế giới đen tối đó cũng ở bên trong chúng ta .
Từ đầu đến tứ chi của chúng ta có một nơi rất là đen tối , nơi đó che lấp sự tiến bọ của trí huệ chúng ta , không để cho trí huệ của chúng ta thông qua , nếu có thông qua , cũng trở thành không chính xác . Cho nên có lúc đầu óc của chúng ta nghĩ chuyện rất tốt , nhưng đến khi hành động , thì trở thành kết quả xấu . Cái nơi đen tối đó cũng như một cánh cửa đóng kín , chúng ta phải mở nó ra thì trí huệ mới chạy thông suốt được . Khi mở lớn ra được thêm chút nữa thì mới có thể thấy được "Phật Quang" , Phật Quang này tức là Trí Huệ chủa chúng ta .
Cho nên có người gọi chỗ này là "mắt Trí Huệ" , "mắt thứ ba" hay gọi là "mắt Phật" (Sư Phụ chỉ lên trán) . Nhưng phải chú ý cẩn thận vì chỗ này có hai cánh cửa , một cánh cửa chỉ có thể thông đến một nơi cao nhất trong Tam Giới , Phật Giáo gọi nơi đó là "Phạm Thiên" (cõi trời) , nếu như hai cánh cửa đó mở ra được thì chúng ta cũng có được một số trí huệ và phước đức . Còn cánh cửa kia thì có thể thông ra ngoài Tam Giới , đến Cực Lạc , đến cảnh giới vô lượng vô biên . Sư Phụ nói "con mắt trí huệ" là chỉ đến cánh cửa thông ra ngoài Tam Giới này .
Hai cánh cửa này của đa số mọi người đều bị đóng kín , vài người thì có thể mở được cánh cửa trong Tam Giới ra được một chút . Nếu cánh cửa này được mở lớn ra thì cũng thấy được ánh sáng hay là cảnh giới , nhưng tất cả đều nằm trong Tam Giới . Chỉ riêng người tu Pháp Môn Quán Âm mới mở được mắt trí huệ , hào quang Phật mới luôn luôn chiếu sáng bên họ . Nếu cánh cửa thông ra Tam Giới hoàn toàn đóng kín , thì Phật Quang từ nơi Tịnh Độ không thể chiếu đến chúng ta được , cho dù thông qua được cũng sẽ bị nơi đen tối này nhiễm đen (bị dơ mất) . Cho nên chúng ta có thể nói , từ trán trở xuống là đất Uế Độ , từ trán trở lên là đất Tịnh Độ , hay là Thiên Quốc . Mình gọi nó là gì cũng được , đó chỉ là sự phân biệt ngôn ngữ mà chúng ta đặt ra mà thôi . Những người tu Pháp Môn Quán Âm mắt trí huệ sẽ mở , Phật Quang luôn luôn che chở họ , càng tu hành càng có ánh sáng , chúng ta lần lần trở thành chủ nhân của mình , trí huệ sẽ khai mở không còn bị chỗ đen tối này làm nhiễm dơ , và không có những nhận thức sai lầm (trí huệ tà) .
-
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Cho nên Tịnh Độ là Tịnh Độ , Uế Độ là Uế Độ , không giao thông được với nhau là vì bị bức tường đen tối này ngăn cách , không cho người trong Tam Giới thoát ra được , không để cho chúng ta biết được Tịnh Độ là gì ? Không để cho chúng ta biết được Thiên Quốc thật sự như thế nào ? Trong Tam Giới ví như cái tù , thế giới đen tối tức là bức tường cao (không thể leo qua được) ngăn cách thế giới tự do và ngục tù .
Tịnh Độ có liên hệ mật thiết với trí huệ và thân thể , thí dụ như đất Tịnh Độ ở phần trên trí óc . Từ chỗ này (Sư Phụ chỉ con mắt trí huệ trên trán) trở xuống là Uế Độ , nếu có một người rất thông minh chúng ta thường nói rằng họ rất có "trí huệ" , có phải vậy không ? Trí óc là bộ tổng tư lệnh của thân thể , nếu như mệnh lệnh phát ra từ đầu óc này mà không thể truyền xuống được , chúng ta sẽ làm sai rất nhiều việc . Cho nên chúng ta thường nói , người này không có đầu óc (kém trí huệ) , hay là đầu óc không rõ ràng ... Từ con mắt trí huệ trở lên là đất Tinh Độ , là Phật Tánh , là Thiên Quốc , là ngoài Tam Giới ; từ con mắt trí huệ trở xuống là đất Uế Độ , là trong Tam Giới , là luân hồi sanh tử . Chúng ta thấy có người rất thông minh , chỗ này (Sư Phụ chỉ ngay trán) của họ sẽ rộng hơn , còn tất cả phần dưới trán đều không có liên quan gì với trí huệ , đó là hệ thống bài tiết .
Nếu như có minh sư chỉ đạo , người tu hành trí huệ sẽ dần dần mở rộng ; không có minh sư chỉ đạo có thể sẽ tu trật , bởi vì họ có thể mở sai cửa . Nếu như có người tự tu , họ cũng có thể có thần thông , bởi vì trong người của chúng ta có rất nhiều "trung tâm" . Ở đây (Sư Phụ chỉ vào mắt trí huệ) là tổng tư lệnh , xuống nữa là cổ họng , tim , đơn điền ... Có một số người cho rằng khi họ cuốn lưỡi để ở hàm trên họ sẽ có được nước Cam Lồ thật . Chúng ta là người tu Pháp Môn Quán Âm , không cần "uốn lưỡi" , cũng sẽ có nước Cam Lồ thật . Nếu như chúng ta tu luyện những trung tâm ở phần dưới con mắt trí huệ , chúng ta cũng có thần thông , nhưng những thần thông đó đều ở trong Tam Giới , còn chưa ra khỏi giai đoạn "thành trụ hoại không" . Cho nên tu các trung tâm từ mắt trí huệ trở xuống , chúng ta không thể siêu thoát khỏi Tam Giới , không thể vĩnh viễn giải thoát . Nếu như chúng ta muốn siêu thoát khỏi Tam Giới , chúng ta phải bắt đầu tu từ con mắt trí huệ , nhưng mà có một số người lại bắt đầu từ trung tâm thấp nhất và tu lên từng cấp một , như vậy thật quá chậm . Họ mất cả một đời người tu luyện để tiến lên đến mắt trí huệ , đối với họ đây là cao nhất , nhưng phương pháp của chúng ta thì lại bắt đầu từ mắt trí huệ . Xưa kia bên Ấn Độ , người ta tu tập Yoga là vì họ có rất nhiều thời giờ , có họ thể thực hành những cách thức đó . Nhưng người tại gia thời nay không có nhiều thời giờ như vậy , một mặt họ tu hành , còn một mặt họ kiếm tiền để nuôi gia đình . Nếu như chúng ta tu theo cách thức chậm chạp như bò kéo xe đó , thì khi chúng ta vãng sanh cũng chưa chắc đạt đến chỗ cao nhất này . Như vậy chúng ta phải tìm phương pháp tốt mà tu .
Nếu như một người tự tu hành và không có thầy chỉ dẫn , họ có thể khởi đầu tu nơi đơn điền , liên tục như thế huyệt đạo sẽ mở ra và người này sẽ phát tánh nóng , tánh tình biến đổi . Mạnh hơn thì cơ thể họ có thể biến thái . Khi trung tâm nào đó mở ra rồi , tự họ không thể đóng lại và sẽ bị ảnh hưởng của những linh hồn xấu (âm-ma) đi vào trung tâm đó . Chúng chiếm lấy toàn thân , bởi vì tự chúng ta không thể bảo vệ được những trung tâm đó . Do đó khi chúng ta tu hành thì cần có một vị minh sư biết cách bảo hộ , dạy chúng ta một pháp môn an toàn thì chúng ta mới có thể tránh được sự phiền phức và nguy hiểm .
-
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Có nhiều người đến hỏi Sư Phụ một số câu hỏi như là , trước đây họ mới bắt đầu học thiền , hình như họ không có ma chướng theo , nhưng sau này họ thấy có nhiều trở ngại , nhiều ma chướng và cảm thấy có nhiều linh hồn chạy vào khuấy rầy họ , đó là bởi vì họ mở bậy một trung tâm nào đó , hay là người thầy của họ không đủ lực lượng . Dĩ nhiên khi chúng ta tu hành thì một số trung tâm trong người sẽ tự nhiên mở . Thí dụ khi chúng ta tọa thiền cách nầy cũng mở được một số trung tâm nào đó , nếu như kiềm chế hít thở không khí cẩn thận , chúng ta sẽ động đến bánh xe lửa (đan điền) , đó là "trung tâm phát nhiệt". Động đến trung tâm này có thể tăng dần sự bực bội và rất dễ phát giận , hay là phát sinh tình dục thái quá ... , mà không thể tự mình kiềm chế .
Nếu như quí vị muốn thiền để kiểm soát hơi thở , quí vị nên hít hơi từ mũi vào và dẫn hơi đến rốn là ngưng , rồi để hơi đi thật chậm từ rốn dẫn lên trán , và rồi mới thở ra . Nếu như quí vị dẫn hơi không chịu ngưng tại rốn , cái luồng hơi đó sẽ chạy xuống phía dưới và động đến bánh xe lửa (đan điền) , sẽ gây ra nhiều phiền phức . Tuy nhiên đây chỉ là sự cắt nghĩa và hướng dẫn một cách tổng quát , đây chưa phải phương cách hoàn mỹ , do đó khi quí vị về nhà đừng có vội thử qua .
Tây Phương Tịnh Độ có nhiều quan hệ với chúng ta . Mỗi người chúng ta là một vũ trụ nhỏ , ở bên ngoài là vũ trụ lớn . Phần bên trên con mắt trí huệ chúng ta có Tịnh Độ , phần bên dưới là Uế Độ (trong Tam Giới) . Bởi vì trí huệ nằm tại đây (Sư Phụ chỉ ngay trán) , bất cứ chúng ta nghĩ cái gì hay làm cái gì , chúng ta đều dùng trí óc . Đôi khi chúng ta nghĩ không thông việc gì thì sẽ nhăn mày , thí dụ như ráng hồi tưởng đã gặp người này trước đây tại đâu , lúc đó chân mày sẽ nhíu lại phải không ? Lúc đó chúng ta tập trung tư tưởng tại con mắt thứ ba , hay là con mắt trí huệ , như vậy mọi vấn đề giải quyết dễ dàng . Chỗ đó tức là chỗ trí huệ của chúng ta , cho nên có người nói chỗ đó là con mắt Trí Huệ , con mắt Thư Ba , con mắt Pháp , con mắt Phật , con mắt Bồ Tát ...
Chúng ta thấy giữa trán của Phật Thích Ca Mâu Ni cũng có một dấu đỏ tượng trưng cho con mắt trí huệ , bởi vì Ngài đã mở được huệ nhãn rồi . Người phàm phu chúng ta nếu như không tu hành , không có minh sư mở cho thì con mắt đó nó khép kín . Như ban nãy Sư Phụ đã nói , nó có nhiều quan hệ đến cái cảnh giới đen tối trên vũ trụ . Sự tác dụng của bức tường đen này là để phân cách Tịnh Độ và Uế Độ , không thể cho cái Vô Lượng Quang của Tịnh Độ chiếu xuống phía dưới , nhưng mà chỉ cần con mắt Trí Huệ của chúng ta đã mở rồi , thì Vô Lượng Quang (tức là Phật Quang) liền có thể thuận lợi chiếu xuống . Giống như con đường , trước kia tuy đã có nhưng bị cản trở không thể đi qua , bây giờ đã được mở thông .
Nếu như con mắt trí huệ chúng ta mở được , trí huệ có thể từ trên trực tiếp truyền xuống đến tứ chi và toàn thân thể , cho nên bất cứ chúng ta làm gì cũng rất chính xác , rất rõ ràng , rất minh bạch , bởi vì lúc đó trí huệ đã giao thông với toàn thân , không còn bị chướng ngại gì .
Do đó quí vị nên tu tập trung tâm tối cao của trí huệ , còn các trung tâm khác trong thân thể đều chỉ là những hệ thống bài tiết . Quí vị cũng biết rằng , đôi mắt thì chảy nước mắt hoặc ra ghèn , hai lỗ mũi thì chứa đầy chất dơ và nước mũi , lỗ tai thì có rỉ tai , miệng thì có nước miếng , có đàm , càng ở phía dưới thì càng dơ . Tất cả có chín lỗ trên thân mình của chúng ta đều cung cấp ra thứ đồ dơ , bởi vì nó đều là hệ thống bài tiết , đều là "thành , trụ , hoại , không" . Cho nên tu tại những trung tâm bài tiết này rất là nguy hiểm , không an ổn , không có vĩnh viễn tồn tại được .
-
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Lúc này , Sư Phụ chỉ nói đại khái bên ngoài , khi Sư Phụ truyền pháp mới giải thích rõ ràng hơn và giải thích những cành giới nào có những gì . Nhưng tại đây thì không thể công khai cống hiến nói pháp môn này , cho dù có nói công khai cũng không có ích , quí vị về nhà thử tu bậy sẽ bị ma nhập . Lúc truyền pháp Sư Phụ sẽ truyền rõ ràng , nhưng trước nhất quí vị phải chuẩn bị thân , khẩu , ý cho thanh tịnh ; rồi sau đó , Sư Phụ sẽ giải thích mọi vấn đề mà quí vị cần hiểu biết về sự tu tập . Chuyện này quí vị cũng đều hiểu rõ , bây giờ chúng ta không nên nói nhiều về lối tu hành , hồi nãy Sư phụ chỉ cắt nghĩa có một chút cho quí vị nghe mà thôi .
Đôi khi quí vị biết có người rất thông minh , bởi vì đời trước họ có tu luyện trí huệ nhiều một chút , cho nên đời nay vẫn còn lưu lại một chút ít . Mắt trí huệ của họ vẫn còn hé mở và chưa có bít hẳn , vì vậy bây giờ họ rất thông minh và là người có đạo đức . Nếu đời trước họ tu càng cao , con mắt trí huệ của họ sẽ càng mở lớn hơn một chút . Những người có mắt trí huệ có thể thấy được , chỗ nào được mở , chỗ nào bị đóng . Cho dù con mắt trí huệ hoàn toàn đóng kín cũng không sao , chỉ cần tìm được minh sư thật , họ sẽ mở cho mình . Họ có một "chìa khóa" , lúc đó họ chỉ cần tra chìa khóa vào ổ khóa và xoay một vòng là mở ra được . Chỉ cần có chìa khóa là được rồi , quí vị sẽ không bị trở ngại .
Cho nên từ xưa đến nay , những vị tu hành , bất luận Đông Phương hay là Tây Phương , đều có nhấn mạnh về vị minh sư tại thế . Chúng ta thường đi lễ bái những vị minh sư đời quá khứ , bởi vì chúng ta có lòng tôn kính họ , xùng bái họ , kỳ vọng có một ngày , chúng ta cũng có thể trở thành như Phật Thích Ca Mâu Ni , Phật A Di Đà , Chúa Giê Su vậy , nhưng các Ngài qua đời đã lâu rồi và không thể mở cửa cho chúng ta , cái chìa khóa của các Ngài đã truyền lại cho minh sư khác còn tại thế , nếu như quí vị muốn mở cửa , thì đi tìm cho được người nào bây giờ còn giữ chìa khóa này , người đó chưa có vãng sanh , thì mới có thể giúp cho chúng ta được .
Không có sự liên lạc giữa hai cõi Tịnh Độ và Uế Độ , nếu như quí vị muốn liên lạc được , thì cần phải có một người ở cõi Tịnh Độ đem cái chìa khóa này đến cõi Uế Độ . Bởi vì cái chìa khóa không thể trực tiếp từ Tịnh Độ rơi xuống , cho dù có rơi xuống , nó cũng sẽ bị mất tại thế giới đen tối này . Thế giới này Sư Phụ đã nói qua . Cũng như Phật Quang cũng sẽ bị tiêu mất tại cõi đen tối đó vậy . Nếu như con mắt trí huệ không có mở , mắt trí huệ không cách nào truyền đạt đến những hệ thống bên dưới của thân thể quí vị , và quí vị cũng không thể kiềm chế những hành động của quí vị , cho nên có lúc quí vị không muốn tức giận mà cũng tức giận , quí vị muốn làm việc cho tốt , nhưng lại làm không tốt , những lý do đó bởi vì quí vị bị mất trí huệ thật , nó bị thế giới đen tối này cản trở .
Cũng y như vậy , quí vị muốn đem ánh sáng Phật trong sạch đến thế giới Ta Bà này , quí vị cũng phải dùng một phương tiện . Giống như sợi dây dẫn điện , nếu như không có sợi dây này , điện không thể đến đây , quí vị không thể có điện , ngoại trừ trường hợp quí vị có dụng cụ gì bảo vệ và lưu giữ điện này . Thêm một thí dụ nữa , như nước từ trên núi chảy xuống mà không có ống nước bảo hộ , nước sẽ bị dơ không thể xử dụng được . Như vị minh sư tại thế , giống như ống nước vậy , dẫn nước từ đầu nguồn đến nhà của chúng ta , đã an toàn , sạch sẽ , lại còn đơn giản .
Miễn sao quí vị chỉ cần mở cái con mắt trí huệ này ra (Phật Nhãn , Pháp Nhãn ...) , chúng ta liền thành Phật . Cho nên nói là "Hoa khai kiến Phật" (hoa nở sẽ thấy được Phật) hay là "Kiến tánh thành Phật" (thấy được bản tánh tức là thành Phật) . Sự thật nó đơn giản như vậy , không có cái gì phức tạp . Nhưng đối với đa số mọi người , họ không tin có thể thành Phật dễ như vậy ? Sao lại không dễ ? Phật Thích Ca Mâu Ni có phải đã nói là Phật tại tâm ? Phật tại tâm cũng như tiền bỏ trong túi , quí vị chỉ cần biết được túi ở đâu , quí vị liền có thể lấy được tiền ngay . Phật tại tâm cũng như vậy , quí vị biết được tâm ở đâu , thì quí vị có thể tìm được Phật rất nhanh chóng .
-
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Chúa Giê Su cũng nói Thiên Quốc ở bên trong chúng ta , nếu như những lời đó không đúng , vậy hai vị này đã phỉnh gạt người hay sao ? Nhưng làm gì có chuyện đó , hai vị đó là hai vị minh sư vĩ đại nhất từ xưa đến nay . Nếu như các Ngài gạt người thì chúng ta sẽ không sùng bái các Ngài như thế cho đến nay . Hai vị đại sư đó và Lão Tử đều là nổi tiếng nhất . Tuy rằng đã trải qua hai ba ngàn năm , các Ngài vẫn nổi tiếng . Càng ngày càng có nhiều người tin , càng ngày càng có nhiều người sùng bái . Điều đó cho thấy rằng giáo lý của các Ngài nhất định là chính xác . Không phải người nào cũng dốt hết , có người tu hành , có người khai ngộ , họ sẽ hiểu rõ ràng đạo lý của Phật Thích Ca Mâu Ni và Chúa Giê Su Ki Tô có đúng có sai . Nếu như là sai thì họ cũng phải có phản ứng gì chứ ! Nhưng từ hai ngàn năm nay , bất cứ chúng sinh nào , bất cứ người tu hành nào , lớn nhỏ đều sùng bái các Ngài . Điều đó chứng tỏ rằng các Ngài nói gì cũng đúng .
Lúc đầu mới giảng kinh Sư Phụ nói , tại sao có người rất thông minh ? Có người lại rất dốt ? Có người thì rất là lương thiện ? Có người lại hung ác ? Những điều đó có liên quan đến mắt trí huệ hay không , có liên quan tới sự giao thông giữa Tịnh Độ và Uế Độ hay không ? Có người sẽ hỏi , vì sao chúng ta phải tu hành ? Lý do là con người chúng ta là vũ trụ nhỏ , nó có liên quan tới vũ trụ lớn . Nếu như vũ trụ nhỏ của chúng ta không an ổn thì đời sống bên ngoài cũng loạn theo . Nếu như vũ trụ nhỏ mà giao thông được với vũ trụ lớn , hợp thành "một" thì mọi sự sẽ được hòa hợp . Phật Giáo gọi đó là "Tất cả đều do tâm tạo" . Giê Su Ki Tô nói là "Ta và phụ thân ta là một thể" . Lão Tử cũng có nói "Đạt được mục đích khi chúng ta trở thành 'một' " (hợp thành một) .
Cho nên tu hành là để sửa chữa cái vũ trụ nhỏ của mình , làm cho nó trở thành chủ nhân của mình . Chúng ta thường gặp cái trường hợp như không muốn tức giận cũng không được . Luôn cả cái miệng này , chúng ta cũng không thể kiềm chế được , có lúc chúng ta muốn lời nhu hòa , nhưng khi nói ra những lời làm cho người khác đau lòng , làm cho người khác khó chịu . Cánh tay này không muốn đánh người nhưng có lúc hành động đánh người còn mau hơn sự phản ứng của trí huệ của chúng ta ; rất có thể trí huệ bảo cánh tay đừng có đánh người nhưng mà khi cái trí huệ xuyên qua bức tường đen tối đó lại biến thành hành động tay đánh người , làm bậy , cho nên chúng ta không thể tự mình kiềm chế , mất đi cái chủ quyền của mình .
Nếu như chúng ta không thể tự mình kiềm chế thì thế giới bên ngoài cũng loạn bậy . Nếu như có thể tự mình kiềm chế thì thế giới sẽ rất nhu hòa , tất cả đều do tâm tạo là ý nghĩa đó . Cho nên chúng ta thường nói :"Tâm tịnh thì quốc độ tịnh" . Chứ không phải là chúng ta kiềm chế chồng mình thì gia đình mới hòa bình . Cũng không phải đánh vợ , gây cho vợ nhiều áp lực , gia đình mới hòa bình . Muốn hòa bình thì chúng ta nên cải biến mình trước , như vậy vợ mình mới cải biến , cho dù vợ không cải biến , tâm của chúng ta cũng không động . Giê Su Ki Tô từng nói :"Nếu như có người vả má bên phải thì để cho họ vả má bên trai nữa ". Bởi vì tâm không có hận , tâm không muốn đánh người nữa , tâm hoan hỷ , bị đánh mắn một chút cũng không có gì khó chịu .
Cùng là một hành động , nếu như lúc còn chưa tu hành , người ta đánh chúng ta một cái , chúng ta liền đánh trả lại một cái . Nhưng sau khi tu hành , họ có đánh chúng ta bên này , chúng ta còn nói còn một bên kia , phải đánh cả hai bên mới công bằng . Trường hợp người bị đánh cũng như nhau nhưng tâm trạng lại khác xa , tuy rằng cái thế giới này vẫn vậy . Trong tâm của chúng ta an định thì thế giới đó không có liên quan đến chúng ta , nó không ảnh hưởng được chúng ta . Chúng ta hoàn toàn làm chủ lấy mình , muốn giận thì giận , không muốn giận thì thôi ; không có bị lục căn (mắt , tai , mũi , lưỡi , thân , ý) , lục trần kiềm chế , cũng không bị chỗ đen tối kiềm chế ; tự mình kiềm chế mình , làm chủ lục căn của mình .
-
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Cho nên Ngài Lục Tổ Huệ Năng nói Tịnh Độ không có xa , Tây Phương cũng không xa . Tây Phương ở nơi đây (Sư Phụ chỉ giữa trán) , nếu như chúng ta tu pháp môn tốt , chúng ta sẽ thể nghiệm được . Tất cả cảnh giới nào cũng ở tại đây (Sư Phụ chỉ con mắt trí huệ) , không phải chúng ta trèo cao , hay là bay lên , mới gặp được thế giới Cực Lạc . Trên thực tế , không có chỗ nào , không có chỗ nào phải đến . Cho nên mới nói :"Tâm tịnh thì quốc độ tịnh", , bởi vì vũ trụ nhỏ có liên quan đến vũ trụ lớn . Lão Tử cũng có nói :"Người tu hành , cho dù không có ra cửa cũng biết được mọi chuyện trên thế gian", bởi vì sau khi tu hành , vũ trụ nhỏ giao thông với vũ trụ lớn , cho nên họ có thể biết được bất cứ nơi nào , không có chỗ nào không có họ .
Cho nên người thành Phật , chúng ta xưng họ là "Như Lai" . Như Lai tức là không đi không lại , người đó tuy ở tại đây nhưng bất cứ chỗ nào cũng có họ , lúc đó , chúng ta nói họ đã thành "Phật" , hay thành "Như Lai" . Không phải chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni mới có thể thành Như Lai , người đời này cũng có thể thành Như Lai , chúng ta đều có thể thành Như Lai . Không phải Sư Phụ nghe người ta nói có thể thành Như Lai , mới nói với quí vị như vậy , mà nói ra từ thể nghiệm của Sư Phụ , cho nên rất bảo đảm .
Cái tình trạng chính thật của Như Lai là như vậy . Thí dụ , một người "đắc đạo" ngồi ở nhà , những người chỗ khác thấy người này truyền pháp đó đây hay là dạy người trên Thiên Đàng ... Cho nên chúng ta xưng Phật là "Thiên nhân đạo sư" , "Tứ sanh từ phụ" là ý nghĩa đó . Cho dù đến Tịnh Độ cũng gặp người đó , hay là có ngày nào nổi hứng , muốn xuống dạo địa ngục , không biết chừng cũng gặp người đó , bởi vì là Như Lai cho nên bất cứ ở đâu cũng có thể thấy được , người đó không có đi cũng không có lại . Người đó không phải là cái thể xác này mà đã biến thành đồng nhất thể cùng với Pháp Giới , họ và chúng sinh không còn phân cách bởi không gian và thời gian . Bởi vì lúc đó người này và chúng sinh đều đồng một thể , chúng sinh ở đâu cũng có thể thấy được người này nhưng mà vị ấy không phải là chúng sanh .
Cảnh giới của Tây Phương nếu như không thể giao thông với cảnh giới trong Tam Giới thì những cảnh giới trong Tam Giới rất loạn . Cũng như vậy , nếu như trí huệ của chúng ta không thể giao thông với các bộ phận ở bên dưới sẽ tạo ra tình trạng hỗn loạn . Giống như người chủ đi vắng để các thầy tớ ở nhà , họ đã kém thông minh , thường ngày lệ thuộc vào chủ ; nay đột nhiên chủ đi vắng , điện thoại không thông , thư từ không biết viết nên họ sẽ hành động vô tổ chức , không đúng theo qui tắc .
Chúng ta nghe nói , có người tọa thiền lúc nhập định sẽ đi du hành thế giới , đi xem nước Mỹ ra sao ? Đi xem tình trạng hỗn loạn trên thế giới như thế nào ? Đó chỉ là thần thức tầm thường xuất du mà thôi , không phải là Như Lai . Tiếng Anh gọi là Astral Projection (xuất hồn) , hoàn toàn khác hẳn với tình trạng Như Lai . Bây giờ Sư Phụ dùng cái hình vẽ đơn giản để chỉ . thí dụ đây là một người , bên trong nhất là Bản Lai Diện Mục , là chủ nhân của chúng ta , hay là chân thể của chúng ta , Phật Tâm , Thiên Quốc , linh hồn ... , gọi tên gì cũng được . Cái Phật tâm của chúng ta bị bao ở trong cùng , không thể thoát ra được . Nhưng nếu như có người xuất hồn (Astral Projection) , cũng có thể đi ra được , điều đó không có thể nói rằng họ tìm được Phật tâm , họ chỉ sử dụng Astral Body (Trong đó có nhiều tầng lớp thân thể và chân thể) đi ra , chỉ để lại cái xác thịt . Cái từng thân thể đó gồm cả 7 lớp , thiên Chúa Giáo nói là 7 tầng trời , Hồi Giáo cũng nói giống như vậy .
Vì vậy xuất hồn vẫn chưa phải là Như Lai , vẫn chưa phải là Phật tâm . Bởi vì dùng Phật tâm không cần phải đi , ngồi ở nơi đây cũng có thể biết được tất cả mọi chuyện . Mình cũng vẫn cứ ăn cơm , ngủ , đi , trò chuyện nhưng cái gì cũng biết , ở đâu cũng có mình . Thí dụ bây giờ Sư Phụ đang nói chuyện tại đây , người ở Đài Bắc tọa thiền hay không tọa thiền (Điều này phải coi theo đẳng cấp tu hành của họ) , đều sẽ thấy Sư Phụ ở đó . Họ cần gì , hóa thân của Sư Phụ đều sẽ giúp đỡ họ , cái tình trạng này khác hẳn với tình trạng xuất hồn . Bởi vì "xuất hồn" thì phải đem theo hết những tầng lớp thân thể , chỉ để lại xác thân ; khi trở về , sẽ trở vào lại cái thể xác . Cũng như mắc cái áo treo trên tường , hay mở cửa về nhà vậy . Cái nhà này vẫn còn đó , khi ra đi hành lý được đem theo ; khi trở về thì hành lý , tiền và các thứ đều đem theo hết về .
-
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Nhưng mà cái tình trạng này không phải là Như Lai . Cái tình trạng của Như Lai , không phải lợi dụng lúc tọa thiền mới có thể ra đi . Bởi vì họ là Như Lai , không có chỗ nào không có họ , cho nên khi người đó đi đứng , ăn cơm , ngũ nghỉ , trò chuyện , giảng kinh ... làm các hành động tầm thường , nhưng chỗ nào cũng có người đó , việc gì cũng đều giải quyết được . Người đó có thể giúp đỡ các chúng sinh khác , giúp đỡ các đồng tu ...
Trong Kinh Phổ Môn cũng có nói đến tình trạng Như Lai đó . Phổ là gì ? Là phổ biến , phổ độ , chỗ nào cũng có . Môn là pháp môn , ý của Phật Thích Ca là tu Pháp Môn Quán Âm rồi , chỗ nào chúng ta cũng đều biết , chỗ nào cũng có chúng ta , cho nên trở thành "Như Lai". Tự mình biến thành cái Phổ Môn này , biến thành Quán Thế Âm Bồ Tát , bất cứ ở chỗ nào chúng sinh cầu điều gì , cũng đều nghe được , đều thấy được ; là dùng con mắt trí huệ của mình để ngó , nhưng mà đừng có lầm với thiên nhã thông , thiên nhĩ thông .
Thiên nhĩ thông hay là thiên nhã thông không phải là Phổ Môn , cũng không phải là đẳng cấp của Như Lai , hoàn toàn khác hẳn . "Như Lai" là dùng cái tâm Như Lai của họ , dùng Phật tâm của họ mà giác biết được , cho nên nói là "Phổ" . Nếu như chúng ta tu Pháp Môn Quán Âm , chúng ta cũng sẽ biến thành Quán Thế Âm Bồ Tát , cho nên cái cửa này gọi là "Phổ Môn". Phổ môn tức là nói đến cái pháp môn phổ độ , bảo cho chúng ta làm sao biến thành Quán Thế Âm Bồ Tát . Nhưng bộ kinh đó chỉ giới thiệu Pháp Môn Quán Âm mà thôi , trong đó không có chỉ dạy pháp môn này . Nếu như chúng ta hiểu được cái hàm ý chính của cái danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát , chúng ta cũng sẽ trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát . Chúng ta thường tụng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát , kỳ thật cái đó không phải là cái danh hiệu của Ngài . Cái danh iệu của Ngài phải dùng đến cái năng lực đặc biệt mới có thể nghe được . Bởi vì "Danh khả danh , phi thường danh", không phải dùng cái ngôn ngữ của phàm phu mà có thể nói cái tên này được . Cái danh hiệu chính thức của Ngài không phải là Quán Thế Âm Bồ Tát , cần phải tu hành Pháp Môn Quán Âm mới biết được , những gì mà dùng ngôn ngữ nói ra được , viết ra được , đều không phải là cái tên thật .
Các vị minh sư từ xưa đến nay đều nói những sự việc như nhau cho nên chúng ta đừng có tranh chấp trên ngôn ngữ . Chúng ta chỉ cần lo sao cho chúng ta trở thành con người tốt và học theo cái giáo lý của các Ngài là được rồi , không cần phải vì cái đạo nào tốt hơn đạo nào mà khởi tâm tranh chấp . Chúng ta vốn cũng không biết "Đạo" là gì , cho nên không hiểu rõ các tôn giáo khác như thế nào , vì "Đạo khả đạo , phi thường đạo". Đợi cho khi nào chúng ta tìm được cái đạo này rồi thì chúng ta mới có thể nói , còn chưa tìm được thì còn là người vô minh , chỉ có đoán bậy , tạo khẩu nghiệp . Chỉ có sau khi biết được "đạo" là gì rồi , thì mới hiểu rõ cái đạo nào không tốt , còn như chưa hiểu rõ , tốt nhất đừng có nói . Lão Tử nói :" Người biết được đạo không có nói , người nói đạo thì không biết được đạo ". Cho nên nếu có người thích tranh luận nhiều , biện luận nhiều , nói rằng "đạo" nên như thế này , không phải như thế nọ , thì chúng ta có thể khẳng định rằng người đó còn chưa biết "đạo" là gì . Mà "đạo" làm sao có thể nói ra được ?
Lúc Sư Phụ truyền pháp cũng không có nói chuyện , bây giờ nói cho quí vị nghe vẫn chưa phải là truyền pháp , chỉ có giới thiệu pháp môn , giới thiệu một chút tình trạng bên trong , nhưng mà đó cũng không phải là thể nghiệm . Thể nghiệm chỉ thuộc về cá nhân của Sư Phụ , chỉ có tự mình Sư Phụ biết được , quí vị không thể nào biết được . Bởi vì "Đạo khả đạo , phi thường đạo , danh khả danh , phi thường danh". Do đó mà biết được Quán Thế Âm Bồ Tát không phải là cái danh hiệu chính thật của Ngài , cái tên chính thật của Ngài rất đẹp , là "Thắng Bỉ Thế Gian Âm" đó . Chúng ta dùng cái nhĩ căn phàm phu thông thường này không thể nào nghe được . Cho nên Phẩm Phổ Môn không phải là "Pháp" Phổ Môn . "Pháp" Phổ Môn phải có người truyền mới biết được vì Phẩm Phổ Môn chỉ có giới thiệu một số thể nghiệm của Pháp Phổ Môn mà thôi . Hôm nay có người nói với Sư Phụ , người đó coi Kinh A Di Đà , trong đó mô tả cảnh giới Tây Phương Tịnh Độ , có đất bằng vàng , cây là bằng châu báu , có chim hót ca , có nước Tám Công Đức , có liên hoa ... Người đó nói cái cảnh giới đó đối với người đó không có ý nghĩa gì , người đó không thích đi nơi đó . Sư Phụ cũng đồng ý , nếu như Sư Phụ thấy được đất nước của A Di Đà chỉ có thế thôi thì Sư Phụ cũng không tham cái cảnh giới đó . Đất bằng vàng hay đất bằng cát cũng không có nhằm nhò gì với Sư Phụ . Sư Phụ không tham vàng , cũng không tham châu báu , ở cõi đời này đã không tham rồi thì còn tới Tịnh Độ để tham châu báu để mà làm gì ? Cho nên phải hiểu rõ , không phải vì chúng ta tham châu báu , hay là tham cái cảnh giới đẹp nào đó thì mới đi Tịnh Độ .
-
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ giới thiệu cái Tịnh Độ này thôi , để cho chúng sinh có đến đó cũng biết được đó là nơi nào , nhưng tuyệt đối không phải vì chúng ta tham cái cảnh giới đó mới tu hành . Tu hành tới Tây Phương Tịnh Độ chúng ta sẽ rất an vui , sẽ trở thành một chúng sanh rất có ích lợi , ích lợi cho mình , ích lợi cho thế giới ; có cái lực lượng lớn có thể cứu các khổ nạn của chúng sinh và mình trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát , Đại Thế Chí Bồ Tát , Vô Lượng Quang A Di Đà Phật . Cho nên chúng ta phải tu đến cái đẳng cấp đó , chứ không phải vì tham cầu cái cảnh của Tây Phương Tịnh Độ rồi mới tu . Lẽ tất nhiên , đất nước của Phật đều rất trang nghiêm , không lẽ nào đến coi cái thế giới Tây Phương Cực Lạc , mà còn thấy đất bùn hay là cung điện lợp bằng tranh (mọi người cười) , hay là dơ như cái chợ bán cải ở đây , chỗ đó rất trang nghiêm , rất đẹp đẽ , rất sạch , rất kỳ diệu , rất sáng lạng và còn có nhiều đồ mỹ diệu khác nữa .
Phật Thích Ca Mâu Ni tuy rằng cũng có nói , nhưng Ngài mô tả vẫn còn chưa đủ . Dùng cái ngôn ngữ phàm phu làm sao có thể nói ra được Tịnh độ ? Nhưng mà nói ra chút ít cũng giúp được cho người thế gian hiểu biết một chút . Thật ra thì cũng không phải là nói ra , mà là đệ tử của Ngài lúc đó ngồi thiền đã có thể nghiệm được , bởi vì Phật Thích Ca Mâu Ni đem đệ tử lên cõi Tịnh Độ coi chơi , khi đệ tử trở về mới viết ra . Phật nói Kinh A Di Đà cũng không phải nói tại cái thế giới Ta Bà này . Nếu như chúng ta đọc Kinh Phật Quán Vô Lượng Thọ thì sẽ hiểu . Hoàng Hậu Vi Đề Hy thấy được cảnh Tây Phương Tịnh Độ là bởi vì Phật Thích Ca Mâu Ni dùng hóa thân đem bà lên đó . Chúng ta tu hành nên biết được , nếu như lúc tọa thiền mà thần thức không ở cảnh giới cao thì không thể nào có thể nghiệm được . Cái này không phải là đẳng cấp của phàm phu , bởi vì Hoàng hậu Vi Đề Hy tu hành tọa thiền đã đạt đến đẳng cấp cao cho nên mới có thể theo hóa thân của Phật đi đến cảnh giới rất cao và khi trở về mới ghi lại cái thể nghiệm đó .
Có người giải thích rằng Phật dùng xác thân bay vào ngục tù dạy bà , cách nói đó sợ không hợp lý . Điều thứ nhất , Phật có trăm ngàn ức hóa thân , Ngài không cần dùng thể xác của Ngài . Điều thứ hai , đệ tử của Phật quá nhiều , Ngài không có thời giờ chỉ vì một người mà đích thân đi đến đó . Hồi nãy Sư Phụ nói cấp bực của Như Lai ở đâu cũng có là ý nghĩa đó . Chỉ cần chúng ta thành tâm thì sẽ thấy được hóa thân của minh sư (Như Lai) . Khi đó coi theo cái đẳng cấp tu hành của chúng ta , hóa thân của minh sư sẽ đem chúng ta đến cảnh giới mà ta đạt được . Cái tình trạng trong Kinh A Di Đà cũng như vậy , là do đệ tử của Phật đến Tịnh Độ , sau khi về rồi mới viết lại những thể nghiệm của mình vào nhật ký tu hành .
Thí dụ khi Sư Phụ truyền pháp , quí vị có thể nghiệm gì , thấy được cảnh giới gì đều viết ra hết . Trong lúc truyền pháp nó thuộc về thể nghiệm của cá nhân , cho nên quí vị không biết chừng viết ra như thế này , ngày nào tháng nào , Pháp Sư Thanh Hải giảng Pháp Môn Quán Âm , Pháp Môn Tịnh Độ , thấy được Phật A Di Đà , cảnh giới Tịnh Độ , hồ Bát Bửu , nước Tám Công Đức ... hết thảy đều ghi xuống hết , sau này để cho những người không tu Pháp Môn Quán Âm thấy được , thì đối với họ những thứ thể nghiệm này không có ý nghĩa gì , bởi vì nước Tám Công Đức không phải viết như vậy mà có thể hiểu được . Thấy được Tịnh Độ là cái giây phút vui sướng nhất của chúng ta , người thường phàm phu không có cách nào thấy được . Có thể thấy được Tịnh Độ tượng trưng cho cái cấp bực của chúng ta đã cao lắm rồi , đã trở thành Bất Thối Bồ Tát , có ích lợi cho chúng ta , cũng có rất nhiều ích lợi chó chúng sinh , lúc đó chúng ta có cái lực lượng lớn , muốn cứu người rất dễ dàng .
-
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Cho nên không phải tham cầu Tịnh Độ rồi mới lên đó . Đạt được Tịnh Độ là đạt được cái quả vị Bồ Tát của chúng ta . Cái quả vị Bồ Tát này mới là cái mà chúng ta cần có . Được cái quả vị Bồ Tát , đương nhiên ở nơi trang nghiêm . Thí dụ như mình đã tốt nghiệp đại học , trở thành y sĩ rồi , lúc đó mình còn ở trong căn nhà đen tối nhỏ hẹp nữa không ? Hiện giờ đã thành y sĩ , đương nhiên phải ở chỗ đẹp đẽ hơn , vệ sinh hơn , như vậy mới thích hợp cái địa vị của mình . Nhưng bởi vì chúng sinh , vì bệnh nhân nên mình mới đi học bác sĩ , chứ không phải vì cái nhà đẹp này mới đi học . Sau khi học thành tài rồi , có nhà tốt để ở cũng là lẽ đương nhiên .
Thí dụ như lúc Sư Phụ truyền pháp , có người thấy được cái cảnh giới đẹp đẽ của Tây Phương Tịnh Độ rồi viết ra , người khác đọc cũng không thấy có cái gì đặc biệt . Nhưng người mà thấy thể nghiệm đó , lúc thấy được rồi thì cái tình trạng hoàn toàn khác hẳn , cái trạng thái biến khác , cấp bậc cũng khác , tự cảm thấy rất thanh thoát , rất vui sướng , trí huệ mở lớn , điều đó mới là quan trọng , những cái thứ trạng thái đó chúng ta không cách nào thể nghiệm được , cũng không hiểu biết được . Vì sao người mà thấy được cảnh giới đối với họ quan trọng như thế ? Bởi vì tự họ đã biến đổi , lúc thấy được Tây Phương Tịnh Độ sẽ rất vui sướng , rất khác thường , có lực lượng rất lớn , có thần thông , có nhiều trí huệ ... Chúng ta nếu chỉ thấy được cái thể nghiệm trong nhật ký của người ta , đương nhiên cảm thấy không có ý nghĩa gì , đọc lại cái gì chép về thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng không có cảm giác gì bởi vì chúng ta chưa có thể nghiệm qua cái đẳng cấp đó .
Thí dụ như có một người trong lúc truyền Tâm Ấn , nói rằng tự mình thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát nhưng rất có thể có người sẽ nói ai muốn xem Quán Thế Âm Bồ Tát làm gì ? Đối với người này thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát không có ý nghĩa gì . Nhưng người thấy được sẽ nói không phải chỉ vậy mà thôi , thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát ngoài ra còn có cung điện rất đẹp . Ngài ở nơi rất đẹp đẽ , lúc thấy được Ngài toàn thân và ý thức đều khác hẳn , cái tình trạng này không thể nói ra được . Không phải thấy Quán Thế Âm Bồ Tát được là đủ mà là khi thấy được Ngài toàn thân và ý thức đều cải biến , trí huệ cũng khác . Cái biến đổi bên trong của mình mới là điều khiến cho ta vui mừng .
Khi trí huệ khai mở khiến cho ta vui mừng , bởi vì "Hoa nở gặp Phật ngộ vô sanh" . "Vô sanh" tức là không sanh không diệt , ý nói là không có luân hồi sinh tử . Kiến tánh thành Phật cũng vậy , không phải chúng ta muốn kiến tánh để làm gì , mà là chúng ta muốn thành Phật , vì sao chúng ta muốn thành Phật ? Bởi vì muốn có trí huệ , muốn có lực lượng , có thể giúp những chúng sinh khác bớt đau khổ . Nếu như chúng ta có được lực lượng để giúp đỡ chúng sinh đau khổ , có phải nghĩ vui mừng lắm không ? Cảm thấy đó là trách nhiệm của mình , có cái quan niệm chánh đáng này mới có thể thành Phật , mới nên thấy Phật , thấy Bồ Tát , hay theo học Phật .
Tuyệt đối không phải vì chúng ta tham thấy cái đẹp của Tịnh Độ , hay là tham được cái quả vị Phật , tham cầu thần thông , tham cầu lực lượng , tham cầu trí huệ mới muốn thành Phật . Chúng ta muốn làm một công dân tốt , một công cụ tốt trong vũ trụ , để giúp đỡ vũ trụ lớn và vũ trụ nhỏ hòa hợp với nhau , bởi vì chúng ta thấy thế giới này rất rối loạn . Đáng lẽ ở trên thế giới này nhân loại là cao quí nhất nhưng đại đa số đều uổng phí thời giờ ăn nhậu , chơi bời ; mỗi ngày làm việc , ăn cơm , ngủ nghỉ ; rồi lại làm việc , ăn cơm , ngủ nghỉ , rồi vãng sanh , như vậy có ý nghĩa gì ?
Trên thực tế đời sống cũng không có giản dị như vậy , có nhiều người sống rất đau khổ , cãi lộn , đánh lộn , ăn ở với nhau không hợp , có người phá sản , có người bị giết , có người bị vu cáo , người nào cũng không thoát ra sự kiềm chế của sanh , lão , bệnh , tử . Đời người không phải đơn giản như ăn uống , vui chơi rồi phủi tay ra đi . Nếu như được như vậy thì quá tốt , cũng không cần cầu giải thoát làm chi . Trên thực tế sanh , lão , bệnh , tử kiềm chế chúng ta . Mình thấy đời sống con người không khác gì đời sống của loài vật ; loài vật nó cũng ăn , ngủ , nuôi con . Chúng ta thông minh hơn loài vật nhưng chúng ta không có hoàn toàn sử dụng trí huệ của mình , cho nên chẳng khác chi loài vật , rất là đáng tiếc ! Oan uổng cả đời sống trăm năm .
Nếu như có được đời sống trăm năm , chúng ta lấy thời gian ấy cố gắng tu hành để có thể trở thành đại Bồ Tát thì cả cái vũ trụ đều biến thành của mình hết . Muốn làm gì thì làm , muốn cứu ai cũng được , muốn đi đâu cũng như ý , không cần mua vé máy bay ; lẽ tất nhiên cái thể xác này vẫn cần có vé máy bay , giả sử Sư Phụ có thần thông , có thể bay lên trời , bay đến đây để thăm quí vị , bay đến chỗ khác để coi các đồng tu khác , nếu được như vậy , Sư Phụ nghĩ chắc cũng không sống được lâu , bởi vì có người tưởng rằng Sư Phụ là con chim sẽ sẽ dùng súng bắn để ăn .(mọi người cười)
-
Sự Huyền Bí Của Mắt Trí Huệ
Cho nên có thần thông cũng không có ích lợi gì lắm . Nếu không dùng thần thông cũng có thể đi được , tuy rằng cái thể xác ở đây , nhưng ở đâu cũng đều có hóa thân , cho nên nói Phật Thích Ca Mâu Ni có trăm ngàn ức hóa thân như Như Lai vậy . Các Ngài không giống như Tôn Ngộ Không , cần phải nhờ một sợi lông thổi một hơi , mới hóa ra nhiều Tôn Ngộ Không khác , như vậy không phải trăm ngàn ức hóa thân , đó chỉ là thứ thần thông gạt người ; bởi vì Tôn Ngộ Không dùng sợi lông hay sợi tóc biến ra các Tôn Ngộ Không kia , chỉ trong hai , ba phút đều tiêu tan mất , trở lại thành lông tóc , cho nên đó không phải là trăm ngàn ức hóa thân , đừng có hiểu lầm .
Trăm ngàn ức hóa thân là Như Lai Như Khứ , tuy rằng người ở đây , nhưng chỗ nào cũng có họ , việc gì cũng biết hết , họ không cần phải cố ý làm việc gì , mỗi ngày cũng ăn cơm , ngủ nghỉ , trò chuyện y hệt như người thường . Quí vị muốn làm Tôn Ngộ Không ? Hay là làm Phật Thích Ca Mâu Ni ? Đương nhiên phải thành Phật mới là cứu cánh , mới là vĩnh viễn ; còn Tôn Ngộ Không vẫn còn ở trong Tam Giới , không thoát ra bàn tay của Phật Như Lai được .
Nhưng mà sau khi thành Phật rồi , không cần phải ăn cơm , không cần nghĩ ngơi , bề ngoài của Phật ngó như người phàm phu , cũng ăn cơm , cũng ngủ , làm việc ; nhưng trong lúc họ ăn cơm , ngủ nghỉ , đều lợi ích cho chúng sinh , trong khi họ tọa thiền , trò chuyện , cũng là lợi ích cho chúng sinh . Còn chúng ta thiền , trò chuyện , không có lợi gì ; đối với mình còn chưa đủ ích lợi , huống chi là cho người khác .
Cho nên sau khi thành Phật , bề ngoài nhìn cũng như các chúng sinh nhưng sự thật thì khác nhau . Tuy Phật cũng ăn cơm , ngủ nghỉ , làm việc nhưng đồng một giây phút đó , cái công việc vô hình của Phật rất nhiều , chúng ta không có thấy được . Chúng ta ăn cơm , ngủ nghỉ , trò chuyện tức là ăn cơm , ngủ nghỉ , trò chuyện , không có cái gì khác . Người của chúng ta ở đây , không có trăm ngàn ức hóa thân , không thể đi đến như ý , không thể thành Quán Thế Âm Bồ Tát , không thể phổ độ chúng sinh , cho nên giữa chúng sinh và Bồ Tát có nhiều chỗ khác nhau ? Bất cứ chúng sinh nào cũng đều có thể thành Như Lai , nếu biết chìa khóa nằm ở đâu , mở cửa rồi , lo tu hành thì cũng sẽ tới lúc thành tựu . Phật Thích Ca Mâu Ni tu hành sáu năm , Lục Tổ Huệ Năng tu hành 16 năm rồi các Ngài thành Phật , cho nên chúng ta cũng có thể thành Phật .
Phật Thích Ca Mâu Ni nói :" Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh ", ý của Ngài nói động vật cũng có Phật tánh nhưng tại sao chúng nó không thành Phật được ? Chỉ có người mới có thể thành Phật . Bởi vì con người chúng ta có "ý thức" và "hạ ý thức" , có thể phán đoán , có cái mãnh lực phán đoán cao , có cái trí huệ cao . Tuy rằng động vật cũng có thể phán đoán nhưng nó chỉ có thể phán đoán chỗ nào nguy hiểm , chỗ nào có nhiều đồ ăn , chỗ nào có nước uống , nó ngửi mùi thính hơn người nhưng nó không biết phán đoán chuyện đạo đức và ác nghiệp ; nó không biết cái gì là thiện là ác ; nhưng con người có thể phán đoán , chúng ta có thể lựa chọn đi thiên đàng hay đi địa ngục , hay là ở lại cái thế giới Ta Bà này . Nhưng bởi vì trí huệ của con người không thuần nhất , muốn lựa chọn lên thiên đàng , rốt cuộc xuống địa ngục ; muốn chọn đường giải thoát , rốt cuộc lẩn quẩn trong vòng luân hồi sanh tử .
Cho nên nếu như chúng ta không hiểu được thì nên tìm thiện trí thức chỉ dẫn . Nhưng chỉ dẫn cũng là lúc ban đầu , còn sau này chúng ta cũng nên tự mình đi , tự mình trở thành thiện trí thức , tự mình trở thành Minh Sư . Bởi vì chúng ta đều là minh sư của mình , cũng như người nào cũng có thể học thành y sĩ vậy , mình theo một vị y sĩ học , sau này cũng sẽ trở thành y sĩ .
Thành Phật cũng như vậy , cho nên Phật Thích Ca Mâu ni nói :"Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh". Con người chúng ta có thể một đời thành Phật . Phật không có nói láo , đó là chuyện có thật , Sư Phụ có đủ kinh nghiệm cá nhân để bảo chứng lời của Phật là thật . Nếu như không thể một đời thành Phật , ít nhất cũng sẽ thành Bồ Tát , bảo chứng nhất định có thể thành Bồ Tát Ma Ha Tát .
Vấn : Nếu như có người tu thành Phật , Phật đó với "Phật Thích Ca Mâu Ni" là đồng một Phật , hay là hai Phật khác nhau ?
Đáp : Cấp bực của họ như nhau , nhưng không phải là một người , cũng không phải là hai người .
Vấn : Nếu như có người không có Thọ Tâm Ấn , cũng không có tu hành , người đó có thể nghe được thứ âm thanh kỳ diệu đó không ? Nếu như có cái tình trạng giống như vậy thì làm sao phân biệt cảnh giới thật hay giả ?
Đáp : Rất có thể nghe được nhưng nó không phải là âm thanh thật , cũng không phải lúc nào cũng nghe được , người đó cũng không biết âm thanh đó đại diện cho cảnh giới gì . Còn pháp môn của chúng ta là hoàn toàn viễn thông , có thể phân biệt thật hay giả , có đầy đủ sức lực bảo hộ , không có ma chướng đến quấy rối , tu hành nhiều thì cảnh giới sẽ càng lên cao .
Người tu Pháp Môn Quán Âm , cái tiếng bên trong này bất cứ giờ phút nào cũng có , cảnh giới cũng có hoài . Không phải hôm nay thấy được , mai lại không thấy được . Nếu như cảnh giới mà không thể duy trì thì không phải là cảnh giới thật . Cảnh giới thật là hôm nay thấy được , ngày mai cũng thấy được . thí dụ như cái miếu này nó có thật ở đây , không phải là hư ảo , cho nên lúc nào đến nhìn nó , nó cũng y như vậy , nếu như không thì trong mộng hay là ảo tưởng , thì hôm nay thấy được , ngày mai sẽ không còn thấy nữa .
Theo học với một vị minh sư , vị minh sư biết được cảnh giới nào có thứ âm thanh nào , vị minh sư truyền pháp cho người đệ tử rồi , người đệ tử mỗi ngày đều có thể nghe được âm thanh , lúc nào muốn nghe đều có âm thanh đến . Truyền pháp tức là bảo đảm có thể nghe được âm thanh bên trong , nếu như chúng ta tiếp tục tinh tấn tu hành , thì sau này cái cảnh giới nó càng lần càng cao , từ cái âm thanh mà mình nghe được , có thể biết được cái cảnh giới của chúng ta như thế nào , cái cấp bực cao đến đâu ; bởi vì trước khi truyền pháp , Sư Phụ đã giảng rất rõ và minh bạch , cũng như một tấm bản đồ , mỗi chỗ đều có dấu hiệu , đi đến đâu liền nhận thức đến đó . Cho nên thân người rất quí báu , bởi vì Sư Phụ không thể truyền pháp cho nó , tuy nó cũng có Phật tánh nhưng cũng gần như không có . Cho dù có truyền pháp cho nó , nó cũng không thể nhận thức được . Nhưng con người chúng ta có thể dùng , bởi vì nghe được ngôn ngữ , nếu như không biết ngôn ngữ cũng không sao , có cái hạ ý thức nó biết được . Sư Phụ không nói chuyện cũng có thể truyền pháp , lúc truyền pháp hoàn toàn không có nói chuyện , nói chỉ bất quá là để giới thiệu trước khi truyền pháp mà thôi , kỳ thật không có giới thiệu cũng được , chỉ cần Sư Phụ làm gì , quí vị cứ làm theo là được rồi , như vậy quí vị cũng được cái pháp môn này , một lời cũng không cần nói , một cử động cũng không cần động , bởi vì "chư pháp không tướng" , Ngài Lục Tổ Huệ Năng truyền cái "pháp vô tướng" , hoàn toàn giống y cái pháp truyền của Sư Phụ .
-
Chúng Sinh A-Tu-La
Chúng Sinh A-Tu-La
Ngày 13-3-1987
Taipei
Đã lâu nay không gặp quí vị , hôm nay Sư Phụ nói về vấn đề của A-Tu-La cho quí vị nghe , không biết quí vị có chịu nghe không ? Ở Đài Loan có rất nhiều người chỉ cách tọa thiền hay là dạy người làm này nọ . Sư Phụ nghe nói ban đầu còn có chút cảm hứng , nhưng qua một thời gian sau thấy có nhiều rắc rối . Có nhiều người phát điên vì tẩu hỏa nhập ma . Có nhiều người đến hỏi Sư Phụ về vấn đề đó . Họ kể rằng những người đó có thần lực , có thể dạy người ta nhảy đi nhảy lại hoặc là thân thể lắc tới lắc lui . Nhiều người rất hiếu kỳ , rất ưa thích . Từ trước đến giờ không biết bắt ấn , đến đó học cũng biết bắt ấn ngay . Tối thiểu cũng biết nhảy đi nhảy lại , thân thể chấn động ... Trãi qua một khoảng thời gian , những người đó sanh ra những chuyện buồn phiền . Nhiều người đến hỏi Sư Phụ , và họ phàn nàn về vấn đề này . Nhưng còn nhiều người vẫn tin điều đó , nên hôm nay Sư Phụ nói về đề tài này .
Không phải chỉ ở Đài Loan mới xẩy ra những chuyện này . Hồi Sư Phụ ở Đức cũng gặp rất nhiều thứ người này . Thầy của họ không phải là chân sư . Khi về nhà cả ngày lẫn đêm đều nghe thấy âm thanh . Âm thanh đó không phải là âm thanh mỹ diệu , mà là tiếng nói của người nào đó , rất ồn , làm cho người nghe không ăn không uống được . Nó không thể cho mình ngủ nghỉ , nghe nhiều sẽ mệt , thân thể yếu đuối , thần kinh bất thường . Thật ra chuyện này cũng không có gì thần bí . Những chúng sinh đó phần nhiều là chúng sinh A-Tu-La với đẳng cấp rất thấp .
Khi chúng vãng sinh , nếu như không có phước báu lớn , không thể lên trời . Người có nhiều phước báu một chút thì làm Thiên nhân . Có phước báu lớn nhất mới có thể làm Bồ Tát , còn thành Phật thì rất ít . Bây giờ chúng ta không nói chuyện thành Phật . Đời trước nếu như không có nhiều phước báu , cũng không phạm tội lớn , sau khi chết , không xuống địa ngục , cũng không làm cô hồn quỉ dại đi phiêu lưu , nhưng họ trở thành chúng sinh A-Tu-La với đẳng cấp thấp . Ở nơi A-Tu-La cũng chia ra hai cấp bậc . Hạng thứ nhất là thiên đàng , hạng thứ nhì là địa ngục . Nhưng cái địa ngục đó không khác hẳn với thiên đàng . Đều là ở chốn A-Tu-La , người trong địa ngục của A-Tu-La không thể ra ngoài , cũng như tội nhân bị nhốt trong tù , không có tự do . Nhưng những chúng sanh A-Tu-La ở cõi thiên đàng rất tự do . Họ có thể đi đây đi đó . Họ cũng có thần thông nhưng họ hơi háo chiến , thích chọc giởn người , làm phiền người , bảo người ta làm này làm nọ . Thật ra chỉ muốn chọc cho vui thôi , có lúc không có ác ý gì .
Có một số người linh hồn họ mẫn cảm hơn . Chúng ta gọi là linh hồn hay gọi là chủ nhân cũng như nhau . Có lúc linh hồn sẽ rời khỏi thể xác , khi đó rất có thể các chúng sinh khác đến mượn tạm thể xác . Có lẽ mượn thân thể này để làm việc gì đó , rất có thể làm việc xấu , hay là hưởng thụ những đam mê của thế gian . Khi thể xác bị nhiều chúng sanh mượn để ở , chúng ta gọi người đó bị "ma nhập". Chúng ta nghe người đó phát ra nhiều thứ tiếng khác nhau , vì lúc đó có nhiều chúng sinh A-Tu-La đến mượn thân xác của người đó . Nói bậy hay làm bậy điều gì là tự người đó không thể kìm chế được .
Nhưng có loại A-Tu-La hiền hơn , họ chỉ đến chơi với mình rồi đi . Trường hợp đó không đến nỗi gì . Có loại A-Tu-La rất tham , họ thích dùng thân xác của người ta làm như của họ , khi chiếm được rồi , họ không muốn bỏ đi . Cũng như khi chúng thấy có căn nhà trống tự họ vào ở . Sau này đuổi họ không chịu đi , họ muốn chiếm lấy căn nhà đó .
Nếu như không tu chánh đạo , mà linh hồn lại mẫn cảm , không có Sư Phụ chỉ dẫn , lại không có lực lượng bảo hộ , sẽ gặp loại A-Tu-La với cấp bậc thấp . Khi họ nhập vào , mình cũng không biết . Có lúc nghe như có người nói trong tai , nhưng không thấy người . Đôi khi cũng thấy được người , nhưng phải coi thái độ mẫn cảm của chúng ta như thế nào . Có người có thể thấy ma quỉ , thấy chúng sinh A-Tu-La .
Khi chúng sinh A-Tu-La đến họ không muốn mình thấy họ là A-Tu-La . Họ cũng có thần thông , biến thành hình dạng rất trang nghiêm như Phật Thích Ca Mâu Ni , Phật A Di Đà , hay hình dáng Sư Phụ . Nếu như người tu hành có sư phụ chỉ dẫn , họ có thể phân biệt được thật hay giả ngay .
Thí dụ A-Tu-La biến thành hình dáng của Sư Phụ , dùng hóa thân đến nói chuyện với mình . Nếu là học trò của Sư Phụ , có thể phân biệt ngay được là A-Tu-La giả dạng ra hay hóa thân thật của Sư Phụ đến . Nhưng nếu không theo Sư Phụ học hay là không có thầy giỏi chỉ dẫn , sẽ bị A-tu-La phỉnh gạt , bảo làm này làm nọ . Chúng giả dạng thành Phật A Di Đà , Chúa Giê Su Ki Tô , Quán Thế Âm Bồ Tát ... Người thấy tưởng là gặp Bồ Tát nên lạy . Họ bị A-tu-La sai đủ trò , thường toàn là làm chuyện bậy bạ . Sau đó A-Tu-La còn bảo người đó đi dạy người , bảo họ đi truyền pháp , làm các thứ ấn , nhảy đi nhảy lại rất kích động . Hay là bên trong có tiếng nói , bảo làm việc này việc nọ , nhưng toàn là chuyện không có ích . Phật hóa thân giả phần đông toàn nói không đúng , nhưng đôi khi cũng có thể đoán trước được vài chuyện nhỏ nhặt , nhưng đa số toàn là giả , không có đúng . Thí dụ Phật nói ngày mai sẽ phát sinh chuyện gì đó , kết quả không có việc gì xảy ra , nhưng có lúc có thể trúng .
-
Chúng Sinh A-Tu-La
Khi thứ ma đó đến , người tu hành chân chính sẽ biết , người tu hành không chân chính sẽ không biết . Khi chúng sinh A-Tu-La chiếm được thân thể của chúng ta , hay tạm nhập vào thân của chúng ta , nó có thể sai khiến chúng ta làm rất nhiều việc , chẳng hạn như bảo mình đi đánh lộn với người khác .
Tám tháng trước Sư Phụ qua Đức , ở trong một ngôi chùa có một người đàn bà Việt Nam , tối ngày bị thứ tiếng đó làm ồn . Nó kể cho bà ta nghe con cái bà hư như thế nào , con dâu bà hư như thế nào , con dâu đối đãi không tốt với bà như thế nào . Chuyện đó không có thật , toàn là nó cố ý làm cho người ta cãi lộn . Sau đó còn bảo bà ta khi đi làm lấy đồ đánh lộn với người ta , dùng bạo lực , lấy dao rượt chém người ta . Tuy chưa có giết người , nhưng thường xảy ra những chuyện như vậy , lẽ tất nhiên sẽ bị mất việc làm .
Ở nhà bà ta cũng không an phận . Bà ta không thích con mình , cũng không thích con dâu . Cả ngày chỉ cãi lộn , đối với người nào cũng nghi ngờ . A-Tu-La cho bà nghĩ rằng ai cũng đối với bà không tốt , ai cũng cho rằng bà rất xấu . Năm phút sau họ sẽ đến đánh bà , hay hai tiếng sau họ sẽ làm những gì không tốt . Người bị ma nhập tin lời của A-Tu-La nên mới thường cãi lộn với người ta .
Vì thứ ma đó thích làm cho người ta cãi lộn và vì chúng là A-Tu-La nên bổn tính của chúng rất háo chiến . Lúc còn làm người chúng thích đánh giặc , chết rồi làm A-Tu-La vẫn chưa bỏ đi cái thái độ háo chiến . Chúng lợi dụng thứ người nhạy cảm , không có trí huệ , dễ tin lời người , làm cho người ta gây hấn với nhau , rồi chúng ở một bên cười nhạo .
Đôi khi chúng biến thành Phật Thích Ca Mâu Ni , Quán Thế Âm Bồ Tát , hay là Tế Công Hòa Thượng , hay các vị thần khác . Các chúng sinh A-Tu-La đó đều tự xưng mình là Phật , là thần nào đó , đến dạy người , bảo người ta dâng lễ , hay nói kinh gì đó ... Có lúc nói những đạo lý rất hay , vì chúng đã từng đọc qua . Con người chúng ta cũng có thể học , tại sao ma không thể học ? Chúng sinh A-Tu-La có nghe kinh , rồi sau đó nói lại cho người ta nghe , bảo người ta thỉnh lễ bái lạy cúng dường ... Có lúc còn khuyên người ta nên lấy nhiều vợ , vì chúng rất thích đàn bà , rất háo sắc . Chúng không có thân thể , không có thể hưởng thụ lạc thú trên thế gian , nên mới xúi người ta kết hôn cho nhiều , hay bảo người ta ăn mặn , ăn thức gì nó thích ăn . Muốn hưởng thụ , chúng phải đi mượn thân hoặc lợi dụng thân thể của một người nào đó .
Chúng ta thích hút thuốc hay uống rượu đều là vì bị A-Tu-La ảnh hưởng , chứ không phải chúng ta tự muốn . Người có tu hành , mắt trí huệ mở rồi , sẽ thấy được người hút thuốc là hít thuốc độc . Những người cờ bạc , rượu chè , đều bị chúng sinh A-Tu-La vô hình bao vây . Chúng rất thích mùi thuốc . Chỉ cần hít vào chúng cảm thấy rất khoái lạc . Vì chúng không có thân thể , không thể tự hút , không thể cờ bạc , không thể uống rượu nên mới lợi dụng người hơi mềm yếu nhạy cảm , thúc họ làm những việc đó cho chúng .
Cho nên chúng ta thấy người uống rượu càng uống càng nghiền , vì không chỉ có một chúng sinh A-Tu-La mà thôi , nó còn đem ba , bốn người bạn đến , mỗi đứa chia hưởng một chút . A-Tu-La đến càng nhiều , người uống rượu càng nhiều . Họ rất khó cai rượu , cho dù có muốn sửa đổi cũng khó sửa đổi được . Người hút thuốc hay cờ bạc cũng khó bỏ . Tiếng Trung Hoa có chữ dùng để gọi hạng người đó là ma cờ bạc , ma rượu . Lời ấy áp dụng rất chân thật , không phải là lời đùa hay thành kiến .
Nhưng người nào tu hành Pháp Môn Quán Âm có thể sửa đổi rất mau , nếu không tu hành thì khó sửa . Có mấy người đồng tu mỗi ngày thường hút ba đến bốn bao thuốc lá . Sau khi thọ pháp liền bỏ hút , đến bây giờ một điếu cũng không hút . Họ còn gây ảnh hưởng cho bạn bè cũng bỏ thuốc luôn .
Uống rượu cũng như vậy , có người sống đến 50 tuổi , cả đời uống rượu , nhưng sau khi thọ pháp liền sửa đổi . Tu pháp môn của Sư Phụ có thể sửa đổi liền , hiện giờ thuốc cũng không hút , rượu cũng không uống , thịt cũng không ăn . Họ sửa đổi một cách rất mau chóng , rất tự nhiên . Sau khi Sư Phụ truyền pháp , họ không hút một tí thuốc nào , một giọt rượu cũng không uống . Bạn của họ bây giờ không nhận ra họ nữa , người ta cảm thấy rất kinh ngạc , làm sao biến đổi lớn như vậy ? Đây là cái gương rất chân thật trong thời đại này , không phải chuyện hoang đường .
-
Chúng Sinh A-Tu-La
Uống rượu là bị ảnh hưởng của A-Tu-La , quí vị có tin không ? Có ai có thể thấy tình trạng này ? Vì có thứ A-Tu-La hơi hung hăng , có thứ hơi lỳ , có thứ ưa hút thuốc uống rượu hơn , cho nên chúng ta bị A-Tu-La ảnh hưởng , còn vấn đề bị thứ A-Tu-La nào ảnh hưởng , tự chúng ta sẽ biết được .
Có người tu hành không tốt , tu pháp không tốt , hay mục đích tu hành không chân chính , tuy rằng có tu hành nhưng bản thân không sạch . Thí dụ như muốn tu hành vì muốn theo đuổi danh lợi và thần thông , hay tu hành mà không đoạn được dục vọng , vẫn thích ăn thịt chúng sanh , uống rượu , tà dâm ... Nếu như quá đáng , phạm quá nhiều , sẽ bị A-Tu-La lợi dụng thân thể làm việc xấu , đó là gặp thứ A-Tu-La hạng nặng . Còn thứ A-Tu-La kém lợi hại hơn sẽ làm cho chúng ta cãi lộn với người khác , còn A-Tu-La hiền hơn nữa sẽ làm cho chúng ta hút thuốc uống rượu .
A-Tu-La không phải chỉ lợi dụng người tu hành mà thôi , chúng có thể lợi dụng bất cứ người nào . Thứ A-Tu-La hạng nặng ưa thích lợi dụng người tu hành không sạch , hay có mục đích không đơn thuần . A-Tu-La hạng nhẹ hơn thì lợi dụng người nhạy cảm , hay trí lực yếu kém , bảo họ hút thuốc nhiều , uống rượu nhiều , hủy hoại thân thể lẫn tinh thần . Thứ người đó thật là tội nghiệp , họ vốn không muốn nhưng vẫn làm , vì bản thân quá yếu đuối nên mới bị lợi dụng . Trường hợp đó xảy ra rất nhiều .
Nếu như ai không cẩn thận , sẽ đem cho mình nhiều phiền phức . Những thứ A-Tu-La đó sẽ làm cho mình tin chúng là Bồ Tát . Chúng ta vốn có óc thông minh có thể phán đoán , chúng ta sẽ hoài nghi , Phật Bồ Tát làm sao muốn hưởng thụ những chuyện này ?
Phật Bồ Tát là tối cao thượng , tối cao quí , trí huệ cao siêu , làm sao tìm thêm vài bà vợ được ? Hay ăn thịt uống rượu được ? Nhưng lúc đó A-Tu-La sẽ dùng lý luận của nó , để giải thích cho chúng ta nghe . Khi thân thể bị nó xâm chiếm , sẽ tin nó . Nó bảo làm gì thì mình làm , mất đi quyền tự chủ của mình . Càng ngày càng trở nên yếu đuối , không còn năng lực , việc gì cũng phải nương vào nó , gần như không còn là con người nữa , chẳng khác gì đã biến thành A-Tu-La .
Nếu như thân xác của chúng ta không có chủ , không có linh hồn hay bản lai diện mục , không có trí huệ , thì cái thân thể đó không có ích dụng . Khi bị A-Tu-La xử dụng xác thân là biến thành A-Tu-La rồi .
Thế giới này chứa đầy A-Tu-La và các chúng sinh khác . Nếu như mắt trí huệ của chúng ta mở rồi , chúng ta có thể thấy . Không phải chỉ có quí vị ngồi đây nghe kinh mà thôi , lúc Sư Phụ giảng kinh , còn có Phật Bồ Tát và "Bản Lai Diện Mục" của Sư Phụ đến giảng kinh . Không phải thân xác của Sư Phụ giảng kinh , ngoài ra còn có các chúng sinh khác như thiên nhân , A-tu-La đều đến nghe . Nhưng vì con mắt trí huệ của quí vị chưa mở , nên không có thấy , tưởng rằng ở đây chỉ có quí vị mà thôi .
Thế giới này có rất nhiều A-Tu-La , cũng có ma quỉ , không phải thấy ai cũng là con người . Nhưng vì con mắt trí huệ của quí vị không có mở , không phân biệt ai là người , ai là ma , ai là A-Tu-La ? Nếu như thấy được sẽ sợ hãi , vì biết được người đó không phải là người .
Chúng sinh A-Tu-La không những chỉ quấy rối chúng ta mà thôi , có lúc họ còn lợi dụng thân nhân đến phá rầy chúng ta nữa . Thí dụ như chúng ta tu hành , họ lại phá phách . Nếu như không đạt được mục đích , họ sẽ quấy nhiễu thân nhân chúng ta , để cho cha , mẹ , vợ , chồng , con ... , đến làm phiền chúng ta , cản trở chúng ta tu hành . Đó đều là bị ảnh hưởng của A-Tu-La mà ra . Nói về đẳng cấp của A-Tu-La , chúng vẫn còn nằm trong Tam Giới . Sư Phụ không nói tầng trời Phi tưởng phi phi tưởng , hay dùng những danh từ Phật Giáo , như vậy quá phức tạp . Sư Phụ nói đơn giản hơn , gọi Thế Giới Thứ Nhất , Thế Giới Thứ Hai , Thế Giới Thứ Ba , thứ tư , thứ năm , sáu ... , để dể hiểu hơn .
-
Chúng Sinh A-Tu-La
Thế Giới Thứ Nhất tràn đầy những chúng sinh A-Tu-La . Thế Giới Thứ Hai hiền hòa hơn , người hới có trí thức mới có thể đến đó .
Trong Thế Giới Thứ Hai còn chia ra rất nhiều đẳng cấp , trong kinh Phật có nói , Sư Phụ không muốn phí thời gian với quí vị . Nếu như quí vị muốn nghiên cứu thêm , về nhà đọc tự điển hay kinh điển Phật giáo sẽ biết rõ . Thế Giới Thứ Hai chia ra rất nhiều đẳng cấp , có chúng sinh không hiền từ . Khi chúng ta đến cấp bậc cao một chút , thí dụ đạt được đẳng cấp thứ hai , cũng sẽ bị chúng làm phiền . Họ có lực lượng cao hơn A-Tu-La nên họ làm phiền chúng ta dữ tợn hơn . Tu hành đến Thế Giới Thứ Hai đã khó lắm rồi , muốn thấy được Phật Bồ Tát còn khó hơn nữa . Mỗi cánh cửa trên con đường đều có chúng sinh làm phiền cản trở , không cho chúng ta thông qua .
Chúng sinh A-Tu-La đương nhiên cũng có một chút ít thần thông . Họ cũng có thể cho chúng ta mượn năng lực thiên nhãn thông . Vì họ không có thân thể cho nên họ tự do hơn chúng ta , có thể bay đi bay lại , đi đến đâu cũng mau . Họ có thể thấy được chúng sanh vô hình . Chính họ đã là vô hình , cho nên thấy rõ hơn chúng ta , đôi khi cũng có thể thấy được tâm người , cũng có thể đoán trúng một , hai chuyện , nhưng đó cũng không có gì . Nếu như có một ngày A-Tu-La đó rời khỏi thể xác , chúng ta sẽ trở lại như trước , cái gì cũng không biết , cái gì cũng không hiểu được , lại còn dốt hơn trước nữa , còn yếu đuối hơn , bởi vì lúc bấy giờ không quen thuộc , không biết làm sao để xử dụng thân thể này . Mỗi lần A-Tu-La muốn xử dụng cái thân thể của chúng ta , chúng đẩy linh hồn của chúng ta qua một bên , làm cho chúng ta như chết vậy , linh hồn của mình đứng bên cạnh , phát sanh cái gì cũng biết hết , nhưng không thể tự mình kềm chế , bởi vì bị A-Tu-La đè cứng ngắt .
Hồi nãy Sư Phụ nói , có nhiều người mẫn cảm bị ma lợi dụng , đó là bởi vì những người đó quá ngây thơ , tin người quá dễ dàng , đương nhiên liền bị A-Tu-La lợi dụng . Ngoài ra còn có một cái nguyên do là tu hành nhưng không có chân sư chỉ dạy , không có pháp môn tốt để bảo hộ , hay là mục đích của mình không có đơn thuần , thích tu hành để có thần thông , ngày sau được danh lợi song thu , được nhiều người tôn bái ... Nếu như có thứ tư tưởng đó , muốn mau được thần thông , lúc đó chúng sanh A-Tu-La họ mừng lắm , họ sẽ lợi dụng cái lòng tham của người này , hiển hiện thần thông cho thứ người này tin , tưởng rằng có Phật Bồ Tát thật đến dạy người , A-Tu-La sẽ nói :"Bởi vì thấy nhà ngươi rất ưa thích tu hành , cho nên đến dạy nhà ngươi ." A-Tu-La cũng biết giảng kinh , nói rất nhiều chuyện , còn đem thứ người này đi đến cảnh giả để chơi .
Cho nên chúng ta tu hành phải có mục đích tốt , đó là cái điểm quan trọng nhất , cái lý tưởng cao tức là tự cầu giải thoát đồng thời độ chúng sanh liễu thoát sanh tử . Ngoài cái mục đích cao quí đơn thuần , còn phải có cái pháp môn cao , có minh sư cao cường , tu hành mới an toàn . Không phải mỗi ngày đếm hơi thở một , hai , ba , bốn như vậy tưởng là tu hành , đó chỉ là cái phương pháp sơ bộ mà thôi .
Như đã nói lúc nãy , nếu như người tham thần thông , sẽ bị A-Tu-La giả dạng Phật Bồ Tát mà phỉnh gạt , rồi đẫn đến những cảnh giới giả , thí dụ nói là Tây Phương , nhưng cái Tây Phương này đương nhiên là giả , không phải cái Tịnh Độ Tây Phương thật . Ở chổ A-Tu-La , họ cũng có cái năng lực tưởng tượng đó . Đối với hạng A-Tu-La có phước báu cao một chút , họ có thể chuyển biến ra cảnh giới giả , họ sẽ biến hóa một phần rất nhỏ của cảnh tượng thế giới Tây Phương , đem thứ người đó lên coi chơi , bởi vì người phàm chúng ta chưa có đi qua cái Tây Phương Tịnh Độ chính thực , cho nên không cách nào biết được cái cảnh tượng mình thấy là thật hay là giả ?
-
Chúng Sinh A-Tu-La
Vị Phật giả sẽ nói :" Ngươi đã thành Phật rồi , hay là thành A-La-Hán hay thành Bồ Tát nào đó . Bây giờ nhiệm vụ của ngươi phải đi dạy người ." Rồi bày một cái phương pháp , bảo mình làm sao làm sao , cho nên hiện giờ chúng ta thấy có nhiều người xưng là thầy ra dạy người , cũng làm cho người ta có cảm ứng , thân mình nhảy đi nhảy lại , hay là lắc qua lắc lại , hay là làm các thứ tay ấn , hay là nghe có tiếng nói bên tai , hay là dự đoán ngày mai sẽ phát sinh việc gì , hôm sau sẽ phát sinh chuyện gì ... A-Tu-La chúng sinh cũng có thể cứu bệnh , nhưng lực lượng có hạn , chỉ có thể cứu bệnh nhỏ , nhưng chúng ta càng lúc càng tin , sau khi tin rồi , A-Tu-La có bảo cái gì thì chúng ta làm cái đó .
Đôi khi A-Tu-La biến hóa ra một cái đĩa bay , chở một hai người trong đó , dẫn chúng ta đi chơi , chúng ta cứ tưởng là thiên nhân đến , kỳ thật chỗ chúng ta đi chơi chỉ là thế giới của A-Tu-La mà thôi . Nhưng Sư Phụ nói cho quí rõ , chỗ ở của A-Tu-La rất đẹp , cho nên chúng ta vào đó sẽ tưởng lầm là Thiên Đàng , là chỗ cứu cánh Niết Bàn , chúng ta không biết phân biệt thật giả , thế giới của họ còn đẹp hơn thế giới của chúng ta hơn trăm lần , người nữ ở đó cũng rất đẹp đẽ . Cho nên nếu như không có chân sư , không có hướng đạo tốt dù là mình tu hành đi đến đó , hay là A-Tu-La đưa mình đi , chúng ta cũng sẽ lầm đường . Cái cảnh tượng đẹp đẽ đó , chúng ta cho là quá tốt quá đẹp , nếu như bây giờ tin họ , sau khi chết rồi , họ sẽ đem chúng ta lên cõi đó .
Sanh tiền nếu như không có phước báu , sau khi chết thì sẽ xuống địa ngục . Người có một tí phước báu , có thể đi chỗ "địa ngục hạng nhất", cũng là thiên đường của A-Tu-La . Ngoài ra còn có "địa ngục hạng nhì", đó là cái địa ngục thật , nhưng hai chỗ đó đều là địa ngục , bởi vì đều là chỗ của A-Tu-La . Cho dù là thế giới của A-Tu-La , chúng ta cũng có thể sống rất trường thọ , có người sống 1000 năm , hay là 2,3 ngàn năm , không thành vấn đề , có lúc sống tới mấy trăm vạn năm . Nếu như gặp tình trạng đó , chúng ta sẽ tưởng rằng đã cứu cánh rồi , là chỗ trường sanh bất lão , chỗ trường tồn , chỗ thế giới Tây Phương Cực Lạc , mà không biết rằng còn có cảnh giới cao hơn .
Có nhiều người tu hành một đoạn thời gian rồi , đều tự xưng họ đã thành Phật rồi , họ sẽ nói :"Các Đức Phật đều đến chỗ của họ dạy họ ." Muốn thấy được Phật không phải dễ như vậy , phải tu hành rất cực khổ , có một tấm lòng thành khẩn rất đơn thuần , trong sạch như lưu ly vậy , không chứa một tí chất tạp . Cho dù là thành tâm thành ý chỉ cầu giải thoát , cầu trí huệ , độ chúng sinh , tu hành , nhưng vẫn phải tìm được một vị chân sư cao siêu , theo học vài năm , mới có thể thấy được một , hai vị Phật . Nhiều người tưởng rằng tu hành rất mau , muốn thấy Phật là thấy liền , tưởng rằng bởi vì mình đặc biệt , không có chuyện đó .
Trên thế giới này , cho dù chúng ta muốn trở thành một vị y sĩ , cũng phải học rất lâu mới thành công . Muốn trở thành một vị minh sư , cũng cần phải theo một vị thầy học hỏi vài năm , có kinh nghiệm phong phú , mới có thể trở thành người thầy , bất cứ học cái gì , cũng phải cố gắng rất lâu . Học đồ trên thế giới đã không dễ dàng như vậy , huống chi học Phật ? Làm sao mà có thể thành tựu mau như vậy ? Hạng người đó đều cho rằng cái luật của vũ trụ này đối với họ không có quan hệ , làm sao mà không có quan hệ ? Bất cứ chúng sinh nào chỉ cần ở trên cái thế giới Ta Bà này , bất cứ là ai , đều phải tuân theo cái pháp luật của thế giới Ta Bà này , dù là Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không ngoại lệ .
Cho nên lúc Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế có nói , chúng ta từ Phật cho đến chúng sinh , thọ tứ trọng ân : ân của chúng sinh , ân của cha mẹ , ân của sư trưởng , ân của bạn . Chỉ cần ở cõi thế giới Ta Bà , bất cứ là Phật , Bồ Tát , chúng sinh ... đều nên gánh tứ trọng ân , người tu hành cũng như vậy , nên có cái thái độ ân nghĩa đó , nên tôn trọng cái pháp luật của thế giới này , nếu không sẽ có rắc rối .
-
Chúng Sinh A-Tu-La
Bất luận là Phật Thích Ca Mâu Ni hay là Chúa Giê Su Ki Tô , đều dạy như nhau , các Ngài trước tiên dạy người phải lấy đạo đức làm trọng , người không có tâm đạo đức , không có lòng từ bi , không thể tu hành , cũng sẽ biến thành "Phật" không có đạo đức . Trên cái thế giới này , người không có đạo đức đã làm cho người ta không ưa rồi , làm sao để họ đi Tây Phương , làm Bồ Tát ở cõi Tây Phương không có đạo đức ? Trong Kinh Lăng Nghiêm có giảng rất rõ ràng , người ăn thịt uống rượu , tu hành sẽ biến thành ma , không có thành Bồ Tát .
Sư Phụ chỉ nói cái thí dụ nhỏ mà thôi , có nhiều người tu hành bậy bạ , nhưng họ tưởng rằng họ đã cao hơn cái pháp luật của vũ trụ , ăn thịt chúng sinh không có sao , có nhiều chồng , nhiều vợ cũng không sao , nói dóc , gạt người , nhận nhiều tiền cũng không sao , bởi vì họ đã là Phật rồi , cái thành tựu của họ đã cao hơn cái pháp luật .
Cho dù đã giải thoát rồi cũng nên trì giới , mà còn phải giữ giới cho rõ ràng , chỉ có tôn trọng cái pháp luật này mới có thể giải thoát , còn không Phật Bồ Tát cũng rớt xuống như thường , nếu như thối tâm , hay là đạo không đủ , liền bị mời xuống ngôi . Nói thí dụ Tổng Thống của một nước là đại diện cho ngôi vị tối cao trong nước , nhưng nếu như Tổng Thống phạm pháp , có phải cũng bị cảnh sát bắt không ? Cũng phải bị pháp luật trừng trị như thường phải không ? Rồi bị pháp hình nhốt vào tù ? Không phải bởi vì người đó là Tổng Thống , cho nên muốn làm gì thì làm . Tình trạng của Phật Bồ Tát cũng như thế .
Có lúc vì tình trạng của cá nhân không thể phối hợp , không thể ăn chay , hay là cho rằng mình là người phàm phu , còn chưa làm được , không thể tu hành cho đúng hết , những tình trạng đó Sư Phụ còn có thể tha thứ , bởi vì không phải cố ý , nhưng vẫn phải gánh nghiệp chướng , có cố ý hay không đều là nghiệp chướng , hể có nhơn thì có quả . Nói thí dụ chồng hay là người vợ không thích mình tu hành , không chịu nấu cơm , không có chỗ để ăn chay ... , đó là tình trạng chân thật , không phải gạt người , cho nên còn có thể tha thứ .
Nhưng còn một thứ người ăn thịt , uống rượu , tà dâm ... , mà còn nhìn nhận là Phật . Như đã nói trước , người không thể ăn chay , người không thể tu hành chân chính , họ biết được tình trạng của họ còn chưa được , có lẽ vì công việc , vì chồng , vì vợ phản đối ... Nhưng có nhiều người lại cho rằng bất cần họ ăn gì , làm gì cũng được , hành vi loạn bậy , tà dâm , sát sinh , ăn thịt , uống rượu , ăn trộm tiền , gạt người ... mà họ còn cho rằng họ là Phật , làm sao có thứ Phật đó được ? Người phàm phu chúng ta cũng không thể chấp nhận thứ người đó , làm sao mà đi đỉnh lễ thứ Phật đó được ? Còn cho họ là thầy mình ? Thật là vô lý .
Người tu hành thì nhiều , nhưng mà thành Phật thì ít , bởi vì không hiểu rõ cái pháp luật của vũ trụ , bị chúng sinh A-Tu-La lừa gạt , nó sẽ nói : "Ta là Phật nào đó đến dạy ngươi để thành Phật , bây giờ ngươi đã thành Phật rồi , không còn phải lo những chuyện nhỏ nhặt này , tu hành đừng có chấp trước ..." Nó sẽ nói những thứ lời đó , để cho mình tưởng rằng mình hay lắm , nghĩ rằng đẳng cấp của mình đã cao như vậy rồi , đừng có để ý đến pháp luật của vũ trụ , nếu như thật nghĩ như vậy là mệt rồi . Cho nên người tu hành , nếu như không có trí huệ , rất bị lường gạt , sau này không có giải thoát được , không những chúng không để cho chúng ta đi , mà còn để khối đá lớn chận trước mặt chúng ta .
Cho nên , người tu hành nhất định phải có người chân sư cao siêu chỉ dạy . Có một vị Sư Phụ tại thế rất quan trọng , có 2 cái lý do . Thứ nhất , vị đó sẽ chỉ dẫn chúng ta , cái gì là quy luật tu hành tối cao căn bản , cái đạo đức tu hành nên thế nào , tâm phải rất đơn thuần , mục đích lý tưởng nên rất cao , như vậy mới không tẩu hỏa nhập ma , không bị ma lường gạt . Thứ 2 , nói thí dụ chúng ta trong khi tọa thiền thấy được thầy của chúng ta , chúng ta sẽ nhận thức được , bởi vì chúng ta nhận thức được cái bề ngoài của vị thầy , nếu như vị thầy đó xuất hiện khi chúng ta đương ngồi thiền , dung mạo cũng giống nhau . Nhưng mà nếu như không có thầy hiện thời , lúc tọa thiền , nếu như có đại sư thời quá khứ xuất hiện đến dẫn đi , hay là giảng kinh cho chúng ta nghe , chúng ta cũng không có cách biết được đây có phải thật là vị đại sư thời quá khứ hay không ? Bởi vì chúng ta hồi giờ chưa có từng gặp Phật Thích Ca Mâu Ni đã mất hơn 2500 năm , Giê Su Ki Tô cũng mất gần 2000 năm rồi , thông thường chúng ta thấy hình dáng của các Ngài , đều là người ta tưởng tượng mà họa ra hay chụp ra hình , cho nên nếu lúc tọa thiền , các Ngài xuất hiện bên trong của chúng ta , chúng ta cũng không hiểu được các Ngài là thật hay giả , chỉ có thấy được thầy hiện thời , mới biết được là thật hay giả .
-
Chúng Sinh A-Tu-La
Lúc chúng ta tọa thiền đi đến cảnh giới cao , sẽ được gặp được thầy chính thật , họ sẽ giải quyết cái phiền phức của chúng ta , họ sẽ giúp đỡ cho chúng ta vượt qua chướng ngại , họ sẽ dẫn chúng ta đến cảnh giới cao , lúc đó mới chính thật thấy được các vị minh sư thời quá khứ , còn không chỉ lo tự mình tu mò , có thấy được những vị đại sư trong thời quá khứ đi nữa đều không có đáng tin cậy được , bởi vì chúng ta không hiểu cái diện mạo của Giê Su Ki Tô hay là Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế như thế nào . Chỗ của A-Tu-La đều có đầy cái hình dáng gạt người đó .
Cho nên chúng ta tu hành nhất định phải có minh sư chỉ dẫn , bởi vì khi ta đi qua chỗ A-Tu-La , vị minh sư sẽ nói cho chúng ta rõ , cái này đừng có coi , nhắm mắt lại , đi qua cho mau , còn không thì vị minh sư sẽ dùng đồ che đậy cái cảnh giới không tốt đó , như vậy chúng ta không còn thấy được , khi tọa thiền chỉ thấy một màn đen mà thôi , hay là như là tấm màn cửa treo trước mặt , chỉ cảm thấy sáng mờ mờ mà thôi , như vậy vị minh sư mới có thể kéo chúng ta lên , đợi cho lên khỏi chỗ A-Tu-La , mới vén màn ra cho chúng ta xem . Bởi vì nếu như định lực tu hành không đủ , thấy cảnh đẹp của A-Tu-La hơn trần gian nhiều , sẽ bị A-Tu-La kéo đi , khi bị kéo đi rồi , dù là chân sư có nói rõ cái sự thật chăng nữa , mình cũng không tin lời , chúng sanh A-Tu-La sẽ nói : "Thầy của ngươi không phải là A Di Đà ..." Nó sẽ dùng thứ phương pháp này đến dụ mình , đợi đến khi mình phát giác bị lừa gạt là đã quá trễ rồi .
Cho nên tu pháp môn chính , rất có thể không thấy cảnh giới được ngay , bởi vì nếu còn ở cảnh giới thấp , minh sư sẽ không cho mình coi , nhưng sẽ có một chút ấn chứng , thấy dụ như thấy được ánh sáng , hay là thấy được con đường ... , chúng ta biết được chúng ta đi đến đâu , chỉ không thấy cảnh giới mà thôi . Thấy được cảnh giới không có nhất định là có ích lợi , thấy được cảnh tượng thấp chỉ dễ bị họ dụ gạt , làm cho chúng ta mê lạc , lọt vào đó rồi thì khó mà ra được . Bởi vì thích cảnh giới đó , A-Tu-La sẽ dẫn chúng ta đi , dùng đủ mọi kế làm cho chúng ta tin , sau này trở thành bộ hạ của A-Tu-La .
Dù cho có thấy Phật đi nữa , chúng ta cũng đừng có mừng lắm , vì đó còn chưa phải là chỗ cứu cánh , cần nên vượt qua cái cảnh giới âm sắc này , mới có thể tìm được cái chủ quyền chính của chúng ta , bởi vì nếu còn âm , còn sắc , còn Phật , còn ta , thì vẫn còn "ta" thấy được "Phật" , vẫn chưa phải "ta" là Phật . Cho nên khi tọa thiền , thấy có Phật hay là minh sư xuất hiện trong đó , đều chỉ là muốn dẫn mình lên cõi cao một chút mà thôi , bởi vì tu hành tới một đoạn thời gian , đạt đến cảnh giới nào đó , chúng ta như đụng trần nhà , lúc đó chúng ta có thể nổ lực bằng cách nào , cũng không thể vượt qua , không có cái gì có thể đem chúng ta lên , trừ phi có thầy đến kéo chúng ta , dẫn chúng ta xuyên qua cái từng chướng ngại , sau đó chúng ta lại tiếp tục đi .
Cho nên phải có một người thầy dẫn đạo mình , chứ không phải tọa thiền thấy Sư Phụ ở bên trong xuất hiện đem chúng ta đến cảnh giới cao hơn , cho rằng ngon lắm rồi , như vậy vẫn còn là ta có sư phụ , ta tôn bái sư phụ , còn chưa phải là "ta" là minh sư , cần nên trở thành sư phụ mới đúng , tự chúng ta là minh sư , đạt được cái đẳng cấp đó , mới là cái cảnh giới tối cao . Trước khi còn chưa nhận thức chúng ta là minh sư cần phải có những vị minh sư khác dẫn chúng ta đi . Cho nên trong thiền tông có nói : "Phật đến chặt Phật , ma đến chặt ma ", nhưng đa số người chỉ nói qua miệng mà thôi , tự họ không có thể nghiệm , họ tưởng rằng không cần thành Phật , không muốn khẩn cầu cái gì là hay nhất , không phải như vậy , tự mình cũng phải có thể nghiệm , mới có thể nói Phật đến chặt Phật , nếu như Phật cũng không thấy , vậy chặt cái gì ? Chặt Phật là bởi vì muốn đi đến cảnh giới cao hơn một chút .
-
Chúng Sinh A-Tu-La
Ở Ấn Độ có một vị tu hành rất nổi tiếng , ngài tu hành mấy chục năm mới trở thành vị đại sư . Khi còn chưa thành Phật , còn chưa thành tựu Kim Cang Tam Muội , tức là trước khi đạt được A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu-Tam-Bồ-Đề tới cứu cánh , ngài rất tôn bái một vị nữ thần , cũng như chúng ta tôn bái Quán Thế Âm Bồ Tát vậy . Ngài quá tôn bái vị nữ thần đó , ngài rất thích được gặp vị nữ thần đó , tôn bái một thời gian , cái tượng Phật đó như sống dậy , mỗi ngày ngài đều có thể nói chuyện với tượng Phật đó , ngài đến chùa đó , tượng Phật đó cũng nói chuyện với ngài , dạy ngài đủ thứ , bởi vì ngài quá ưa thích , cho nên rất gần gũi , nhưng sau này Ngài gặp sư phụ của ngài , nghe sư phụ của ngài giảng kinh , ngài mới biết cái tình trạng đó vẫn chưa có cái cứu cánh .
Thí dụ chúng ta rất ưa thích Quán Thế Âm Bồ Tát hay là Chúa Giê Su Ki Tô , hay là Đức Mẹ Maria , bởi vì chúng ta quá thích , cho nên rất có thể có một ngày mình sẽ giao thông với cái vị thánh nhân đó , nói chuyện với họ , hay là gặp họ ... , lúc đó chúng ta sẽ cảm thấy rất ngon lành , nhưng mà cho dù chúng ta có gần gũi họ , tôn bái họ , đều vẫn còn là đồ bên ngoài , thấy được họ , không có thể nào để cho chúng ta tìm được mình là ai ? Cũng không thể biết được chúng ta vốn có đầy đủ năng lực gì ? Cái tình trạng chân thật của vũ trụ này như thế nào ? Những thứ này chúng ta đều không hiểu biết .
Vị tu hành người Ấn Độ đó , sau khi gặp được sư phụ của ngài rồi , liền hiểu biết những gì ngài thấy vẫn chưa phải là thế giới cứu cánh . Sư Phụ của ngài dạy ngài cách tu hành , ngài tu hành rất siêng năng , tiến bộ cũng rất mau , nhưng đạt đến một cái trình độ nào đó , ngài không thể vượt qua , bởi vì mỗi lần ngài muốn vượt qua cái cảnh giới đó , vị nữ thần mà ngài tôn bái trước kia sẽ đến trước mặt ngài , không để cho ngài vượt qua , như vậy một khoảng thời gian rất dài , ngài đều không thể xung qua cái chướng ngại cái âm sắc này .
Có một ngày ngài than phiền với sư phụ ngài , sư phụ của ngài nói rất gắt : "Sao không thể vượt qua được ?" Rồi vị sư phụ mới tìm một cục đá bén nhọn , dùng sức đè cái hòn đá có đầu bén nhọn vào giữa trán của người đệ tử cho đến chảy máu , nếu như người thường thấy được , nhất định sẽ cảm thấy vị sư phụ này rất tàn nhẫn , nhưng sư phụ của ngài bảo ngài nên hiểu biết , nên vượt qua , lúc đó ngài hết lòng tọa thiền , khi ngài thấy vị nữ thần đó đến , ngài dùng cái trí huệ của ngài chặt đứt vị nữ thần ra làm 2 đoạn , từ đó mới có thể vượt qua cảnh giới đó . Nói nghe thì dễ lắm , nhưng mà quý vị trước khi còn chưa có gặp cái thứ cảnh giới đó , không thể nào tưởng tượng được , trên thật tế không có đơn giản như vậy .
Thầy cao đẳng không có dạy chúng ta cái bộ vị trung tâm thấp , bởi vì trên thân của chúng ta có rất nhiều trung tâm có thể tu hành chúng ta gọi là chakra , nếu như chúng ta tu đơn điền cũng sẽ có rất nhiều lực lượng , tu tâm luân cũng có rất nhiều lực lượng , tu cái gì cũng có lực lượng , cho dù nhìn sóng mước cũng có lực lượng , nhưng vẫn chưa phải là cái trung tâm cứu cánh , nếu như chúng ta tu những bộ vị từ con mắt trí huệ xuống , sau này muốn tu cảnh giới cao cũng không dễ dàng , bởi vì cái "tâm" của chúng ta đã quen đặt tại cái bộ vị trung tâm thấp , không dễ đi lên , cho nên các vị đại sư không có dạy người để tâm vào cảnh giới rất thấp , từ con mắt trí huệ trở xuống đều là hệ thống bài tiết , nhìn ngó rất dơ , cái cảnh giới mà dùng cơ quan bài tiết để tu , vẫn còn nằm trong cái thành , trụ , hoại , không . Có thành , trụ , hoại , không là không thể vĩnh viễn được .
Chúng ta nghe nói rất nhiều pháp môn tu hành , nhưng không biết cái pháp môn nào mới là tốt nhất , nhiều người tự xưng họ là pháp sư cao nhất , có người tu hít thở , tu đơn điền , cũng có được cái gì đó , nhưng đều không có cứu cánh , điểm đó chúng ta chỉ cần tham khảo kinh điển là biết ngay , hay là tự mình tu hành rồi , cũng sẽ biết được những phương pháp này đều không cứu cánh .