THANH HẢI VÔ THƯỢNG SƯ và PHÁP MÔN QUÁN ÂM - Tác giả : LƯU THỊ KỲ NAM
Nhiều tôn giáo nhìn vào cõi vía tưởng rằng đây là cõi cao nhất của tận cùng . Thật ra đây chỉ là chỗ ở của những người tu yoga , cũng là chỗ ở của 'Muqam-i-Allah' của những người theo Hồi giáo . Phương pháp kiểm soát hơi thở thật ra không thể đem họ đi xa hơn cõi vía được , bởi vì 'khí' (pranas , vital airs , vital forces) sẽ nhập vào vùng gọi là 'Chidakash' nằm trong cõi vía nầy . Nếu họ tìm được một vị Minh sư tại thế , vị nầy sẽ dạy họ pháp môn Quán Âm và sẽ dẫn họ xuyên qua năm Âm thanh để đến cõi thứ năm của Thiên quốc . Những tên được nói đến trong kinh điển như là Swarga , Naraka , Thiên đàng , Địa ngục , Dozakh , Bahisht đều nằm trong cõi vía nầy".
Narain Dass viết trong cuốn Sant Mat And The Bible :"Cõi vía nằm sát kề trên cõi vật chất . Tổng đài của nó nằm trong Sahasradal-kanwal (hoa sen ngàn cánh) có phận sự như là nhà máy phát điện của những thế giới vật chất .
Bởi vì cõi vía còn pha trộn với tâm thức vật chất nên nó bị ảnh hưởng của sự tiểu hoại diệt hay tan rã (Pralaya dissolution). Tiểu hoại diệt lan tới vùng Trikuti của cõi nhân quả , và xảy ra sau mỗi hàng triệu năm . Còn Đại hoại diệt (Maha disssolution) xảy ra sau khoảng một thời gian dài không thể đo lường được , nó lan đến phần trên cùng của cõi nhân quả và bao gồm luôn cả cõi Par Brahm , là những cõi nằm dưới Thiên quốc .
Tuổi thọ của chúng sinh trong cõi vía ngắn hơn chúng sinh trong cõi nhân quả , nhưng dài hơn nhiều so với tuổi thọ của con người ở cõi vật chất chúng ta".
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Cảnh giới Atula rất khó vượt qua , cũng rất khó phá vỡ , bởi vì thành kiến trần tục và loại tình cảm quyến luyến của chúng ta . Khi chúng ta hứa với ai điều gì , tâm chúng ta chấp ở đó , nếu không làm được chúng ta sẽ có mặc cảm tội lỗi cho nên người ta mới đến quấy nhiễu . Nếu chúng ta vượt qua được đẳng cấp đó thì oan gia nợ chủ sẽ không còn cách nào nữa , bởi vì từ trường không còn hòa hợp , đồng tính mới thu hút nhau . Chỉ có tu hành mới diệt được tham sân si , tình cảm Atula".
Ngài khuyên đệ tử của Ngài không nên chấp vào cảnh giới mà cần phải có trí huệ : "Cảnh giới không nhất định đại diện cho đẳng cấp cao , ở cảnh giới Atula có tràn đầy thể nghiệm . Thế giới Atula có hơn một trăm năm mươi cảnh giới phân chia rất rõ ràng , mỗi cảnh giới lại có nhiều những cảnh giới nhỏ . Nếu như quý vị đi chơi thì trăm ngàn vạn kiếp cũng không đi hết , đừng nói chi cảnh giới cao hơn".
"Tại thế giới Atula , chúng ta sẽ thấy nhiều thần thông , rất có thể chúng ta sẽ bị thần thông quyến rũ , rất có thể chúng ta cũng có thần thông , có thể chữa bịnh , có thể nhìn thấy những chuyện mà người khác không thấy . Tại đó ít nhất chúng ta được lục thông , không bị hạn chế của không gian và thời gian , thấy được những cảnh giới siêu phàm , nghe được những âm thanh siêu phàm ; đây là những thứ chúng ta gọi là thiên nhĩ , thiên nhãn . Có những lúc chúng ta có thể thấu hiểu tâm tư của người khác , biết họ nghĩ gì trong tâm ...
Tại thế giới A tu la có rất nhiều cảnh giới mà ngôn ngữ không thể diễn tả được . Ví dụ sau khi thọ Tâm ấn , chúng ta thiền . Nếu đẳng cấp của chúng ta thuộc về cảnh giới nầy thì chúng ta được nhiều tài năng hơn , thậm chí có thể phát triển khả năng văn chương mà trước đây không có , biết được những chuyện mà người khác không biết . Có rất nhiều năng lực giống như trời ban cho vậy , có khi về tài chánh , có khi về sự nghiệp hay là nhiều tài năng khác . Chúng ta bắt đầu làm thơ , hội họa , có thể làm được những chuyện mà trước đây không làm được".
"Đến đẳng cấp nầy , quý vị sẽ khám phá ra mình rất là từ bi , bác ái , ít phiền muộn hơn trước , được trị hết bịnh , có lực lượng trị bịnh , có lực lượng tình thương nhưng vẫn còn ở mức độ thấp , cảm thấy thoải mái hơn trước , thương mến người chung quanh hơn , suy nghĩ thông minh , nhanh nhẹn hơn trước".
THANH HẢI VÔ THƯỢNG SƯ và PHÁP MÔN QUÁN ÂM - Tác giả : LƯU THỊ KỲ NAM
THẾ GIỚI THỨ HAI - CÕI NHÂN QUẢ
(Brahmanda - Causal Plane)
Qua khỏi thế giới của cõi vía hay Atula là thế giới thứ hai , cõi Nhân quả . Khi một linh hồn xuống thế giới vật chất , nó mang đầu óc của riêng nó (individual mind) ở cõi nầy , và khi linh hồn đi lên lại từ cõi vật chất , nó rũ bỏ lớp áo đầu óc cá nhân ở đây .
Cõi Nhân quả là cõi của ký ức (memories), nghiệp quả (karmic patterns). Hạt mầm của nhân quả bắt đầu từ đây khi linh hồn đi xuống những cõi thấp trong Tam giới . Nhân quả được hình thành do những thói quen , thành kiến , cảm nhận , ấn tượng , ký ức được ghi khắc sâu đậm trong A lại da thức của đầu óc . Những thứ nầy đúc kết lại trở thành nghiệp quả của chúng ta .
Hạt mầm của sự sáng tạo cũng khởi điểm từ đây và kiến thức được chuyển xuống thế giới chúng ta xuyên qua đầu óc . Nơi đây "Thư viện Akashic" (Akashic Records) lưu trữ tất cả hồ sơ của mọi thứ trong Tam giới , bao gồm hồ sơ của tất cả các chúng sinh thuộc cõi nhân quả , cõi vía và cõi vật chất . Khi linh hồn đi lên lại từ cõi vật chất , đến cõi nầy linh hồn bỏ lại sau lưng những lớp bao bọc của nó , cội rễ của tất cả nghiệp chướng cũng được tiêu trừ nơi đây và linh hồn tiếp tục đi xa hơn .
Cõi nầy vẫn còn sự hiện hữu của vật chất , nhưng rất là thanh nhẹ và vi tế cho nên nó vô hình . Cảnh giới ở đây rất đẹp đẽ và sáng lạng . Ánh sáng của cõi nầy bội phần sáng hơn mặt trời của chúng ta .
Cuốn Sant Mat and The Bible viết : "Cõi nhân quả được gọi là Brahmanda bởi vì nó có hình dáng giống như cái trứng khuyết . Khó có thể diễn tả được sự rộng lớn của cõi nầy . Nó bao trùm cả hai cõi dưới là cõi vía và cõi vật chất .
Cõi nhân quả chứa đựng nhiều về tâm linh nhưng vẫn còn bị vẩn đục bởi một số tâm thức vật chất thanh nhẹ . Vì vậy nó được gọi là cõi tâm linh - vật chất . Những chúng sinh sống trong cõi nầy rất hạnh phúc . Nếu so sánh với đời sống ngắn ngủi của chúng ta trên trái đất nầy , chúng ta có thể cho rằng họ trường sanh bất tử . Tuy nhiên họ không tuyệt đối được bất tử như những chúng sinh ở Thiên quốc , mặc dầu tuổi thọ của họ rất dài . Cõi nầy không hoàn hảo , bởi vì cuối cùng nó cũng sẽ bị chấm dứt , phải chịu sự tan rã ở cuối mỗi chu kỳ của sự hoại diệt .
Đây là cõi của những người tu yoga (yogis và Rishi) của Ấn độ , là nơi cư ngụ của các vị thần Ấn độ giáo , những tiểu Thiên sứ , đại Thiên thần , tổng Thiên thần và Thiên thần của đạo Do thái , Thiên chúa giáo và Hồi giáo".
Giáo sư Lekh Raj Puri trong Radha Soami Teachings viết : "Có ba mạch (vein) trong trán của chúng ta gọi là Ira , Pingala và Sushamna . Ira nằm bên trái , Pingala nằm bên phải và Sushamna ở chính giữa .
Ira thuộc về lực lượng phủ định . Pingala thuộc lực lượng khẳng định và lực lượng nầy làm việc xuyên qua các vị Minh sư ; Âm thanh bên mặt của các Ngài nằm trong Pingala . Con đường đến cõi nhân quả đi xuyên qua mạch Pingala bên phải . Khi lên đến cõi nhân quả , âm thanh có thể nghe được bằng cả hai mạch , vừa Ira vừa Pingala . Con đường từ cõi nhân quả Brahma lên Par Brahm đi xuyên qua trung mạch Sushamna .
Bên trái thuộc lực lượng phủ định của Kal (Giáo chủ Tam giới). Với tất cả những cám dỗ , Ngài ngăn chận chúng ta lên cao , trong khi âm thanh của các Minh sư dẫn chúng ta đi lên bằng bên phải . Lúc đầu vị Minh sư không để cho linh hồn của đệ tử đi qua phía trái . Tuy nhiên khi linh hồn của họ đã đến được cõi Par Brahm (qua khỏi cõi Brahm), đã tuyệt đối vượt thoát khỏi ảo tưởng , lúc đó vị Minh sư sẽ cho đệ tử đi thăm viếng một phần khác của sự sáng tạo , ngay cả phần đó là của Kal ở bên trái trong những cõi thấp .
THẾ GIỚI THỨ HAI - CÕI NHÂN QUẢ
Khi linh hồn đi vào trong trung mạch , nó có thể thấy được hình dáng thực sự của thể tri thức . Đó là tinh túy của vị Giáo chủ cõi nhân quả".
Cõi Nhân quả là nơi ngự trị của thần Brahma , là thế giới ảo tưởng của Ngài . Khi đến đây hành giả thường bị Ngài dùng ảo tưởng dẫn đi lạc đường . Ngài sẽ làm cho người ta tôn thờ Ngài mà tưởng rằng đó là Thượng Đế . Ba ngôi kinh Thánh đề cập đến là Cha , Con , đức Thánh thần , và Cha được hiểu là Thượng Đế . Ngôi Tam Bảo của Phật giáo là Phật , Pháp , Tăng , và Phật có nghĩa là Phật Tổ Tối Cao , đồng nghĩa với Thượng đế . Trong khi đó Ba Ngôi của Ấn độ giáo là Brahma , Vishnu và Shiva chỉ là ba vị thần cai quản Tam giới mà thôi .
Minh sư Swami Ji nói : "Kal đã không khéo dùng kinh Vệ đà và những kinh điển , sách vở khác để cản trở con đường tâm linh . Brahma , Vishnu , shiva và nữ thần Shakti là mẹ của ba vị thần nầy , cùng với mười lần đầu thai đã giăng những lưới ảo tưởng để bắt những người tìm đạo , tất cả thế giới đều bị dẫn đi lạc đường . Không có Minh sư không ai biết được con đường tìm về Thượng đế , bởi vì con người thường tìm sự Cứu rỗi bằng cách đặt niềm tin vào những vị thầy tâm linh trong quá khứ . Tất cả đều bị lôi cuốn bởi những hiện tượng hay ảo tưởng của thế giới nầy , trong khi đó con đường của các vị Minh sư bị loại bỏ ra ngoài . Bằng cách đi hành hương , nhịn ăn , cử hành các nghi thức tôn giáo , con người bị Kal lường gạt . Ngài làm cho họ thờ đá , thờ nước một thời gian dài , làm cho họ bị hoán tưởng và dính mắc vào nhiều loại nghiệp chướng khác nhau".
Giáo sư Lekh Raj Puri viết : "Có những thiên thần giáng thế đến đây để làm cho tốt hơn những điều kiện trong nhà tù Tam giới như Rama , nhưng họ chính là sự tái sanh của thần Brahma . Họ cho chúng ta sự thoải mái hơn trong tù , nhưng họ không tiết lộ cho chúng ta biết ngôi Nhà Thật của chúng ta ở Thiên quốc , cũng không cho chúng ta thông điệp của đấng Cha Thật của chúng ta ... Kinh Vệ Đà và phần lớn những sách tôn giáo khác đều chỉ cho chúng ta những luật lệ của Brahma : làm việc tốt , cúng thần , cúng dường , công quả trong các đền thờ , chùa chiền . Đương nhiên những việc nầy có đem lại cho chúng ta những kết quả tốt , nhưng nơi yên ấm như là 'Swarga' của người Ấn độ giáo , 'Bhahisht' của người Hồi giáo hay Thiên đàng của người Thiên chúa giáo . Tuy nhiên chúng ta vẫn ở trong ngục tù của Kal . Những việc làm nầy không thể giúp cho chúng ta ra khỏi nhà tù vĩ đại của Kal , không làm cho chúng ta tháo gỡ được xiềng xích của nghiệp chướng , cũng không làm cho chúng ta đạt được sự giải thoát vĩnh viễn .
Lãnh thổ của Kal lên đến phần trên cùng của Brahm , kinh Vệ đà và phần lớn những tôn giáo ngày nay đều nằm trong phạm vi nầy . Vì vậy chúng ta là tôn giáo của Kal . Khi theo những tôn giáo nầy , chúng ta có thể đến những căn phòng êm ấm trong nhà tù vĩ đại nầy , có nghĩa là chúng ta có thể tìm thấy Thiên đàng ..., nhưng từ đó chúng ta sẽ phải trở lại thế gian (có thể sau một thời gian dài vui hưởng cảnh giới tại đó) và bị quay mãi trong bánh xe sinh tử luân hồi . Địa ngục đại diện cho xà liêm đau khổ , thiên đàng đại diện cho phòng ốc tiện nghi , thoải mái . Kal không cho chúng ta biết về căn nhà thật của chúng ta , cũng không cho chúng ta thông điệp của đấng Cha thật".
THẾ GIỚI THỨ HAI - CÕI NHÂN QUẢ
Cuốn The Ocean Of Love (Biển Tình Thương , dịch từ cuốn The Anurag Sagar of Kabir), xuất bản năm 1982 tại Sanbornton , New Hampsire là sách giới thiệu những giáo lý của Minh sư Kabir (1398-1518) ở Ấn độ . Phần dẫn dụ của sách nầy viết về cõi Nhân quả :
"Tiếng sấm là Âm thanh đến từ cõi nhân quả , là thị hiện của Thượng đế ở cõi nầy . Người Rishis là người viết kinh Ấn độ giáo đã nghe âm thanh bên trong nầy và làm gọn lại thành ngôn ngữ của tiếng Om . Mặc dù âm thanh nầy đến từ cõi thuần tâm linh bên trên , nó cũng vẫn đến từ cõi của vị Giáo chủ Tam giới . Trừ khi chúng ta siêu vượt qua nó , chúng ta vẫn còn bị trở lại trong vòng sinh tử luân hồi , mặc dù âm thanh nầy có thể là cao nhất trong Tam giới . Đây cũng là sự lừa dối của Ma vương , nó làm cho những người tu yoga tưởng Om là Thượng đế , trong khi đó Om chỉ là Brahma , giáo chủ của Tam giới . Thần Brahma đã dẫn những người hành đạo đi lầm đường và làm họ tin tưởng vào sự thờ phụng giáo chủ nầy . Theo giáo lý của kinh Vệ đà , tất cả linh hồn bị gạt gẫm và không ai biết được bí mật của Thượng đế nếu không có sự giúp đỡ của vị Minh sư tại thế".
Người đời thường khó phân biệt giữa một chân sư và một giả sư , giữa một minh sư và một thiên thần giáng thế . Chỉ khi nào nhận ra sự khác biệt nầy , chúng ta mới có cơ hội được giải thoát . Trong cuốn Sant Mat And The Bible , Narain Dass viết :
"Thật ra có một sự khác biệt rõ ràng giữa Minh sư và những Thiên thần giáng thế . Những Minh sư được đấng Sat Purush hay Akal Purasha gởi xuống đây từ cõi Thiên quốc , trong khi các Thiên thần giáng thế xuống đây từ cõi Nhân quả . Vị đại diện cao nhất của cõi nầy là Brahma , Ngài đến đây từ cõi Nhân quả . Ishwara xuất hiện như là Brahma , Vishnu và Shiva , ba lần xuất hiện khác nhau của cùng một Ishwara (tuy ba là một). Những thiên thần như Rama đều là những hiện thân của thần Vishnu đến thế giới nầy . Các Ngài là những vị đại diện cho Giáo chủ Kal mà thôi . Vì vậy chỉ có sự cứu rỗi của các Minh sư mới là vĩnh cửu .
Một điểm khác nhau đáng kể nữa giữa các vị Thiên thần giáng thế và các Minh sư là các Thiên thần đến thế giới nầy để sửa đổi , phát triển thế giới , trong khi các Minh sư đến đây để đưa linh hồn con người thoát khỏi sự ràng buộc của thế giới nầy .
Trong cõi của các Minh sư người ta không biết đến sự chết , và hủy diệt không phải là sứ mạng của họ . Minh sư Giêsu nói :'Con Người không đến đây để hủy diệt đời sống con người , nhưng để cứu cho'. Luca 9:56 . Ngoài ra , sự trừng phạt và tiêu diệt là một điểm quan trọng trong sứ mạng của các Thiên thần giáng thế . Sri Krishna đã làm sáng tỏ điều nầy trong Bhagavadgita (Thượng đế Ca) 5-7:8: 'Bất cứ khi nào sự chính trực bị suy đồi , Ta sẽ đầu thai trong mỗi thời đại để loại bỏ đi sự vô liêm sĩ và xấu xa , bảo vệ những người tốt và tiêu diệt những người độc ác để tạo dựng lại sự chính trực đó'.
THẾ GIỚI THỨ HAI - CÕI NHÂN QUẢ
Bác sĩ Johnson định nghĩa một vị thần là 'một đấng vĩ đại có đặc quyền và lực lượng siêu phàm trong sự sáng tạo và điều khiển các thế giới (thế giới thấp)'. Đây là một định nghĩa nguyên thủy nhưng rất trung thực và đầy đủ , có lẽ muốn nói đến Kal Purusha , đấng sáng tạo và cai quản thế giới vật chất , và do đó bao gồm luôn cả Jehovah hay Allah trong những tôn giáo của người Xêmit và Brahma của Ấn độ giáo . 'Thượng đế' của người Do thái hiện ra trước Moses trên ngọn núi Sinai không ai khác hơn là vị Giáo chủ nầy .
Trong Sáng Thế Ký , cuốn sách đầu tiên của Moses có nói : 'Có rất nhiều vị Thần đã sáng tạo thế giới nầy'. Trong cuốn sách đầu tiên của người Do thái , chữ 'Elohim', số nhiều của nhữ 'Elo' đã làm rõ thêm nghĩa trên".
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói về cõi nầy trong những bài thuyết pháp và khai thị khác nhau của Ngài :
"Ứng thân thuộc về thế giới thứ hai , do nhân quả mà hình thành , bên trong thân thể nầy ghi lại trọn vẹn nhân quả của chúng ta đã làm ; tiếng anh gọi là "causal body", ý nói là thân thể của nhân quả".
"Thế giới thứ hai là thế giới của nhân quả , còn được gọi là thế giới của tri thức (tri thức cá nhân của mỗi người). Thế giới nầy vẫn còn nằm trong phạm vi tri thức , vượt qua thế giới tri thức thì đầu óc không còn biết gì nữa , tất nhiên cũng không ghi lại được gì".
"Thế giới càng cao , cảnh giới càng đẹp , càng sáng và nhiều thần thông . Vì vậy vị giáo chủ của Tam giới còn được gọi là đấng Sáng tạo và có vị thế rất cao quí . Giáo chủ của Tam giới còn được gọi là vua của hoán tưởng , vì có trí huệ và tình thương chưa được hoàn hảo . Tất cả mọi thứ trong thế giới vật chất nầy đều được tạo bởi đấng nầy , và vì vậy không được hoàn hảo cho lắm , nên chúng ta thấy hoa hồng có gai , và con người đôi khi có những khuôn mặt thô kệch hoặc tính tình hung dữ , hoặc có những hành động như loài thú , không biết suy xét và xứng đáng với phẩm cách của một con người . Đây là kết quả sáng tạo của vị vua hoán tưởng . Bất cứ ai hạ sanh trong Tam giới , kể cả thế giới chúng ta đang ở , đều phải khoát một bộ 'quần áo' không hoàn hảo nầy , dù là chúng ta vốn đã hoàn hảo từ nguyên thủy . Khi chúng ta ra khỏi Tam giới , trở về mái nhà xưa thì chúng ta sẽ đổi khác".
Lên thế giới thứ hai , chúng ta càng có năng lực hơn thế giới thứ nhất , gồm cả thần thông . Nhưng tại thế giới thứ hai , một sự thành công đáng kể , đó là biện tài vô ngại , dường như không có ai có thể khắc phục được những người đã đến được thế giới thứ hai , bởi vì khẩu tài và trí lực của họ đã phát triển đến tột đỉnh .
Đa số người có đầu óc tầm thường hay trí lực đơn giản không sao bì kịp những người nầy , bởi vì tri thức của họ đã phát triển đến một độ rất cao . Không phải chỉ đầu óc vật chất phát triển cao độ , mà trí huệ tiềm tàng bên trong , lực lượng thần kỳ nầy cũng được khai mở . Người Ấn độ gọi đẳng cấp nầy là Bồ Đề , hay còn gọi là đẳng cấp của tâm trí . Khi quý vị thành tựu được đẳng cấp Bồ Đề là thành Phật . Chữ Phật là do chữ Bồ Đề mà ra ...
Cho nên rất nhiều người gọi những người khai ngộ là "Phật". Nếu người nầy chưa vượt qua thế giới thứ hai , có thể họ rất kiêu hãnh , nghĩ mình là Phật sống , đệ tử của họ cũng rất hãnh diện gọi họ là Phật . Nhưng sự thật , họ chỉ đạt được cảnh giới thứ hai , có thể thấy được nhân quả ba đời của người khác , lại có biện tài vô ngại , nhưng đó chưa phải là điểm cuối cùng của Thiên quốc .
THẾ GIỚI THỨ HAI - CÕI NHÂN QUẢ
Cho nên bất cứ người nào thấy được quá khứ , hiện tại , vị lai cũng không nên kiêu ngạo . Theo ngôn ngữ Tây phương thì đó là quý vị đã đọc được sự ghi chép của A Lại Da Thức . Bất cứ người tu Yoga hoặc những người hành thiền nào cũng đều nghe đến A Lại Da Thức . Đó là một loại thư viện cũng giống như thư viện Liên Hiệp Quốc vậy , bên trong đó ngôn ngữ ngữ nào cũng có ... Chỉ cần quý vị đọc được những ngôn ngữ nầy sẽ biết quốc gia đó đang xảy ra chuyện gì . Cũng vậy khi một người tu đến thế giới thứ hai , họ có thể biết về người khác một cách thật rõ ràng y như đọc tiểu sử của chính mình vậy ...
Khi chúng ta đạt đến đẳng cấp Bồ Đề , chúng ta sẽ tự nhiên hiểu rõ và biết cách thu xếp mọi việc hay tiếp xúc với nguồn năng lượng để cải thiện nhân duyên của chúng ta . Nhờ vậy trong đời sống giảm thiểu được rất nhiều tai nạn , nhiều điều không thoải mái và những hoàn cảnh không vui ... Vì vậy tu đến thế giới thứ hai cũng đã khá rồi !
Tại thế giới thứ hai có rất nhiều cảnh giới khác nhau nhưng tôi chỉ có thể giới thiệu một ít thôi , không thể nói rõ những bí mật của Thiên đàng một cách chi tiết . Trước sau gì quý vị cũng có thể biết được nếu quý vị đi cùng với một Minh sư đã từng đi qua . Cho nên Thiên đàng không có gì là bí mật , nhưng không nên lãng phí thời gian quá . Mỗi thế giới còn nhiều thế giới phụ thuộc , nếu mỗi lần đến được một thế giới đều ngừng lại quan sát tất cả mọi việc thì tốn rất nhiều thời gian . Cho nên có lúc vị Minh sư đưa quý vị đi qua những thế giới nầy một cách mau chóng . Nếu quý vị không có mệnh làm Minh sư thì không cần học nhiều như vậy , nếu không sẽ khiến cho quý vị phải đau đầu".
"Với tài hùng biện , quý vị có thể trả lời cho họ trong cách thức mà họ chưa bao giờ nghe qua , trong cách thức mà chính quý vị cũng chưa từng mơ tưởng đến , và quý vị hiểu tất cả mọi kinh điển trên thế giới . Quý vị hiểu tất cả năm tôn giáo đều nói cùng một chân lý . Nói vắn tắt , quý vị đạt đến trình độ biện tài vô ngại .
Quý vị cũng có thể thấy được quá khứ , có thể biết tiền kiếp và hậu kiếp của kẻ khác . Quý vị biết tại sao quý vị liên hệ với nhau , và quý vị có khả năng điều khiển trong vô hình hoặc hữu hình một vài liên hệ nghiệp chướng của quý vị với người khác . Do đó bỗng nhiên sự liên hệ của quý vị trở nên tốt đẹp , bỗng nhiên hai kẻ thù tước kia trở lại thương mến nhau . Bởi vì trong sự tu tập vô hình , lực lượng minh sư của quý vị đã xoa diệu đi những sự thù hận trong cuộc đời và trong những liên hệ của quý vị . Do đó quý vị bắt đầu tiên bố rằng Thượng đế là lực lượng trí huệ , Thượng đế là Bồ đề , Thượng đế là sự giác ngộ , Thượng đế là biện tài vô ngại , Thượng đế là vậy . Cho nên Thượng đế của quý vị đã cao hơn một chút (Sư phụ cười). Phải , đó là cách quý vị tạo ra Thượng đế , tạo ra Phật . Quý vị nói : Ồ , Thượng đế có đủ loại hồ sơ để chúng ta có thể thấy mọi sự bên trong .
Sau đó quý vị lắng nghe và quý vị có thể nghe được tiếng sấm , tiếng sóng biển . Do đó trong Thánh kinh có nói rằng lời của Thượng đế giống như tiếng sấm và tiếng sóng biển (tiếng nước lũ). Đó là cách họ diễn tả Thượng đế của họ . Và khi họ thấy ngọn hào quang lớn , họ nói rằng Thượng đế đến từ ngọn lửa lớn , Thượng đế giống như ngọn lửa lớn . Cho nên Thượng đế của họ hơi khác đi .
Thượng đế của quý vị bây giờ khác hơn Thượng đế khi trước , hoặc khác với một đồng tu (bạn đạo cùng tu pháp môn Quán Âm) mới đạt được đẳng cấp thứ nhứt , hoặc khác với Thượng đế của đồng tu khác đã đến được đẳng cấp thứ ba . Thượng đế của họ khác với quý vị nhưng cũng là cùng một Thượng đế , được nhìn từ những cặp mắt khác nhau và từ những góc cạnh khác nhau".
http://i246.photobucket.com/albums/g...uv-1/qa1-1.jpg
THẾ GIỚI THỨ BA - CÕI TRI THỨC
THẾ GIỚI THỨ BA - CÕI TRI THỨC
(Mental plane , Universal Mind)
Vượt qua khỏi cõi Nhân quả là cõi Par Brahm , cõi của tri thức vũ trụ (universal mind). Xuống cõi Nhân quả , nó trở thành tri thức cá nhân (individual mind). Cuốn Radha Soami Teachings viết : "Vượt xa cõi Nhân quả là cõi Par Brahm ; cõi nầy hoàn toàn tâm linh , không có một chút vật chất nào . Khi linh hồn lên đến cõi nầy , nó rũ bỏ hết tất cả những lớp vật chất và tri thức bao bọc quanh nó".
"Par Brahm (xa trên Brahm) bao gồm hai cõi : cõi thấp hơn 'Sunn' có khuynh hướng đi xuống và sáng tạo ra cõi Nhân quả , xuyên qua thần Brahma làm nên những vũ trụ thấp hơn . Cõi cao hơn 'Maha Sunn' nối với cõi thứ năm và kéo linh hồn đi lên . 'Maha Sunn' là một vùng vô cùng rộng lớn và tối đen ; nơi đây một vài bí mật tâm linh được tiết lộ cho linh hồn . Cõi nầy rộng bao la , nhiều lần lớn hơn cả ba cõi trong Tam giới".
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói về thế giới nầy : "Tại thế giới thứ ba có một hóa thân khác , tiếng Anh gọi là mental body (thể tri thức). Hóa thân nầy không thể nào diễn tả được , bình thường lại không thấy được . Đến thế giới thứ năm thì không còn bất cứ loại y phục của thân thể nào nữa".
"Thế giới thứ ba là giai đoạn cao hơn . Người đến thế giới thứ ba tối thiểu cần phải hoàn toàn trả tất cả những nợ nần của thế giới nầy mới được . Nếu như chúng ta vẫn còn thiếu bất kỳ món nợ nào của thế giới Ma vương thì không thể lên được . Cũng như tù nhân có thành tích bất hảo ở một quốc gia nào , họ không thể xuất cảnh đến các quốc gia khác . Những nợ nần của thế giới nầy bao gồm những nợ nần đã và đang gieo trong quá khứ và hiện tại , rất có thể còn là những nợ nần trong tương lai . Trước khi chúng ta đến thế giới thứ ba , cũng giống như qua Quan thuế vậy , phải trả hết tất cả những nợ nần . Khi đến thế giới thứ hai là bắt đầu trả tất cả những nghiệp chướng còn lại của quá khứ và hiện tại . Bởi nếu không có nghiệp chướng của kiếp trước , chúng ta sẽ không có lý do để hiện hữu trong kiếp nầy".
"Hồn là chủ nhân , phách là đầu óc . Đẳng cấp của tâm trí khác với đẳng cấp của Thánh nhân . Còn trong đẳng cấp tâm trí là còn tốt xấu , còn thông minh , ngu dốt ... Những điều này chỉ là bề ngoài , đều vẫn còn nằm trong 'vấn và đáp'. Hễ chúng ta còn đặc câu hỏi , còn trả lời , còn 'được' câu trả lời là biết ngay đẳng cấp của mình vẫn còn tại tầng tâm trí . Bồ Đề Đạt Ma khi xét hỏi đẳng cấp của năm vị đệ tử , đến phiên Huệ Khả (Tổ sư đời thứ hai của Trung quốc), Ngài chỉ đứng ra đảnh lễ rồi đứng sang một bên , không nói một lời . Còn bốn vị kia khi được hỏi liền đáp : 'Ý kiến của con là ...' Đương nhiên Bồ Đề Đạt Ma cũng thọ ký những người nầy , Ngài nói : 'Con được da của ta . Con được thịt của ta . Con được máu của ta , nhưng Huệ Khả được tủy của ta'.
Tại sao Huệ Khả khỏi cần tranh luận , cũng không cần nói gì hết ? Vì Ngài đã vượt qua sự giằng co của tâm trí , vượt qua những tranh luận , phán đoán , phân chia tốt xấu , Ngài đã hoàn mỹ 100%. Nhưng nếu chúng ta còn thắc mắc , còn nghi vấn đương nhiên cũng được . Đẳng cấp của chúng ta như thế nào thì là như thế đó , không thể giả bộ , tự gạt mình mà nói : 'Hiện giờ tôi không có gì để hỏi . Tôi gặp thầy là ngậm miệng lại . Tôi đã đạt được dẳng cấp không không , vô phân biệt . Tất cả mọi ngôn từ đều không cần thiết với tôi nữa'.
Nghĩ như thế cũng không được , không thể gạt Sư Phụ và cũng không thể gạt đồng tu . Người tu hành không thể khoác lác , chưa đạt được đẳng cấp đó mà nói là mình đã đạt được , như vậy là không đúng . Ý của Sư phụ là muốn quý vị rõ , nếu như còn nghi vấn hay thắc mắc là biểu thị rằng chúng ta còn ở giai đoạn tâm trí . Nhưng đừng vì đẳng cấp của mình còn quá thấp , không thể hiểu được Sư phụ rồi bỏ Sư phụ hoặc xa lìa pháp môn Quán Âm.
THẾ GIỚI THỨ BA - CÕI TRI THỨC
Nên nhận biết mình , người xưa có câu 'tri kỷ tri bỉ , bách chiến bách thắng'. Không phải Sư phụ yêu cầu quý vị nên lập tức đi đến đẳng cấp 'không không', cũng không phải cho rằng quý vị có nghi vấn thì Sư phụ sẽ giận hay không tôn kính quý vị . Sư phụ nói những lời nầy để quý vị nhận biết đẳng cấp của mình , để quý vị đề cao cảnh giác , từ từ mà tu và tu cho cẩn thận . Đừng để cho đẳng cấp của chúng ta gạt chúng ta , cũng không nên để ma lợi dụng sự yếu đuối của chúng ta mà kéo chúng ta đi . Như vậy không những uổng phí thì giờ , mà chúng ta còn phải trở lại sinh tử luân hồi . Như vậy có phải là uổng lắm không ?"
"Khi người ta sống ở đẳng cấp mà đầu óc đã trở thành một cái máy tự động , họ chỉ chú ý đến họ mà thôi . Họ không cần biết những gì xảy ra trên thế giới và họ cũng không cần sai khiến người khác làm việc cho họ . Nhiều người sống ở đẳng cấp nầy rất có thể tìm trốn nơi hang động hoặc chôn vùi trong một lý tưởng nào đó . Rồi họ dính cứng ngắc ở đó , họ không cần biết những gì xảy ra trên thế giới và họ cũng không muốn thay đổi thế giới hoặc thay đổi chính họ . Họ nghĩ rằng con đường của họ là hoàn hảo lắm rồi .
Nhiều người lầm tưởng rằng đây là sự khai ngộ cao nhất , vì họ nghĩ họ không còn dính dáng với thế giới nầy , nhưng 'làm mà không làm' là một đẳng cấp khác ... Không phải chúng ta không cần thế giới và không làm gì cho thế giới . Sự khai ngộ vĩ đại không phải như vậy . Đây chỉ là một trong những tiến trình đi đến sự hoàn hảo khai ngộ".
Một đệ tử hỏi : "Đẳng cấp thứ ba là thế giới vượt xa nhân quả . Như vậy có nghĩa là khi một người đạt đến đẳng cấp nầy , thì người đó hoàn toàn thoát khỏi nghiệp quả rồi phải không ?"
Vô Thượng Sư Thanh Hải trả lời : "Đến thế giới thứ ba , chúng ta không còn nghiệp quả của quá khứ và tương lai nữa , nhưng vẫn còn nghiệp hiện tiền . Một số đồng tu pháp môn Quán Âm của chúng ta đã lên đến đẳng cấp thứ ba , và họ vẫn còn sống trong thế gian nầy , bởi vì họ vẫn còn phải trả nghiệp hiện tại của họ . Nhưng khi họ ngủ hay thiền định , họ ở trong đẳng cấp thứ ba nầy ; giống như họ là công dân của cả hai thế giới trong khi họ sống trong thế gian nầy .
THẾ GIỚI THỨ TƯ - CÕI LINH HỒN
THẾ GIỚI THỨ TƯ - CÕI LINH HỒN
(Soul Plane)
Trên cõi tri thức là cõi thứ tư , cõi của linh hồn hay là nơi ngự trị của linh hồn . Giáo sư Lekh Raj Puri viết về cõi thứ tư trong Radha Soami Teachings : "Cõi nầy được gọi là 'Bhanwar Gupha' bởi vì nó có một hang động quay tròn giống như cái Merry-Go-Round (máy quay tròn , trò chơi của trẻ em). Linh hồn tận hưởng sự chân phúc của cõi nầy cùng sự chuyển động xoay tròn của hang động . Chung quanh nó là những lâu đài tuyệt đẹp . Đây là nơi thuần tâm linh và là cõi của những hành giả thành tâm dâng hiến cho Thượng đế . Nơi đây nhiều bí mật tâm linh được tiết lộ cho linh hồn .
Ánh sáng của cõi nầy rất rực rỡ như ánh sáng của mùa hè nhưng ngàn lần sáng hơn mặt trời của chúng ta ; tuy nhiên ánh sáng nầy không nóng như ở thế giới chúng ta . Linh hồn sẽ đắm chìm trong ánh sáng thật êm dịu và thưởng thức Âm thanh vô cùng tuyệt diệu của cõi nầy".
Khi linh hồn tìm đường về lại Nguồn Cội , vượt thoát khỏi ngục tù của thân xác , tình cảm , tâm trí , không còn bị những ảo ảnh và luật nhân quả của Tam giới ràng buộc và khống chế nữa , linh hồn đến cõi thứ tư . Thế giới thứ tư là cõi thuần về tâm linh , là cõi của linh hồn .
Nơi đây có một vùng rộng lớn tối đen như mực , ngăn cách thế giới thứ tư với những thế giới thấp . Ánh sáng của linh hồn ở đây sáng chói như mười hai cái mặt trời , nhưng vẫn không đủ sáng để có thể đi xuyên qua được vùng nầy . Linh hồn phải nương nhờ vào ánh sáng của Hóa thân vị Minh sư tại thế mới có thể vượt ra khỏi vùng nầy . Cho nên những hành giả không tu pháp môn Quán Âm khi đến đây không thể nào đi xa hơn nữa . Qua khỏi vùng vô cùng đen tối nầy , linh hồn sẽ thấy ánh sáng rực rỡ của cõi thứ tư .
Khi đến cõi nầy từ những thế giới thấp , linh hồn nhận biết lại rằng nó là một giọt nước trong đại dương của Thượng đế ; nó không phải là những tầng lớp của thể xác , thể vía , nhân quả và tri thức bao bọc nó , mà nó là linh hồn tinh tuyền "Ta là Chân thể đó" (I am That). Linh hồn cũng nhận thức rằng nó là lực lượng siêu Tam giới , có cùng sự vĩ đại và tinh túy của Thượng đế , Đấng sáng tạo ra nó . Tâm thức linh hồn (soul consciousness) là tâm thức nhận thức Chân ngã hay liễu ngộ tự tánh (Self-Realization) của mình . (Phật giáo gọi linh hồn là Chân ngã "Self", Phật tính , tự tánh hay bản lai diện mục).
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Có những thế giới rất xa , ngay cả UFO cũng không bay đến được . Bên trong của chúng ta có một thứ thiết bị bay nhanh hơn cả UFO , đó là linh hồn của chúng ta , còn gọi là linh thể".
"Thế giới thứ tư không còn thuộc về những cảnh giới siêu phàm thông thường , chúng ta không thể dùng ngôn ngữ đơn giản mà diễn tả được cảnh giới nầy cho người đời hiểu rõ , e rằng sẽ phạm lỗi với vị Giáo chủ của thế giới nầy . Thế giới nầy rất đẹp , mặc dù có nơi rất đen tối ... Trước khi thấy được ánh sáng , cần phải đi qua thế giới đen tối nầy . Nơi đây là một loại 'cấm thành'. Trước khi chúng ta tìm thấy chân lý của Thượng đế , chúng ta đều bị thế giới nầy cản lại . Nhưng nếu có vị Sư phụ kinh nghiệm thì chúng ta có thể qua khỏi nơi nầy , nếu không chúng ta sẽ không tìm thấy đường tại thế giới đó".
"Lúc đó chúng ta biết rằng chúng ta là linh hồn , chúng ta sống vì linh hồn , chúng ta thông minh là vì ánh sáng của linh hồn , chúng ta có tình thương , lòng từ bi , cảm giác ... bởi vì có sự chủ động của linh hồn đằng sau chúng ta .
Ở đẳng cấp nầy chúng ta biết được nhiều điều và chúng ta cố gắng bằng mọi cách mang lại lợi ích cho thế giới , giúp đỡ cho thế giới và giúp đỡ cho chính mình được sống trong an lạc , hạnh phúc ... Bất cứ điều gì chúng ta muốn đều với mục đích cao thượng cho nhân loại , chúng ta cố gắng hết sức mình để hoàn thành công việc và giúp đỡ những người khác để họ có thể hoàn tất như chúng ta .
Đây là đẳng cấp của linh hồn , đẳng cấp nhận thức tự tánh , bởi vì lúc đó chúng ta nhận diện chúng ta bằng linh hồn , chúng ta biết rằng chúng ta và linh hồn 'nguồn cội của cảm ứng' là một . Chúng ta không phải là thể xác nầy , nhưng đây cũng chưa phải là đẳng cấp cao nhất , bởi vì lúc đó chúng ta vẫn còn ngã chấp để nhận ra rằng sự hiểu biết đó là vĩ đại".
THẾ GIỚI THƯ NĂM - CÕI THIÊN QUỐC , NIẾT BÀN
THẾ GIỚI THƯ NĂM -
CÕI THIÊN QUỐC , NIẾT BÀN
(Kingdom of God , Nirvana)
Qua khỏi thế giới thứ tư , linh hồn tìm về Nguồn cội của nó là Thượng đế hay Phật Tổ Tối Cao ở Thiên quốc hay Niết bàn . Đây là cõi vĩnh cửu , vĩnh sinh , bất biến , thuần khiết và hoàn hảo mà mọi người đều mơ ước tới . Đây là cõi những hành giả tu pháp môn Quán Âm đạt đến vào cuối cuộc hành trình tâm linh tìm về Đấng sáng tạo .
Khi đến cõi nầy , linh hồn tan biến vào Thượng đế như giọt nước hòa tan vào Đại dương , trở thành một hay đồng nhất thể (oneness) với Ngài "Ta đồng nhất thể". Đây là các linh hồn nhận thức được tâm thức siêu việt của Thượng đế (God-Consciousness) hay liễu ngộ Thượng đế (God-Realization). Ở đẳng cấp tâm thức nầy , tất cả mọi việc đều được làm theo Thiên ý như chúa Giêsu nói : "Không phải ta , mà là Cha ta làm".
Minh sư Kabir nói về tâm thức liễu ngộ Thượng đế của Ngài : "Một sự khó khăn đã xảy đến cho ta . Vì mãi lo tìm kiếm , ta đã để lạc mất Kabir , như thể giọt nước rơi xuống đại dương . Giọt nước đã tìm thấy đại dương , nhưng đánh mất cá thể của nó", và "Mãi lo kiếm với tìm , Kabir đã thất lạc đâu đó . Cả đại dương đã rơi vào trong giọt nước . Tìm kiếm giọt nước ở đâu bây giờ !" (trích lời của Kabir trong bài "Chu dịch" của Nguyễn đình Phong).
Cuốn Radha Swami Teachings viết về cõi nầy : "Sau khi đi xuyên qua một cái sân ngạt ngào hương thơm và những lâu đài màu vàng và những cái bể chứa đầy nước Cam lồ , linh hồn đến cõi Vĩnh cửu của Thượng đế , nơi đây sự hoại diệt hay tan rã không bao giờ xảy ra .
Cõi nầy vô cùng rộng lớn , hàng triệu lần lớn hơn Tam giới . Linh hồn choáng váng trước cảnh giới vô cùng đẹp đẽ của cõi nầy , và ngây ngất chìm đắm trong Âm thanh mỹ miều , thiêng liêng của đấng Tối Cao . Nơi đây linh hồn chiếu sáng như mười sáu cái mặt trời , và nó có thể ngắm nhìn vị Giáo chủ của cõi nầy . Ánh sáng phát ra từ một sợi tóc của Ngài không thôi đã làm cho ánh sáng của mười triệu mặt trời và mặt trăng họp lại phải cuối đầu xấu hổ , huống chi ánh sáng phát ra từ tất cả mái tóc và toàn thân của Ngài ! Chúng ta không thể nào diễn tả được cái ánh sáng mênh mông và rực rỡ nầy bằng ngôn ngữ của thế gian , chỉ có linh hồn khi đến đây mới thật sự biết ánh sáng thiêng liêng nầy như thế nào".
Trong Radha Soami Teachings , Lekh Raj Puri trích dẫn lời Minh sư Swami Ji trong Sar Bachan : "Được thấy vị Giáo chủ của cõi nầy , linh hồn cảm thấy ngập tràn hạnh phúc . Một giọng nói từ chiếc Hoa sen vọng ra : 'Người là ai và người đến đây làm gì ?' Linh hồn trả lời : Con đã gặp được vị Minh sư Diệu Âm (Satguru) và Thầy con đã cho con biết sự bí mật của Thiên quốc . Nhờ vào ân điển và tình thương của Thầy , con vô cùng hạnh phúc và hân hạnh được nhìn thấy Ngài !"
THẾ GIỚI THƯ NĂM - CÕI THIÊN QUỐC , NIẾT BÀN
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Sau đẳng cấp tự tánh chúng ta tiến lên đẳng cấp Thượng đế , ý thức Thượng đế hoặc nhận thức Thượng đế ; Thượng đế không ai khác hơn là chúng ta . Dù ở đẳng cấp tự tánh , chúng ta cũng chưa biết được , vì chúng ta còn nghĩ rằng Thượng đế là ở bên cạnh chúng ta . Đẳng cấp nhận thức Thượng đế là chúng ta tan hòa trong đó , chúng ta làm vì những điều phải làm mà không cần suy nghĩ , không cần phải nhận biết và cũng không cảm thấy rằng chúng ta đang làm việc đó . Chúng ta là như thế , chúng ta chỉ làm vậy ... Chúng ta là tác giả của mọi điều , nguồn gốc của mọi thứ , của tất cả mọi hành động và hậu quả , nhưng không dính dáng gì đến nghiệp chướng .
Cho nên hầu hết mọi người đều sống ở đẳng cấp vật chất tình cảm hoặc lý trí , cao nhất cũng chỉ đến đẳng cấp nhận thức tự tánh mà thôi . Phần đông chúng ta không có thể nghiệm về đẳng cấp Thượng đế . Nhưng chúng ta có thể , mọi người đều có thể vì chúng ta có Thượng đế bên trong chúng ta . Trong kinh Thánh có nói rằng chúng ta là đền thờ của Thượng đế và đức Thánh linh sống trong chúng ta , có phải vậy không ? Thật vậy 'Thiên quốc ngự trong ta'. Thiên quốc không phải đến qua sự quan sát (có nghĩa là không do sự lý luận hoặc sự thông thái), không phải do sự bàn cãi hoặc nghiên cứu sách vở , kinh điển , nhưng do 'Thiên quốc ở trong ta'.
Vì vậy phải biết điều nầy một cách trực tiếp , phải thể nghiệm điều nầy , có nghĩa là phải nắm giữ lấy điều nầy . Đó là lý do tại sao nhiều vị Thiền sư nói quý vị không cần kinh điển . Nghe qua có vẻ như vô thần phải không ? Đôi khi đức Thích Ca , có lẽ trong lúc mệt mỏi Ngài cũng nói không có 'đấng Thượng đế như vậy' ... Ngài không có ý nói là không có Thượng đế , mà là không có một đấng Thượng đế 'như chúng ta tưởng tượng'. Cho nên Ngài nói không phải như thế nầy , không phải như thế kia , không phải như thế nọ - 'không có đấng Thượng đế như vậy'. Người ta bám vào câu nói đó mà cho rằng Phật không tin vào Thượng đế . Nhưng điều nầy không đúng , không phải vậy ! Bởi vì ở một đoạn khác , Ngài nói Ta không nói có Thượng đế hay không có Thượng đế , nhưng Ta nói rằng có một thứ mà tất cả mọi thứ đều đến từ đó và rồi cũng trở về đó . Cho nên quý vị hiểu ý nghĩa nầy rồi chứ , phải không ?"
Linh hồn đồng thời vừa là cá thể (personal), vừa là vô cá thể (impersonal) hay hoàn vũ (universal). Khi ở cõi thứ tư nó là một cá thể , khi hội nhập với Thượng đế ở cõi thứ năm , nó trở thành một với đại dương của Ngài , trở thành vô cá thể nhưng vẫn cảm nhận . Cũng như nhiều nhạc công cùng trình diễn trong một ban nhạc đại hòa tấu , tiếng nhạc của họ hòa tan vào tấu khúc của toàn ban nhạc , nhưng tiếng đàn của họ cũng vẫn là một thành phần trong tấu khúc đó .
THẾ GIỚI THƯ NĂM - CÕI THIÊN QUỐC , NIẾT BÀN
Ở đẳng cấp liễu ngộ Thượng đế , linh hồn hòa nhập làm một với Thượng đế nhưng không biến thành Thượng đế . Linh hồn là một thành phần của Ngài , là con cái của Ngài , có lực lượng , phẩm chất , tinh túy giống y như Ngài , nhưng linh hồn không phải là Ngài . Cũng như một người con có DNA giống như người cha , nhưng người con không phải là người cha .
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói về cảnh giới thứ năm : "Bất cứ những cảnh giới cao nào cũng đều như vậy , họ không cần nói chuyện gì , họ không dùng ngôn ngữ . Chúng ta sử dụng ngôn ngữ của thế giới nầy , có lúc chỉ chuốc thêm phiền hà mà thôi , chuyện chỉ mới nói có một nửa đã bị hiểu lầm rồi ! Ngôn ngữ của thế giới chúng ta không những khó hiểu mà thường có rất nhiều thứ tiếng thường thường là nói không thông với nhau .
Ở cảnh giới cao không cần đối thoại , mọi người đã đồng nhất thể với nhau . Điều nầy cũng giống như chúng ta ở nhà dùng máy thâu thanh vậy , chỉ cần tổng đài hoặc đài phát thanh phát tin ra là máy thu thanh liền tiếp nhận được , bởi vì chúng ta có những lực chấn động giống nhau , những tần số giống nhau . Tình trạng của cảnh giới cao là như vậy , nhưng bởi vì không phải là máy thu thanh mà là người , cho nên sau khi tu hành sẽ biết được bản thân của chúng ta là gì . Đương nhiên chúng ta không phân biệt chúng ta hoặc người khác , nhưng chúng ta sẽ biết được mình là ai , nhưng máy thu thanh thì lại không biết như vậy được . Chúng ta là người có cảm giác , giữa chúng ta và máy thu thanh khác nhau ở điểm nầy .
Cho nên sau khi chúng ta tu hành rồi , tuy là biến thành đồng nhất thể , bất đồng nhất thể . Ngôn ngữ của thế giới chúng ta quá hạn hẹp , quá nghèo nàn , quá thiếu thốn cho nên chúng ta không có cách nào dùng ngôn ngữ mà diễn tả . Muốn giới thiệu những cảnh giới cao đẳng đó , chỉ có thể giảng loanh quanh gần đó mà thôi".
Cõi thứ năm là nơi cư ngụ của hai loại linh hồn . Một là những linh hồn đã đạt được quả vị hay đẳng cấp của thế giới thứ năm , nhưng chưa bao giờ rời cõi nầy để đến thế giới vật chất của chúng ta . Hai là các vị Minh sư , các Ngài rời thế giới thứ năm xuống những thế giới thấp để dẫn độ những người muốn về lại với Thượng đế . Thỉnh thoảng cũng có một vài vị ở cao hơn thế giới thứ năm đến đây , có khi chính Thượng đế hiện thân xuống trong những thời đại khó khăn , khó độ . Nhưng trước khi xuống thế giới Ta bà , các Ngài cũng phải dừng chân ở cõi thứ năm rồi từ đó các Ngài mới đến đây .
Có hai loại Minh sư , một là từ phàm phu như chúng ta tu hành rồi trở thành Minh sư , hai là các Minh sư vốn đã là Minh sư rồi (divine born), nhưng xuống thế gian để cứu độ chúng sanh . Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Minh sư có hai loại : Một loại không có nghiệp chướng , nhưng mượn nghiệp chướng của chúng sanh hạ phàm . Còn một loại khác giống như phàm phu chúng ta , nhưng nhờ vào tu hành đã rửa sạch nghiệp chướng . Cho nên bất cứ người nào cũng đều có thể trở thành Minh sư tương lai .
Minh sư có thể mượn nghiệp chướng của chúng sanh , từ cảnh giới cao hạ phàm . Quý vị nghe qua danh từ 'mượn nghiệp chướng' cảm thấy thế nào ? Có thể lắm chứ ! Điều nầy có thể xảy ra . Thí dụ trước khi hạ phàm , quý vị đã từng đến đây , quý vị đã giao tiếp với rất nhiều người của thế giới trải qua mấy đời , hay mấy trăm năm . Sau đó quý vị trở về Thiên quốc hay trở về nơi cư trú rất xa xôi , ít nhất là ở thế giới thứ năm . Đó là nhà của Minh sư thuộc thế giới thứ năm . Nhưng qua khỏi thế giới thứ năm còn có nhiều cảnh giới khác .
THẾ GIỚI THƯ NĂM - CÕI THIÊN QUỐC , NIẾT BÀN
Sau đó vì lòng từ bi hoặc do Đức Thánh Cha trên trời giao công tác , chúng ta trở lại thế giới nầy . Khi chúng ta xuống , vì chúng ta đã có duyên với những người trong quá khứ , cho nên mới có thể mượn họ một ít nghiệp chướng . Chỉ là nợ thôi , không có gì tốt đẹp từ những người nầy , sau đó nhờ vào lực lượng tu hành , trả từ từ cho đến khi hoàn thành sứ mạng ở thế giới nầy mới thôi . Đây là loại Minh sư mượn nghiệp chướng .
Ngoài ra còn có một loại Minh sư tu hành ở thế giới nầy tốt nghiệp trở thành Minh sư . Cũng giống như trong trường đại học có giáo sư và sinh viên , sinh viên tốt nghiệp rồi cũng có thể thành giáo sư , hiểu không ? Có những giáo sư thâm niên , cũng có những giáo sư vừa mới tốt nghiệp . Cũng vậy , Minh sư có hai loại như trên".
"Thế giới thứ năm là quê hương của các vị Minh sư . Tất cả các vị Minh sư đều đến từ đây , cho dù đẳng cấp của họ cao hơn thế giới thứ năm . Đây là nơi cư ngụ của họ . Vượt qua thế giới thứ năm còn có rất nhiều khía cạnh của Thượng đế rất khó hiểu được . Tôi sợ rằng quý vị sẽ bối rối , rất có thể lúc khác hoặc sau khi thọ Tâm Ấn , quý vị sẵn sàng một chút , tôi sẽ cho biết trí tưởng tượng phong phú của quý vị đã thỉnh thoảng gây ra những quan niệm sai lầm về Thượng đế như thế nào".
Khi chúng ta đạt được đẳng cấp tâm thức của cõi nào , chúng ta sẽ trở thành đồng nhất thể với vị Giáo chủ của cõi đó . Chúng ta cũng sẽ nhìn Thượng đế hay vị Minh sư xuyên qua sự hiểu biết , trình độ hay đẳng cấp tâm thức của mình . Cho nên muốn hiểu được sự vĩ đại , vinh hiển , sự hy sinh và lòng từ bi vô bờ bến của các Ngài , chúng ta phải cố gắng tu tập để đạt đến đẳng cấp của các Ngài . Nếu không sẽ có rất nhiều sự ngộ nhận và tranh tụng xảy ra , gây khó khăn cho việc hoằng pháp của các Ngài , vì sự phán đoán của chúng ta về các Ngài hoàn toàn không chính xác .
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói rằng chỉ có một Thượng đế , nhưng vì đẳng cấp tâm linh của mỗi người khác nhau , chúng ta nhìn Thượng đế bằng những cặp mắt khác nhau . Ngài nói : "Giống như khi Phật còn tại thế có kể câu chuyện bốn người mù sờ voi . Người đụng trúng tai voi nói rằng 'Ồ ! Con voi giống như cây quạt , cây quạt lớn'. Người khác rờ trúng chân voi , nói rằng 'Ồ ! Con voi giống như cây cột lớn'. Người rờ trúng vòi voi lại nói 'Con voi giống như cái vòi nước', và người rờ trúng đuôi voi thì nói 'Ồ ! Con voi giống như cây chổi'. Thí dụ như vậy , đó là cách những người bình thường chúng ta thấy Thượng đế , và đó là cách những tu hành ở những đẳng cấp khác nhau thấy Thượng đế và tạo ra Thượng đế của họ .
Bây giờ quý vị biết rằng quý vị có tạo ra Phật , tạo ra Thượng đế , cho nên tôi khuyên quý vị hãy tạo ra vị Thượng đế cao cả nhất . Thượng đế của chúng ta phải là đấng Tối Cao , đấng Vô Thượng để xứng với thời giờ , năng lực và sự chú ý của chúng ta ...
Do đó pháp môn Quán Âm là để quý vị tạo nên Ngài . Thượng đế có thể thấp kém như một con giun , nếu quý vị là như vậy . Nếu quý vị không thăng tiến lên cao hơn trình độ loài giun dế , Thượng đế của quý vị mãi mãi là giun dế . Nếu quý vị tự thăng tiến cao hơn , Thượng đế sẽ được vinh danh ở một trình độ cao hơn . Vậy hãy vinh danh Thượng đế bằng lực lượng thiền định và giác ngộ của chính quý vị . Đó là lời cầu nguyện tốt đẹp nhất , đó là sự vinh danh Thượng đế cao quý nhất mà quý vị có thể làm được cho Thượng đế . Nếu chúng ta nói rằng chúng ta sùng bái Phật , Thượng đế , Allah hoặc bất cứ vị nào , nhưng chúng ta vẫn ở mãi trong vô minh , như vậy thật ra chúng ta đã coi thường Thượng đế , đã làm nhục Phật ... Phật nói rằng nếu quý vị tin Phật mà không hiểu Phật là phỉ báng Phật . Đó là chân lý . Quý vị làm cách nào để phỉ báng Phật ? Bằng cách ở mãi trong vô minh và để người khác thấy rằng quý vị là một Thượng đế vô minh , rằng quý vị không còn tin tưởng vào Thượng đế , bởi vì Thượng đế là vô minh theo sự suy luận và quan niệm vô minh của quý vị .
THẾ GIỚI THƯ NĂM - CÕI THIÊN QUỐC , NIẾT BÀN
Quý vị nghĩ rằng Thượng đế là như vậy 'Tôi cầu nguyện Ngài nhưng Ngài không nghe . Tôi đang bò lết ở đây nhưng Ngài không thấy'. Không phải là Thượng đế không thấy , không trực tiếp lãnh nhận được sự gia trì của Ngài , bởi vì quý vị xây lên rất nhiều chướng ngại chung quanh mình . Chính quý vị đã chối từ phước báu và sự gia trì từ Ngài . Bởi vì quý vị suy luận từ một đầu óc hạn hẹp và thành kiến từ nhiều thế hệ rằng quý vị không xứng đáng , rằng quý vị sai lầm , rằng quý vị ngu muội , rằng quý vị làm mọi điều sai lầm ngược lại bản chất Thượng đế của quý vị .
Do đó ngay cả bây giờ khi quý vị cầu nguyện , những tư tưởng nầy trong tiềm thức ngăn cản không cho quý vị biết rằng quý vị là Thượng đế . Cho nên quý vị cho rằng Thượng đế chỉ là như vậy . Thượng đế chỉ là để cho quý vị cầu nguyện , than phiền và đòi hỏi , nhưng không phải như vậy . Mỗi một vị Thượng đế đều khác nhau tùy theo cách suy luận và trình độ của quý vị . Không phải là có nhiều Thượng đế , nhưng là vì quan niệm của chúng ta khác nhau cho nên Thượng đế cũng khác .
Giờ đây quý vị có hiểu tại sao chúng ta phải hiểu và nhận thức được Thượng đế để có thể nói rằng chúng ta thực sự sùng bái Ngài . Do đó Phật không nói sai , nếu quý vị không hiểu Phật , đừng nên mù quáng tin tưởng Phật , vì như vậy là quý vị phỉ báng Phật".
"Rất có thể quý vị hỏi tôi : 'Ngài làm sao chứng minh được sự hiện hữu của thế giới thứ hai , thứ ba , thứ tư ... như Ngài đã nói'. Có thể chứ ! Tôi có thể chứng minh , nếu quý vị đi cùng đường với tôi thì có thể thấy cùng một quang cảnh . Nếu quý vị không đi cùng với tôi , đương nhiên không thể chứng minh gì cho quý vị thấy . Đây là chuyện đương nhiên , vì có bằng chứng cho nên tôi mới dám nói những chuyện nầy ; trên thế giới có hàng ngàn hàng vạn đệ tử có thể chứng minh".
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói trên cõi thứ năm còn có bốn cõi khác cao hơn nữa . Từ cõi thứ sáu trở lên là vùng tâm linh hoàn toàn tinh tuyền , và Thượng đế ngự trị ở cõi thứ chín . Ngài nói Thiên niên kỷ mới của chúng ta chấm dứt thời Mạt pháp , và năm 2004 là năm bắt đầu của thời đại Hoàng kim .
Những thời đại các Minh sư thường đề cập đến không phải là những thời đại lịch sử của con người , đó là những thời đại tâm linh (Spiritual Ages , Yugas) kể từ cao xuống thấp : thời đại Hoàng kim (Golden Age), Bạch kim (Silver Age). Đồng kim (Copper Age) và Sắt kim hay Mạt pháp (Iron Age , Dark Age).
Nhờ ân sủng đặc biệt của Thượng đế , hành tinh của chúng ta đã không bị hủy diệt vào cuối thờ Mạt pháp . Nó đã và đang tiến vào một chiều không gian tâm linh (spiritual dimension) khác , để hội nhập với những thiên hà có trình độ kỹ thuật , khoa học , y tế vượt bực và đẳng cấp tâm linh siêu đẳng của thời đại Hoàng kim .
Những thiên tai , chiến tranh , chết chóc chúng ta thấy bấy lâu nay là những thứ còn rơi rớt lại của thời Mạt pháp trước khi hành tinh chúng ta hoàn toàn vào hẳn trong chiều không gian mới của thời Hoàn kim .
Những người được may mắn sống trong thời Hoàng kim đầy ánh sáng sẽ hưởng một đời sống lâu dài , an bình và vô cùng hạnh phúc . Đẳng cấp tâm thức của họ sẽ tương ứng với tâm thức của thời Hoàng kim . Nói một cách khác , họ là những người có tần số chấn động lực phù hợp với tần số chấn động lực của chiều không gian mới nầy .