-
Ý NGHĨA MỚI VỀ BÁT KÍNH PHÁP
Quý vị có biết cha mẹ nghĩ thế nào về con cái không ? Cho dù quý vị là một nhân vật như thế nào , ngay cả là một vị vua cũng vậy , họ vẫn nghĩ rằng quý vị là những đứa con nhỏ của họ , họ vẫn cứ vỗ về ôm ấp , hoặc có những cử chỉ âu yếm . Phật Thích Ca hiểu rõ tâm lý này , nên lo ngại người Dì của Ngài sau khi xuất gia sẽ có những cử chỉ như vậy với Ngài . Ngài đã là Phật , là Thiên Nhân Đạo Sư , nên không thể để một người mẹ bình thường kiềm tỏa . Không phải Ngài không hiếu thảo , nhưng nếu để xảy ra như vậy sẽ khó khăn cho việc truyền pháp của Ngài . Đi đâu cũng cảm thấy không thuận tiện và không thoải mái , lúc nào cũng có một người ở một bên quan sát , hỏi han , chỉ bảo . Như vậy sẽ không được tự tại thì làm sao hoằng pháp được ? Do đó Ngài mới có ý định không để người Dì của mình xuất gia .
Nhưng A Nan đã giúp bà cầu xin Ngài mấy lần , Phật Thích Ca cuối cùng đã chấp thận cho người Dì của Ngài được xuất gia . Bát Kính Pháp rất có thể do Phật Thích Ca giảng , vì muốn làm người Dì của Ngài thối tâm mà trở về nhà . Nếu Ngài nhận cho người Dì của Ngài xuất gia , sau này sẽ có nhiều người nữ khác bắt chước . Do đó Ngài rất lo lắng vì nam nữ ở chung với nhau sẽ gây ra nhiều vấn đề . Xưa kia nam nữ chưa bao giờ cùng nhau tu hành như vậy .
Ngày xưa và ngày nay khác nhau , lúc này ra ngoài đi đâu cũng gặp phái nữ , trước kia không có tình trạng như vậy , hiểu không ? Nữ phái phải ở trong nhà ; nếu có chuyện phải ra đường , cần có người đi cùng và người ngoài không được đến gần . Trước khi lập gia đình , cũng không biết bản lai diện mục người vợ tương lai ra sao ! Cưới về nhà rồi , nếu có xấu cũng phải ráng mà chịu . Trong hoàn cảnh xã hội như vậy , Phật Thích Ca biết rằng nhận các Tì Khưu Ni sẽ xảy ra nhiều phức tạp , phải chống lại quan niệm xã hội , cũng như sẽ ảnh hưởng tới sự tu hành của nam chúng , cho nên Ngài không muốn cho người Dì của mình xuất gia . Không phải Tì Khưu Ni tu hành không bằng Tì Khưu , sự thật không phải như vậy .
Hơn nữa , lúc ra ngoài giảng kinh , Ngài sống cùng với các vị Tì Khưu , nếu có Tì Khưu Ni đến , ví dụ như người Dì của Ngài , hoặc là các cung nữ trong hoàng cung theo Ngài xuất gia , có thể họ chưa quên được thói tiền hô hậu ủng , khi đến lại chỉ huy các vị Tì Khưu cách làm việc , hoặc la rầy các vị này . Để phòng ngừa những trường hợp như vậy có thể xảy ra , Phật Thích Ca mới quy định rằng các vị Tì Khưu Ni phải đảnh lễ các vị Tì Khưu . Các vị Tì Khưu đã sống chung với Phật một thời gian lâu dài , còn các vị Tì Khưu Ni , dù từ đâu đến , cũng là người mới đến , do đó phải đảnh lễ các vị Tì Khưu là một việc làm đúng , hiểu không ?
Phật Thích Ca còn sợ các vị nữ chúng cho rằng mình có quan hệ huyết thống với hoàng gia , đều là những người quý tộc đến tăng đoàn , không biết sự cực khổ của đời sống xuất gia , không biết những vị Tì Khưu cùng với Ngài tu hành , không phải từ hoàng gia , không phải từ những vị cao sang trong xã hội , trái lại họ rất nghèo , hoặc có những địa vị rất thấp . Phật Thích Ca sợ rằng bà Dì hoặc bà vợ của Ngài , khi đến xuất gia , sẽ coi thường những vị Tì Khưu đó ; Ngài lo rằng các vị nữ tăng này sẽ nghĩ rằng mình là người thân của Phật Thích Ca , mượn sự quan hệ này mà đối xử không tốt với các vị Tì Khưu , không tôn kính họ , rồi gây nghiệp chướng cho chính mình .
Rất có thể vì những nguyên do này , Phật Thích Ca mới nghiêm khắc như vậy . Ngài hỏi người Dì của Ngài rằng : "Dì có thể chấp nhận những điều kiện vô lý đó không ? Nếu được , ta sẽ nhận Dì". Ngài nói vậy dụng ý muốn dùng sự nghiêm khắc làm cho bà cảm thấy khó khăn vô lý mà nản chí bỏ cuộc . Nhưng không ngờ đạo tâm của bà vô cùng kiên cố và khiêm tốn , nên đã chấp nhận bất cứ điều kiện gì . Lúc đó Phật Thích Ca không còn cách nào để từ chối bà được .
Bát Kính Pháp rất có thể được Phật Thích Ca đặt ra vì hoàn cảnh đặc biệt đó . Ngày hôm nay chúng ta không nên chấp nhất điều này , hiểu không ? Hoàn cảnh hiện đại đã đổi khác , Phật Thích Ca đã qua đời rồi và chúng ta đang học với những vị Phật tại thế khác , họ sẽ thay đổi điều kiện ; bởi vì thời đại thay đổi thì các điều kiện cũng phải thay đổi cho phù hợp , mặc dù các giới luật vẫn giữ nguyên vẹn , không đổi ; cũng giống như pháp luật của quốc gia . Mỗi quốc gia có những điều luật khác nhau , và ở mỗi thời đại , luật pháp đó cũng cần được thay đổi , có phải như vậy không ? (Mọi người đáp : Phải).
Trước đây không có xe , đương nhiên không có luật lệ giao thông , cũng không cần quy định cách lái , đường dành riêng cho bộ hành và cũng không có đèn xanh đèn đỏ . Nhưng bây giờ chúng ta có đèn lưu thông , có xe gắn máy , xe đạp , máy bay , xe hơi , xe lửa ... Nếu chúng ta vẫn còn dựa vào luật bộ hành của thời xưa thì giao thông sẽ không thuận lợi .
Vào thời đại Nghiêu Thuấn , nếu chúng ta đánh rớt đồ vật ngoài đường cũng không có ai lượm ; tối đến không cần đóng cửa . Nhưng bây giờ nếu quý vị không đóng cửa cẩn thận sẽ có nhiều phiền phức . Thời buổi này không những cửa đã đóng , mà còn phải khóa nữa , bên ngoài còn gắn thêm những song sắt , cửa sắt . Vậy mà vẫn chưa đủ an toàn . Quý vị không thể nói pháp luật của thời Nghiêu Thuấn như vậy , tại sao bây giờ chúng ta phải đóng cửa ? Quý vị cần phải giữ gìn ví bóp của mình cho cẩn thận , đừng cố ý để trên đường rồi và nghĩ rằng người ta không nhặt . Ví bóp của quý vị bỏ trong túi đàng hoàng , người ta còn móc lấy đi , huống chi là để trên đường ? (Mọi người cười). Quý vị để tiền ở nhà hoặc là ở ngân hàng , người ta vẫn có thể cạy cửa vào lấy đi , huống chi để hớ hênh mà không ai nhặt ?
-
Ý NGHĨA MỚI VỀ BÁT KÍNH PHÁP
Thời đại đã đổi khác , giới luật cũng đổi khác , không thể chỉ dựa vào những pháp luật của ngày xưa . Đương nhiên , những giới luật căn bản chúng ta cũng còn giữ lại để dùng , ví dụ không trộm cướp , nếu như tăng đoàn mà đi trộm cướp thì có phải là khó coi lắm không ? Ngay cả pháp luật quốc gia cũng không đồng ý điều này . Tất cả các giới luật đều bao gồm những luật pháp của quốc gia . Giới luật qui định : "Chúng ta không thể sát sanh", đương nhiên chúng ta cũng không thể giết người . Nhìn thấy sự đau khổ của con vật lúc bị giết chúng ta còn không đành lòng , huống chi là chuyện giết người , chúng ta làm sao nhẫn tâm làm được ? Đây là những chuyện bình thường , không cần dùng giới luật cũng có thể biết được , thì làm sao các tăng nhân có thể sát sanh được ? Yêu thương tất cả chúng sanh là một chuyện rất bình thường .
Không tà dâm cũng là chuyện đương nhiên , người xuất gia rất bận rộn làm sao có thì giờ mà tà dâm ? Nếu có vợ hoặc chồng thì bao giờ mới có thể độ cho chính mình được ? Bao giờ mới có thể độ chúng sanh được ? Hơn nữa , lỡ sanh ra vài đứa con , rồi từ sáng đến tối bận săn sóc cho chúng thì không thể nào tu hành được , lại biến thành một người tại gia . Cho nên tì khưu , tì khưu ni không được kết hôn là một chuyện rất hợp lý . Nếu họ phải ra ngoài thọ bát , một bên cầm bình bát , một bên ẵm con , ngoài việc thọ bát cho chính mình ăn , còn nhân tiện hỏi thêm : "Quý vị có sữa không ?" (Mọi người cười). Như vậy đương nhiên là mệt lắm .
Bây giờ Sư Phụ sẽ giảng bộ giới luật nổi tiếng Bát Kinh Pháp , bởi vì có rất nhiều vị Tì Khưu Ni nói với Sư Phụ : "Bất luận chúng con đi đâu , đều có những vị Tì Khưu dùng Bát Kinh Pháp để chèn ép Tì Khưu Ni . Vừa mở miệng ra là Bát Kính Pháp , bảo các vị Tì Khưu Ni phải đảnh lễ họ . Có những vị Tì Khưu tu hành không tốt , kinh điển cũng không biết , lại cứ một mực bảo người khác đảnh lễ , làm cho chúng con không chịu nổi". Điều này cũng chẳng sao , đảnh lễ Tì Khưu cũng giống như đảnh lễ cục đá vậy , đảnh lễ Phật đá hoặc đảnh lễ Phật gỗ đều được cả , sao không đảnh lễ một vị Phật sống ? Tất cả chúng sanh đều là Phật , nếu như chúng ta đều có thể nghĩ như vậy , thì không sao .
Bây giờ chúng ta hãy đàm luận , Bát Kính Pháp này có phải do Phật Thích Ca giảng không . Nếu là "phải", tại sao Ngài nói như vậy ? Thế giới của chúng ta xưa nay vẫn trọng nam khinh nữ , bất cứ quốc gia nào cũng vậy , các quốc gia Á Châu càng khắc khe hơn . Quan niệm trọng nam khinh nữ này đã được khắc sâu từ mấy ngàn năm rồi , bây giờ muốn thay đổi cũng rất khó . Một người con gái tại sao ra ngoài đường không được dễ dàng ? Tại sao lại ít khi ra đường ? Bởi vì khi ra đường thường hay bị những người phái nam gây phiền phức , rất nguy hiểm , cho nên phái nữ đơn độc ra ngoài hoằng pháp , làm ăn buôn bán , hoặc làm những chuyện mạo hiểm không được dễ dàng .
Cho nên từ xưa đến nay , rất ít người nữ nổi tiếng , ngay cả việc đi lính cũng phải cải trang thành nam chúng , ví dụ như Hoa Mộc Lan hoặc những nữ anh hùng khác . Tại Việt Nam trong bộ truyện Quán Thế Âm Bồ Tát , Quán Thế Âm Bồ Tát phải giả trang làm nam chúng để đi thọ giới . Vấn đề lớn lao nhất của thế giới này là vấn đề nam nữ . Cho đến bây giờ , rất nhiều quốc gia có chiến tranh cũng chỉ vì đàn bà , phải vậy không ? Có rất nhiều vị vua bị mất ngôi cũng chỉ vì nữ sắc , nhiều người bị tán gia bại sản , bỏ mạng , hoặc tiêu tan danh dự cũng chỉ vì nữ sắc , cho nên nam chúng rất sợ nữ giới .
Chúng ta thường nói : "Sau lưng một bậc vĩ nhân nhất định phải có một người đàn bà vĩ đại". Điều này ý nói : "Nếu không có một người đàn bà vĩ đại giúp đỡ thì nam phái không thể nào phát triển tốt đẹp , cũng không thể nào nổi tiếng". Sư Phụ không biết tại sao có người quan niệm như vậy , nhưng thôi chúng ta miễn bàn vấn đề này .
Tại sao giới luật lại chèn ép nữ chúng ghê gớm như vậy ? Rất có thể bởi vì lực lượng của nữ chúng quá lớn , hoặc nam chúng khi nhìn thấy nữ sắc thì vui thích , nhìn một lần là có chuyện ngay ; còn nữ chúng không dễ dàng bị mê hoặc như vậy , ít khi gặp người con trai một lần rồi về nhà tương tư phải không ? Cho nên ban đầu Phật Thích Ca chỉ thu dụng nam đồ đệ mà thôi , và thời đại trước đó chỉ có nam chúng xuất gia cho đến khi Phật Thích Ca xuất hiện sau này mới bắt đầu có Tì Khưu Ni , trước đó không có .
Hôm qua Sư Phụ đã giảng qua , tại Ấn Độ người nữ ra đường không được dễ dàng . Tại Đài Loan , Việt Nam , Trung Quốc , Đại Lục ..., các quốc gia Á Châu cũng trọng nam khinh nữ , địa vị của nam nữ không được bình đẳng , nhưng một người con gái đi trên đường cũng không đáng quan tâm lắm như tại Ấn Độ ; đối với Ấn Độ thì đây là một vấn đề to lớn , nữ chúng vĩnh viễn không được ra đường một mình , đến bây giờ cũng vậy .
Lúc Sư Phụ đi Ấn Độ , dù mặc y phục xuất gia , vẫn có trở ngại như thường . Trước khi Sư Phụ mặc tăng phục xuất gia , đương nhiên có rất nhiều người chú ý , có rất nhiều người nam đến nói chuyện với Sư Phụ , nhưng Sư Phụ đều lo liệu được cả , nên không xảy ra chuyện gì . Sau khi mặc tăng phục xuất gia , vẫn còn có vấn đề như thường .
Cho nên ngày xưa thâu nhận nữ chúng làm đồ đệ là một việc rất lớn , cũng giống như một hành động cách mạng vậy . Phật Thích Ca biết rằng sẽ gây nên nhiều phiền phức , nên mới không thích thu dụng nữ đệ tử . Những người nữ đầu tiên đến học với Ngài lại là Dì của Ngài , còn có sự trợ giúp cầu xin của A Nan , khiến Phật Thích Ca không có cách nào từ chối , mới bất đắc dĩ thâu nhận nữ chúng xuất gia . A Nan nói chuyện rất khéo , ông nói : "Phật ơi ! Dì của Ngài từ nhỏ thương yêu săn sóc Ngài , sao Ngài không báo đáp cho bà ?" A Nan nói vậy , đương nhiên Phật không thể nào từ chối được . A Nan là người đệ tử mà Ngài thương yêu nhất . Ông đã thỉnh cầu mấy lần , Phật cuối cùng đã chịu chấp nhận nữ chúng xuất gia . Bây giờ có rất nhiều chùa của các vị Tì Khưu Ni , để kỷ niệm A Nan , đã treo hình của A Nan để cung phụng , biểu lộ lòng tôn kính , bởi nếu như không có A Nan , thì không có Tì Khưu Ni .
-
Ý NGHĨA MỚI VỀ BÁT KÍNH PHÁP
Bây giờ chúng ta hãy xem xét điều luật thứ nhất của Bát Kính Pháp : "Tì Khưu Ni dù đã thọ giới được một trăm năm , nhưng khi gặp một vị Tì Khưu vừa mới thọ giới cũng phải cung kính đảnh lễ và mời ngồi". Tại sao Phật Thích Ca nói như vậy ? Bởi vì lúc Dì của Phật Thích Ca đến nơi ở của Ngài , bà thật tâm muốn xuất gia và Phật Thích Ca nhìn thấy quyết tâm của bà , biết rằng không có cách nào làm cho bà trở về . Ngài còn nhìn thấy bà đi chân không , thân thể dính đầy bụi , quần áo rách nát vì bà đã đi bộ từ một nơi xa xôi đến . Phật Thích Ca lấy làm lo sợ , biết rằng bà nhất định muốn xuất gia .
Tại sao Phật Thích Ca lại sợ Dì của Ngài xuất gia ? Thứ nhất : Vì bà có huyết thống hoàng gia , là bậc quốc mẫu , không quen với đời sống cực khổ , sợ rằng sau này bà sẽ chịu không nổi . Cuộc sống của hoàng cung có tiền hô hậu ủng , có bộ hạ , có nhiều người săn sóc quen rồi ; bây giờ tuổi đã lớn , làm sao gia nhập đoàn thể của tăng chúng được ? Tăng đoàn của Phật đều là nam chúng , sẽ không có ai săn sóc bà . Nam chúng không thể săn sóc nữ chúng được . Họ lại quen nếp sống độc thân , tự mình chưa chắc đã săn sóc được mình , huống chi còn phải chăm lo thêm một người già ? Dì của Phật Thích Ca lại là người của hoàng gia , những gì bà muốn có thể không dễ tìm . Trước đây khi bà ra lệnh , thì lập tức có mấy trăm người thi hành ; bây giờ đến đây , nếu bà muốn có một cuộc sống như vậy thì không thể nào thực hiện được . Nếu Ngài đối đãi bà không tử tế thì sẽ thành bất hiếu , tạo nên không khí bất hòa , cho nên Phật Thích Ca không muốn nhận bà .
Còn nữa , vì bà là Dì của Phật , đương nhiên khi đến đây mọi người đều tôn kính bà , kể cả Phật ; như vậy sau này việc kiểm thảo và dạy dỗ bà sẽ không dễ dàng , lại e rằng ngã chấp của bà quá lớn , rồi dựa vào uy quyền của mình , muốn Phật làm theo ý mình mà quên mất Ngài đã là Đấng Thế Tôn , mà nghĩ rằng Ngài là phàm phu hoặc là đứa con của bà nữa , bây giờ Ngài là công dân của vũ trụ , là bảo vật của vũ trụ . Cho nên Phật Thích Ca không chấp nhận người Dì của Ngài một cách dễ dàng , về điểm này Sư Phụ rất hiểu .
Thêm vào đó bà đã nuôi dưỡng Ngài đến lớn khôn cũng như là mẹ của Phật vậy ; về sau rất có thể bà đối xử với các vị A La Hán khác không cung kính , luôn luôn đòi hỏi thứ này , thứ kia và chỉ huy họ mãi , như vậy thật là phiền phức . Những người xuất gia khác sẽ nhận ra sự bất công này và cảm thấy khó chịu . Nếu nhận người Dì thì sau này những cung phi mỹ nữ đều đến xin xuất gia thì sao ? Họ đều là những mỹ nhân , và rất có thể những vị tì khưu sẽ bị lung lạc , quý vị có thể tưởng tưởng được không ? Những cung phi mỹ nữ trong hoàng cung đã được nuông chiều hư hỏng rồi , họ vừa xinh đẹp lại vừa được cưng chiều , vạn nhất khi họ đến tăng đoàn "đá lông mi" với những vị tì khưu , những người này và cả A La Hán cũng sẽ bị lung lạc hết . Họ sẽ bị hồn phi phách tán hết vì xưa nay chưa bao giờ nhìn thấy nhiều người đẹp như vậy .
Ngoài ra , nếu Dì được xuất gia , khi bà bị bịnh , các cung phi mỹ nữ thương nhớ bà , sẽ đổ xô đến thăm bà ; không phải vì muốn xuất gia , mà chỉ vì muốn thăm viếng người Dì mà thôi . Việc làm này sẽ gây nên vấn đề , gây nên phiền phức . Một đoàn mỹ nữ đến thăm viếng một tập đoàn tăng chúng , quần áo rực rỡ , thoa hồng thoa xanh , mỗi ngày ở đó chăm sóc bà Dì , cả ngày cùng với bà nói chuyện huyên thuyên ; như vậy đối với các vị A La Hán , Tì Khưu có phải là nhiều phiền phức không ? Phật Thích Ca sợ rằng hậu quả sẽ là như vậy , nên không muốn nhận người dì của Ngài , nhưng vì A Nan năm lần bảy lượt khẩn cầu , cho nên Ngài phải chấp nhận cho người Dì của mình xuất gia .
Lúc đầu Ngài không muốn , cho nên cố ý đặt ra tám điều rất nghiêm khắc và vô lý , gây khó khăn cho Dì của mình , để bà phải trở về , hiểu không ? Người Dì của Ngài vốn có huyết thống của hoàng gia , phong cách rất cao quý , được mọi người dân trong nước kính trọng , vì bà là quốc mẫu . Điều thứ nhất trong giới luật quy định "phải đảnh lễ Tì Khưu"coi thử bà có làm được hay không . Lẽ ra mọi người đều phải đảnh lễ bà , bây giờ bước vào tăng đoàn , chưa mở miệng đã phải đảnh lễ các vị Tì Khưu , bất chấp tuổi tác của họ .
Phật Thích Ca nghĩ rằng nếu là người bình thường thì sẽ thối tâm và sẽ nghĩ rằng tại sao Phật Thích Ca lại làm những chuyện vô lý như vậy ? Tại sao lại không nói những chuyện hợp lý ? Tại sao lại qui định một vị Tì Khư Ni 100 tuổi phải đảnh lễ một vị Tì Khưu 20 tuổi ? Nhất định họ sẽ sinh lòng hoài nghi , biện luận . Nếu bà mở miệng ra biện luận là xong , Phật sẽ trả lời : "Được ! Dì không thích thì có thể ra đi , quy luật của ta là như vậy , Dì có tiếp nhận thì mới có thể ở lại , còn không chấp nhận thì xin ra đi". Đó là lý do Phật Thích Ca viết ra Bát Kính Pháp .
Ý của Sư Phụ muốn nói là nếu Ngài thật sự quy định như vậy , thì đó là một sự cố ý làm cho người Dì của Ngài thấy khó mà thối tâm . Nhưng người ngày nay đều nói rằng Phật Thích Ca lập ra Bát Kinh Pháp như một quy luật để mọi người tuân theo , Sư Phụ không muốn tranh luận với mọi người . Điều thứ nhất của Bát Kinh Pháp giải thích như vậy có hợp lý không ? (Mọi người đáp : Có). Phật Thích Ca cố ý qui định như vậy để sau khi người Dì thọ giới xong , Ngài mới có cách khống chế bà , đặt bà bình đẳng với các tăng chúng khác , để bà không nghĩ rằng mình là đặc biệt , hiểu không ?
Bà vốn đã đặc biệt rồi , sau khi làm Tì Khưu Ni , bà lại càng đặc biệt hơn . Là Dì của Phật , là mẹ của một vị sư phụ vĩ đại , đương nhiên rất đặc biệt , cho nên Phật Thích Ca nghĩ rằng cần phải hạ ngã chấp của bà xuống trước , cho bà cảm thấy mình không là gì , không phải chỉ đảnh lễ Phật mà thôi , còn phải đảnh lễ các vị Tì Khưu trẻ tuổi , như vậy bà sẽ hiểu thân phận của mình . Ý của Ngài là muốn bà hiểu rõ rằng không phải đến với tăng đoàn để làm vua , và Ngài muốn dẹp ngã chấp của bà xuống . Từ thái độ của người Dì , chúng ta có thể thấy rõ bà là người thành tâm cầu đạo , nếu không bà đã bỏ đi , phải không ?
-
Ý NGHĨA MỚI VỀ BÁT KÍNH PHÁP
Bây giờ Sư Phụ giải thích điều thứ nhì : "Không được la mắng Tì Khưu". Điều thứ ba : "Không được vấn tội Tì Khưu , nhưng Tì Khưu có thể vấn tội Tì Khưu Ni". Bởi vì người Dì có huyết thống hoàng gia , chỉ dạy người khác quen rồi , bây giờ đến đây , rất có thể sẽ đem đến phiền phức cho người khác , ví dụ như phê bình vị Tì Khưu này ăn cơm khó coi , vị Tì Khưu khác thì dơ dáy , không có phong độ của hoàng gia . Phật Thích Ca sống với người Dì hơn hai mươi năm , biết rõ cá tánh của Dì mình cho nên mới nói như vậy , hiểu không ? Nếu không tại sao lại quá nghiêm khắc vậy ?
Đối với một số người khác , nếu như chính mẹ mình đến xin thọ giáo , chúng ta sẽ từ từ nói rằng : "Mẹ , mẹ cần phải biết , mẹ xuất gia con rất hoan nghênh , nhưng mẹ cũng nên hiểu rõ địa vị của con . Con không thể nào dùng tư cách của một người con đối đãi với mẹ được . Mẹ sẽ rất khổ cực , sẽ rất đau lòng , bởi vì con sẽ đối xử với mọi người như nhau . Bây giờ con không phải là đứa con riêng của mẹ nữa".
Chúng ta sẽ từ từ nói như vậy , sẽ không thể làm giống như Phật được . Vừa gặp là Ngài đã nghiêm khắc quy định : "Tì Khưu Ni phải đãnh lễ Tì Khưu , bất phân tuổi tác . Không nói những lỗi lầm của Tì Khưu , nhưng ngược lại Tì Khưu có thể phê bình Tì Khưu Ni mà không sao cả". Rất có thể Phật Thích Ca biết tánh của Dì mình còn nặng phần chấp nhất và Ngài không thích tánh ấy . Phật Thích Ca không phải là con ruột của bà , mà là con của người chị của bà . Sống lâu với nhau , cá tính bất đồng , khó tránh được xảy ra nhiều chuyện . Ngay cả giữa mẹ con hoặc chị em cũng có thể xảy ra chuyện bất hòa . Cho nên khi người Dì vừa đến , Phật Thích Ca phải nói rõ ràng : "Dì nên biết , Dì đến đây không phải để gây phiền phức".
Đó là chuyện giữa hai người , Sư Phụ quan sát một cách khách quan . Nếu không , tại sao Phật Thích Ca lại nghiêm khắc đối với người mà Ngài kính yêu nhất ? Tóm lại , Ngài biết cá tánh của bà , nên phải dùng phương cách như vậy để dạy dỗ bà , để có thể dẹp bỏ ngã chấp của bà , giúp bà tiến bộ , tu hành khá , và sớm thành Phật .
Nội dung của điều lệ thứ hai và thứ ba không khác nhau mấy . Có thể Phật Thích Ca biết người Dì của mình hay phê bình người khác , có thói quen phê bình thuộc hạ hoặc là con dâu ..., những người này không dám nói gì . Nhưng sống với tăng đoàn thì khác , lúc đó những Tì Khưu theo học với Phật Thích Ca tu hành rất khá , và đã xuất gia từ lâu , chịu cực khổ tu hành ; có người đã thành A La Hán , có người đã thành Bồ Tát , có người đã đạt quả vị Tư Đà Hàm . Nếu như người Dì đến đây dùng tâm phàm phu để xét đoan họ , hoặc đem thái độ phê bình áp dụng vào đoàn thể của tăng chúng lại càng không được . Ngài sợ Dì mình tạo nên nghiệp chướng , tạo nên khẩu nghiệp .
Phàm phu không thể phê bình bậc A La Hán hay Bồ Tát , cho nên Phật Thích Ca mới nói rõ ràng với bà , để bà biết thân phận của mình ; vừa mới xuất gia , đương nhiên không có bao nhiêu công đức , nếu hay phê bình người , thì rất dễ tạo nên khẩu nghiệp . Vì vậy Ngài mới nói rõ rằng : "Cho dù Dì trở thành Tì Khư Ni , Dì cũng không được tự tiện nói những lỗi lầm của Tì Khưu , nhưng họ nói về lầm lỗi của Dì thì không sao". Tại sao vậy ? Không phải Phật Thích Ca không công bình , ý của Ngài là các vị Tì Khưu đã thành A La Hán hoặc thánh nhân , cách nhìn của họ tương đối rõ ràng hơn , họ dùng cặp mắt của thánh nhân , dùng tâm công bình , mà không dùng lòng phân biệt để nhìn sự việc .
Ví dụ Dì của Ngài có thể làm chuyện gì sai , Tì Khưu sẽ nói với bà : "Bà không nên làm như vậy". Họ có thể thay Phật dạy dỗ bà , cho nên Phật mới cho phép các vị Tì Khưu được nói những khuyết điểm của bà , hiểu ý của Sư Phụ không ? Còn người Dì vừa mới đến , chưa học được bao nhiêu , không biết quy luật , đương nhiên sẽ gây ra nhiều điều sai trái . Người già thì hay lẫn lộn , làm không rõ , không chịu cố gắng , lại hay rầy rà người , vì ở hoàng cung đã quen rồi . Cho nên Phật Thích Ca mới nói : "Sau khi Dì thành Tì Khưu Ni cũng không được nói lỗi lầm của những Tì Khưu , nhưng các vị Tì Khưu có thể nói những lỗi lầm của Tì Khưu Ni".
Đây là điều Sư Phụ khách quan mà quan sát . Nếu quả thật như vậy , Sư Phụ cũng đồng ý , bởi vì các vị Tì Khưu đã tu hành với Phật Thích Ca lâu rồi , trình độ tu hành rất khá , bây giờ đột nhiên có thêm một người nữ , lại là một bà già có huyết thống của hoàng gia , đến đây phê bình họ , khống chế họ và coi thường họ , đương nhiên là không được . Cho nên Phật Thích Ca mới ghi lại những giới luật nghiêm khắc ấy . Những giới luật này , vào thời đại của bà Dì này rất đúng và đúng cho cá nhân của bà nữa . Nhưng đối với thời đại hiện nay , hoặc là đối với các vị tín đồ của Phật giáo , chưa chắc là đúng , không nhất định mọi người đều phải như vậy ; giới luật này chỉ thích ứng vào thời đại ấy mà thôi .
-
Ý NGHĨA MỚI VỀ BÁT KÍNH PHÁP
http://www.suprememastertv.com/au/
Thứ tư : "Thọ giới giữa tăng chúng". Đây là chuyện đương nhiên , lúc đó chưa có Tì Khưu Ni , bà sẽ phải đi đâu để thọ giới Tì Khưu Ni ? Ý của Phật là , Ngài không thể dùng tình cảm cá nhân , hoặc quan hệ cá nhân đặc biệt thọ Tì Khưu Ni giới riêng cho bà . Bởi vì giới Tì Khưu Ni có liên quan đến vấn đề của phụ nữ , Ngài không tiện nói riêng với bà ; nói trước mặt mọi người , để mọi người đều biết , giữa Ngài và bà không có vấn đề gì , không có quan hệ gì .
Về sau các vị Tì Khưu Ni cũng vậy , không thể đơn độc thọ giới với một vị Tì Khưu , cần phải hợp chung với những người cùng thọ giới , hiểu không ? Có gì nói nấy , dù là có những điều lẽ ra không được nói trước mặt nữ chúng , hoặc trước mặt nam chúng ; nói trước mặt mọi người sẽ không còn gì thần bí nữa . Vì nguyên do này , Phật mới quy định như vậy , hiểu không ?
Ý của Ngài là cần phải thọ giới trước đám đông , bởi vì có rất nhiều việc khi nói ra sẽ đỏ mặt , hoặc gây những ngộ nhận . Có rất nhiều vấn đề sinh lý , nếu nói riêng với một người , thì tình cảm hoặc dục vọng sẽ nổi dậy . Cho nên Phật mới nói : "Các vị Tì Khưu Ni cần phải thọ giới trước các tăng chúng". Về điểm này Sư Phụ cũng đồng ý .
Thứ năm : "Nếu Tì Khưu Ni phạm giới trong vòng nửa tháng ở trong hai bộ tăng (Tì Kheo và Tì Kheo Ni), nên làm phép Mana Đóa (vui lòng sám hối để trừ tội)". Cứ mỗi nửa tháng một lần , họ sám hối trước mặt các tăng chúng , sau đó mọi việc không còn nữa . Đây là chuyện đương nhiên , bởi vì các vị thọ Tì Khưu và Tì Khưu Ni đã cùng nhau cộng tu , cho nên có sinh hoạt gì cũng phải làm công khai . Sư Phụ ở đây la rầy ai cũng công khai , để cho mọi người cùng chia nhau gánh đỡ nghiệp chướng của quý vị . Sư Phụ la rầy xong , quý vị sẽ trở nên tốt hơn , nhưng mọi người sẽ xấu đi một chút , bởi vì họ đã lãnh một phần sự xấu của quý vị .
Cho nên Sư Phụ la rầy giữa công chúng rất hữu ích , đừng trách Sư Phụ tại sao không gọi quý vị vào trong phòng riêng để la rầy , đừng phiền Sư Phụ lần nào cũng la rầy nơi công chúng . La rầy ở chỗ đông người thì mọi người sẽ phân chia gánh vác nghiệp chướng của quý vị ; mỗi người lãnh một chút , về sau quý vị sẽ được sạch sẽ . Sư Phụ sám hối dùm cho quý vị trước công chúng . Ý nghĩa là vậy , bây giờ hiểu chưa ? (Nhưng nếu vì muốn tiêu trừ nghiệp chướng mà cố ý làm phiền Sư Phụ , để Sư Phụ phải la rầy , nghiệp chướng sẽ rất nặng). Mỗi nửa tháng phải đứng trước mặt công chúng sám hối việc làm của mình . Bây giờ quý vị có nghiệp chướng hay không , chỉ âm thầm viết vào nhật ký để Sư Phụ đọc mà thôi , có phải là đã đem toàn bộ nghiệp chướng giao cho Sư Phụ không ? (Mọi người cười).
Thứ sáu : "Mỗi nửa tháng các Tì Khưu Ni phải đến giáo hội Tì Khưu để thỉnh một vị đến thuyết pháp". Nếu chúng ta sống trong một đoàn thể , đương nhiên sẽ có người mới đến , hoặc có người không hiểu rõ một vấn đề nào đó , cho nên mỗi một tháng cần có người đến nhắc nhở . Cũng giống như chúng ta ở đây , Sư Phụ thường nhắc nhở quý vị một việc nào đó không nên làm , việc nào đó không nên nói . Quý vị cứ phạm lỗi hoài , cho nên Sư Phụ phải nhắc nhở luôn , chỉ vậy thôi .
Thứ bảy : "Chẳng nên kiết hạ an cư ở những nơi không có Tì Khưu". Vừa rồi Sư Phụ có giảng qua , tại Ấn Độ , nữ chúng ở chung với nhau không thuận tiện , cần có nam chúng để tránh những nam chúng ở bên ngoài sẽ đến tìm và gây phiền phức . Ở chung với các nam xuất gia tương đối an toàn hơn , những người đàn ông khác không dám đến , chỉ vậy thôi .
Thứ tám : "Kiết hạ an cư xong , nên theo trong hàng tăng làm phép tạ tứ (xưng ra tội mình), và hỏi các vị Tì Khưu ba việc , chỗ nghe , chỗ thấy , chỗ hoài nghi của mình". Đây cũng là chuyện đương nhiên , bởi vì các vị Tì Khưu Ni đều vừa mới xuất gia , còn các vị Tì Khưu đã xuất gia với Phật Thích Ca lâu rồi , đương nhiên có thể làm thầy của các vị Tì Khưu Ni , đây là chuyện rất đơn giản . Nhưng không phải bây giờ mỗi vị Tì Khưu đều làm thầy các vị Tì Khưu Ni , thời đại đã đổi khác , hiểu không ? Về giới luật này , hiện nay nhiều người đã hiểu lầm ; nên hiểu rằng không phải các vị Tì Khưu nào cũng có thể làm thầy các vị Tì Khưu Ni .
Các vị Tì Khưu theo học với Phật Thích Ca mới có thể làm thầy các vị Tì Khưu Ni thời đó . Trước khi có Tì Khưu Ni , các vị Tì Khưu đã học với Phật Thích Ca rồi , có nhiều người đã thành A La Hán , thành Thánh Nhân , đương nhiên họ có quyền , có lực lượng , có trí huệ , có thể dạy dỗ các vị Tì Khưu Ni mới đến , chứ không phải chỉ dạy Tì Khưu Ni mà thôi ; đây là một chuyện rất dễ hiểu .
Nếu như đem giới luật này áp dụng vào thời đại bây giờ thì không được . Không phải vị Tì Khưu nào ngày nay cũng có thể dạy được Tì Khưu Ni , có rất nhiều vị Tì Khưu Ni trí huệ còn cao hơn các vị Tì Khưu , bởi vì thời đại đã đổi khác , có những vị Phật khác .
Nếu như ngày nay có một vị Tì Khưu vừa nhập vào tăng đoàn của chúng ta , họ cần phải học hỏi với các vị Tì Khưu Ni trước . Ý của Sư Phụ nói là các vị Tì Khưu chưa được chính thức thọ giới ở đây , nên cần phải học với các vị Tì Khưu Ni . Các vị Tì Khưu Ni này đã biết quen nhiều việc , hiểu rõ các quy luật và đã được truyền dạy giáo lý của Sư Phụ , các cô tương đối hiểu rõ ràng hơn , đương nhiên cần phải theo học với các cô . Bát Kính Pháp bây giờ cần phải đổi ngược lại mới đúng (Mọi người cười).
Lời giải thích của Sư Phụ về Bát Kính Pháp là như vậy , có phải là đơn giản không ? (Mọi người đáp : Phải). Thời đại thay đổi , giới luật cũng cần phải thay đổi . Trước hết phải tìm một vị Phật , sau đó mới nói chuyện giới luật , bởi vì vị Phật ấy sẽ quy định ra những giới luật . Vị Phật ấy có thể rất khiêm tốn , rất ôn hòa , cũng giống như đại chúng vậy , nhưng nếu như đại chúng quá ngu muội , Ngài có thể qui định ra một giới luật khác . Trước Phật Thích Ca không có giới luật của Tì Khưu Ni , mà tự Ngài tạo ra giới luật này , hiểu không ?
Cùng một hoàn cảnh nhưng khác thời đại , nên rất có thể sau này sẽ có những giới luật Tì Khưu Ni mới . Xuất gia cần phải rời bỏ gia đình , không còn tình cảm cá nhân ; nếu có , cũng nên vì đại chúng mà cắt bỏ . Bất cứ người nào muốn tu hành với tăng đoàn đều phải tiếp nhận giới luật này , rời bỏ tình cảm cá nhân .
Phật Thích Ca đã lập tức cắt bỏ thâm tình mà nói với người Dì rằng : "Nếu như Dì muốn xuất gia thì phải đảnh lễ Tì Khưu , phải công bình , phải hòa mình với đại chúng , không được nghĩ rằng Dì là Dì của con , muốn làm điều gì cũng được". Vì bà là thân nhân của Phật nên Ngài mới nghiêm khắc như vậy , quý vị hiểu không ? Nếu bà chỉ là một phụ nữ bình thường , không có quan hệ với Phật Thích Ca , đến thỉnh cầu được xuất gia , rất có thể sẽ không có Bát Kinh Pháp này .
Bất cứ một kinh điển nào , một giới luật nào được đặt ra cũng đều có lý do . Chúng ta cần phải hiểu cho rõ ràng , không được mê tín , ai nói gì cũng nghe theo , không chút nghi ngờ . Tin mà không hiểu là không có trí huệ . Phật Thích Ca không muốn chúng sanh ngu muội nên có nói ngay cả Phật cũng không nên vội tin . Chúng ta cần có chứng minh , rồi tự kiểm chứng , sau đó mới tin .
Sư Phụ rất thực tế nên không thích những chuyện không hợp lý . Nếu thấy vô lý , Sư Phụ sẽ theo hỏi đến cùng , cho ra lý lẽ thì mới thôi ; bằng như không , Sư Phụ sẽ không bao giờ tin , bất luận người nói là người nào . Nếu không , càng tu chúng ta sẽ càng ngu , người ta nói gì chúng ta cũng tin mà không hiểu chút nào cả . Giới luật ngày xưa không còn thích ứng với thời nay nữa , tại sao chúng ta vẫn cứ đem ra dùng ?
Cũng giống như ngày hôm qua Sư Phụ giảng , thời đại Thần Nông hoặc Nghiêu Thuấn , đồ đạt vất trên đường cũng không ai nhặt . Nhưng ngày nay , dù quý vị đã cất kỹ trong bao vẫn có thể bị lấy mất ; thậm chí để trong ngân hàng , để ở nhà , cũng có người lén vào cướp , huống chi là để trên đường ? Ngày trước không có xe hơi , không có xe đạp , xe gắng máy , đương nhiên không có luật giao thông . Nhưng bây giờ , nếu chúng ta đem những quy luật từ hai ba trăm năm hoặc là năm ngàn năm về trước ra áp dụng , nhất định sẽ sinh hỗn loạn , phải không ?
Giới luật cũng vậy , nếu có thể dùng được thì chúng ta dùng , không dùng được thì bỏ đi ; nếu không chúng ta sẽ không tiến bộ . Nếu như chúng ta không theo thời đại , mê tín một cách mù quáng , là một điều rất đáng tiếc vì chẳng được một chút ích lợi gì . Lời giải thích của Sư Phụ về giới luật là như vậy , quý vị có đồng ý không ? (Mọi người đáp : Đồng ý !)
-
TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU
Khi nói đến xuất hồn một số người cho rằng đó là lúc thân thể A Tu La của chúng ta xuất ra . Nhưng nếu chúng ta tu Pháp Môn Quán Âm đến một đẳng cấp nào đó , sẽ được vô sở bất tại , nơi nào cũng có thể đến được . Như vậy sẽ thuận tiện hơn , muốn đến địa cầu thì đến , có thể đi cứu người , giúp người , hoặc thăm viếng một người nào đó , mà chúng ta vẫn ở trên cảnh giới cao , vẫn rất tự tại . Thiên vạn ức hóa thân thì cao hơn , hiểu không ?
Hôm qua Sư Phụ dạy quý vị pháp môn xuất hồn để linh thể của quý vị có thể ra đi . Linh thể là một thân thể như thế nào ? Đó là lúc chúng ta rời bỏ lớp thân thể ngoài cùng nhất , cũng như cởi bỏ lớp áo quần bên ngoài vậy ; nhưng thân thể của chúng ta còn rất nhiều bộ y phục chưa được cởi bỏ , hiểu không ? Trong quyển Tức Khắc Khai Ngộ - Hiện Đời Giải Thoát ; Khai Thị IV (Chương 3 : Hắc Bạch Thần Thông), Sư Phụ đã giảng rất rõ ràng , xuất hồn không phải là quả vị của Như Lai , cũng không phải là lữ hành cao cấp của linh hồn . Hành trình cao cấp nhất của linh hồn là đẳng cấp Như Lai , bất cứ nơi nào cũng hiện diện . Thiên đàng cũng có mặt , địa ngục cũng có mặt , thế giới Ta Bà cũng có mặt , bất cứ nơi Phật thổ nào cũng đều có mặt , lúc đó là "Phổ Môn", biến thành Quán Âm Bồ Tát , bất cứ nơi nào cũng có thể nghe được , và nơi nào cũng có thể đến được .
Có nhiều người nói : "Tôi học pháp môn nào đó với một người nào đó , linh hồn cũng có thể xuất ra đi gặp người khác". Thật ra đây là một chuyện rất bình thường , không có gì đáng nói . Chúng ta cũng thường nghe nói , ở Đài Loan có người nào đó tự xưng là Phật sống , có thể xuất hồn đi đến một nơi nào để gặp một người nào đó ..., đây là loại xuất hồn mà Sư Phụ đã chỉ cho quý vị ngày hôm qua . Ngày hôm qua quý vị đã thấy được ở đây có mấy người biết rõ linh hồn xuất ra như thế nào ?
Chúng ta có một vị xuất gia cũng có thể xuất hồn được , điều này chẳng có gì lạ , anh ấy có thể từ đây đến chỗ nhà vệ sinh kia (mọi người cười), có thể đi ra chợ , hoặc đến nước Mỹ , đi quan sát thế giới này , chỉ vậy thôi .
Tuy nhiên , lợi dụng pháp môn xuất hồn để đi vòng quang thế giới , mà không cần vé máy bay cũng có thể trở nên nguy hiểm . Bởi vì xuất hồn để đi chơi , không những dễ mà còn nhẹ nhàng nên về sau thành thói quen . Mỗi lần nhắm mắt lại là muốn xuất hồn ra ngoài chơi , quên cởi bỏ những lớp quần áo khác còn lại của thân thể , để đến những cảnh giới cao hơn , quên tìm những quả vị cao hơn , có hiểu ý của Sư Phụ không ? Làm như vậy chúng ta chỉ có thể ở thế giới Ta Bà này đi tới đi lui mà thôi , chẳng có ích lợi gì .
Vì lẽ đó , Sư Phụ không dạy pháp môn xuất hồn , chứ không phải Sư Phụ không biết . Sư Phụ biết rất nhiều pháp môn , nhưng những pháp môn ấy không có ích lợi nhiều . Mục đích tu hành của chúng ta rất quan trọng , nếu chúng ta chỉ vì muốn có những chuyến "du hành" rẻ tiền , không muốn mua vé máy bay thì có thể tu pháp môn xuất hồn mà Sư Phụ giảng hôm qua . Nhưng nếu chúng ta muốn được giải thoát , muốn có được quả vị cao , thì cần phải tu Pháp Môn Quán Âm .
Nhiều lúc người tu Pháp Môn Quán Âm , có thể đến những thế giới rất cao , nhưng vì đầu óc của chúng ta không thể ghi lại nên lúc trở về đều quên hết tất cả , chỉ nhớ rằng hình như mình có đi đến một chỗ nào đó , trên thân dường như vẫn còn lưu lại một thứ gì , nhưng không biết . Tình trạng đó biểu lộ rằng chúng ta đã đến một thế giới rất cao .
Có người hỏi Sư Phụ : "Con tu hành lâu rồi nhưng không thấy gì cả , chỉ nghe được âm thanh mà thôi". Nghe được âm thanh là khá lắm rồi , bởi vì âm thanh chính là nước cam lồ của chúng ta . Nếu như không có âm thanh này thì cũng như chúng ta không có nước cam lồ vậy , chúng ta sẽ chết khô chết héo . Chúng ta có thể không có ánh sáng , nhưng nếu chúng ta không có âm thanh , thì linh hồn của chúng ta rất khó sống . Có lúc chúng ta đến những cảnh giới rất cao , khi về nhà không nhớ gì cả , nhưng có khi có đồng tu đi theo sẽ thấy được linh hồn của chúng ta .
Ví dụ ở Đài Bắc có một người cha của một vị đồng tu bị bệnh ung thư rất nặng , đã mấy năm rồi ; lúc bệnh của ông trở nặng , chết thì cũng không chết , sống cũng không sống nổi , rất là đau đớn . Lúc đó đồng tu khẩn cầu Sư Phụ giúp đỡ . Cha của cô không có tu hành gì , lại không ăn chay , nhưng vì cô rất hiếu thảo , khóc lóc khẩn cầu Sư Phụ , xin được giúp đỡ . Rồi Sư Phụ dạy cô những gì phải làm , lúc về nhà cô cứ thực hành y theo lời chỉ thị của Sư Phụ . Quả nhiên cha của cô đã ra đi rất an nhiên bình thản .
Lúc cha của cô qua đời , lại có một vị đồng tu khác , cô này chỉ mới học với Sư Phụ hơn hai năm mà thôi và cũng không tu hành nhiều gì . Cô là một người rất bận rộn , hàng ngày phải ra ngoài làm việc , không có nhiều thời giờ tu hành . Nhưng trình độ của cô cũng rất khá , mỗi lần ngồi thiền nhắm mắt lại là thần thức có thể xuất ra , đến rất nhiều cảnh giới , cho nên cô hiểu được lực lượng của Sư Phụ .
Hôm đó , trong lúc ngồi thiền , cô nhìn thấy vị đồng tu có người cha vừa mới mất dẫn linh hồn của cha mình đến một cảnh giới cao hơn . Cô giúp Sư Phụ làm việc này mà chính cô cũng không biết , Sư Phụ đã chỉ dạy linh hồn của cô làm thế nào để dẫn linh hồn của cha cô đến một nơi an toàn , ví dụ thế giới thứ nhất hoặc là thế giới thứ hai , để cha cô ở trên ấy tu hành với Sư Phụ ; nhưng chính cô cũng không biết điều này , chỉ có vị đồng tu ngồi thiền kia mới biết .
-
TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU
Ý của Sư Phụ về câu chuyện này là gì ? Là muốn nói với quý vị rằng , có nhiều lúc tuy chúng ta đắc Đạo mà không biết là chúng ta đã đắc Đạo , hiểu không ? Trong kinh Kim Cang nói rất rõ ràng : "Nếu Phật , Bồ Tát , A La Hán nghĩ rằng bây giờ mình đã đạt được quả Phật hay là A La Hán , thì người đó không phải là Phật , không phải là A La Hán . Nghĩ rằng mình đã đạt được quả vị của Bồ Tát , thì người đó không phải thật sự là Bồ Tát". Tại sao vậy ? Bởi vì đầu óc của chúng ta rất hạn hẹp , phạm vi hiểu biết đầu óc của chúng ta là ở một nơi rất thấp của thế giới vật chất này , cao nhất chỉ có thể đến được thế giới Thứ Hai mà thôi .
Thế giới Thứ Hai là thế giới của nhân quả , còn được gọi là thế giới của tri thức . Thế giới này vẫn còn trong phạm vi tri thức ; vượt qua thế giới tri thức thì đầu óc không còn biết gì nữa , tất nhiên cũng không ghi lại được gì .
Ví dụ , máy bay đương nhiên là tốt hơn xe hơi ; máy bay có thể bay rất cao và là công cụ giao thông tốt nhất của thế giới này ; nhưng công cụ này không thể nào hiểu nổi tình trạng của đĩa bay , bởi vì đĩa bay đã vượt qua tầng khí quyển , vượt qua được vận tốc âm thanh , cho nên mặc dù những chiếc máy bay nhanh nhất , bay nhanh nhất , cũng không thể nào đuổi kịp , thậm chí cũng không thể nào theo sau đĩa bay , có phải như vậy không ? Nếu chiếc đĩa bay này tiếp tục đến những nơi rất cao , sau đó trở lại , thì có thể nhìn thấy chiếc máy bay nọ trong không trung , phi hành gia có thể vẫy tay chào chiếc máy bay ấy nữa ; nhưng người trong chiếc máy bay kia không thể nào hiểu chiếc đĩa bay đang làm gì ?
Cũng cùng một hoàn cảnh , nếu chúng ta muốn dùng một vật gì , hoặc hy vọng lúc trở về có thể nhớ được nhiều thì cần phải dùng đầu óc để ghi lại , sau đó dùng ngôn ngữ để viết ra hoặc để giải thích , bởi vì ở những cảnh giới cao dùng ngôn ngữ nói không thông . Ví dụ khi chúng ta đi đến thế giới thứ tư hoặc thế giới thứ năm , không phải chúng ta không biết nơi đó ra sao , nhưng những gì chúng ta biết ở nơi đó khác với sự "biết" của thế giới này .
Nếu chúng ta có thể đến được thế giới của A Tu La , nơi đó công cụ của họ sử dụng cũng không khác gì của thế giới chúng ta , cảnh giới ở nơi ấy cũng như ở đây . Ví dụ ở thế giới này chúng ta mặc âu phục , khi chúng ta đi đến thế giới thứ nhất , chúng ta cũng nhìn thấy họ mặc âu phục . Lúc chúng ta đến nơi đó , chúng ta chỉ phải cởi bỏ lớp linh thể ngoài cùng mà thôi , không phải cởi hết . Nếu chúng ta cởi bỏ hết những bộ y phục của linh thể cho đến lúc không còn một bộ y phục nào nữa , linh hồn của chúng ta sẽ là một vùng ánh sáng bao la ; không có thân , khẩu , ý ; không có mắt , tai , mũi , lưỡi , thân , ý . Cảnh giới này là một cảnh giới rất cao .
Khi chúng ta lên đến những cảnh giới cao , không nhất định chúng ta phải nhìn thấy người nơi ấy mặc những bộ đồ như thời cổ vậy , hoặc là mắt của họ trông sáng quắc , mang một bộ râu trắng dài ra đón tiếp chúng ta . Rất có thể họ mặc những bộ đồ cao bồi đến đón chúng ta , bởi vì các vị thiên sứ bây giờ cũng rất kiểu cách . Trước đây người Trung Hoa mặc những bộ đồ khác nhau , lúc họ qua đời , thành thiên sứ , cũng mặc những bộ y phục ấy . Bây giờ kiểu mới là mặc quần áo cao bồi , lúc chết cũng như vậy .
Trước đây có một quốc vương , làm người cũng tốt , nhưng ông rất ít bố thí . Trong hoàng cung của ông có rất nhiều tài sản , nhưng ông không chịu phân phát cho người ngoài và bá tánh , chỉ để hưởng thụ lấy một mình mà thôi . Rồi một ngày ông chết đi cũng như một số người khác , có một ngày rồi tất cả chúng ta đều sẽ chết . Khi vị vua chết đi , đến một nơi có một căn nhà trống , bên trong không có gì cả , chỉ là một cung điện bằng vàng rất đẹp đẽ . Ông nhìn thấy bàn ghế trong cung điện rất đẹp , giường cũng rất là thoải mái , bèn leo lên giường ngủ . Lúc tỉnh dậy , đến ngồi thử những chiếc ghế và ra hoa viên dạo quanh chơi . Một lúc sau ông thấy vừa mệt mỏi vừa đói khát , muốn ăn uống nhưng ông không tìm được một thứ gì có thể ăn được . Ông đi tới đi lui , vừa mệt vừa khát , muốn uống cũng không có nước để uống . Quý vị đã biết khi một người sắp chết đói hoặc chết khát , thì đau khổ vô cùng và tính khí rất hung hăng .
Vị vua này liền đi tìm vị thiên sứ và phàn nàn rằng : "Kỳ lạ ! Căn nhà của ta sao không có gì để ăn , để uống cả ? Những cung điện đẹp đẽ này có ích lợi gì ? Đây là chuyện gì vậy ? Có phải là gạt ta không ?" Vị thiên sứ trả lời : "Ông vào kiếm thử xem". Vị vua nói : "Ta kiếm đã nửa ngày , không tìm được một thứ gì cả , bên trong đều trống rỗng". Vị thiên sứ hỏi ông : "Lúc ông còn sống có bố thí cho ai điều gì không ? Ví dụ có những người ăn mày sắp sửa chết đói đến xin ăn , ông có cho họ thứ gì không ?" Vị vua trả lời : "Ai cho họ ăn để làm gì ? Họ làm những kẻ ăn mày là tại nghiệp chướng của họ , là Trời phạt họ , họ có tội thì phải chịu . Tại sao ta phải cho họ ăn ? Khi họ đến , ta đuổi họ đi . Không để cho bầu không khí nghiệp chướng đó làm ô nhiễm nơi ta ở". Vị thiên sứ nói tiếp : "Đương nhiên vì ông không cho ai ăn thứ gì , nên bây giờ cũng chẳng có ai cho ông ăn lại".
-
TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU
Lúc đó vị vua nói : "Chết rồi ! Bây giờ ta phải làm sao ?" Vị thiên sứ nói : "Ông trồng nhân gì thì gặt quả nấy . Bây giờ ông đừng phàn nàn chi cả ? Pháp luật nhân quả rất rõ ràng , đây không phải do chúng tôi muốn mà do nhân quả của ông tạo ra".
Vị vua nghĩ ngợi một hồi , vừa mệt , vừa đói , vừa khát , ông hỏi vị thiên sứ : "Có cách nào giải quyết không ?" Vị thiên sứ trả lời : "Không có cách gì cả . Ông cần phải đợi một thời gian , trở về làm người hãy cố gắng bố thí đồ vật cho người khác , lúc ông trở lại , mới có thực phẩm để ăn . Ở dương gian cho người khác thứ gì , hoặc làm được điều gì tốt , khi lên đây sẽ nhận được quả báo đó gấp trăm ngàn lần , hiểu không ?"
Lúc đó vị quốc vương chịu không nổi sự đói khát , khổ sở , ở thiên đàng mà không có gì ăn , cũng giống như địa ngục vậy . Những căn nhà tuy đẹp đẽ , nhưng không có thức ăn thì thật là đau khổ . Vị vua nói : "Xin Ngài giúp cho tôi trở về một lát được không ? Tôi chỉ cần hai tuần lễ thôi . Tôi xin phép nghĩ hai tuần lễ". Vị thiên sứ nói : "Sao ông phải xin phép đi ?" Vị vua trả lời : "Tôi muốn trở về đem hết tất cả tài sản của tôi ra bố thí , xong rồi tôi sẽ trở lại . Nếu không , tôi sẽ bị chết đói ở đây , như vậy cũng đâu có ích lợi gì ! Ở thế gian tài sản của tôi nhiều như vậy , nhưng nơi đây lại không dùng được , vậy có ích lợi gì ?"
Lúc đó vị thiên sứ thấy hoàn cảnh của ông cũng tội nghiệp , thấy ông cũng dễ thương và lương thiện , không làm điều gì xấu nên cho phép ông được nghỉ hai tuần lễ .
Khi vị quốc vương trở về dương thế , ông đem hết tất cả tài sản của ông ra bố thí : Hoàng cung , trâu châu , mã não , vàng bạc ... Tất cả những trân kỳ bảo ngọc ông đều đem bố thí hết . Các thức ăn sơn trân hải vị cũng đem cho . Ai thích có gì thì ông cho nấy . Ví dụ ở Đài Loan , những người ăn chay thích đậu hũ , mì căn , ông đều đem cho họ rất nhiều . Như vậy , khi trở lại thiên đàng , ông mới có thể hưởng .
Đây chỉ là một thứ nhân thiên phước báu nhỏ nhặt , nhưng nếu chúng ta không cho ai niềm vui vậy thì chúng ta sẽ không có niềm vui . Cho nên bất cứ vị minh sư nào cũng đều nói : "Thương người tức là thương mình . Ghét người tức là đem phiền phức đến cho mình , hành hạ lấy mình !" ý nghĩa là như vậy .
Còn một câu chuyện nữa : Có một vị thiên sứ hỏi Diêm Vương : "Tôi thấy địa ngục của ông đầy người . Nếu hỏi quốc gia nào đông đúc nhất , thì tôi sẽ nói đó là địa ngục của ông . Làm sao ông có thể cai trị quốc gia của ông một cách hữu hiệu như vậy ?" Diêm Vương trả lời : "Tôi đâu có làm gì . Mỗi phạm nhân khi đến đây , họ đem theo thế giới riêng của họ , hoàn cảnh của họ , căn nhà của họ , tội ác cùng phước báu của họ . Họ tự tạo ra hoàn cảnh sống của họ , họ tự khống trị , tự săn sóc lấy họ và sống trong lao tù nghiệp lực của họ , tôi không phải đụng đến , dù chỉ là một móng tay".
Thiên đàng ngày trước khác với thiên đàng ngày nay . Những người lên thiên đàng ngày trước đều mặc y phục cổ xưa , bây giờ chúng ta mặc những y phục kiểu mới . Cũng giống như vị quốc vương nọ , ông bố thí những thứ nào , khi lên đó sẽ được thứ nấy . Thiên đàng của chúng ta bây giờ rất tân tiến , có truyền hình , có máy thâu âm , có máy quay phim , máy gì cũng có . Thiên đàng bây giờ cũng rất văn minh , không giống như thiên đàng ngày xưa phải đi bộ , bây giờ thì có xe hơi , có máy bay (Sư Phụ và mọi người cười). Nếu quý vị đọc những câu chuyện ngày xưa hoặc những kinh điển ghi lại từ cổ xưa , một người lên đến thế giới Hoa Nghiêm , nhìn thấy cảnh giới này ra sao ; nếu bây giờ quý vị lên trên ấy sẽ rất ngạc nhiên vì cảnh giới này đã đổi khác , quý vị sẽ nghĩ rằng : "Kỳ thật ! Mình đang đi đâu vậy ?"
Rất có thể bây giờ chúng ta lên trên ấy , nhìn thấy Phật A Di Đà mặc áo cao bồ (mọi người cười), Phật Dược Sư thì dùng kim chích (mọi người cười), còn Hoa Đà thì dùng máy để đo huyết áp , hoặc dùng ống nghe để nghe nhịp tim của chúng ta đập ; rất có thể Phật Dược Sư và Hoa Đà làm những việc như vậy ở trên đó . Y khoa và dược khoa ngày càng tiến bộ , phát minh rất nhiều điều , cho nên Dược Sư Phật cũng phải ráng theo , nếu không sẽ thành lạc hậu .
Cũng cùng một trường hợp , những người tu hành trước đây đều lên núi , tìm một góc núi hoặc một sơn động nào đó , mỗi ngày ăn một bữa , sống một cuộc đời như Phật Thích Ca , tu khổ hạnh và lại không lập gia đình . Nhưng đệ tử của Sư Phụ ngày nay đều có gia đình , có con cái , và đi làm việc . Thời đại đã đổi khác , việc tu hành của chúng ta cũng phải thay đổi . Cho nên quý vị tại gia cũng có thể tu hành , không nhất định phải xuất gia . Trước đây nếu không xuất gia , tu hành rất khó khăn , muốn gặp sư phụ cũng không dễ , nên phải xuất gia , và mỗi ngày đi theo sư phụ của mình . Nhưng ngày nay tại gia cũng có thể tu , nếu hoàn cảnh gia đình của chúng ta thuận lợi , yên tĩnh , và chúng ta có thời giờ tu hành . Theo Sư Phụ xuất gia tương đối cực khổ , các đệ tử đều ở chung với nhau , ngủ trong một căn nhà nhỏ , nếu sợ thì đừng nên xuất gia . Sư Phụ đi đến đâu cũng chỉ vì sự tiện lợi chung , giảng kinh vì lợi ích cho chúng sanh , vì lợi ích cho bạn bè của Sư Phụ , nên Sư Phụ không cần có một nơi ở tốt đẹp mới đi giảng kinh ; Cũng không cần bảo học trò phải tìm một lữ quán hoặc một ngôi chùa lớn mới chịu đi giảng kinh . Mọi việc đều tùy cơ ứng biến , bất cứ hoàn cảnh nào cũng có thể ở được . Cho nên các đệ tử theo Sư Phụ xuất gia sẽ không có một cuộc sống thoải mái , phải không ?
-
TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU
Khi các vị pháp sư khác đi giảng kinh , mọi việc đều phải được sắp xếp chu đáo , nếu không có chùa lớn để ở thì ít nhất cũng phải có một căn phòng rộng hoặc một đại lữ quán . Đệ tử của họ cũng ở một phòng hay là hai người một phòng . Nhưng ở đây có lúc cả hai trăm người ở chung một căn phòng . Cho nên muốn theo Sư Phụ xuất gia cần phải suy nghĩ cẩn thận , đời sống không có dễ chịu lắm đâu .
Ở Đài Loan , phần đông các chùa chiền đều rất lớn , phòng ốc nhiều , ở không hết , chỉ có Sư Phụ là không có chùa , đệ tử thì nhiều , phòng ốc lại nhỏ . Sư Phụ mới nhận đệ tử được một năm mà bây giờ đã có rất nhiều vị xuất gia rồi ; thật ra cũng chẳng nhiều chi nhưng so với các chùa khác thì tương đối khá hơn . Một số chùa chỉ có một hai người ở , ông quản lý cũng là người trụ trì , đệ tử cũng ông , tín đồ cũng ông luôn (mọi người cười), phải vậy không ?
Nơi Sư Phụ ở rất nhỏ , quý vị đều biết , nhưng có rất nhiều người muốn đến xuất gia . Sư Phụ đã từ chối rất nhiều người , bởi vì Sư Phụ cần phải xem xét rõ ràng hoàn cảnh của mỗi người , xem họ có con nhỏ hoặc có vợ , có chồng không ? Có rẩt nhiều hoàn cảnh Sư Phụ không thể tiếp nhận được .
Không phải Sư Phụ không muốn nhận người xuất gia , nhưng nơi ở của Sư Phụ quá nhỏ , vả lại nếu có người có con cái quá nhỏ thì cần phải ở nhà săn sóc , không được xuất gia . Nếu muốn xuất gia cũng giống như tại gia , cũng có thể đem con nhỏ vào , khiến cho mọi người phải giúp đỡ chăm sóc con nhỏ , như vậy thì Sư Phụ không thể nào đi giảng kinh được . Bởi vì khi đến nơi nào cũng phải mang theo bình sữa , núm vú , tã (mọi người cười), xe đồ chơ , còn phải đem theo những đồ chơi đủ màu sắc , thật là phiền phức . Cho nên những người có con nhỏ nên tu tại gia là được rồi , tâm xuất gia mới thật sự là xuất gia .
Đại Sư Duy Ma Cật tuy không xuất gia , nhưng trí huệ của Ngài so với trí huệ của các vị đệ tử của Phật Thích Ca còn cao hơn nhiều , các vị đệ tử xuất gia của Phật Thích Ca đều sợ Đại Sư Duy Ma Cật . Có một ngày Ngài bị bệnh , Phật Thích Ca bảo đệ tử cao đẳng của Ngài đến thăm Đại Sư Duy Ma Cật , nhưng không ai dám đi . Ngài hỏi rất nhiều người nhưng cũng không một ai chịu đi , bởi vì mỗi người đều bị Đại Sư Duy Ma Cật hỏi bí , biện không nổi với Ngài . Đại Sư Duy Ma Cật có biện tài vô ngại , thần thông quảng đại . Thần thông của Ngài là đại thần thông , thần thông giải thoát , thần thông tự nhiên , thần thông vô ngã , có thể đi đến thiên đàng , hoặc đưa người lên trên đó ngay tức khắc , rồi cũng trong tức khắc đưa người trở về ... Trường hợp này không phải là thứ xuất hồn nhỏ nhặt , chỉ có thể đi từ nơi này đến nơi khác , quanh quẩn trong địa cầu . Nếu không Đại Sư Duy Ma Cật lúc nhuốm bệnh nằm nhà , có thể dùng pháp môn xuất hồn nhỏ nhặt mà Sư Phụ đã dạy cho quý vị ngày hôm qua , đến nơi của Phật Thích Ca thăm là được rồi , tại sao phải ở nhà đợi đệ tử của Phật Thích Ca đến thăm ? Hiểu ý của Sư Phụ không ? Phật Thích Ca cũng có thể dùng phương pháp xuất hồn mà Sư Phụ dạy cho quý vị , đi thăm Đại Sư Duy Ma Cật được rồi . Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hoặc là A Nan , La Hầu La , Xá Lợi Phất ..., cũng có thể dùng pháp môn xuất hồn để đi thăm Ngài , hà tất phải đi đến làm gì ?
Pháp môn xuất hồn Sư Phụ dạy quý vị ngày hôm qua khác với Pháp Môn Quán Âm là pháp môn cứu cánh giải thoát . Khác chỗ nào vậy ? Ví dụ ngày hôm qua có vị xuất gia của chúng ta tu pháp môn này , được Sư Phụ dạy cho và anh ấy lập tức biết được ngay . Anh có thể từ chỗ này chạy đến chỗ kia và gặp những người ở nơi ấy ; khi thần thức của anh ta trở về với thân thể ; anh liền kiểm chứng lại . Kết quả sự phát hiện mà anh nhìn thấy trong lúc xuất hồn đều giống với hiện tại , biểu lộ rằng vừa rồi anh thật sự có đi đến nơi đó .
Ngoài ra còn có một vị đã được truyền Tâm Ấn , trước đây tu theo Đạo Gia , có kể với Sư Phụ rằng : "Phương pháp này con biết , việc linh hồn xuất ra ngoài chẳng có gì đáng nói . Trước đây con tu Đạo Gia , có thể xuất hồn được . Từ nhà , con có thể đi ra ngoài đường , nhìn thấy tiền rớt ở ngoài đường , nhưng không lấy được bởi vì không có thân thể ; lúc đó con tưởng là giả , đến khi linh hồn trở về với thân thể , con dùng nhục thể đến nơi đó coi mới phát hiện là sự thật , tiền cũng còn ở đó". Cho nên anh nói rằng pháp môn xuất hồn anh biết .
Nhưng Pháp Môn Quán Âm và pháp môn xuất hồn khác nhau . Tu Pháp Môn Quán Âm có thể được giải thoát . Quý vị đừng nghĩ rằng mỗi ngày Sư Phụ đều dùng thân thể A Tu La đến nơi quý vị ở , coi thử nhà tắm quý vị có sạch không hoặc vào nhà bếp của quý vị , coi thử quý vị có ăn vụn thịt hay không (Mọi người cười). Không phải vậy , Sư Phụ cần phải thoát ly khỏi tất cả các thân thể , phải vô sở bất tại , mới có thể gặp tất cả mọi người , để giải quyết mọi trường hợp , hiểu không ? Nếu Sư Phụ vẫn còn ở trong một thân thể , cho dù là thân thể của A Tu La , cũng vẫn xem như là Sư Phụ còn bị nhốt ở một nơi , và như vậy Sư Phụ chỉ có thể dùng một thân thể mà thôi . Thân thể của A Tu La cũng không khác gì nhục thể của chúng ta , bản lai diện mục của chúng ta vẫn bị nhốt trong thân thể đó , cho nên chỉ có thể dùng thân thể đó để đi lại mà không được vô sở bất tại .
Nếu chúng ta muốn nhìn thấy toàn cõi vũ trụ , thì phải đến một nơi rất cao , hoặc nới rộng "chân thể" của chúng ta đến khắp mọi nơi để có thể bao trùm mọi vật . Tùy theo trình độ tu hành của chúng ta , linh hồn của chúng ta , hay còn gọi là người chủ của chúng ta , có thể là thật nhỏ , nhưng cũng có thể là thật lớn như vũ trụ vậy . Nếu chúng ta chưa tu hành , chúng ta vẫn bị thân thể này ràng buộc ; khi chúng ta chưa giải thoát thì linh hồn của chúng ta chỉ nhỏ như thế này mà thôi , rất có thể còn bị nhốt trong tâm . Không phải Sư Phụ ám chỉ đến trái tim trong thân thể , mà muốn nói đến trái tim của linh thể . Điều này cũng giống như thân thể A Tu La thì có trái tim A Tu La , hiểu không ?
-
TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU
Bình thường linh hồn hoặc "chân thể" của chúng ta rất có thể bị nhốt nơi đỉnh đầu , nếu chúng ta lên được cao hơn một chút , rất có thể đến được nơi có vòm tròn , nhưng vẫn còn dính liền với thân thể của chúng ta , cho nên chúng ta vẫn chưa được tự tại . Khi chân thể của chúng ta biến thành Như Lai , chúng ta sẽ được vô sở bất tại . Lúc đó bản lai diện mục của chúng ta đã được mở rộng rồi , chúng ta không cần dùng nhục thể để đi lên , cũng không phải dùng thân thể của A Tu La đi lên .
Khi chúng ta vẫn còn trong Tam Giới , hoặc vẫn còn trong thế giới Thứ Tư , thế giới Thứ Năm , chúng ta vẫn chưa đạt được cứu cánh , vẫn còn phải tiếp tục học lên , cho đến khi chúng ta biến thành vũ trụ , nơi nào cũng có mặt ; đó mới là Như Lai . Đến lúc ấy chúng ta không cần phải đi đâu cả , hiểu không ? Nếu chúng ta vẫn còn muốn ra đi , hoặc muốn vãng sanh đến một nơi nào , điều đó chứng tỏ rằng chúng ta vẫn còn ở trong năm giới . Khi ra ngoài năm giới , chúng ta mới có thể tràn đầy giống như vũ trụ vậy , nhưng chúng ta vẫn chỉ là một người .
Ví dụ như Phật Thích Ca trở thành Như Lai , Ngài vẫn là Phật Thích Ca , vẫn còn ở thế giới Ta Bà , vẫn là Thiên Nhân Đạo Sư . Tuy Phật Thích Ca ngồi dưới cội bồ đề giảng kinh , vẫn ngồi thiền ở đạo tràng của thế giới Ta Bà , nhưng ở thế giới của A Tu La (thế giới Thứ Nhất), Ngài đang dạy cho thiên nhân , còn ở thế giới Nhân Quả (thế giới Thứ Hai) hoặc thế giới Thứ Ba , Ngài cũng hiện diện dạy dỗ cho thiên nhân . Thiên sứ trên ấy cũng nhìn thấy Ngài đang giảng kinh , nhưng không phải nhìn thấy Ngài đang giảng cho toàn cõi vũ trụ . Chủ nhân thật sự của Ngài có mặt trong toàn cõi vũ trụ , đó là trường hợp của Như Lai . Điều này khác với pháp môn xuất hồn mà ngày hôm qua Sư Phụ giảng cho quý vị rất nhiều phải không ?
Chúng ta tu Pháp Môn Quán Âm là muốn đạt được trình độ Như Lai , không cần phải để nhục thể này ở lại , sau đó dùng thân thể A Tu La đi đến chỗ này chỗ kia xem xét . Tuy có rất nhiều người dạy những pháp môn tương tự như vậy , thoạt trông cũng khá hay , nhưng sự thật chẳng có gì . Quý vị cần phải hiểu rõ kết quả của pháp môn đó có thật sự là cứu cánh hay không ?
Tình trạng của một người lúc vãng sanh , cũng giống như lúc Sư Phụ chỉ cho quý vị xuất hồn vậy , là đem cả cái thân thể A Tu La của mình ra đi . Khi con người xuất hồn , người ấy biết , lúc trở về cũng biết , và tất cả sự tình trong lúc xuất hồn người ấy điều biết hết . Nhưng người đó chỉ có thể dùng một thân thể ra đi mà thôi , không được thiên vạn ức hóa thân , hiểu không ? Cho nên Sư Phụ không có dạy quý vị làm điều đó , quý vị đừng nhầm Pháp Môn Quán Âm với pháp môn xuất hồn du lịch này .
Ở Đài Loan có một vài người có thể xuất hồn đi du lịch , trong đó có một vị pháp sư rất nổi tiếng . Có một ngày , bà nhập định hai tuần lễ , học trò của bà tưởng bà đã chết , nhưng vì thi thể vẫn còn nóng , cho nên chưa đem bà đi chôn . Sau hai tuần lễ , bà xuất hồn trở về , đệ tử của bà hỏi : "Ngài đi đâu mà lâu vậy ? Làm chúng con sợ quá !" Bà nói : "Thế giới này loạn quá ! Ta đi xem xét một vòng". Đó là tình trạng xuất hồn của A Tu La , chuyện này rất đơn giản , không cần phải tu hành cao mới có thể làm được .
Các vị xuất gia theo Sư Phụ chưa được một năm , hôm qua được Sư Phụ chỉ dạy , lập tức có thể xuất hồn và có thể đi rất nhanh . Thật ra chỉ cần chuyên tâm một chút là có thể xuất hồn , nhưng vị pháp sư xuất hồn ấy lại trở nên rất nổi tiếng . Còn có một số người nữa , vì có thể xuất hồn đến được nhiều nơi , cũng trở nên nổi tiếng . Nhưng khi họ xuất hồn trở về , lại rất khoa trương . Không phải Sư Phụ nói đến vị pháp sư vừa rồi , vị pháp sư ấy không có khoa trương . Nhưng nghe nói những người khác , vì có được khả năng xuất hồn mà trở nên kiêu ngạo , đã từng nói với người khác rằng ông đã thành Phật rồi , từ đó về sau làm những chuyện không hợp với giới luật .
Khi nói đến không giới luật , không phải nói là ông ăn thịt hoặc lập gia đình . Đây không phải là chuyện lớn , nhưng ông làm những chuyện ghê gớm hơn , Sư Phụ không muốn nói đến những chuyện không hay đó , nhưng quý vị có quyền hoài nghi những người ấy , hiểu không ? Cho nên ngày hôm nay Sư Phụ mới nói cho quý vị nghe tình trạng của linh hồn ra đi , ngày hôm qua Sư Phụ có nói xuất hồn chẳng có ích lợi gì , cũng không phải là chuyện lớn , con nít cũng có thể làm được .
Khi chúng ta còn nhỏ , có những người tuy không học Pháp Môn Quán Âm , cũng không tu một pháp môn nào khác , nhưng linh hồn của họ vẫn có thể ra đi . Lúc còn nhỏ , chúng ta cũng đã từng có nhiều lần để cho linh hồn ra đi , ví dụ lúc chúng ta ngủ nằm mơ , cũng là một thứ xuất hồn . Có những lúc chúng ta mơ thấy một chuyện nào đó sau này trở nên sự thật , hoặc mơ thấy một nơi nào đó có tai nạn xe , hoặc có những tai nạn gì ; ngày hôm sau quả nhiên những chuyện đó xảy ra ; đây là một trong những ví dụ của xuất hồn . Cho nên xuất hồn chẳng có ý nghĩa gì , giúp mọi người được giải thoát mới là pháp môn chân chánh .
Giải thoát là chúng ta cởi bỏ tất cả những y phục linh thể của chúng ta , để cho linh thể của chúng ta mở rộng đến toàn cõi vũ trụ , biến thành Như Lai . Bất cứ nơi nào người nào ở đâu , chỉ cần nghĩ đến chúng ta , thì chúng ta lập tức xuất hiện , như câu nói : "Ngàn nơi cầu nguyện , ngàn nơi hiện", đó mới là mục đích cứu cánh của chúng ta .
Trong lịch sử có một số tướng lãnh nổi tiếng , họ cũng có năng lực xuất hồn , nên họ mới có thể bách chiến bách thắng . Nghe nói trước khi đánh giặc , họ xuất hồn đi quan sát tình hình của quân địch , cho nên họ mới biết nơi nào có người nào , và họ có thể nghe quân địch đang bàn bạc chuyện gì , đương nhiên họ đánh thắng trận , bởi vì "tri kỷ tri bỉ , bách chiến bách thắng". Còn nữa , lúc đánh giặc họ có thể để thân thể của họ ở một nơi , sau đó dùng linh thể A Tu La xuất ra , lên trên quan sát , sau đó trở về chỉ huy quân đội của họ cần phải tấn công chỗ nào . Như vậy là không công bình (Mọi người cười). Vì họ đem năng lực xuất hồn dùng vào việc không tốt , cho nên cuối cùng họ cũng chẳng đạt được điều gì , vẫn bị chết thảm .
-
TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU
Những người tu hành , nếu không ý thức , không hiểu rõ , không khai ngộ , sẽ rất dễ dối gạt chính mình , và trở thành kiêu ngạo . Xuất hồn đó chẳng qua là một thứ linh thể ra đi một chút mà thôi , nhưng lại cho rằng mình đã là Phật . Đương nhiên , lần đâu tiên linh hồn của chúng ta xuất ra , chúng ta không cảm thấy gì ; nhưng nếu chúng ta tiếp tục xuất hồn hai ba lần , về sau chúng ta sẽ không còn sợ chết nữa , hiểu không ?
Bởi vì tình trạng của vãng sanh cũng giống như phương pháp xuất hồn mà Sư Phụ dạy cho quý vị ngày hôm qua ; người bình thường lúc chết đi , đa số đều như vậy . Có những người không biết là họ đã chết , nên thường hay trở về nhà phá người thân , chúng ta nói nhà đó có ma (Mọi người cười). Có những hồn ma , đôi khi cảm thấy buồn bực cô đơn , cho nên về quấy rầy người thân ; những chuyện này quả có thật .
Bởi vì khi họ nói chuyện không ai nghe thấy , lúc họ chạm vào người vợ của họ , bà ta không những không cảm nhận được , mà còn đem một người đàn ông khác về nhà (Mọi người cười). Trường hợp này , họ đương nhiên rất giận dữ , họ đi tìm chén đĩa , dùng hết lực lượng của họ để tạo nên những tiếng động , hoặc là dùng hết sức lực của họ để làm cửa đập tới đập lui . Thậm chí có lúc họ biến thành một hình dáng nào đó , nhưng muốn được như vậy họ cần phải dùng toàn bộ lực lượng của họ mới có thể làm cho người khác thấy được một lát , để rồi sau đó , họ sẽ rất mệt , vì đã dùng hết toàn lực lượng của họ rồi , hiểu không ?
Cho nên chúng ta không thường thấy các hồn ma , bởi vì lúc họ giận dữ , phải dùng toàn lực lượng có thể làm cho người khác thấy sự có mặt của họ . Những linh hồn này rất cô đơn , họ không biết là họ đã chết rồi . Có những người phải trải qua một thời gian rất lâu , có người nói với họ , họ mới biết . Có một số người sau khi vãng sanh , người thân của họ mời pháp sư hoặc mời một người nào đó , đến nói với hồn ma rằng : "Ngươi đã chết rồi , bây giờ ngươi hãy ăn uống đi , ăn cho no rồi hãy ra đi , không được trở về đây quấy phá nữa".
Ở Tây Tạng , có những người sau khi chết đi , người nhà mời pháp sư đến làm lễ , nói rất rõ ràng , nói rất nhiều lần , để cho linh hồn đó hiểu rõ . Họ nói rằng : "Ngươi phải biết , bây giờ ngươi đã chết rồi , hãy ăn uống no nê đi , bởi vì sau đó ngươi phải trèo qua rất nhều núi , lội qua rất nhiều sông , ngươi không thể trở lại nơi này , ngươi không còn thuộc về dương gian nữa , ngươi phải ra đi !". Một số người bình thường sau khi vãng sanh đều như vậy . Nhưng những người theo sự chỉ dạy của Sư Phụ , ngồi thiền , tu Pháp Môn Quán Âm , thì khác với những người này , lúc chết sẽ không bị cô đơn như vậy , không phải chạy tới chạy lui , không biết mình sẽ đi đâu , hiểu không ?
Đồng tu của chúng ta trước khi vãng sanh , Sư Phụ sẽ đến báo cho họ biết , lúc chết sẽ có Sư Phụ đến đón . Không phải chỉ có Sư Phụ đón mà thôi , sẽ có âm nhạc , có hoa sen , có Phật Bồ Tát đến làm bạn . Nếu như quý vị muốn đi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì sẽ có Quán Thế Âm Bồ Tát đến đưa đường , có Phật A Di Đà đem hoa sen đến . Nếu như quý vị tin vào Thượng Đế của Thiên Chúa Giáo thì sẽ có những thiên sứ có cánh đến , đón quý vị bay đi . Sư Phụ không ép buộc quý vị phải ngồi hoa sen , có những người không thích hoa sen , lại thích những chiếc xe Mercedes nổi tiếng của Đức , Sư Phụ sẽ dùng những loại xe đó để tiếp quý vị (Mọi người cười). Ý thích của chúng sanh khác nhau , Sư Phụ cần phải tùy thuận theo chúng sanh , cho nên không nhất định người nào cũng phải ngồi hoa sen đi lên . Nếu như quý vị không thích hoa sen , cũng cần phải học với Sư Phụ . Quý vị thích gì cũng được toại nguyện , chỉ cần học với Sư Phụ , thì Sư Phụ sẽ dùng phương tiện di chuyển để đến đón quý vị .
Có những người không thể ngồi hoa sen , vì nghiệp chướng nặng quá , khi ngồi lên , hoa sen liền lật úp xuống (Mọi người cười). Trong số những người xuất gia của chúng ta , có một người lúc ngồi thiền , nhìn thấy Sư Phụ ngồi hoa sen, rất sáng , rất tao nhã , cô và một số đồng tu chạy đến , nhìn thấy Sư Phụ ngồi đó , bên cạnh còn có rất nhiều hoa sen . Sư Phụ nhìn thấy họ , liền nói : "Được , quý vị lên đây , mỗi người một cái". Kết quả khi vừa trèo lên thì "cà bùng", tất cả mọi người đều té xuống (Mọi người cười). Không phải Sư Phụ không để cho họ ngồi , nhưng có người nghiệp chướng quá nặng , hoa sen chịu không nổi , hiểu không ? Rất có thể Sư Phụ cần phải dùng loại quân hạm có thể chứa được hai trăm người cho các cô ấy ngồi lên mới đủ (Mọi người cười).
Chúng ta những người tu Pháp Môn Quán Âm , lúc vãng sanh cảnh giới của chúng ta khác với những người bình thường . Dù có phải đến thế giới A Tu La , cũng sẽ đi đến những nơi cao đẳng , ở đó mỗi ngày đến trường học , có Sư Phụ ở đó dạy dỗ . Khác với những người bình thường , linh hồn vô minh từ thân thể chạy ra , sau đó mỗi ngày ở chỗ nhà tắm hoặc là bếp đi tới đi lui , nói chuyện không ai nghe , giận dữ , kết quả biến thành hồn ma . Phần đông con người tình trạng lúc chết ra đi giống như chuyện Sư Phụ đã nói hôm qua vậy .
Có những người tu pháp môn mà Sư Phụ dạy hôm qua , lợi dụng thân thể A Tu La , xuất hồn đi du lịch thế giới , sau đó trở lại . Thậm chí có thể bay trên mây , "đằng vân giá võ" là ý nghĩa này . Nếu thân thể của A Tu La cô đọng lại , người ta cũng có thể thấy thân thể đó ở trên mây . Có những lúc chúng ta dùng mắt thịt cũng có thể thấy được hóa thân của các vị đại sư , về điểm này lát nữa Sư Phụ sẽ nói thêm .
-
TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU
Nếu như quý vị có một vài lần kinh nghiệm về thể nghiệm mà Sư Phụ dạy ngày hôm qua thì không còn sợ chết nữa ; đã biết rằng "chết" là linh hồn đi tới đi lui , thân thể của quý vị đã quen rồi , cho nên sẽ không sợ chết . Ngoài ra có những người tu hành , sau khi có được những thể nghiệm này , thì cho rằng mình đã được liễu thoát sanh tử , do đó trở nên rất kiêu ngạo . Lúc đó nếu không có minh sư chỉ đạo thì mỗi lúc một khoa trương , vạn nhất nếu người này có biện tài , có học vấn cao , có thể viết văn viết sách , và có người đọc , thì càng có thể trở thành thêm kiêu ngạo .
Thật ra những người không tu hành cũng vẫn có thể có khiếu về văn chương , thí dụ như Lý Bạch , Tô Đông Pha , đều làm thơ rất hay . Lý Bạch chẳng tu gì cả , hàng ngày chỉ uống rượu ; Tô Đông Pha cũng chẳng tu được bao nhiêu , chỉ thường thường đến chỗ các vị thiền sư biện luận mà thôi .
Vừa rồi , những người có thể nghiệm xuất hồn mà Sư Phụ nói đến , có thể đi trên mây , từ nơi nào đó đến Mỹ , đến Đức quốc , hoặc đi vòng quanh thế giới ; có thể ở trên mây bay tới bay lui , giống như Tôn Ngộ Không vậy . Nếu họ có thêm tài văn chương và khả năng biện luận , hoặc tướng mạo trang nghiêm làm cho người ta tôn kính , người này sẽ trở nên kiêu ngạo vô cùng , có thể cho rằng mình đã là Phật sống , sẽ làm nhiều chuyện bậy bạ , cho rằng ăn thịt uống rượu không có nhân quả ...
Thật ra tất cả đều có nhân quả . Những người tu hành đó đương nhiên cũng có phước báu của họ , nhưng nghiệp chướng của họ vẫn còn , hai điều này hoàn toàn khác nhau . Ví dụ mỗi ngày quý vị đi làm việc , kiếm được hai mươi đồng mỗi ngày , nhưng mỗi ngày quý vị lại mượn người khác năm mươi đồng , số tiền hai mươi đồng kiếm được vẫn là của quý vị , nhưng số tiền thiếu năm mươi đồng của người ta , quý vị vẫn thiếu , hiểu không ? Số tiền hai mươi đồng và năm mươi đồng chẳng có quan hệ gì với nhau , hai mươi đồng mình vẫn có , còn thiếu năm mươi đồng là vẫn thiếu năm mươi đồng .
Nhân quả cũng vậy , chúng ta là những người tu hành phải cẩn thận một chút , cần phải ăn chay . Cho dù nói ăn chay chẳng có gì tốt , thì cũng chẳng có gì xấu . Giả sử quý vị cảm thấy Sư Phụ dạy như vậy là không đúng , cho rằng ăn thịt không có nhân quả thì ăn chay lại càng không có nhân quả hơn , có phải như vậy không ? Tuy chúng ta không nên phỉ báng người khác ăn thịt , nhưng chúng ta cũng không nên theo họ , chúng ta cần phải học theo kinh điển cổ xưa , và kinh điển đều dạy mọi người ăn chay . Chúng ta tu hành không có gì phải sợ , nhưng cũng cần phải cẩn thận .
Tu pháp môn tốt lại có đạo đức , Sư Phụ nghĩ rằng như vậy không có gì sai , phải không ? Nếu không có đạo đức thì thế giới này sẽ vô cùng loạn lạc , mọi người cưỡng bức lẫn nhau , cướp của , dùng bạo lực , dùng trí thông minh của loài người để gạt gẫm nhau ; như vậy thế giới sẽ càng ngày càng phiền phức , như vậy dù có tu hành cũng chẳng có ích lợi gì , bởi như thế chúng ta không giúp đỡ gì cho chúng sanh mà chỉ tạo phiền phức cho chúng sanh mà thôi .
Với nguyên do này , Sư Phụ lúc nào cũng khuyên quý vị phải giữ gìn giới luật , phải cẩn thận tu hành , đó là dụng ý của Sư Phụ . Không phải Sư Phụ chấp vào một chỗ nào , Sư Phụ không chấp không sao , nhưng quý vị cần phải "chấp", quý vị cần phải tu hành tốt , khi thời gian đến , rất có thể lúc đó quý vị sẽ hiểu rõ , tự mình có thể tự chủ . Rồi khi ấy sẽ hiểu chuyện gì cần phải làm , chuyện gì không nên làm .
Thật vậy , khi chúng ta mới bắt đầu tu hành cần phải đi từ từ , không nên đi nhanh quá , nếu không sẽ bị vấp . Cũng như lúc mới học cưỡi ngựa , chưa thể khống chế được ngựa , nếu chúng ta bảo nó chạy nhanh thì cả hai đều gặp chuyện phiền phức , ít nhất chúng ta sẽ có chuyện , phải không ? Những người vừa mới học lái xe cũng thế , phải lái từ từ và cẩn thận , không thể lái ngay 160 cây số một giờ , vượt qua tốc độ quy định của luật lệ giao thông , chúng ta sẽ khó tránh khỏi tai nạn , hoặc xe của chúng ta sẽ bị phát nổ .
Bây giờ lại nói về chuyện hóa thân . Có những lúc mắt của chúng ta mở ra cũng có thể nhìn thấy hóa thân của một vị minh sư tại thế , không phải chỉ có học trò trong lúc ngồi thiền mới có thể thấy được . Một vị sư phụ của Sư Phụ lúc còn tại thế có một người đệ tử học nghề lái máy bay , vào những ngày thi gần đến , tâm trạng người đệ tử này rất băn khoăn lo sợ đủ thứ , sợ thi không đậu , cho nên mỗi ngày đều cầu Sư Phụ của ông giúp đỡ . Sư Phụ của ông ngày nào cũng đến , và người dạy lái máy bay cũng nhìn thấy được , có những lúc chỉ thấy trong một khoảng khắc , có những lúc lại thấy được một khoảng thời gian dài .
-
TÌNH TRẠNG CỦA XUẤT HỒN VÀ NHƯ LAI KHÁC NHAU
Lần nào người dạy lái cũng hỏi vị đệ tử đó , và vị đệ tử đều trả lời rằng : "Đâu có nhìn thấy ai". Tuy có nhìn thấy , nhưng khi vừa mới bước chân vào là biến mất , vả lại cũng không bắt được người , chỉ nhìn thấy mà thôi . Cho nên ngày nào người dạy lái máy bay đó cũng hỏi , hỏi hoài . Có một ngày vị đệ tử này phải nói ra : "Người mà anh nhìn thấy là thầy của tôi". Người dạy lái máy bay mới hỏi : "Thầy của anh tại sao lại lên máy bay của chúng ta ? Chúng ta đâu có thể để cho người ngoài bước vào ?" Vị đệ tử này nói : "Không phải , đó là hóa thân của thầy tôi . Công lực của Ngài rất thâm hậu , rất cao cường , Ngài vô sở bất tại . Anh có phước báu rất lớn mới có thể nhìn thấy Ngài , không phải người nào cũng có được ân huệ ấy".
Ngày hôm qua , Sư Phụ có kể câu chuyện về Paramhansa Yogananda cũng vậy . Yogananda là một vị đại sư Yoga , sư phụ của ông có những lúc cũng xuất hiện bên cạnh ông , người khác có thể nhìn thấy được . Yogananda không những chỉ nhìn thấy được trong lúc ông ngồi thiền , mà ngay cả lúc ông mở mắt cũng nhìn thấy sư phụ ủa ông , còn có thể sờ được vào người của vị thầy này . hóa thân sư phụ của ông trông rất giống nhục thể , có thể nắm lấy được , cũng có thể trực tiếp nói chuyện , cũng giống như Sư Phụ đang nói chuyện với quý vị . Cho nên quý vị hãy cẩn thận , rất có thể có những lúc Sư Phụ không phải thật sự là cái nhục thể này (Sư Phụ cười). Không biết hôm nay là hóa thân hay là thân thể thật sự , quý vị hãy coi cho rõ ràng (Mọi người cười).
Lúc Yogananda nhìn thấy hóa thân sư phụ của ông , liền nắm lấy thân thể của sư phụ của ông và hỏi : "Đây là nhục thể của Ngài phải không ?" Sư Phụ của ông trả lời : "Phải , cũng giống như nhục thể vậy , nhưng không phải là nhục thể thật sự". Một vị đại sư khi thị hiện , họ có rất nhiều phương cách , không nhất định là họ dùng thân thể của ánh mà thôi , có những lúc họ có thể thị hiện giống như nhục thể vậy . Sau khi họ vãng sanh , họ vẫn có thể dùng nhục thể xuất hiện đến thăm hỏi đệ tử của họ . Về câu chuyện của Yogananda , quý vị đọc tiểu sử của ông thì rõ .
Tuy pháp môn của họ không hoàn toàn giống với pháp môn của chúng ta , nhưng họ tu hành cũng rất khá . Chúng ta đọc sách những người tu hành , hoặc là đọc những câu chuyện về những vị thánh nhân , là để cổ võ đạo tâm của chúng ta . Chúng ta sẽ nói : "Ta tu hành cũng chẳng có gì , người ta tu giỏi như vậy , tại sao mình lại như thế này ?" Cho nên mới càng cố gắng tu hành , đạo tâm càng thêm kiên cường .
Sư Phụ cũng cổ võ quý vị nên đọc sách về đời sống của các vị thánh nhân tu hành , dù đó là những câu chuyện quá khứ hay hiện tại , đều có thể đọc , không nhất định chỉ đọc sách của Sư Phụ mà thôi . Nhưng sau khi đọc xong rồi , tâm không nên giao động , tu Pháp Môn Quán Âm là đủ rồi , tất cả các pháp môn khác đều không thể so sánh bằng Pháp Môn Quán Âm ; nếu có thì Sư Phụ sẽ dạy cho quý vị . Tu pháp môn của chúng ta , thật sự đều có ánh sáng , nhưng rất có thể có người nghĩ rằng không có ánh sáng ; có được âm thanh nội tại là được rồi , tu hành càng không nên quá hấp tấp , bởi vì bối cảnh của mỗi người khác nhau , có những người đã tu hành qua nhiều đời rồi , đến cuộc đời này mới gặp được Sư Phụ . Nhưng lại có những người mà cuộc đời này chỉ mới bắt đầu tu hành . Bối cảnh tu hành quá khứ khác nhau , đương nhiên tốc độ tiến bộ phải khác nhau .
Chúng ta cần phải nhẫn nại , cố gắng dùng hết lực lượng của mình để tu hành , nhưng chúng ta cũng đừng nên hấp tấp , cũng không nên thất vọng , như vậy đối với chuyện tu hành của chúng ta mới có lợi ích . Thứ đạo tâm kiên cường là một thứ lực gia trì , là một thứ công đức lớn nhất . Mỗi ngày chúng ta nghĩ đến tu hành , nghĩ đến giải thoát , còn quan trọng hơn nhìn thấy được cảnh giới .
Có những người tuy đã được nhìn thấy được cảnh giới , nhưng mỗi ngày cứ bỏ mặc qua loa , đạo tâm không kiên cường , hôm nay tu , ngày mai không , hoặc là chạy đến nơi này tu một chút , chạy đến nơi kia tu một chút . Cứ đổi đi đổi lại thì cũng chẳng có ích lợi nhiều , hiểu không ? Có một người , tuy thể nghiệm rất ít , nhưng đạo tâm rất kiên cường , mỗi ngày đều khẩn cầu giải thoát , cố gắng khát khao , nhẫn nại thì nhất định sẽ được đắc Đạo , Phật Bồ Tát nhất định sẽ ghi nhớ những người này , việc tu hành của người này nhất định sẽ có kết quả .
Một người tu hành khai ngộ , trông qua không nhất định có gì đặc biệt , nhưng gương mặt của họ rất trong sáng , tâm của họ rất khoan dung , họ rất có tâm vị tha , bất cứ điều gì có lợi ích cho người khác , họ lập tức làm ngay , họ không có khái niệm ích kỹ . Công việc của họ làm đều rất rộng lớn , không chủ yếu tập trung vào lợi ích riêng của bản thân , gia đình hoặc đoàn thể của chính họ . Chúng ta chỉ cần nhìn thái độ của họ thì chúng ta sẽ biết trình độ khai ngộ của người đó như thế nào .
Cho nên có những lúc tuy chúng ta không có nhiều thể nghiệm , cũng không có tiến bộ nhiều , thì không cần phải hỏi tại sao Phật Bồ Tát không giúp đỡ chúng ta , chúng ta hãy tự hỏi mình trước là có làm điều gì giúp cho Phật Bồ Tát độ chúng sanh không ? Chúng ta có làm lợi ích cho người nào không ? Chúng ta có cống hiến điều gì cho đại chúng được lợi ích không ? Chúng ta làm việc có phải vì toàn cõi vũ trụ không ? Có phải vì lý tưởng cao cả nhất mà làm không ? Chúng ta phải hỏi mình trước cho rõ ràng , bởi vì có nhân thì có quả , có hiểu ý của Sư Phụ không ?
Nếu như chúng ta muốn giải thoát , thì cần phải giúp đỡ người khác giải thoát ; nếu như chúng ta muốn trở thành Sư Phụ , thì phải giúp đỡ Sư Phụ , tôn kính Sư Phụ , nghe lời Sư Phụ , bởi vì có nhân nào thì sẽ được quả ấy , không ai có thể sửa đổi pháp luật này , đây là pháp của người tu hành .
Nếu như người ta cho chúng ta vật gì , chúng ta cũng có thể nhận , nhưng chúng ta cũng phải tìm cơ hội để cho người khác trở lại , cúng dường năng lực thân khẩu ý của chúng ta , đạo tâm của chúng ta , đem đến những tin tức tốt đẹp đưa đến cho chúng sanh . Ví dụ nói cho mọi người hay pháp môn nào tốt nhất , hoặc là tu với Sư Phụ có thể một đời giải thoát , tu Pháp Môn Quán Âm có những lợi ích gì ,... Đây cũng là sự cống hiến tốt nhất . Giúp đỡ Sư Phụ không có nghĩa là giặt quần áo cho Sư Phụ , nấu cơm cho Sư Phụ hiểu không ? Giúp đỡ người khác giải thoát , giúp đỡ người khác biết được "Chánh Đạo", là sự giúp đỡ cao cả nhất , là công đức lớn nhất .
Ví dụ Sư Phụ rất thích nhìn thấy quý vị đem nơi hoang phế của phía sau một căn nhà dọn dẹp trở nên sạch sẽ , chuẩn bị cất một trung tâm tạm thời để cho đồng tu đến tọa thiền , đây là việc làm công đức vô cùng . Không phải vì chúng ta tham công đức , Sư Phụ mới khuyến khích quý vị làm như vậy , đối với Sư Phụ làm việc này cũng chẳng có ích lợi gì . Nhưng quý vị cần phải biết , pháp luật của nhân quả , pháp luật của tu hành là như vậy , chúng ta càng làm lợi ích cho chúng sanh thì chúng ta sẽ càng được lợi ích cho chính mình .
Vì vậy chúng ta không nên lúc nào cũng nghĩ đến sự tu hành của cá nhân mình mà phải nghĩ đến tập thể của nhiều người nữa . Hãy nghĩ xem với sự cố gắng của mình , bao nhiêu người sẽ được dịp tu hành , bao nhiêu nhiêu người có được cơ hội ngồi lại cộng tu với nhau , bao nhiêu người sẽ nhận được lợi ích cao cả nhất ? Khi nói đến lợi ích cứu cánh , là giúp cho họ biết được "Chánh Đạo", để cho họ có thể cùng với chúng ta cộng tu , đây là lợi ích cao cả nhất . Bố thí tiền hay là giúp cho một người nào đó một thùng nước , cũng chẳng có ích lợi gì , đây là chuyện phải làm . Nhưng nếu giúp đỡ cho người khác biết được chánh pháp mới là chuyện lớn , chúng ta càng giúp người thì tâm chúng ta sẽ càng ngày càng mở rộng , càng tốt .
Hôm nay Sư Phụ giảng đến đây , quý vị về nhà nghĩ đến những điểm chính yếu này , và tự hỏi mình đã làm được bao nhiêu điều ? Có thể làm thêm được bao nhiêu ? Và nguyện lòng sẽ làm được bao nhiêu ?
★★★★★
Vấn : Bình thường nghe được âm thanh giống như lúc ngồi quán âm vậy , hiện tượng này tốt hay không tốt ?
Đáp : Lẽ ra là phải nghe được như vậy (Bình thường cũng có thể nghe được). Vậy rất tốt ! Như vậy mới có thể xác định được là Sư Phụ có mặt . Không nhất định chỉ lúc ngồi quán âm mới có thể nghe được , điều này cho thấy rằng Sư Phụ vĩnh viễn có mặt , dù trong mỗi giây khắc . Sư Phụ không phải là thân thể này , Sư Phụ là ánh sáng , là âm thanh , là lực lượng thiêng thiêng .
-
LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHẬN BIẾT SỨC GIA TRÌ CỦA SƯ PHỤ ?
Thỉnh thoảng chúng ta nghe có người phàn nàn : "Học với vị sư phụ đó có ích lợi gì ?" Họ sẽ nói tu Pháp Môn Quán Âm cũng giống như niệm Phật vậy , không có ích lợi gì . Có ai nói như vậy không ? Nhất định có , những người tu hành không đủ , không dễ gì cảm nhận được lực gia trì , cho nên mới phàn nàn . Nhưng chúng ta nên biết , có người hiểu rõ lực gia trì của Sư Phụ . Ví dụ ở Đài Loan có một cụ già thọ Tâm Ấn mới có mấy tháng . Gần đây cụ gặp tai nạn , bị xe đụng đến hôn mê , bất tỉnh , nhưng cụ cảm thấy dường như có người đưa cụ về nhà , đụng xe rồi không cảm thấy đau đớn gì cả . Cụ cảm thấy có một luồng ánh sáng đưa cụ về nhà . Luồng ánh đó là Sư Phụ , hiểu không ?
Có người nhìn thấy Sư Phụ hình dáng như thế này , có người nhìn thấy Sư Phụ hình dáng khác , có người nhìn thấy ánh sáng , có người nghe được âm thanh , đó là lực gia trì của Sư Phụ . Có người nói họ thấy Sư Phụ đến nhà của họ , đưa người thân của họ vừa qua đời lên cảnh giới cao . Không phải chỉ những người đã thọ Tâm Ấn mới thấy được , ngay cả những người chưa thọ Tâm Ấn cũng có thể thấy ; những em bé sau tuổi , chín tuổi , mười tuổi , cũng thấy ; các em nhìn thấy bằng mắt thường nhưng cũng giống như trong lúc nhập định vậy . Điều này không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả và cũng không thể nào giải thích được .
Những người đã thọ Tâm Ấn và thấy được hóa thân của Sư Phụ , quý vị có thể cho rằng họ tưởng tượng , bị Sư Phụ thôi miên , hoặc là Sư Phụ dùng thứ thần thông "hú la hấp" (Sư Phụ dùng tay vẽ vẽ , mọi người cười) để mê hoặc mọi người . Nhưng các em bé sau tuổi , chín tuổi , mười tuổi , xưa nay chưa bao giờ gặp Sư Phụ và cũng không biết tu hành là gì ; khi các em thấy Sư Phụ cũng không biết Sư Phụ là ai . Các em chỉ kể lại cho người nhà rằng : "Có một vị xuất gia đến , hình dáng rất đẹp đẽ , có hào quang ..." Người thân của em cho rằng chắc có chuyện gì xảy ra mới hỏi em : "Ở đâu ? Đâu có ai đến đâu ?" Em nói : "Có , có", và kể lại người ấy (chỉ Sư Phụ) đã giảng như thế nào .
Lúc đó có một vị đệ tử đã thọ Tâm Ấn đưa hình Sư Phụ cho em bé coi , hỏi rằng : "Có phải người này không ?" Em nói : "Đúng rồi , nhưng người ấy mập hơn trong hình này" (Mọi người cười). Thật ra không phải là mập , chỉ vì gương mặt tròn một chút mà thôi . Bởi vì thân thể có hào quang . Có ánh sáng nên thân thể trông dường như đầy đặn và mập mạp hơn một chút .
Hôm nay Sư Phụ đi coi đất , hôm trước cũng có đi rồi , Sư Phụ đi qua một ngôi giáo đường khá lớn , nhìn thấy bên ngoài có một bức tượng của Chúa Giê Su mặc áo rộng và trên đầu có hào quang . Sư Phụ nhìn thấy hình dáng của Ngài , trong lòng nghĩ rằng : "Trước đây những người tu hành phát ra ánh sáng , ánh sáng đó chiếu rọi đến chúng ta ngày nay và có rất nhiều người vẫn còn sùng bái các Ngài . Vì Ngài có hào quang nên mọi người mới biết Ngài là Thánh Nhân , là người có đại lực lượng , là người đắc Đạo". Có phải như vậy không ?
Cũng giống như Phật Thích Ca vậy , chúng ta nhìn thấy hình của Ngài , hình của Quán Thế Âm Bồ Tát , hoặc bất kỳ một tượng Phật nào , đều phát ra ánh sáng , cho nên chúng ta nghĩ rằng chỉ những người đó mới có thể phát quang . Thật ra những người tu hành đều có thể phát ra ánh sáng , không phải chỉ quanh thân thể không thôi , mà có thể phát ra vô lượng quang , bất cứ nơi nào cần ánh sáng của họ , ánh sáng sẽ chiếu rọi đến đó . Chúng ta tu hành sẽ trở thành như Phật A Di Đà vậy , là vô lượng quang .
Khi Sư Phụ nhìn thấy ngôi giáo đường đó , trong lòng có chút cảm xúc , không phải buồn bã , cũng không phải đau thương , mà cảm xúc bàng hoàng , nói không được . Đã hơn hai ngàn năm rồi mà phần đông loài người trên thế giới vẫn còn nghĩ rằng chỉ có Chúa Giê Su mới có ánh sáng đó , đây là một chuyện không thể tưởng tượng được ? Vì Ngài phát ra ánh sáng nên cho đến hôm nay có nhiều người vẫn tin vào lực lượng của Ngài . Người ta không biết rằng không phải chỉ có Chúa Giê Su , hơn hai ngàn năm trước đây , mới là một người vĩ đại ; trên thế giới hiện nay vẫn có một số người có thể phát ra ánh sáng đó . Những người đắc Đạo đó , tuy chỉ phát ra một ít ánh sáng , nhưng cũng có thể giúp người giải thoát , cũng có thể dạy người , để mọi người có thể tự phát quang , có thể liễu thoát sanh tử và trở nên tự tại .
Cũng cùng một hoàn cảnh , chúng ta , những tín đồ Phật Giáo , đi đâu cũng ca ngợi Phật Thích Ca có hào quang . Lúc Ngài giảng kinh , thế giới Ta Bà biến thành thế giới hoàng kim . Thế giới này dưới mặt huệ của những người khai ngộ trở nên bằng phẳng huy hoàng . Ánh sáng của Ngài chiếu rọi khắp mọi nơi , nhờ vậy các đệ tử của Ngài có thể nhìn thấy thiên đường . Đó là tình trạng của lúc truyền Tâm Ấn .
Có những người lúc thọ Tâm Ấn hoặc ngồi thiền có thể nhìn thấy những hình ảnh này . Có người lúc nghe kinh của Sư Phụ cũng nhìn thấy những cảnh giới đó . Vì những hình ảnh đó , vì những lực lượng bất khả tư nghị đó , Phật Thích Ca vẫn còn nổi tiếng đến ngày nay . Hơn một nửa loài người trên trái đất sùng bái Ngài , bởi vì Ngài có lực lượng đó . Nhưng nếu mọi người đều nghĩ rằng chỉ một mình Ngài mới có lực lượng này , đây không phải là chuyện đáng buồn sao ?
Phật Thích Ca , Chúa Giê Su , các Ngài thật đáng cho chúng ta ca ngợi và sùng bái . Nói làm sao hết những công đức của các Ngài , chúng ta ca ngợi mãi từ đời này sang đời khác cũng chưa đủ . Nhưng hơn một nửa số người trên trái đất này đều tin rằng chỉ có các Ngài mới có được lực lượng như vậy ; cho nên mỗi ngày lạy lục các Ngài , mà không chịu tìm các vị minh sư khác cũng có lực lượng như vậy , cũng không biết có một phương cách nào khác để trở thành vĩ đại giống như các Ngài ; ngược lại từ sáng đến tối chỉ lạy lục những hình ảnh mù mờ của các vị thầy cổ xưa .
-
LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHẬN BIẾT SỨC GIA TRÌ CỦA SƯ PHỤ ?
Không phải chỉ có Chúa Giê Su và Phật Thích Ca mới là minh sư mà thôi ; còn có Mohammed , Plato , Lão Tử , Trang Tử , và rất nhiều vị minh sư nổi tiếng ít nhiều trên thế giới . Các Ngài đã ra đi từ lâu rồi , nhưng đến nay vẫn còn rất nhiều người sùng bái các vị thầy cổ xưa , đây có phải là chuyện đáng tiếc không ?
Có những lúc Sư Phụ không thể nào tin được , cứ một mực lắc đầu , không còn cách nào để nói nữa . Mỗi ngày Sư Phụ đọc kinh sách , có lúc cảm thấy buồn chán , nhưng vì muốn giảng kinh cho mọi người nghe , muốn lợi ích cho chúng sanh , nên đôi khi cũng cần phải tham khảo kinh điển , hoặc những triết học lưu hành hiện đại .
Trung Hoa có câu nói : "Quân tử một ngày không đọc sách , cảm thấy rất buồn chán , khó chịu , soi gương không nhận ra mình". (Mọi người cười). Tại sao vậy ? Bởi vì những người tu hành , tâm của họ vốn rất trong sạch , nói điều gì rồi thì không còn nhớ nữa . trước khi nói cũng không chuẩn bị , nói rồi cũng không nhớ mình đã nói gì , bởi vì cái "ta" của họ không còn nữa , hiểu không ? Họ không phải vì danh lợi mà nói , cũng không phải vì muốn mọi người sùng bái họ mà nói , họ không có một mục đích nào , vì đẳng cấp của họ đã vượt qua sự tưởng tượng trong đầu óc phàm phu của chúng ta . Đối với họ "thiên hạn vốn vô sự", họ không cần phải làm gì cả , nhưng vì có quá nhiều người đến cầu họ giúp đỡ , muốn biết trí huệ của họ , cho nên họ phải đọc sách để dựa theo kinh sách mà giảng thì người ta mới hiểu được .
Vì có một số người đã đọc quá nhiều loại sách kinh điển ấy , nếu quý vị không nói những điều này , thì nói gì họ mới hiểu ? Trước hết phải dựa vào kinh điển để giảng , về sau từ từ mở rộng thêm , nếu không thì chẳng có lời gì để nói . Tốt nhất Sư Phụ không cần phải giảng điều gì . Có rất nhiều lần Sư Phụ nghĩ càng nói càng cảm thấy sai bởi Chân Lý không thể nào dùng ngôn ngữ để diễn đạt , những thể nghiệm của cảnh giới cao không thể nào giảng dạy được .
Ví dụ có một người sau khi đã đắc Đạo khai ngộ , họ rất vui vẻ , người ta hỏi họ rằng : "Có gì mà vui vậy ?" Họ sẽ trả lời : "Tôi không thể nào nói được , tôi đạt được cảnh giới này mà không thể nói ra được !" Người kia sẽ hỏi : "Làm sao mà vui dữ vậy ? Ít nhất cũng có thể nói ra một chút cho chúng tôi nghe chứ ?" Người này suy nghĩ một lát rồi nói : "Niềm vui này , so với lúc vui sướng nhất của quý vị ở trên thế giới này , còn nhiều hơn gấp trăm ngàn vạn ức lần , thậm chí còn nhiều hơn như vậy nữa". Người đó không những đã khai ngộ mà còn "đắc Đạo" nữa .
Tuy kinh điển rất hay , nhưng không phải là cảnh giới cứu cánh . Trước khi chúng ta nhập môn , kinh điển có thể dùng để ấn chứng thể nghiệm của chúng ta , như vậy mới biết được đẳng cấp của mình ở đâu . Nhưng khi đã trải qua những thể nghiệm này , chúng ta không thể nào dùng kinh điển để so sánh được nữa , cho nên quý vị đều nghe nói : "Thiền không cần ngôn ngữ".
Có lúc chúng ta không nhìn thấy được hóa thân của Sư Phụ . Không phải người nào cũng có thể thấy , điều này phải tùy theo bối cảnh của chúng ta , sự tu hành trong kiếp trước của chúng ta , lòng thành tâm và sự cố gắng tu hành của chúng ta . Cần phải có rất nhiều điều kiện hợp lại với nhau mới có thể thấy được Sư Phụ . Nhưng không phải nhất định thấy được Sư Phụ mới biết là có Sư Phụ giúp đỡ . Nếu mỗi ngày quý vị thật sự chú ý , quý vị sẽ cảm thấy có một thứ lực lượng ở chung với quý vị , quý vị sẽ có một cảm giác rất an toàn , phải không ? (Có người mỉm cười biểu lộ sự đồng ý). Sư Phụ biết quý vị có cảm giác này .
Dù chúng ta làm điều gì , dường như có hai người đang làm vậy . Dù chúng ta ở đâu , dường như có một người lúc nào cũng làm bạn với chúng ta , chỉ dẫn cho chúng ta làm đúng . Nếu làm sai sẽ có cảm giác không tốt , dường như có một người ở bên cạnh quan sát vậy .
Thật vậy , Ngài đang xem xét , nhưng Ngài không phê bình , cũng không phỉ báng , cũng không cản trở chúng ta điều gì . Nếu chúng ta cần sự giúp đỡ , Ngài liền lập tức giúp đỡ ; nếu không cần , Ngài chỉ đứng nhìn mà thôi . Cũng giống như một người thầy dạy trường mẫu giáo vậy , trách nhiệm của họ là chăm sóc các em ; các em bé được trông nom , chơi chung với nhau , và các em cảm thấy rất an toàn .
Ví dụ có những lúc chúng ta buôn bán , hoặc vì vấn đề sinh nhai , mỗi ngày cần phải ra ngoài làm việc , phải phấn đấu với thế giới này , mới có thể kiếm ăn , mới có thể sống được . Trong xã hội này , không có tiền thì không thể nào sống được , phải vậy không ?
Mỗi ngày chúng ta phải ra ngoài làm việc , rất mệt nhọc . Có những lúc việc buôn bán ế ẩm , có những lúc người ta đối xử với chúng ta không tốt , có những lúc chúng ta thích làm một điều gì đó nhưng không thành công . Những người tu Pháp Môn Quán Âm cũng vậy , có những lúc sẽ tự hỏi , tại sao mình còn bị bệnh ? Tại sao việc buôn bán không chạy ? Tại sao người ta vẫn còn gạt mình ? Đến lúc đó chúng ta sẽ có rất nhiều vấn đề , lòng tưởng nghĩ : "Sư Phụ nói Ngài là vô sở bất tại , Ngài không phải là nhục thể , Ngài vĩnh viễn giúp đỡ chúng ta , tại sao Ngài lại để chuyện này xảy ra ? Có phải như vậy không ?" Có nhiều lúc chúng ta sinh lòng hoài nghi , và phàn nàn .
-
LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHẬN BIẾT SỨC GIA TRÌ CỦA SƯ PHỤ ?
Sư Phụ cũng biết những trường hợp này , Sư Phụ cũng có nghi vấn , cũng có phàn nàn . Sư Phụ có làm thơ để quý vị tham khảo , hiện đã dịch ra tiếng Trung Hoa , nhưng Sư Phụ cần phải sửa chữa lại , khi viết xong rồi mới in ra , lúc đó quý vị có thể đọc . Đây là quyển thơ đầu tiên của Sư Phụ xuất bản ở Đài Loan , chỉ là một tập thơ nhỏ , mỗi một bài thơ chỉ có mấy câu thôi . Quý vị đọc quyển thơ này , rất có thể nhìn thấy được bên trong của chính mình , cảm thấy dường như Sư Phụ đang nói dùm cho quý vị vậy .
Trong xã hội này , có nhiều lúc chúng ta làm điều gì cũng gặp thất bại , lúc đó chúng ta sẽ hoài nghi Phật Bồ Tát , hoài nghi Sư Phụ , hoài nghi pháp môn tu hành của chúng ta . Nhưng chúng ta không nên có tư tưởng như vậy . Quý vị , những người Trung Hoa , đều biết câu chuyện "Tái ông mất ngựa", phải không ? (Mọi người trả lời : Biết). Vì ông bị mất ngựa , nên ông mới gặp cảnh ngộ khác tốt hơn . Trong câu chuyện , vị Tái ông không nói sự tu hành của ông ra sao , nhưng chúng ta biết ông nhất định là người có tu hành , nếu không sẽ không có được thái độ như vậy , không thể ung dung tự tại , tự tin , bất cứ hoàn cảnh nào xảy ra , ông cũng không sợ ; chúng ta cần phải học tấm gương của ông .
Nếu nói rằng ông không phải là người tu hành , thì chúng ta càng nên tin tưởng vào lực lượng tu hành của chúng ta . Bởi vì ông chỉ là một người phàm phu mà đã có cảm giác an toàn , có một thái độ ung dung , tự tại như vậy , chúng ta là người tu hành , còn sợ điều gì nữa ? Hiểu không ? Vị Hoàng sư huynh này tại sao có thể khắc phục cơn bệnh của anh , quý vị có biết không ? Tại sao anh có thể vượt qua được cái chết , bởi vì anh tin tưởng Sư Phụ , anh có tu hành . Những người tu hành không dễ gì bị hốt hoảng , cũng không sợ hãi chuyện gì . Thái độ kinh sợ hoặc khủng hoảng tinh thần là kẻ thù lớn nhất của chúng ta .
Bây giờ Sư Phụ không nói đến lực gia trì của Sư Phụ như thế nào , Sư Phụ chỉ đề cập đến khía cạnh khoa học . Khi chúng ta gặp một hoàn cảnh nào , nếu chúng ta sợ , là hết rồi . Lúc chúng ta sợ , huyết quản của chúng ta dường như đông lại , chúng ta thường nói "sợ chết được". Khi sợ , máu huyết không lưu thông , tim ngừng đập , đầu óc không chịu làm việc , lúc đó chúng ta làm chuyện gì cũng không được , nghĩ không ra .
Các em bé biết rằng chảy máu rất nguy hiểm , vì đã nghe mẹ nói , các em bé rất tin tưởng vào lời nói của người mẹ . Nếu nhìn thấy người mẹ hoảng sợ , các em sẽ biết rằng việc chảy máu là một chuyện rất nghiêm trọng . Các em bé đều phải nương nhờ vào mẹ , đợi mẹ bình tâm rồi , các em mới có cảm giác an toàn . Nếu như người mẹ rất hoảng sợ , thì các em biết rằng rất nghiêm trọng . Lúc chảy máu các em không khóc , nhưng nếu như có chị hoặc mẹ nói : "Ôi chao ! Chảy máu ! Thật là nghiêm trọng !" Đến lúc đó các em mới bắt đầu khóc .
Cho nên chúng ta cần phải biết , không phải người tu hành nào cũng được thanh thản . Phải có lực lượng lớn , mới trở nên thanh thản . Vừa rồi nói đến Hoàng sư huynh , bệnh của anh lúc đó cũng không phải là tuyệt vọng , anh vẫn cứ tiếp tục sống . Bình thường anh không gọi điện thoại , nhưng lúc đó anh nghĩ nhất định phải gọi điện thoại đến Sư Phụ . Lúc anh gọi điện thoại vẫn vui cười , tại sao vậy ? Vì có sự "tin tưởng", hiểu không ? Anh tin một cách chắc chắn rằng gọi điện thoại đến Sư Phụ , bệnh sẽ khá hơn , anh có niềm tin khẳng định như vậy .
Còn nữa , thể nghiệm tu hành của anh cũng rất khá , biết Sư Phụ nói điều gì cũng là sự thực , anh cảm thấy lực lượng của Sư Phụ quả thật là có . Lực lượng của Sư Phụ tức là lực lượng của tạo hóa , không phải là của "ta", là lực lượng của Thanh Hải này , hiểu không ? Sư Phụ không phải là "Thanh Hải", là cái nhục thể này , Sư Phụ nói đến Sư Phụ là nói đến đẳng cấp của Phật Bồ Tát . Lực lượng của Sư Phụ , tức là lực lượng lớn nhất của vũ trụ . Có một thứ lực lượng lớn hơn lực lượng con người của chúng ta , nếu chúng ta dựa vào lực lượng này , bất cứ việc gì chúng ta cũng đều xử lý được . Nếu như chúng ta dựa vào lực lượng hữu hạn nhỏ bé của con người , đương nhiên chúng ta làm điều gì cũng sẽ không hoàn mỹ , đều rất vô thường , rất có thể có chút ích lợi tạm thời , nhưng lợi ích vĩnh cửu thì không có .
Rất có thể quý vị sẽ hỏi : "Chúng ta đã tu Pháp Môn Quán Âm rồi , tại sao còn có chuyện không hay xảy ra ? Ví dụ vị Hoàng sư huynh nọ , anh cũng đã tu Pháp Môn Quán Âm , cũng đã Tâm Ấn , tại sao Sư Phụ lại không bảo vệ anh ? Tại sao anh vẫn có bệnh ?" Có bệnh thì mặc kệ bệnh , chỉ cần chưa chết là tốt rồi . Nếu không có cơn bệnh này , thì nghiệp chướng có thể rất nhiều , làm sao sớm được tiêu trừ ? Có hiểu ý của Sư Phụ không ? Vạn nhất nếu như không xảy ra cơn bệnh này , cần phải xuống địa ngục mấy trăm ngàn năm , quý vị thích thứ nào hơn ? Bị bệnh hoặc là xuống địa ngục ? Có một chút bệnh thì có gì đâu !
Đại sư Huyền Trang cũng tu Pháp Môn Quán Âm , quý vị đọc truyện về Huyền Trang , trong đó có nói đến âm thanh . Khi ông đến Ấn Độ có học qua kinh điển về âm thanh , pháp môn về âm thanh , Ngài học Shabdavidya , có nghĩa là phương pháp về âm thanh , trong câu chuyện của Huyền Trang có nói đến điều này .
Ông là một người vĩ đại , lại tu Pháp Môn Quán Âm , nhưng ông vẫn bị bệnh . Có một ngày ông bị bệnh rất nặng , ông cảm thấy buồn , cầu Phật Bồ Tát giúp đỡ , Phật Bồ Tát hiện ra nói với ông rằng : "Không sao đâu , chỉ là một cơn bệnh nhỏ để tiêu trừ những nghiệp chướng rất lớn của đời đời kiếp kiếp , hãy ráng nhận lãnh". Qua mấy hôm sau , bệnh không còn nữa .
-
LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHẬN BIẾT SỨC GIA TRÌ CỦA SƯ PHỤ ?
Có những lúc nhân quả của chúng ta cần phải được tiêu trừ , không thể nào tránh được , bởi vì chúng ta thiếu người khác quá nhiều . Chúng ta thường nói "nghiệp chướng vốn là không", thì tại sao lại phải trả nợ nghiệp chướng ? Sự thật nghiệp chướng cũng không có gì là nghiệp chướng , thật sự nó vốn là không . Nhưng vì đầu óc của chúng ta đầy những thành kiến , vẫn còn có cảm giác tội ác , cho rằng đời trước chúng ta làm điều gì sai , hoặc là hai trăm năm trước đây mình đã phạm một lỗi lầm gì , hoặc là hai mươi năm trước đây mình đã phạm một lỗi lầm gì , hoặc là hai năm trước đây đã làm sai chuyện nọ ..., những gì chưa rửa được là những chuyện chúng ta làm sai , hiểu không ?
Xã hội kết án chúng ta làm sai , Đạo Đức Kinh nói chúng ta làm sai . Thật ra sự sai lầm của chúng ta là vì chúng ta làm ngược lại phong tục tập quán của xã hội , như vậy là chúng ta đã phạm tội rồi . Sư Phụ đã nói với quý vị mấy lần , phong tục pháp luật của mỗi quốc gia đều khác nhau , thói quen cũng khác nhau . Cho dù chúng ta có học lịch sử của nhiều quốc gia khác nhau , phong tục tập quán khác nhau , pháp luật khác nhau , nhưng chúng ta không thể vì vậy mà không tuân theo luật của quốc gia mình .
Tại Anh quốc , mọi người lái xe bên trái , nhưng ở Đài Loan , chúng ta lái xe bên trái là phạm luật . Sư Phụ không thể nói : "Tôi biết ở nước Anh người ta lái xe bên trái , cho nên tôi không có phạm pháp". Cho dù không có phạm pháp , chúng ta cũng bị người khác tông vào . Người khác tông vào chúng ta vì chúng ta lái xe không đúng , vì vậy chúng ta tự tạo tai nạn cho mình . Những điều này ví như nghiệp chướng .
Lẽ ra không có nghiệp chướng , chuyện gì cũng tốt , mọi thứ đều đã an bài , mọi chuyện chỉ là một vở kịch . Trên khán đài các diễn viên thủ diễn các vai tuồng , có người tốt , có người xấu , nhưng sau khi diễn xong thì không còn tốt , không còn xấu , mọi người đều về nhà rửa mặt của mình , trở lại người bình thường , vẫn là một người chồng tốt , một người vợ tốt , không còn có vương quốc , gian thần , đại quan , cùng những cung tần mỹ nữ ..., không còn gì nữa .
Cũng cùng một hoàn cảnh , thế giới này có tốt có xấu , chỉ là một vở kịch mà thôi . Nhưng lúc chúng ta diễn xuất , chúng ta không thể nói với khán giả : "Tôi không phải là người xấu đó , quý vị đừng có giận tôi", hoặc là : "Không phải tôi đau khổ như vậy đâu , quý vị đừng có ngồi đó mà rơi lệ". Lúc chúng ta diễn xuất , chúng ta thật sự quên mất mình là ai . Nếu chúng ta không quên được , thì sự diễn xuất của chúng ta sẽ không được xuất thần .
Phần đông các diễn viên đều hòa mình vào vai trò diễn xuất của họ cho nên họ diễn rất xuất thần . Họ khóc , giận dữ , buồn bã , ghét người , đóng rất hay ; đóng vai một ông vua thật uy nghi , đóng vai một người gian ác thật hung dữ , mắt của họ biến khác , hoặc trong trường hợp buồn bã , gương mặt của họ biểu lộ sự đau thương .
Có những minh tinh hoặc ca sĩ , có những lúc họ không sao hòa hợp được với đời sống trong xã hội , tại sao vậy ? Bởi vì mỗi ngày họ quên mất họ là ai . Họ đã diễn xuất những vai trò quá huy hoàng , ví dụ họ chuyên môn đóng vai là một vị hoàng hậu trong cung điện , hoặc là một quý phi ..., có người tiền hô hậu ủng , lo lắng rất chu đáo ; nhưng khi về nhà lại là một bà vợ già (mọi người cười), hoàn cảnh thay đổi quá nhiều , tâm lý đương nhiên cũng cảm thấy buồn bã . Cho nên cuộc sống của các đại minh tinh khi đã nổi danh không được bình thường , có người tự sát , có người uống rượu , hút thuốc , chích ma túy , cờ bạc ..., đắm chìm trong các thói quen xấu , vì trong lòng của họ không thể nào phối hợp được với đời sống thật sự bên ngoài .
Đang giảng đến lực gia trì của Sư Phụ , tại sao lại nói đến việc diễn xuất ? (Mọi người cười). Nhưng nói điều này cũng có ích , có những lúc tuy chúng ta ngồi thiền rất cố gắng , đạo tâm rất kiên cường , nhưng thể nghiệm lại không nhiều , cảm thấy không thỏa mãn . Thật ra chuyện này cũng có ích lợi , không nên phàn nàn rằng : "Tại sao Sư Phụ không gia trì cho con ? Xin Ngài mở cửa trời để cho con lên đó xem , ở thế giới này buồn quá , con muốn lên thiên đường coi thử , sao Sư Phụ không cho con đi ?" Thế giới này làm cho chúng ta đau buồn , điều đó không sai , nhưng nếu chúng ta lên đến thiên đường rồi trở về thì càng buồn hơn (Mọi người cười). Cho nên Sư Phụ không muốn cho quý vị thấy sớm quá , hiểu không ?
Rất có thể quý vị nghe báo cáo trên truyền hình thì biết , tại Mỹ , có những nhà chuyên môn tìm hiểu những người chết rồi sống trở lại . Quý vị đã từng nghe qua , có trường hợp một người chết đi từ hai mươi phút đến một , hai tiếng đồng hồ , lúc họ trở về như thế nào . Nhiều người nhìn thấy lúc họ chết đi hồn xuất ra , linh hồn của thân thể đi ra ngoài , sau đó từ trên cao nhìn thấy thân thể của mình nằm ở dưới , rất nhiều người đến bắt mạch , đo huyết áp , chích kim ..., tìm cách cứu mạng của họ , lúc đó họ biết rằng họ đã chết rồi . Sau đó họ lên cao một chút thì gặp những vị hào quang sáng lạng đến tiếp đón họ , đưa họ đến nhiều nơi rất đẹp đẽ , gặp lại những bạn bè đã chết , người thân , hoặc là những danh nhân quá khứ .
Chúng ta , những người tu Pháp Môn Quán Âm , đều biết đây là nơi ở của A Tu La mà thôi . Thiên đường của A Tu La cũng chưa phải là nơi cứu cánh , nhưng rất đẹp đẽ . Vì cơ duyên của những người này chưa đến , họ chỉ đi chơi một lát mà thôi . Nhưng sau khi đến chơi rồi , lúc trở lại thế gian này không thể nào hòa hợp với thực trạng được .
-
LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHẬN BIẾT SỨC GIA TRÌ CỦA SƯ PHỤ ?
Có những người sau khi trở về đâm ra buồn bã , khóc lóc liên tục mấy tuần lễ . Họ đã nhìn thấy những cảnh giới đẹp đẽ , những nơi huy hoàng , nhưng họ phải trở lại sống với thế giới ô nhiễm , đương nhiên họ cảm thấy đau lòng . Quyển sách đó rất nổi tiếng , dường như có giới thiệu trên truyền hình , Sư Phụ không xem truyền hình , có lẽ quý vị biết .
Do đó chúng ta , những người tu Pháp Môn Quán Âm , hãy từ từ . Tại sao có nhiều người tự tu , nhưng kết quả lại mắc bệnh thần kinh hoặc đời sống tinh thần bị quấy nhiễu , chúng ta gọi là "nhập ma" ? Tại sao lại bị ma nhập ? Tại sao có thể nghiệm khi trở về thì thần kinh lại bất thường ? Sư Phụ nói cho quý hay , bởi vì thân xác của chúng ta chỉ có thể sống tại thế giới này , phù hợp với chấn động lực ở nơi đây . Khi lên đến cảnh giới cao , cần phải điều chỉnh chấn động lực lại thì chúng ta mới có thể phối hợp với chấn lực vi tế ở trên ấy .
Quý vị có con nhỏ đều biết , chúng ta ăn sơn trân hải vị , nhưng chỉ cho em bé bú sữa thôi , phải không ? Không phải chúng ta không thương em bé , cha mẹ thương con cái của mình nhất , nhưng tại sao không đem sơn trân hải vị cho chúng ăn ? Bởi vì các em vừa mới sinh ra , không thể tiêu hóa những thức ăn này , nên chúng ta chỉ cho các em uống sữa mà thôi . Dù vậy các em cũng không uống được bao nhiêu sữa , chỉ một ít sữa pha với nước . Vậy mà các em vẫn trưởng thành . Nếu ngày nào chúng ta cũng nhìn em bé , chúng ta cảm thấy dường như em không có lớn ; nhưng nếu sau hai tháng chúng ta trở lại gặp các em , sẽ thấy các em lớn rất mau . Mỗi ngày đều thấy thì khó mà biết được .
Có những lúc chúng ta bế một em bé mập mạp , cảm thấy rất mệt , bồng không nổi , bởi vì chúng ta không quen . Nhưng mẹ của em mỗi ngày đều ẵm em , một tay xách một túi đồ lớn , một tay ẵm một em bé mập mạp mà không cảm thấy gì cả . Bởi mỗi ngày người mẹ đều bồng bế em bé , em mỗi ngày lớn một chút , mỗi ngày người mẹ bồng nặng thêm một chút , dần dần quen đi . Tuy em bé mỗi ngày đều trưởng thành , nhưng người mẹ lại không cảm thấy là nhiều lắm .
Cũng vậy , chúng ta tu hành cảm thấy dường như không tiến bộ , mỗi ngày ngồi thiền không thấy gì cả ; nhưng người ngoài nhìn vào sẽ thấy khác , bạn bè của chúng ta sẽ thấy chúng ta có trưởng thành và có thay đổi . Có nhiều lúc chúng ta cũng biết một chút , nhưng rất ít . Tóm lại chỉ có người ngoài mới dễ cảm thấy sự thay đổi lớn lao của chúng ta . Tuy chỉ mới vừa thọ Tâm Ấn , người thân trong nhà cũng cảm thấy chúng ta khác lạ , do đó rất nhiều chuyện xảy ra .
Chỉ vừa mới được truyền Tâm Ấn mà đã gặp phiền phức rồi , nói chi đến tu nhiều . Nhưng khi chúng ta tu hành nhiều một chút , họ sẽ từ từ quen với chấn động lực của chúng ta , sẽ không còn gây ồn ào nhiều nữa . Chúng ta hãy nhẫn nại với họ thì sẽ không có chuyện gì , tất cả đều là vấn đề của chấn động lực mà thôi . Chúng ta hãy từ từ trong tiến trình trưởng thành ; thân thể của chúng ta rất yếu ớt , nên có những lúc chúng ta ngồi thiền nhiều một chút sẽ cảm thấy rất mệt nhọc .
Sư Phụ thường nói ngồi thiền nhiều sẽ thấy nhẹ nhàng , nhưng có người ngồi thiền nhiều lại cảm thấy mệt , tại sao vậy ? (Có người lắc đầu biểu lộ không mệt). Quý vị tu hành không bao nhiêu , đương nhiên lắc đầu (Mọi người cười). Ngồi thiền nhiều mới cảm thấy mệt nhọc . Quý vị ngồi thiền tám tiếng đồng hồ thì sẽ biết mệt là như thế nào . Lực lượng của Phật có áp lực rất lớn . Tuy là một áp lực tốt , nhưng có chấn động lực rất mạnh ; còn thân thể của chúng ta rất yếu đuối , cùng một lúc nhận được nhiều lực gia trì của Phật tất nhiên đôi lúc sẽ chịu không nổi .
Cho nên những lúc ngồi thiền nhiều sẽ cảm thấy mệt . Sự mệt mỏi này không giống như lúc chúng ta làm việc nhiều , mà dường như cảm thấy mình như chậm lại . Nếu lúc đó chúng ta đo huyết áp của mình thì sẽ thấy nhịp huyết áp của mình dường như không còn nữa , tim đập rất chậm . Chúng ta nghĩ rằng chúng ta rất mệt . Thật ra không phải là mệt . Có những lúc người chủ của chúng ta ra đi , để lại xác thân này ; người chủ sẽ từ một nơi xa gọi điện thoại về chỉ huy nhục thể làm việc . Nhưng bởi vì quá xa nên việc chỉ huy cũng gặp khó khăn .
Điều này cũng như chúng ta lái xe xúc đất vậy . Phía trước của xe xúc đất có một cần xúc trông giống như bàn tay sắt rất lớn . Bàn tay sắt này giống như bàn tay của chúng ta vậy , nhưng nó không phải là bàn tay của người lái xe . Người lái xe có thể điều khiển bàn tay này để xúc đất , xúc đá , và cây cối để mở đường . Người lái xe ngồi ở trên xe điều khiển bàn tay này làm việc . Họ không phải ở bên cạnh cái bàn tay sắt này , mà giữa tay sắt và người lái xe có một khoảng cách như một cánh tay , cho nên chúng ta nhìn thấy cánh tay này dường như tự động làm , cảm thấy lạ lùng và chúng ta gọi đó là một bàn tay kỳ quái (Mọi người cười).
Nếu chúng ta xem phim khoa học thì biết , những lúc không có người , họ có thể đưa người máy ra ngoài thâu thập tài liệu . Người máy đó lúc bước đi , hình dáng cứng ngắc , cầm một món đồ lên như thế này (Sư Phụ diễn tả động tác của người máy , mọi người cười). Cũng vậy , lúc ngồi thiền nhiều có một số người cảm thấy rất mệt nhọc , nhưng không phải là sự mệt mỏi thật sự , mà vì chủ nhân của chúng ta không còn ở đó . Đôi khi Sư Phụ cũng cảm thấy rất mệt mỏi , thích đi nghỉ ngơi , bởi vì chủ nhân của thân thể không còn nữa .
-
LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHẬN BIẾT SỨC GIA TRÌ CỦA SƯ PHỤ ?
Chúng ta đều biết trước đây có một vị pháp sư chuyên môn ngủ . Các sư đệ của ông đều phàn nàn về ông , người nào cũng ngộ nhận ông là một vị hòa thượng lười biếng , từ sáng đến tối chỉ biết ăn rồi ngủ , nhưng việc gì ông cũng biết . Thật ra không phải là ngủ , mà là thân thể của ông ở đó nhưng linh hồn ra ngoài chơi . Cũng như cánh tay sắt của người lái xe xúc đất kia vậy , ông lái xe mệt rồi thì để cánh tay ấy sang một bên , sau đó đi ăn cơm hoặc đi chơi . Cũng vậy , không phải chủ nhân của chúng ta ngủ , mà là thân thể của chúng ta ngủ ; không phải người chủ của chúng ta mệt , mà là thân thể của chúng ta mệt , công cụ của chúng ta mệt .
Mấy hôm trước Sư Phụ có dạy quý vị pháp môn làm cho linh hồn của chúng ta rời khỏi thân thể . Nếu như quý vị thích , có thể về nhà tiếp tục tập luyện . Khi thần thức của chúng ta ra ngoài sẽ thấy được thân thể của chúng ta ngồi đó , chừng ấy chúng ta mới thật sự hiểu rõ Sư Phụ đang nói gì . Nhưng nếu chúng ta lên đến cảnh giới cao hơn sẽ không còn thấy thân thể của mình nữa , sẽ nghĩ rằng Sư Phụ đang kể chuyện để dối gạt quý vị . Sự thật là chủ nhân của chúng ta đi ra ngoài xem xét những chuyện khác , và lúc trở về chúng ta sẽ thấy được thân thể của mình ngồi ở đó ; đến lúc ấy mới biết được ý nghĩa chân thật lời Sư Phụ nói : "Thân thể này không phải là chúng ta".
Nhưng tốt nhất là không nên luyện tập pháp môn này . Sư Phụ dạy quý vị một chút mục đích là muốn mở mang kiến thức của quý vị , như vậy đủ rồi . Còn rất nhiều pháp môn kỳ quái khác , nếu quý vị thích , lúc nào Sư Phụ có thời giờ sẽ dạy cho . Nhưng nếu tất cả những pháp môn này đều vô ích hoặc chỉ có lợi ích trong một đêm mà thôi . Ví dụ Sư Phụ dùng những pháp môn này để giảng giải sự liên hệ giữa việc tu hành và Pháp Môn Quán Âm , để quý vị so sánh , sự ích lợi là ở chỗ này , hiểu không ?
Cũng như trong phòng thí nghiệm chúng ta làm một số thí nghiệm để cho mọi người quan sát học hỏi , chứ không phải để sử dụng vĩnh viễn . Nói nhiều pháp môn có ích lợi là ý nghĩa này . Bất luận Sư Phụ nói điều gì , Sư Phụ đều dạy cho quý vị cách thực hành , để quý vị thử , rồi sau đó Sư Phụ mới tiếp tục giải thích thêm .
Chúng ta hay nói có tám vạn bốn ngàn pháp môn , đó không có gì sai cả . Nhưng chúng ta không nên học nhiều như vậy . Nếu tin tưởng Sư Phụ , hãy lập tức tu Pháp Môn Quán Âm là tốt nhất , hay nhất , cao nhất ; biết quá nhiều pháp môn khác sẽ gây nên nhiều phiền phức . Bình thường chúng ta phải làm rất nhiều việc , phải săn sóc gia đình , nay còn phải học hỏi nhiều pháp môn khác nhau , thì bao giờ mới được thành Phật ? Phức tạp quá . Cho nên Sư Phụ không dạy nhiều , nhưng nếu quý vị thích Sư Phụ sẽ dạy .
Tại sao Sư Phụ bảo quý vị không nên học hỏi những pháp môn khác ? Bởi vì nếu quý vị quen rồi , về sau xuất hồn , sẽ đem tất cả những thân thể bên trong theo , chỉ để lại cái nhục thể này mà thôi . Trong sách Sư Phụ có giảng qua , bên trong nhục thể còn có những thân thể khác , linh hồn của chúng ta vẫn ở trong ấy . Nếu như quý vị tu pháp môn xuất hồn trước đây Sư Phụ chỉ , chúng ta sẽ đem tất cả những thân thể bên trong của chúng ta đi , chỉ để thân xác này với lớp da hôi thối ở lại mà thôi . Khi có thói quen xuất hồn rồi chúng ta rất khó sửa đổi . Nếu mỗi lần đều đem tất cả những thân thể bên trong của chúng ta đi sẽ gây nên nhiều chướng ngại cho chúng ta , bởi vì khi lên đến cảnh giới cao , tất cả các y phục bên ngoài đều phải cởi bỏ , chỉ còn duy nhất có linh hồn là đi lên ; không thể đem theo bất cứ một thân thể nào , ngay cả y phục của thân thể A Tu La cũng không được .
Mỗi chúng ta đều có ứng thân , báo thân , hóa thân . Hóa thân là gì ? Là chỉ hóa thân của nhục thể của chúng ta tại thế giới này , nhưng hóa thân mà Sư Phụ nói là một thứ khác , ứng thân thuộc về thế giới thứ Hai , do nhân quả mà hình thành ; bên trong thân thể này ghi lại trọn vẹn nhân quả của chúng ta đã làm ; tiếng Anh gọi là Causal Body , ý nói là thân thể của nhân quả . Tại thế giới thứ Ba có một hóa thân khác , tiếng Anh gọi là Mental Body . Hóa thân này không thể nào diễn tả được , bình thường lại không thấy được . Đến thế giới thứ Năm thì không còn bất cứ loại y phục của thân thể nào nữa . Bình thường khi xuất hồn , chúng ta chỉ có thể đi tới đi lui trong thế giới Ta Bà này thôi . Đối với chúng ta không có ích lợi gì , khi quen rồi thì không thể nào lên cao hơn mà chỉ có thể đi tới đi lui trong quả địa cầu nhỏ bé này thôi .
Sau khi Phật Thích Ca thành Phật , một ngày Ngài muốn qua đò , gặp người lái đò ngồi bên bờ sông , Phật Thích Ca hỏi rằng : "Ông có thể đưa ta qua sông không ?" Người lái đò nói : "Muốn qua sông phải trả tiền đò". Phật Thích Ca nói : "Ta là người xuất gia , vì muốn liễu thoát sanh tử , muốn đắc Đạo , nên đã để lại tất cả mọi thứ , làm sao có tiền để đưa cho ông ?" Người lái đò không nghe , ông nói : "Nếu như không có tiền , thì không thể lên đò qua sông được !" Quý vị thử đoán xem Phật Thích Ca lúc đó phải làm sao ? Ngài bước trên mặt nước qua sông (Mọi người cười).
-
LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHẬN BIẾT SỨC GIA TRÌ CỦA SƯ PHỤ ?
Nghe nói Bồ Đề Đạt Ma , Chúa Giê Su đều làm những chuyện này . Họ muốn làm là được ; nhưng chỉ trong trường hợp cần thiết mà thôi . Lẽ ra Phật Thích Ca cũng muốn qua đò giống như những người bình thường vậy , nhưng vì hoàn cảnh không cho phép , nên Ngài mới đi trên mặt nước , hiểu không ? Milarepa cũng vậy , các vị đại sư đều không dùng thần thông , ngoại trừ những trường hợp đặc biệt , bất đắc dĩ phải dùng . Sư Phụ nói để quý vị biết tại sao ? Có một ngày Milarepa gặp người đại đệ tử tương lai của ông , tên là Shiwa Wod Repa , là một người giàu có . Milarepa đến người này và nói : "Hôm nay ta mệt quá , không thể đi xa được , nhưng ta lại muốn đến một nơi nào đó , anh có thể cho ta mượn con ngựa hoặc đưa ta đến đó không ?" Shiwa Wod Repa trả lời : "Không được , tôi không đến đó , cũng không thuộc đường". Bởi vì muốn đến đó thì cần phải qua sông ; Shiwa Wod Repa nói Shiwa Wod Repa không qua sông , lại bảo Milarepa đi tìm người khác . Shiwa Wod Repa nói xong liền bỏ đi . Milarepa biết rằng người này có duyên với ông , lại có căn cơ tu hành , nên muốn giữ Shiwa Wod Repa trở lại , sợ Shiwa Wod Repa đi rồi sẽ bỏ lỡ một cơ hội .
Quý vị nên biết , có căn cơ tu hành nhưng nếu để mất đi cơ hội thì khó có thể tìm lại được ; hoặc phải đợi một thời gian rất lâu sau này mới gặp lại cơ hội ấy , mới có thể tìm được minh sư truyền Tâm Ấn . Nếu như Shiwa Wod Repa thật sự đi rồi thì không biết bao giờ mới có thể gặp lại Milarepa ? Cho dù có gặp lại Milarepa , ông cũng không sao nhận ra được .
Lúc đó vì thời gian cấp bách , Milarepa e ngại vị đại đệ tử tương lai của mình bỏ đi , cho nên liền bước đi trên mặt sông . Giòng sông đó rất sâu và rộng , nhưng Milarepa lại bước đi trên mặt nước qua sông rồi trở về (Mọi người cười). Lúc đó Shiwa Wod Repa giàu có nọ mới biết được Milarepa là ai , liền quỳ xuống : "Thưa sư Phụ ! Bây giờ Ngài cần gì ? Ngài đi đâu ? Con ngựa này là của Ngài , y phục của Ngài đã bị hư hết rồi , bộ quần áo này của con cũng là của Ngài , các thuộc hạ của con đều là của Ngài , Ngài còn cần điều gì nữa không ?" Milarepa đương nhiên không cần gì cả , người mà Milarepa cần chính là Shiwa Wod Repa . Sư tình về sau thế nào , quý vị đều biết , đương nhiên Shiwa Wod Repa theo Milarepa học .
Các vị đại sư rất ít khi dùng phương cách này để hấp dẫn người . Họ đều âm thầm độ chúng sanh , không tạo ra những hoàn cảnh náo nhiệt ấy . Quý vị không nên phàn nàn nhiều là tại sao chúng ta tu hành mà không tiến bộ ? Dường như Sư Phụ không giúp đỡ ? Quý vị đi hỏi bạn bè của quý vị thì rõ quý vị có tiến bộ hay không ? Quý vị ra ngoài biện luận với những người tu hành khác một hồi quý vị sẽ biết sự khác biệt giữa đẳng cấp của quý vị và của họ ra sao . Chỉ cần biện luận một hồi là quý vị sẽ mệt mỏi , không còn muốn tranh cãi nữa , quý vị sẽ nói : "Thôi được rồi , A Di Đà Phật" (Mọi người cười). Có phải như vậy không ? Quý vị có thể nghiệm này không ? (Các đệ tử đáp : Có).
Vạn nhất có một ngày , quý vị cảm thấy tinh thần xuống rất thấp , không còn tin tưởng đến Sư Phụ và Pháp Môn Quán Âm nhiều , có thể đi tìm các vị thiền sư trong chùa mà biện luận . Sau buổi đàm luận , quý vị sẽ lập tức khôi phục niềm tin , lại bắt đầu tuyên dương Pháp Môn Quán Âm là cao nhất , vạn tuế Sư Phụ Thanh Hải (mọi người cười), có phải như vậy không ? (Mọi người trả lời : Phải).
Sư Phụ không muốn quý vị phát khùng (mọi người cười), Sư Phụ không muốn đi bệnh viện thần kinh để thăm quý vị . Cho nên tu hành cần phải từ từ , trưởng thành mau quá cũng không được , tại sao vậy ? Vừa rồi Sư Phụ nói qua những người tự mình tu hành thường thường bị ma nhập hoặc bị bệnh thần kinh , bởi vì họ đột nhiên phát hiện ra linh thể của chính họ , biết một lực lượng lạ chưa bao giờ biết qua , bởi vì lực lượng của tạo hóa là bất khả tư nghị . Giống như điện lực vậy , chúng ta không thấy điện . Nếu như chúng ta muốn dùng , phải từ từ thiết lập một hệ thống , trang bị những sợi dây điện , sau đó dùng hệ thống an toàn che đậy lại . Khi mọi thứ được thiết kế xong , chúng ta mới có thể sử dụng điện được . Nếu hệ thống điện chưa được trang bị kỹ lưỡng mà chúng ta lỡ đụng vào thì thật là phiền phức , sẽ mua "quan tài" sớm (mọi người cười), hoặc nếu chúng ta không biết cách sử dụng điện , chúng ta làm sai sẽ bị điện giật chết .
Người tu hành cũng vậy , nếu không có minh sư chỉ bảo , giúp cho chúng ta điều chỉnh lực lượng của tạo hóa , lo liệu mọi thứ , vạn nhất nếu chúng ta gặp phải lực lượng rất lớn này , tuy đối với thế giới Ta Bà , lực lượng này cũng không được kể là lớn , nhưng đối với người tu hành cũng đủ lớn lắm rồi , đủ để chúng ta bị điện giật chết . Cho nên có rất nhiều người sau khi tọa thiền trở về từ những cảnh giới khác , không thể nào hồi phục bình thường , cảm giác cũng thấy khác lạ , tinh thần và thân thể cũng thấy khác lạ . Đó là vì đột nhiên chạm trán đại lực lượng này , rồi không thể điều khiển lấy chính mình , không thể lo liệu , không thể tiêu hóa kịp .
Cho nên vai trò của minh sư quan trọng là ở chỗ này . Họ sẽ chuẩn bị thân thể và tinh thần của chúng ta để chúng ta quen dần ; như vậy chúng ta mới không bị xảy ra chuyện không hay , vẫn có thể tiếp tục sống nơi thế gian này . Nếu không , đột nhiên chúng ta gặp những thể nghiệm quá lớn , nhìn thấy những cảnh giới quá đẹp đẽ , về sau chúng ta sẽ không còn muốn làm việc nữa , cũng không muốn sống nữa , lại muốn tự sát , không phải vì đau buồn (mọi người cười), mà vì muốn sớm rời bỏ thế giới thấp kém này .
Có rất nhiều người tuy sự trưởng thành rất chậm , cũng không muốn tiếp tục sống trong xã hội này , nhưng vẫn cần phải tiếp tục . Hoàn cảnh đã vậy thì hãy cứ tiếp tục như vậy ; bây giờ đã có vợ chồng , gia đình , cha mẹ , con cái , không thể nào rời bỏ , không thể nào vội vã rời bỏ được , thật đáng buồn , đôi khi không muốn sống thêm nữa , phải vậy không ? Nhưng Sư Phụ khuyên quý vị , dù thế nào đi nữa cũng phải tiếp tục sống . Ngày mai Sư Phụ sẽ dạy cho quý vị cách sống một cuộc sống vui vẻ , dũng cảm , an vui .
Giảng như vậy cũng đủ rồi , giảng nhiều quá quý vị cũng không nhớ được bao nhiêu . Vừa rồi Sư Phụ có tuyên bố : "Sáng mai nếu quý vị có thời giờ có thể đến ngồi thiền với Sư Phụ", năm phút sau đó , lại có người hỏi : "Ngày mai con rảnh , có thể đến sớm ngồi thiền không ?" (Mọi người cười). Sư Phụ nói nhiều như vậy , không biết quý vị nhớ được bao nhiêu ? Nhưng không sao , linh hồn của quý vị đều nhớ , nhìn mắt của Sư Phụ là đủ rồi .
Trước đây có một người lái xe taxi bị thất nghiệp , bởi lúc ngồi thiền , anh dùng một thứ gì đó nhét vào trong lỗ tai , nên lúc lái xe taxi , mơ mơ màng màng , khách nói gì cũng không hiểu . Khi đẳng cấp mở rộng , không còn ở trong đẳng cấp của nhân loại nữa thì nói gì cũng không hiểu . Vì vậy quý vị không nên hai mươi bốn tiếng đồng hồ đều làm "quán âm", cũng cần phải "quán quang". Làm quán âm quá nhiều sẽ bị ngây ngất , không còn muốn làm chuyện gì khác , nghe chuyện gì cũng không hiểu . Cũng giống như một phụ nữ Ấn Độ làm chapati vậy . (Ghi chú : Một loại bánh mì của Ấn Độ). Cô đang làm nửa chừng đột nhiên thần thức nhập định xuất ra ngoài ; chồng của cô về nhìn thấy bột mì vương vãi trên đất , người cũng không có , chapati cũng chưa xong (Mọi người cười).
Cho nên chúng ta vẫn phải tiếp tục sống , phải trả cho xong nghiệp chướng của chúng ta ở thế giới Ta Bà này . Nhưng có một phương cách có thể thanh toán nghiệp chướng của chúng ta rất dễ chịu . Ngày mai Sư Phụ sẽ dạy cho quý vị một pháp môn mới . Nhớ nghe , hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau hãy trở lại nghe (Mọi người không chờ được yêu cầu Sư Phụ nói ngay). Ngày mai hãy nghe , một ngày nghe một lần với một đề tài khác nhau . Nghe nhiều quá quý vị tiêu hóa không kịp .
Xong rồi , bây giờ bắt đầu ngồi thiền .
-
DUYÊN GIÁC PHẬT
Pháp của các vị Độc Giác Phật hay Duyên Giác Phật là do bản thân họ khai ngộ chứng được , cho nên loại pháp này không có lực lượng lớn , nhiều nhất là để cho chính mình được khai ngộ , hoặc chỉ truyền cho được hai , ba người mà thôi . Hoặc giác ngộ là vì trong quá khứ tu hành , vừa vặn họ đi đúng đường , cho nên con đường đó không cống hiến một pháp môn , chẳng qua vì một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà họ được thành công . Nếu như có người muốn học hỏi với họ , họ hỏi : "Quý vị tu như thế nào mà thành công vậy ?" Họ sẽ không trả lời được . Bởi vì con đường này là do quá trình tu hành họ ngẫu nhiên đi đúng đường .
Tại Ấn Độ có rất nhiều Độc Giác Phật , bây giờ vẫn còn , vẫn có thể thấy được . Họ rất nổi tiếng , có nhiều người đến thăm viếng và cầu pháp với họ , nhưng họ không có một pháp môn nhất định nào để truyền cho quý vị , và cũng không thể nào bảo đảm là quý vị sẽ được giải thoát như họ , hoặc sẽ giải đáp thắc mắc cho quý vị ; quý vị cứ tự tu hành , niệm kinh , đọc kinh , lạy Phật , niệm Phật ... Nếu quý vị thật sự cố gắng tu hành , rất có thể sẽ được như họ , ngộ ra được con đường tu hành , nhưng cũng có thể vô phương giải thoát . Quý vị có thể đến gặp họ , hưởng một ít phước báu của họ , nhưng chính quý vị phải cố gắng tu hành , họ không có đường để đưa quý vị đi , không có pháp môn để truyền cho quý vị .
Khi nói đến pháp môn là ý nói có một vị pháp sư truyền cho quý vị , và về sau quý vị có thể truyền lại cho người khác ; nên cần phải có một vị Sư Phụ truyền pháp , ý nghĩa là như vậy . Nếu chúng ta tự giác ngộ đạt giải thoát , chúng ta sẽ không độ được nhiều người , và cũng không thể dẫn dắt người khác giải thoát , không thể nâng nhắc mọi người lên cùng một đẳng cấp như chúng ta , cho nên loại giác ngộ này không làm cho mọi người thỏa mãn . Đương nhiên , phước báu của Duyên Giác Phật cũng rất lớn , khi có người gặp họ , họ có thể dùng phước báu của họ để an ủi và dạy cho người khác tu hành , để về sau có thể cũng giống như họ vậy .
Ở Ấn Độ và Đài Loan Sư Phụ đã gặp các vị Duyên Giác Phật và thấy họ đều giống nhau . Tại Ấn Độ có rất nhiều Duyên Giác Phật , và họ không chính thức truyền pháp cho đệ tử . Tuy họ có rất nhiều đồ đệ nhưng cũng như không có vậy , bởi vì không một vị đệ tử nào đạt được đẳng cấp giống như vị sư phụ đó . Cũng không có pháp môn nên họ không thể đạt đẳng cấp giống như Sư Phụ của họ được . Pháp môn cũng giống một chiếc cầu thang để chúng ta có thể trèo lên , được đẳng cấp giống như người thầy của chúng ta , nếu không có cầu thang thì không có cách nào khác .
Ví dụ có một người rất khoẻ mạnh , có thể ở trong rừng bay nhảy trong không trung và dưới đất , giống như Tarzan trong phim ảnh vậy , Tarzan có thể dùng dây leo trong rừng bay tới bay lui , giống như khỉ vậy ; đối với Tarzan , bay nhảy trong rừng là sở trường của Tarzan , người thường làm sao có thể bay nhảy như vậy được ? Nhưng nếu có một người biết được con đường đi lên núi và chỉ cho chúng ta , như vậy tương đối sẽ được dễ dàng thuận tiện cho chúng ta hơn , vì chỉ cần đi theo con đường đã vạch ra thì chúng ta có thể đi lên núi như Tarzan vậy . Tuy nhiên , nếu chúng ta dựa theo phương pháp của Tarzan , dùng những sợi dây leo , từng dây từng dây một để chuyền đi , đối với chúng ta , thật quá khó khăn , mà cũng không thể lên được đỉnh núi .
Tarzan cũng giống như một vị Duyên Giác Phật , không có phương cách gì để dạy cho quý vị , quý vị muốn đi đường nào cũng được , miễn là có thể trèo lên đỉnh núi , họ không có pháp để truyền cho quý vị , bởi vì họ không có một đường hướng để dẫn dắt cho quý vị đi . Nhưng nếu có một người đã đi qua và biết được đường đi lên núi thì có thể hướng dẫn quý vị . Đối với người bình thường , nếu có người dẫn đường thì tương đối sẽ dễ dàng đi hơn .
Các vị Duyên Giác Phật ấy đời đời kiếp kiếp đã tu hành rất lâu , cho nên kiếp này chỉ cần họ tiếp tục tu hành thì lập tức đạt được giải thoát . Nhưng chúng ta không cần phải cực khổ như vậy mà cũng có thể lập tức tu hành thành Phật , một đời là thành Phật . Phật Thích Ca nói có thể một đời thành Phật . Ví dụ như Tarzan , từ nhỏ đã sống trong rừng núi giống như khỉ vậy , luyện tập rất nhiều , nên có thể bay nhảy mà không gặp một chút trở ngại gì .
Nhưng những người bình thường từ nhỏ không giống như cuộc sống của loài khỉ , nên họ không thể như Tarzan được , họ cần phải đi trên một lộ trình đã được vạch sẵn mới có thể lên tới đỉnh núi . Chỉ cần có một người hướng đạo chỉ cho họ một con đường chính xác , họ cũng có thể đạt được , không nhất định phải dùng tới thuật bay nhảy trong rừng , đu trên cây , mới có thể lên tới đỉnh núi .
Cũng vậy , Duyên Giác Phật đời đời kiếp kiếp tu hành đã lâu , bây giờ tự nhiên thành Phật . Nhưng chúng ta đời đời kiếp kiếp chưa tu , bây giờ gặp một vị đại tu hành , có nhiều phước báu , và có thể phân phát cho chúng ta một ít phước báu của họ và nâng chúng ta lên cảnh giới cao hơn một chút . Lúc Phật Thích Ca còn tại thế , có rất nhiều vị Duyên Giác Phật đến học với Ngài bởi vì Phật Thích Ca có thầy truyền pháp , còn Duyên Giác Phật thì không có . Nếu Duyên Giác Phật muốn truyền pháp thì phải học với đức Phật . Các vị Duyên Giác Phật vốn đã có đẳng cấp rất cao , nếu như thêm vào một pháp môn thì có thể đi độ chúng sanh hoặc đi truyền pháp .
-
DUYÊN GIÁC PHẬT
Chúng ta đọc kinh điển Phật Giáo thấy có ghi lại rằng , có rất nhiều vị Duyên Giác Phật , bản thân họ không cần phải học hỏi thêm điều gì nữa , bởi vì họ đã học xong rồi ; nhưng các vị vẫn đến nghe Phật Thích Ca giảng kinh và theo học với Ngài . Tại sao vậy ? Bởi vì họ muốn học pháp môn của Ngài để về sau có thể đi truyền Pháp cho chúng sanh .
Tại Ấn Độ có rất nhiều vị Duyên Giác Phật , tại Đài Loan cũng có . Nhưng theo Sư Phụ biết , các vị Duyên Giác Phật tại Đài Loan dường như đã viên tịch hết , rất có thể có nhiều vị Duyên Giác Phật mà Sư Phụ không quen biết , họ vẫn còn tại thế , điều này Sư Phụ không biết . Vừa rồi Sư Phụ có nói đến Tarzan , vì từ nhỏ đã được huấn luyện , cho nên dù Tarzan có đi đường nào chăng nữa , cũng đều có thể lên đỉnh núi được . Tuy chúng ta không có năng lực như Tarzan , nhưng cũng có thể lên được đỉnh núi như thường .
Tu hành cũng vậy , có nhiều người hỏi Sư Phụ : "Con nghe nói có vị pháp sự nọ sống tại Đài Loan tu hành khổ cực , đã bế quan sáu năm , và trong khoảng thời gian này đã làm được một chuyện gì đó . Chúng ta có cần phải tu khổ cực như vậy mới có thể đạt được trình độ như họ không ?" Sư Phụ nói : "Không cần , các vị pháp sư tu hành cực khổ ấy đã đạt được trình độ gì Sư Phụ không dám nói , đẳng cấp bao nhiêu cao Sư Phụ cũng không dám nói , nhưng không nhất dịnh phải bế quan trên núi sáu năm , mười năm ... mới có thể thành Phật . Nếu là như vậy thì loài cọp đã sớm thành Phật hết rồi (mọi người cười), cả cuộc đời của chúng sống trong núi , còn lâu hơn bất cứ một người nào . Voi , thỏ , hồ ly , sẽ có một ngày đều thành Phật , nhưng trong lúc còn làm loài vật thì không thể được . Cho dù có muốn thành tinh cũng cần phải tu hành , nhưng không thể thành Phật".
Cho nên không nhất định mỗi một người nào trong núi bế quan , không gặp người , không vào thành phố , thì sẽ thành Phật . Thành Phật gì ? Thành Phật Núi ? Rất có thể quý vị đã nghe qua , tại Hy-Mã-Lạp-Sơn , những người tu hành Ấn Độ đều ở trong sơn động . Đệ tử của Sư Phụ có người rất thích đi đến đó tự tìm một căn động để tu . Tìm được một sơn động , không có nghĩa là sẽ được thành Phật , thành Phật gì vậy ? Thành người sơn động ! Hồ ly cả một đời sống trong sơn động cũng không thể thành Phật .
Sống trong sơn động tu hành cũng có sự trợ giúp , không phải không có , nhưng phải tùy duyên , cũng cần phải có nhân duyên của mình . Nếu quý vị không có sư phụ giỏi , không có phước báu lớn , thì quý vị cần phải cực khổ một chút , phải tự bế quan tu hành . Nếu phước báu của quý vị lớn , gặp được sư phụ giỏi , quý vị tu tại gia cũng không sao . Đại Sư Duy Ma Cật cũng không có tu trong sơn động , Phật Thích Ca cũng có rất nhiều Bồ Tát tại gia làm đệ tử của Ngài , Ngài cũng không kêu họ làm điều gì khác lạ , họ đều tu tại gia nhưng cũng có những thể nghiệm rất tốt .
Vào lúc Thiền Thất , Sư Phụ có giảng kinh Lăng Nghiêm cho quý vị nghe , trong kinh có nói đến những thể nghiệm của các vị Bồ Tát tại gia , không phải của các vị xuất gia ; các vị xuất gia cũng có mà các vị tại gia cũng có . Hai mươi lăm vị Bồ Tát trong kinh Lăng Nghiêm đề ra có rất nhiều vị tu tại gia . Điều này cho thấy rằng không nhất định phải lên núi tu mà vẫn có thể tu tại gia . Các vị Bồ Tát tu hành tại gia này có nói đến những thể nghiệm của họ . Có một vị Bồ Tát tu Pháp Môn Quán Thủy , ông ngồi trong căn phòng thiền quán thủy , cả căn phòng biến thành nước , có một vị đệ tử của ông mở cửa ra , nhìn thấy bên trong toàn là nước mới nói : "Sao vậy ? Tại sao trong phòng của Sư Phụ toàn là nước vậy ?" Nói xong người đệ tử liền lấy một viên đá liệng vào , viên đá chạm nước thì vang lên một tiếng "bũm", vị đệ tử nghĩ rằng đó là tiếng viên đá chạm vào nước , nên đóng cửa lại .
Vị Sư Phụ của ông , sau khi xuất định cảm thấy trái tim mình bị đau , bởi vì viên đá nọ liệng trúng vào tim của ông . Quý vị thấy , người này tu hành tại gia , không phải ở sơn động hoặc ở Hy-Mã-Lạp-Sơn quanh năm tuyết phủ .
Việc tu hành trên núi còn tùy vào nhân duyên của mỗi người , nếu không thì có phải là bất công không ? Nơi chúng ta ở không có tuyết rơi , không lẽ không thể tu hành được sao ? Đương nhiên không phải vậy . Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh , tại sao người Đài Loan lại không có Phật Tánh ? Chỉ có người Ấn Độ mới có Phật Tánh thôi sao ? Ở Hy-Mã-Lạp-Sơn có thể tìm được Phật Tánh , không lẽ trên núi Tân Điếm tại Đài Loan lại tìm không được Phật Tánh sao ? Phật Tánh không ở nơi nào khác , mà là ở trong tâm của chúng ta .
Có rất nhiều người vào lúc Thiền Tam có thể nghiệm rất tốt . Thời gian Thiền Tam và Thiền Thất tọa thiền với Sư Phụ thể nghiệm đã tốt như vậy ; những thể nghiệm này rất có thể còn cao hơn thể nghiệm của những vị tu hành tại Hy-Mã-Lạp-Sơn , điều này có thật chứ không phải là chuyện tưởng tượng . Nhưng Sư Phụ không cho phép họ đem thể nghiệm của họ nói công khai , cho nên quý vị không biết ; rất có thể quý vị ngồi bên cạnh một vị Bồ Tát mà không hay .
-
DUYÊN GIÁC PHẬT
Có những học trò không đến tham dự Thiền Tam , Thiền Thất với Sư Phụ . Có một cô ở nhà dùng thần thức của cô đi đến nơi Sư Phụ giảng kinh , cho nên trong lúc Thiền Tam có những chuyện gì xảy ra cô đều biết . Tuy cô không đến tham gia Thiền Tam , nhưng cô có những thể nghiệm cũng giống như có tham gia vậy .
Vì đẳng cấp của cô đã cao , nên cô có thể đến nhận phước báu của đẳng cấp ấy . Cho nên trong thời gian Thiền Tam , có khi Sư Phụ nói gì , làm gì cô đều biết . Bởi vì cô rất bận rộn với gia đình , có rất nhiều việc phải lo liệu , nên cô không thể đi dự Thiền Tam , nhưng cô rất thích đến . Vì vậy cô đã dùng linh thể đến tham gia . Lúc đến đây , cô nhìn thấy có rất nhiều vị Phật , Bồ Tát , Thánh Nhân và nhiều vị Đại Sư hiện diện tại đạo tràng của chúng ta . Cô thấy rất rõ ràng , bởi vì cô dùng trí huệ nhìn , không phải dùng nhục thể để nhìn , những thể nghiệm của cô còn hay hơn những thể nghiệm của những đệ tử đang tham gia Thiền Tam nữa .
Vị học trò này theo Sư Phụ học chưa bao lâu , chỉ mới hơn một năm mà thôi . Sau đó cô hỏi Sư Phụ , có phải trong lúc Thiền Tam Sư Phụ làm điều này , làm điều nọ ? Kết quả mọi thứ đều chính xác . Nếu như không phải đích thân đi đến xem thì không thể nào biết được . Bởi vì có những việc ngay cả những học trò tham gia Thiền Tam cũng không biết , nhưng cô lại biết .
Tu hành nếu thành tâm sẽ tiến bộ rất nhanh , chứ không nhất định phải đi sơn động . Đi sơn động tu hành sẽ biến thành người sơn động (Mọi người cười). Cho nên tu hành không nhất định phải lên núi , rồi bế quan sáu năm , mười năm , hai chục năm , điều này còn tùy duyên . Tuy nhiên cũng có người , nhân duyên của họ là phải như vậy . Nhưng làm vậy , cũng không thể bảo đảm được điều gì , bởi vì nấu cát không thể thành cơm . Điều quan trọng nhất là phải có pháp môn tốt , có người hướng đạo giỏi , một vị sư phụ giỏi , sau đó dù quý vị ở nơi nào tu hành cũng được cả .
Đương nhiên tu hành nếu có thành tâm thì tu pháp môn gì cũng đều có phước báu , không phải không có . Nhưng những phước báu đó là nhân thiên phước báu , không phải là cứu cánh giải thoát nên kết quả khác nhau . Nếu chúng ta tu hành có Sư Phụ giỏi , có pháp môn tốt , chúng ta vẫn có thể duy trì những tài sản và địa vị thế tục của chúng ta , không nhất định phải bỏ hết mà vẫn có thể đạt được giải thoát . Nếu không có Sư Phụ giỏi , không có pháp môn tốt , dù cho quý vị ở trong sơn động khổ hạnh bao nhiêu , khổ tu bao nhiêu , cũng không có phước báu nhiều ; chỉ được nhân thiên phước báu mà thôi , không được giải thoát .
Bởi vì nếu tu khổ hạnh đến cực điểm , không quần áo mặc , không cơm ăn , cũng không thể thành Phật . Phật không thể dùng sự giàu có mà mua được , cũng không thể hối lộ mà thành , càng không thể vì chúng ta quyên tặng nhiều tiền , phát nhiều lời nguyện , xả bỏ những tài sản riêng tư , thì có thể mua được Phật tâm , không thể như vậy được . Tu khổ hạnh thì biến thành người khổ , tu hành trong sơn động thì biến thành người trong sơn động (Mọi người cười).
Loài khỉ đều sống trên núi , chúng không vào thành phố , trên núi không khí tốt , không bị ô nhiễm , nhưng chúng cũng không thể thành Phật . Đi lạy núi thì trở thành núi lạy (mọi người cười), Quảng Khâm Lão Hòa Thượng là Quảng Khâm Lão Hòa Thượng , chúng ta là chúng ta , lạy núi không phải là việc xấu , thân thể nhờ vậy sẽ được khoẻ mạnh . Nếu thành tâm sẽ được chút phước báu , nhưng không thể đạt được cứu cánh giải thoát .
Một trong những đệ tử của Sư Phụ muốn xuất gia . Trước khi muốn xuất gia đến trung tâm của Sư Phụ tu hành , cô còn muốn đi lạy núi , Sư Phụ nói không cần . Cô nói hy vọng sau khi đi lạy núi xong , sẽ đem lại chút phước báu thì việc xuất gia của cô tương đối ổn định hơn . Kết quả sau khi lạy núi , cô đã hoàn tục rồi (mọi người cười), chưa kịp xuất gia đã bỏ đi rồi , như vậy có thể nói là có phước báu không ? Nếu lạy núi có phước báu , tại sao cô không thể xuất gia một cách an ổn ? Ngược lại phải hoàn tục ? Còn những người kia không lạy núi (chỉ các vị đệ tử của Sư Phụ), cũng có thể xuất gia , và đến bây giờ vẫn chưa bỏ đi ; cho nên Sư Phụ không biết lạy núi có phước báu gì không .
Chúng ta mỗi ngày đều có thể ở đây (Sư Phụ chỉ vào mắt trí huệ) lạy núi , hãy lạy núi , nước , Phật , thiên đàng , địa ngục ở bên trong . Tất cả đều ở bên trong của chúng ta , Thượng Đế ở bên trong chúng ta . Chúng ta là chúng sanh vĩ đại nhất của vũ trụ , chúng ta không nên đi lạy những núi đó . Nghe lời Sư Phụ là phước báu lớn nhất , Sư Phụ tiết lộ cho quý vị bí mật này , tin hay không là tùy quý vị ; nhưng Sư Phụ phải nói , để quý vị hiểu rõ , bởi Sư Phụ đại diện cho Thập Phương Tam Thế Phật . Một vị đại sư , cũng giống một vị Phật tại thế vậy , quý vị nghe lời họ thì phước báu gì cũng có , quý vị không nghe lời họ , thì cho dù quý vị đi lạy Thập Phương Tam Thế Phật , cũng không ai nhận quý vị làm đệ tử , và cũng không có phước báu gì cả .
-
DUYÊN GIÁC PHẬT
Bởi vì là quý vị thường dùng "ngã chấp" để làm việc , quý vị nghĩ rằng sự suy nghĩ của "ta" hay hơn Sư Phụ , lời của Sư Phụ nói chẳng có ý nghĩa gì , nghe rồi cũng chẳng có ích lợi gì ; mình muốn làm điều này , mình muốn làm điều kia , chứng minh rằng "ta" hơn Sư Phụ ; muốn dựa theo sự suy nghĩ của chính mình , và làm những công việc của chính mình . Đương nhiên như vậy cũng có những phước báu nhỏ cho mình , nhưng không có bao nhiêu , cho nên cần phải nghe lời Sư Phụ , Ngài bảo chúng ta làm điều gì thì chúng ta làm điều ấy , đó là phước báu lớn nhất .
Nghiệp chướng là ? Nghiệp chướng là khi chúng ta làm một điều gì đó không phối hợp với pháp luật tự nhiên , như vậy sẽ đem lại nghiệp chướng cho chúng ta . Ví dụ , chúng ta dùng đá , dùng cây , để cản một giòng nước lại thì nước không thể chảy ; nếu lúc ấy ở nhà dùng nước , số lượng sẽ rất ít . Cũng giống như nước ở trên núi , nếu có người ở miền thượng du , dùng đá dùng cây cản nước lại , nước sẽ không đổ xuống , vì gặp những trở ngại . Lại ví dụ , nếu như chúng ta muốn vượt đại dương thì cần phải ngồi thuyền ; muốn lên núi thì phải mang giầy leo núi , không thể mang dép , vì như vậy sẽ rớt xuống núi , hoặc sẽ gặp những tai nạn nguy hiểm .
Lại lấy thêm một ví dụ , không có ai muốn uống thuốc độc , nhưng có những lúc chúng ta uống nhầm thuốc độc , nên đương nhiên phải chịu ảnh hưởng của độc tố . Đó là những chướng ngại của chúng ta , chúng ta sẽ sinh bệnh hoặc là chịu những ảnh hưởng xấu , đây có thể gọi là "nghiệp chướng". Từ một định nghĩa rộng lớn hơn mà nói , nếu như chúng ta không biết pháp luật của vũ trụ , chúng ta làm một điều gì không hợp với pháp luật của vũ trụ , thì tinh thần và thể xác của chúng ta , hoặc linh hồn của chúng ta cũng sẽ chịu ảnh hưởng . Linh hồn này mọi người gọi là "trí huệ", có người gọi là "bản lai diện mục". Muốn gọi gì cũng được , tất cả những danh xưng này đều cũng chỉ cùng một nghĩa .
Một vị chân sư cũng giống như một vị luật sư vậy , luật sư đương nhiên hiểu rõ pháp luật cùng các văn kiện về luật pháp hơn một người bình thường . Một vị luật sư sẽ biết nhiều luật pháp hơn chúng ta , nếu như chúng ta muốn làm điều gì hợp pháp , cần phải tham khảo ý kiến với họ , hoặc các nhà chuyên môn , mới có thể làm đúng theo pháp luật mà không bị phạm pháp .
Tu hành cũng vậy , bởi vì pháp luật tự nhiên của vũ trụ rất nhiều , chúng ta không thể hiểu rõ hết , nên cần phải tìm một vị chân sư , hoặc một người nào đó tương đối đã khai ngộ , tương đối hiểu rõ những pháp luật tự nhiên , có thể dạy chúng ta làm điều gì để không sinh ra phiền phức . Cũng giống như một người dân đi tìm luật sư vậy , họ hỏi luật sư : "Tại sao tôi lại gặp chuyện trở ngại này ? Tại sao cảnh sát lại đến bắt tôi ? Tôi phải làm sao mới không bị phạm pháp ?" Vị luật sư sẽ cho họ biết phải làm thế nào mới hợp pháp ; bởi vì trước đây quý vị đã làm điều gì đó phạm luật , nên cảnh sát mới đến tìm quý vị , bây giờ nếu như quý vị làm theo lời tôi thì cảnh sát sẽ không đến bắt quý vị nữa .
Tu hành cũng tương tự như vậy , bởi vì chúng ta không hiểu rõ những hiện tượng của pháp luật vũ trụ , nên cần có một vị pháp sư đã khai ngộ , hoặc các vị đại sư đến đây dạy bảo chúng ta . Cho nên mới có Phật Thích Ca , Lão Tử , Chúa Giê Su đến , các vị đã biết pháp luật của vũ trụ , các Ngài đến đây dạy cho chúng ta phải làm sao , để đời sống của chúng ta mới càng ngày càng thêm tự tại .
Các vị đại sư đến thế giới này không phải để tạo một tôn giáo mới . Phật Thích Ca đến cũng không dạy giáo lý gì mới , nhưng bởi vì Ngài đã khai ngộ nên có giảng kinh ; Ngài đem những kinh điển cũ giảng cho rõ ràng hơn , Ngài giảng rõ hơn những vị pháp sư bình thường ; và bởi vì danh xưng của Ngài là Buddha , Buddha là các vị đại sư đã khai ngộ , Hán văn không phiên dịch nghĩa của chữ này , mà chỉ dựa theo âm , đọc thành "Phật Đà". Tại Ấn Độ , họ gọi Phật Thích Ca là Buddha , cũng giống như chúng ta gọi bác sĩ , luật sư vậy , chỉ là một danh xưng mà thôi . Ngài là Buddha , bất cứ ai , sau khi học với Ngài đều trở thành Buddhist (Phật Giáo đồ). Tín đồ Phật Giáo là do danh xưng của Phật Đà mà có , chứ không phải Phật Thích Ca dạy một lý luận tôn giáo gì mới .
Chúa Giêsu cũng không dạy người ta những đạo lý gì quá mới mẻ , Ngài không những chỉ dạy mà Ngài còn truyền pháp , truyền lực lượng . Bởi vì trong kinh điển tuy có giáo lý , nhưng không có lực lượng , cho nên Ngài giảng những giáo lý cũ , giảng giải cho rõ ràng , rồi Ngài truyền pháp , truyền lực lượng , để cho đệ tử vừa tu hành , vừa hiểu rõ giáo lý .
Các vị Huệ Năng , Bồ Đề Đạt Ma cũng vậy , không có dạy những lý luận gì mới . Nhưng bởi vì tín đồ tôn kính sư phụ của họ , cho nên tự xưng là Buddhist , là Phật Giáo đồ , bởi vì họ học với một vị Phật ; Phật Thích Ca nổi tiếng nhất . Cho đến bây giờ người ta còn nói đến Phật , họ chỉ biết Ngài mà thôi , nhưng còn các vị Phật khác , còn các vị đại khai ngộ khác cũng là Phật .
Dù là Phật hay Chúa Giê Su , các Ngài đều nói đến vấn đề nghiệp chướng . Phật Thích Ca nói : "Có nhân thì có quả , các vị trồng nhân gì thì gặt quả ấy". Chúa Giê Su cũng nói : "As you sow , so shall you reap", quý vị trồng nhân gì thì sẽ thu hoạch thứ ấy . Ngài và Phật đều nói đến nhân quả và nghiệp chướng . Nhân quả không hoàn toàn ám chỉ đến nghiệp chướng không thôi ; nhân quả là trồng nhân tốt thì sẽ gặt được quả tốt ; trồng nhân xấu thì sẽ gặt quả xấu , đó là cách nói bình thường . Còn nghiệp chướng là ám chỉ đặc biệt đến nhân quả xấu .
-
DUYÊN GIÁC PHẬT
Ví dụ chúng ta giết người hoặc trộm cướp , sớm muộn gì cũng bị người ta báo thù , hoặc sớm muộn gì cảnh sát cũng bắt nhốt vào ngục , đó là nghiệp chướng . Nhân quả không phải chỉ có nghiệp chướng mà thôi , những nhân quả tốt , chúng ta gọi là "phước báu"; những nhân quả xấu , chúng ta gọi là "nghiệp chướng". Có nhiều người vì không biết giáo lý Phật giáo , nên định nghĩa của nghiệp chướng dường như hơi khó hiểu , nghiệp chướng là hậu quả của những việc làm xấu của chúng ta , chỉ những kết quả xấu .
Ví dụ chúng ta uống rất nhiều rượu , uống đến mấy năm trời , bây giờ gặp được cơ hội tốt , muốn học ngồi thiền , nhưng vì trước đây đã uống quá nhiều rượu , bây giờ bị nhiều ảnh hưởng xấu , cho nên ngồi thiền rất khó khăn , thể nghiệm ít , tiến bộ chậm , chúng ta gọi đó là nghiệp chướng của chúng ta . Nghiệp chướng này từ đâu đến vậy ? Từ nồng độ của rượu mà chúng ta uống trước đây , những ảnh hưởng xấu vẫn còn tồn tại , cho nên chúng ta nói , đó là nghiệp chướng trong quá khứ của chúng ta , một thứ hậu quả . Nghiệp chướng cũng giống như hậu quả xấu vậy .
Lạy núi có ích lợi gì không ? Đi ăn cắp phước báu của Quảng Khâm Lão Hòa Thượng , tự mình không tạo phước báu , chỉ muốn đi lấy của người khác . Các nhà đại tu hành , quả thật có phước báu vô tận , chúng ta có thể lấy một chút mà không hề hấn gì . Cho nên có rất nhiều học trò , chạy đến thăm Sư Phụ một tiếng đồng hồ , muốn lấy phước báu của Sư Phụ , điều này không sao cả . Quý vị càng lấy , Sư Phụ càng có phước báu , đừng sợ Sư Phụ không có phước báu cho quý vị , nhưng điều tốt nhất trong việc tu hành là chúng ta tự kiếm tiền (phước báu) mà dùng .
Vừa rồi chúng ta nói đến vấn đề nghiệp chướng , có nhân gì , thì sẽ có quả nấy , vậy phải làm sao ? Đời đời kiếp kiếp chúng ta đã tạo nhiều nhân , chúng ta gặt nhiều quả , bây giờ làm sao chúng ta ra đi ? Làm sao có thể thoát khỏi ? Bởi vì chúng ta không biết đường , nên chúng ta cần có một vị sư hướng đạo cho chúng ta ; chúng ta đi theo họ thì tự nhiên chúng ta có thể thoát được . Còn không nếu chỉ dựa vào tự chúng ta , thì chúng ta sẽ không thoát khỏi . Bởi vì nếu chúng ta đã bị rớt vào trong vũng bùn , chúng ta càng vùng vẫy , thì càng bị lún sâu . Chúng ta thường nói , đời người như giấc mộng , nhưng không biết làm sao để tỉnh dậy ? Lẽ ra nằm mộng mình có thể tỉnh dậy được , nhưng đây là giấc đại mộng , làm sao có thể tỉnh dậy ? Có rất ít người có thể thức tỉnh từ trong ảo mộng . Những người tự thức tỉnh ấy chúng ta gọi là "Duyên Giác Phật".
Những vị Duyên Giác Phật không nhiều , nhưng không phải là không có , tự họ tu hành , tự họ ngộ được rằng cái thế giới này vốn chỉ là một giấc mộng mà thôi ; sau khi đạt được đẳng cấp đó , họ được giải thoát . Chúng ta cũng gọi họ là Phật , là Duyên Giác Phật hoặc là Độc Giác Phật . Độc Giác Phật là dựa vào chính bản thân của mình mà được giải thoát , nhưng các vị không thể độ quá nhiều được , nếu có , chỉ được một hai người mà thôi , họ có thể dạy giáo lý cho người khác , nhưng không thể truyền pháp , bởi vì họ không có pháp môn để truyền .
Tất cả Thập Phương Tam Thế Phật đều ở trong tâm của các vị đại sư . Giáo lý của một vị đại sư hoặc một vị Phật tại thế là những giáo điều của Thập Phương Tam Thế Phật . Cho nên lạy một vị đại sư chính là lạy Thập Phương Tam Thế Phật . Nếu không , đến bao giờ chúng ta mới lạy hết Thập Phương Tam Thế Chư Phật ? Chúng ta thành tâm lạy Phật , chúng ta sẽ có được một chút phước báu , nhưng như vậy chưa đủ . Nếu chúng ta tuân theo lời một vị sư Phụ chân chánh đã khai ngộ , chúng ta học và làm theo lời chỉ thị của các vị chỉ thị , thì đó là phước báu lớn nhất , cũng có nghĩa là chúng ta đang lạy Thập Phướng Tam Thế Phật . Chúng ta làm đến mức độ này thì tất cả các phước báu chúng ta đều có , đó mới thật sự là phước báu .
Sau khi Tâm Ấn , chúng ta cũng giống như trước vậy , không cần phải thay đổi tín ngưỡng hay tôn giáo của mình , hoặc bỏ đời sống của thế tục ; chúng ta có thể một bên làm việc , một bên nghe lời của Sư Phụ dạy dỗ . Mỗi người chúng ta có một nghiệp chướng khác nhau ; có người lạy núi có phước báu , bởi vì nghiệp quả của họ là như vậy , nên Sư Phụ bảo họ đi lạy núi . Có người cần phải lạy Phật , thì Sư Phụ bảo họ đi lạy Phật . Nhưng cũng có những người không cần phải lạy núi hoặc lạy Phật , mà phải làm những chuyện khác ; mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau . Nhưng dù cho Sư Phụ bảo quý vị làm điều gì , quý vị cứ y theo vậy mà làm thì sẽ được phước báu .
Còn nếu như chúng ta dùng "ngã chấp" to lớn của chúng ta để làm việc , thì sẽ không có phước báu gì cả , chỉ tạo nghiệp chướng cho mình mà thôi , giống như đặt một tảng đá trên con đường mình đi , để người khác cảm thấy vừa mệt , vừa bị trở ngại . Tuy chúng ta có nghiệp chướng , có nhân có quả , bởi vì chúng ta trồng nhân nào thì gặt quả ấy , nhưng chúng ta cũng có thể vượt qua đẳng cấp của nhân quả . Nhân quả từ đâu mà đến vậy ? Giả sử có một vị Thượng Đế thượng hữu , Ngài sáng tạo ra pháp luật của nhân quả , có thể gọi đó là "Luật Nhân Quả", luật này vẫn dưới Ngài . Nếu chúng ta tìm được "Thượng Đế", "Tạo Hóa", hoặc là "Bản Lai Diện Mục" thì nhân quả sẽ không có ảnh hưởng gì đối với chúng ta nữa .
Vào thời kỳ quân chủ chuyên chế xưa kia , vua là người đại diện cho quyền lực tối cao . Nếu như một người nông phu có một con gái tuyệt đẹp được vua yêu mến , muốn kết hôn , lúc đó dù cha của cô gái ấy có phạm tội gì , đang bị nhốt trong lao ngục , nhưng khi con gái của ông đã thành hoàng hậu , thì cả gia đình đều được phóng thích . Bởi vì vua có quyền lực tối cao , chính ông lập ra pháp luật , nhưng chính ông cũng có thể sửa đổi pháp luật mà không ai dám ngăn cản , nếu có những quan thần đưa ra những ý kiến phản đối cũng vô ích , bởi vì bản thân của vua là đại diện cho lực lượng tối cao , cũng giống như pháp luật vậy .
-
DUYÊN GIÁC PHẬT
Cũng vậy , tuy thế giới này , có pháp luật và có nhân quả , nhưng nếu như chúng ta câu thông cùng với lực lượng cao nhất , cũng chính là cùng với bản lai diện mục của chúng ta , câu thông với lực lượng đại từ đại bi , đại hùng đại lực vĩnh viễn tồn tại , thì chúng ta sẽ dứt tuyệt duyên với nhân quả . Cho nên Sư Phụ thường nói , định nghiệp có thể sửa đổi một chút là ý nghĩa này . Vừa rồi Sư Phụ có đưa ra một ví dụ , tuy cô con gái của người nông phu đã trở thành hoàng hậu , nhưng trong lúc lệnh của quốc vương chưa truyền đến lao ngục , người nông phu vẫn phải chờ đợi . Khi lệnh ân xá của nhà vua và chiếc xe ân xá chưa đến , dù địa vị của người nông phu là thế nào , cũng phải chờ đợi trong lao ngục , phải chờ đợi một thời gian , thời gian này tức là "định nghiệp".
Chúng ta cũng vậy , sau khi thọ Tâm Ấn thì năm đời được siêu sanh , và chính chúng ta đã được giải thoát , nhưng chúng ta cũng cần phải đợi thêm một thời gian , khi thời gian đến sẽ có chuyến xe đến đưa chúng ta ra đi . Cho nên chúng ta không thể lập tức vãng sanh , cần phải an bài mọi việc trước , chúng ta còn có cha mẹ , vợ chồng , con cái ..., sau khi chúng ta an bài thỏa đáng , rồi chúng ta sẽ ra đi . Vì có khoảng thời gian chờ đợi này , cho nên chúng ta mới nói định nghiệp không thể hoàn toàn sửa đổi . Nhưng cũng có thể sửa đổi để đời sống được thoải mái hơn một chút , ít nhất biết được rằng chính mình sẽ được tự do . Tuy hiện tại vẫn còn bị giam giữ trong ngục cấm , nhưng chúng ta đã khác với những phạm nhân khác , chúng ta đã được giải thoát , chúng ta chỉ cần đợi xe đến tiếp đón chúng ta ra đi mà thôi .
Thời gian chờ đợi trong lao ngục , tuy không được thoải mái như ở cung điện , nhưng đã được tự do rồi ; tuy trên người vẫn còn mang bộ đồ tù , vẫn còn ăn cơm trong tù , vẫn sống ở địa vị của tù nhân , nhưng trong lao ngục , ngoài các phòng giam , không còn nơi nào để nghỉ ngơi được , cho nên tạm thời ở lại trong ấy , nhưng đã bắt đầu khác với những phạm nhân khác , một lát nữa thì có thể được tự do , về nhà trở thành hoàng thân quốc thích .
Cho nên một vị vua , sau khi kết hôn với con gái của một thường dân , cả gia đình của người nông phu này nhờ vậy mà địa vị được nâng cao , thành hàng quý tộc mà người người hâm mộ ; những người thân thuộc xa cũng lấy đó làm vinh hạnh , cảm thấy địa vị của mình bây giờ đã nâng cao rồi , họ sẽ nói một cách hãnh diện : "Người thân của tôi bây giờ đã là hoàng hậu rồi". Tuy họ không chung sống với nhau , nhưng những người bà con xa ấy cũng được nâng cao địa vị , rất có nhiều người đến gặp họ , cảm thấy họ khác hơn trước . Thậm chí những bạn bè của gia đình này cũng được ảnh hưởng , cảm thấy vinh hạnh , và địa vị của họ cũng được nâng cao hơn một chút .
Trường hợp Tâm Ấn cũng giống như vậy . Sau khi thọ Tâm Ấn , không phải chỉ cá nhân quý vị có phước báu , mà toàn thể gia đình được hưởng , năm đời cùng lúc được siêu sanh , có phước báu . Thậm chí ngay cả bạn bè quý vị , chỉ cần quý vị nghĩ đến họ , họ sẽ lập tức có phước báu .
Những người chưa được thọ Tâm Ấn đã được giải thoát , cũng giống như người nông phu được phóng thích vậy . Tuy đang trên con đường từ ngục tối về nơi cung điện , người phạm nhân cũng vẫn chưa hoàn toàn thoải mái , đi đường làm sao mà thoải mái ? Vừa rồi là phạm nhân , hãy còn mệt mỏi , thân thể hãy còn suy nhược , trên con đường từ lao ngục về cung điện , đường xá khó đi , nhưng khi đến được cung điện rồi sẽ cảm thấy thoải mái .
Học trò của Sư Phụ cũng vậy , sau khi thọ Tâm Ấn , rất có thể đời sống không khác trước mấy , khá hơn một chút , hoặc không được khá lắm , bởi vì ở thế này , không có gì gọi là những chuyện tốt . Đợi đến khi chúng ta về nhà , về thế giới Tây Phương Cực Lạc , về Tịnh Thổ , Phật Thổ , chúng ta mới thật sự hưởng thụ . Ở nơi đây không gì để hưởng thụ cả , chúng ta đều biết , con đường trở về rất khó đi , ngồi một chiếc máy bay tốt nhất cũng cảm thấy rất mệt mỏi , không được thoải mái như lúc ở nhà , nhưng sau một khoảng thời gian thì sẽ về được căn nhà của mình .
Vị nông phu trong câu chuyện này , ông cũng cần phải đi cùng một con đường với những người khác , cho dù ngồi xe ngựa , cũng phải phối hợp với những chiếc xe ngựa khác , không có gì khác lạ , nhưng mục đích của ông là về cung điện , còn những người đi cùng một đường với người nông phu có mục đích khác hẳn . Chúng ta , những người đã thọ Tâm Ấn , tuy vẫn giống như trước , vẫn phải làm ăn , vẫn phải săn sóc gia đình , ôm con nhỏ , nhưng nơi chúng ta ra đi sau khi vãng sanh sẽ khác với những người bình thường . Tuy chúng ta trông qua cũng giống như họ , vẫn phải làm việc , nhưng kết quả lại hoàn toàn khác hẳn .
Hôm nay có một em bé muốn thọ Tâm Ấn , lần đầu tiên mẹ của bé này đưa em đến nghe kinh , rồi sau đó đưa tay lên nói , cô muốn thành Phật . Một lời nói như vậy đối với một đứa bé sáu tuổi không thể nói ra được . Sư Phụ không phải là người dễ bị lừa , không phải đứa bé nào Sư Phụ cũng truyền Tâm Ấn cho , và cũng không phải đứa bé nào cũng có ý nguyện thọ Tâm Ấn , ngay cả người lớn cũng không phải người nào cũng muốn Tâm Ấn , làm sao đứa bé này lại muốn Tâm Ấn ? Nhưng lần thứ nhất cô bé này đến gặp Sư Phụ , là muốn Tâm Ấn ngay , cô thông minh hơn rất nhiều người lớn , cô khác xa hẳng với họ , tiền kiếp cô bé ấy đã có tu hành rồi .
-
DUYÊN GIÁC PHẬT
Chúng ta không có quyền lựa chọn dùm cho em bé , bởi vì không phải em bé chỉ có cuộc đời này không thôi mà đã luân hồi đời đời kiếp kiếp rồi . Có những em nhỏ còn thông minh hơn những em bé lớn (chỉ người lớn), cho nên mới có nhiều thiên tài nhỏ tuổi hoặc thần đồng . Những người lớn đều nói : "Bởi vì chúng tôi đã trưởng thành , cho nên có khả năng tự quyết định cho bản thân mình , nên hay không nên tiếp nhận Tâm Ấn , còn các em bé làm sao mà biết được ? Phải đợi cho em bé lớn khôn trưởng thành , rồi mới quyết định". Như vậy là chúng ta quyết định dùm cho em bé , quyết định của em hay như vậy , chúng ta lại không tiếp nhận , cứ nghĩ rằng sự quyết định của chính chúng ta là hay nhất , làm sao mà hay ? Mình còn ăn thịt uống rượu , không bằng em bé , mà lại muốn quyết định dùm cho em ?
Nếu như có một người chồng , một người cha , tự bản thân tu hành rất giỏi có đạo đức , có trí huệ , có tự tin vào mình là hay nhất , nhưng còn người cha của đứa bé này không tu hành , còn ăn thịt uống rượu , lại ngăn cản em bé Tâm Ấn , cản trở vợ tu hành , không cho cô đi nghe kinh , một người cha như vậy không thể nào có được một quyết định sáng suốt . Bởi nếu có một người muốn làm chuyện đạo đức mà chúng ta lại ngăn cản họ , điều đó nói lên rằng chính chúng ta không có đạo đức .
Ví dụ cha của quý vị không tu hành , nhưng quý vị muốn tu hành , muốn thành một người có đạo đức ; cha của quý vị lại nói rằng : "Con chỉ là một đứa bé , làm sao mà biết được chuyện tốt xấu ?" Và không để quý vị tu hành . Nhưng chúng ta không thể vì tuổi của cha chúng ta lớn hơn mà cho rằng tất cả những lời ông nói đều đúng . Tuổi tác lớn nhỏ tuyệt đối không có quan hệ gì đến trí huệ . Cho nên có người , tuy lớn tuổi mà cũng không thông minh bằng các em bé , cha mẹ cũng không nhất định thông minh bằng con cái của họ .
Người chồng này , ngày trước không muốn cho vợ của ông tu hành nên đã nói rằng : "Em muốn tu hành , thì tôi và em sẽ ly hôn", quyết định của những người ấy làm sao tốt được ? Bây giờ ông ấy lại nói : "Con cái còn nhỏ". Nhưng trước đó ông không để cho vợ mình tu hành , lại nói như thế nào ? Không lẽ vợ của ông lại là nhỏ ? Quyết định của những người như vậy không phải vì lòng tốt . Ông đương nhiên nghĩ rằng quyết định của ông phát xuất từ tình thương , cho dù ý của ông là tốt , nhưng không nhất định đó là ý tốt thật sự , mà là "vô minh". Tự mình không hiểu , lại không muốn cho người ta hiểu , không muốn cho người khác thông minh hơn mình , dùng thái độ ích kỷ , sợ vợ mình sau khi học được đạo lý , về nhà sẽ không nghe lời của mình , sợ con cái giỏi hơn mình .
Tự ông không học , rất có thể vì nghiệp chướng nặng nề , không muốn tu hành , hoặc là sợ mất vợ con nên không muốn cho họ học thêm một chút , đó là ích kỷ . Muốn vợ mình ngoan ngoãn ở nhà nấu cơm , giặt quần áo , muốn rằng khi ông bảo gì thì lập tức phải nghe lời ; không cho vợ mình một chút tự do , muốn con cái của mình ngu đần hơn mình , như vậy ông mới dễ dàng khống chế . Con cái quá thông minh sẽ đem đến phiền phức , cha nói gì cũng vô ích . Sự suy nghĩ đó là ích kỷ , là không tốt . Nếu vì lòng tốt , Sư Phụ sẽ biết ngay , Sư Phụ rất thích người có lòng tốt .
Có những người chồng muốn tu hành , nhưng vợ không muốn cho họ tu hành nên không nấu cơm cho họ ăn , gây áp lực rất lớn cho họ , tìm cách ngăn cản họ tu hành . Các học trò của Sư Phụ , cũng có những người vợ như vậy , không phải chỉ có những người chồng mà thôi . Tu hành không phải dễ , cho nên những người chưa lập gia đình , tương đối tự do , có gia đình rồi ràng buộc lẫn nhau . Nam nữ chưa lập gia đình đều rất tự do , lập gia đình rồi biến thành nô lệ của đối phương , làm điều gì cũng không được , phải hỏi đối phương ; nếu đối phương không cho phép thì không dám làm , tại sao lại như vậy ? Kết hôn là để trở thành những người bạn tốt , khi có chuyện khó khăn , có thể dùng lời để hỏi han , tại sao lại phải đánh nhau , dùng bạo lực ? Sư Phụ không hiểu lập gia đình để làm gì ? Những người chồng hoặc vợ như vậy , không phải là những người bạn tốt mà chính là oan gia .
Nếu như là người bạn tốt , thì khi đối phương vui vẻ thì mình vui vẻ , bạn của mình muốn đi đánh banh thì mình sẽ tán đồng , rất có thể chính mình cũng cùng với họ đi , bởi vì ở trong sân banh họ rất vui , niềm vui đó họ muốn chia sẻ với quý vị , như vậy mới là bạn tốt , tại sao chúng ta lại cản trở đối phương làm những chuyện mà họ thích ? Chỉ muốn vợ "mình" ở nhà cung phụng "mình", "mình" muốn vợ "mình" ở nhà giặt áo , quét dọn , nấu cơm , nấu canh cho "mình" ăn ...
Đây là những việc cũng cần phải làm , chứ không phải là bỏ bê mà được ; nhưng nếu họ đã làm xong rồi , thời gian rảnh rỗi , họ cần có thời giờ cho sinh hoạt của họ , để họ cùng với bạn bè , bạn cùng sở hoặc là đồng tu nói chuyện với nhau , chứ không phải ngày nào cũng yêu cầu họ khi tan sở rồi thì lập tức về nhà . Về nhà sớm không phải là xấu , cần để cho họ có một chút tự do , họ muốn làm điều gì cũng được , miễn sao đừng làm chuyện xấu là được , những người vợ như vậy còn tốt hơn so với những người chuyên nói chuyện thị phi , đánh bài , uống rượu , nhảy đầm . Cho nên vợ mình muốn đi nghe kinh , nghe những chuyện đạo đức , đó là những người vợ tốt nhất . Họ học ngồi thiền để cho tâm tính bình thản , điều này có gì sai ? Tại sao không để cho họ làm ?
-
DUYÊN GIÁC PHẬT
Trong những gia đình Thiên Chúa Giáo , từ nhỏ cha mẹ của họ đã dạy dỗ con cái những chuyện đạo đức , dạy họ Thánh Kinh . Nhưng ở Đài Loan hình như thiếu một bầu không khí như vậy , cho nên thấy rất mới lạ . Sư Phụ muốn dạy các em nhỏ không phải dễ dàng , cần phải xin phép cha mẹ , ông nội , bà nội ..., nhưng không một ai đồng ý , bởi vì phương pháp dạy dỗ này ở Đài Loan dường như là một điều rất mới . Trong những gia đình Thiên Chúa Giáo , từ nhỏ các em bé đã bắt đầu đi học Thánh Kinh , có phải như vậy không ? Phật giáo tương đối dân chủ , không cưỡng ép các em bé đi học giáo lý của Phật , và muốn dạy các em cũng không phải dễ dàng . Sư Phụ nghĩ rằng sau này Sư Phụ sẽ thay đổi thân phận , trở thành nữ tu của Thiên Chúa Giáo , như vậy dễ dạy dỗ người ta hơn (Mọi người cười). Bất luận họ làm gì , đều được cho rằng đó là việc nên làm . Các vị nữ tu hoặc các Cha nói gì , thì những người theo học làm theo , như vậy mới dễ dạy dỗ hơn . Ngược lại , Phật Giáo quá dân chủ , nhiều lúc là một chướng ngại , dường như phải đi khẩn cầu lạy lục họ , để họ đi học những chuyện đạo đức .
Thế giới rất đau khổ , nếu không giúp các em giải thoát , thì muốn các em làm gì ? Cha mẹ có thể bảm đảm con cái của mình sau này có được sung sướng không ? Chỉ có Sư Phụ mới có thể bảo đảm , như vậy ai tốt hơn ai ? Quyết định của ai chính xác hơn ? Tại Đức , Sư Phụ có một cô bạn , cũng là bạn đồng tu với Sư Phụ , chồng của cô không tu hành , thích ăn thịt uống rượu , tuy người này thích thầy của Sư Phụ , nhưng lại không muốn tu hành , bởi vì nghiệp chướng riêng của ông . Tự mình không muốn tu hành cũng chẳng sao , lại không muốn cho vợ của ông và con của ông tu hành , nhưng sau đó vợ của ông đã thọ Tâm Ấn , rồi đến đứa con của ông cũng đi thọ Tâm Ấn . Đứa bé này nhất định muốn thọ Tâm Ấn , nên đã đến khẩn cầu thầy của Sư Phụ , nhất đinh phải truyền pháp cho nó , trong hoàn cảnh như vậy , thầy của Sư Phụ không cách nào từ chối được .
Bình thường là một người mẹ , cô có ý kiến của mình , không phải chỉ có người cha mới có quyền phát biểu , có quyền quyết định . Nếu như người cha ở bên ngoài khổ cực kiếm tiền , người mẹ cũng kiếm tiền , và còn khổ nhọc hơn người cha nữa ; người mẹ về nhà còn phải làm việc nhà , còn người cha không làm bao nhiêu . Nếu chỉ có người cha kiếm tiền đem về thì còn có thể hiểu , nhưng người mẹ của đứa bé này vừa phải làm việc , mà khi về nhà lại phải giặc áo quần cho chồng con , nấu cơm cho cả nhà ăn , một người cha như vậy còn có thể nói được điều gì ? Ngoài công việc làm của ông ra , ông còn chia sẻ những điều gì không ?
Nhưng đã kết hôn rồi Sư Phụ khuyên quý vị không nên ly hôn . Đã kết hôn rồi , ly hôn để làm gì ? Kết hôn là chúng ta đi tìm một người bạn cho mình , dù cho người ấy như thế nào , chúng ta cũng vẫn hy vọng chung sống hòa bình với họ , đó là giáo lý của Sư Phụ , Sư Phụ không khuyên người khác ly hôn . Nhưng người ấy cần phải biết lập trường của mình , không thể vì lòng tốt của vợ mà trở nên một kẻ độc tài . Cho dù không có cha , người mẹ và đứa con vẫn có một cuộc sống sung sướng như thường .
Nhưng tốt nhất là đừng lập gia đình , khi mà ta chưa hiểu rõ chính mình hoặc là điều kiện hôn nhân không lý tưởng từ đâu sinh ra ? Chết sẽ về đâu ? Sau khi chết sẽ đi đâu và sẽ làm gì ? Tại sao mình là nam ? Người ấy là nữ ? Những điều này chúng ta cần phải hiểu rõ , chưa hiểu rõ sẽ gây phiền phức cho chính mình , lập gia đình , có nghĩa là ràng buộc lấy mình , có phải vậy không ?
Không lập gia đình không có nghĩa là bất hiếu , một đứa con hiếu thảo là gì ? Thứ nhất , khi cha mẹ lúc còn sống , phải ân cần tiếp đãi họ , cho họ đủ ăn , đủ mặc , một nơi êm ấm để trú ngụ . Thứ hai , nếu như chúng ta biết giáo lý giải thoát , về nhà nói cho họ nghe , để cho họ cũng được thứ phước báu ấy , đó là một phước báu tối thượng , chứ không phải phước báu nhỏ nhặt , mà là một thứ phước báu lớn lao nhất , đó mới là một đứa con có hiếu , chứ không phải lập gia đình mới là hiếu thảo . Dù cho quý vị đã lập gia đình , nếu không sinh con , thì phải làm sao ? Lập gia đình không bảo đảm được có con , giả sử như có con , quý vị có bảo đảm rằng chúng sẽ nghe lời không ? Nếu chúng ra ngoài làm những chuyện bậy bạ , làm những chuyện xấu xa , vậy phải làm sao ? Nếu như cha mẹ của quý vị vẫn còn tại thế , thấy quý vị không lập gia đình mà lo lắng , lúc đó nếu quý vị lập gia đình , thì họ sẽ vui hơn một chút . Nhưng vạn nhất cha mẹ của quý vị đã qua đời rồi , có thể một ngày trở lại , họ sẽ nói với quý vị rằng : "Con ơi đừng lập gia đình , lập gia đình rồi sẽ khổ lắm", nhưng quý vị sẽ không nghe thấy . Một đứa con hiếu thảo thật sự là một đứa con làm chuyện đạo đức , hoặc trở thành một người đại khai ngộ , đó mới thật sự là "chân hiếu" chứ không phải lập gia đình mới là hiếu thảo .
Lục Tổ Huệ Năng là một đại thiền sư , trong gia đình ông là đứa con duy nhất , mẹ của ông lúc đó lại già rồi , ông một mình ngày ngày đi bữa củi , ân cần nuôi nấng mẹ già . Nhưng có một ngày , ông nghe một người niệm kinh Kim Cang , ông liền lãnh ngộ ; ông nói thế giới này , không có ý nghĩa gì cả , ông muốn tu hành , muốn trở thành một người đại khai ngộ , một người có trí huệ , ông muốn hiểu rõ , ông từ đâu đến ? Ông là ai ? Tại sao đời người của chúng ta chỉ không quá một trăm năm ? Tại sao không phải là một hai ngàn năm ? Tại sao đời người ngắn ngủi như vậy ? Tại sao làm người lại đau khổ như vậy ? Ông muốn đi tìm thầy học Đạo .
Nhưng lúc đó không có tiền , ông làm sao đi tìm thầy học Đạo ? Vừa vặn có một người bạn đến giúp đỡ ông , cho ông đủ tiền lộ phí , lại bảo đảm sẽ săn sóc mẹ già cho ông , cho nên ông đã an tâm đi cầu Đạo , và sau đó ông không trở lại . Sau đó ông trở thành một thiền sư nổi tiếng , ngàn năm về sau chúng ta vẫn còn tôn kính ông .
Cho nên làm như Đại Sư Huệ Năng mới thật sự là đứa con hiếu thảo . Chúa Giê Su cũng không lập gia đình , cũng không có con cháu để nối giỏi tông đường cho cha mẹ thấy . Lúc còn trẻ tuổi , ông đã qua Ấn Độ tìm thầy học Đạo , về sau trở thành một vị Đại Sư nổi tiếng nhất thế giới , nếu như cha mẹ của ông biết thì có phải là sung sướng lắm không ?
-
DUYÊN GIÁC PHẬT
Lập gia đình không phải là phương pháp báo ân duy nhất , cách báo ân cao cả nhất là chúng ta khai ngộ thành Phật , chúng ta không những độ cho chính mình mà còn độ cả cha mẹ và những thân nhân . Bởi vì sau khi cha mẹ qua đời , rất có thể không được lên Thiên Đàng , ngoại trừ họ có đầy đủ phước báu mới có thể lên trên ấy . Nếu như bây giờ quý vị làm chuyện xấu , ví dụ như giết người , dùng súng uy hiếp hoặc làm những chuyện xấu xa khác , thì cha mẹ của quý vị sẽ bị liên lụy , phước báu sẽ giảm bớt . Nhưng nếu như quý vị tu hành giỏi , trở thành người có đạo đức , người có phước báu , thì cha mẹ của quý vị sẽ lập tức siêu sanh lên Thiên Đàng . Người bình thường sau khi chết , rất đau khổ , rất cô đơn , không có ai đến cứu , rất có thể đi địa ngục , phạm một lỗi lầm nhỏ cũng không tránh khỏi địa ngục , phiền phức rất nhiều , bởi vì pháp luật của vũ trụ rất nghiêm khắc , rất cứng rắn , hoàn toàn không nói đến tình người bác ái .
Một người còn độc thân , rất tự do ; sau khi lập gia đình đi đâu cũng không được thuận tiện , có con cái lại càng phiền phức hơn . Nhưng điều này cũng tùy vào ý nguyện cá nhân của quý vị , lập gia đình hay không là do chính quý vị quyết định . Nếu như cha mẹ của quý vị đã qua đời , và anh chị của quý vị đã thành gia thất , lúc đó quý vị là người duy nhất còn lại , có thể dốc lòng tu hành , cứu cha mẹ của quý vị , đó là trách nhiệm của quý vị , cũng là phương cách trực tiếp để báo đền ơn đức của cha mẹ quý vị . Nếu như quý vị lập gia đình , tự mình tạo thêm ràng buộc , làm thế nào đảm nhận nghiệp chướng của cha mẹ quý vị ?
Sư Phụ nói thật với quý vị , lập gia đình không có gì tốt cả , không lập gia đình mới là người thông minh . Quý vị nhìn người khác sau khi lập gia đình , thường hay khóc lóc , bởi vì con cái không hiếu thảo , ở bên ngoài gây náo loạn , về nhà gây với cha mẹ , tuy ngày ngày quý vị nhỏ nước mắt khuyên chúng , nhưng trung ngôn nghịch nhĩ , chúng nó nghe không lọt tai . Không phải có con là được rồi , đời đời kiếp kiếp chúng ta có biết bao oan gia , họ đến đây làm con cái của chúng ta để rửa hận , chúng ta không để cho chúng có cơ hội là tốt nhất .
Những người có gia đình thì tương đối khổ cực hơn , vợ chồng đồng tu thì không sao , nếu không sẽ gây nên ít nhiều phiền não , nếu không phải là người chồng không cho họ đến , thì người vợ không để cho họ đi , hoặc nếu không nữa thì con cái sẽ gây ra nhiều phiền phức , đều là những chuyện buồn bã khó khăn . Lập gia đình quả thật không có gì hay cả . Trong kinh của Thiên Chúa Giáo cũng nói đến không lập gia đình là tốt nhất .
Quý vị có muốn thử cuộc sống của Sư Phụ không ? Những người theo Sư Phụ ăn uống rất giản dị , mỗi ngày một bữa , mặc những đồ thô sơ , hai ba bộ quần áo thay đổi là đủ , mỗi ngày ăn hai ba chén cơm là nhiều nhất , thời giờ còn lại là để tu hành , đọc kinh , làm việc , nghỉ ngơi . Nếu chúng ta muốn sống cuộc đời thánh thiện như Phật Thích Ca , Chúa Giê Su , Lão Tử ..., chúng ta muốn trở nên người như các vị thánh nhân thời xưa độ rất nhiều chúng sanh , cứu rất nhiều chúng sanh , chứ không phải cứu cha mẹ , thân nhân của chúng ta mà thôi , thì Sư Phụ nghĩ cuộc sống như vậy mới là lý tưởng cao quý , lập gia đình chỉ có thể độ một gia đình nhỏ mà thôi ; không lập gia đình , làm một người tự tại , có thể độ được rất nhiều chúng sanh , rất có ý nghĩa . Cá nhân Sư Phụ cảm thấy xuất gia rất vui vẻ , Sư Phụ không rõ tại sao quý vị không làm .
Những người chưa lập gia đình , Sư Phụ khuyên quý vị nên suy nghĩ kỷ rồi mới lập gia đình . Thật vậy , việc lập gia đình của quý vị chẳng có quan hệ gì đến Sư Phụ . Nếu như quý vị muốn hỏi thì câu trả lời của Sư Phụ là : "Đừng có lập gia đình". Lời nói này là từ nội tâm của Sư Phụ thành thật nói ra , bây giờ quý vị không nghe lời khuyên của Sư Phụ , sau khi lập gia đình sẽ đến khóc lóc với Sư Phụ , Sư Phụ cũng thấy rất đau lòng . Sư Phụ có hai đứa học tò , bây giờ đã lập gia đình rồi , trước đây Sư Phụ bảo chúng , đừng có lập gia đình , nhưng chúng không nghe , sau khi lập gia đình rồi , thường rơi nước mắt , chạy đến Sư Phụ than oán khổ cực Sư Phụ nói Sư Phụ đã nói với cô rồi , cô không nghe , bây giờ đến phàn nàn cũng vô ích , trễ quá rồi , đã có con cái , về sau càng thêm phiền phức .
Cho nên Sư Phụ chỉ khuyên người không nên lập gia đình , nhưng nếu như đã có gia đình rồi , thì không nên ly hôn , Sư Phụ không khuyên người ly hôn . Ví dụ chúng ta có một đứa con , tuy rất xấu , nhưng dù sao đi nữa , nó cũng là người thân của chúng ta , chúng ta không thể liệng nó xuống biển và bỏ mặc nó . Kết hôn là như vậy , tốt hay xấu chúng ta vẫn phải ở chung , và sống trọn đời cho đến khi chúng ta rời khỏi thế giới này ; nếu đã có con cái , ly hôn sẽ gây những ảnh hưởng không tốt cho con cái . Nhưng nếu như chưa lập gia đình thì đừng vội lập gia đình , lập gia đinh một hai năm rồi lại muốn ly hôn , lúc đó có con nhỏ , có cảm tình , rất khó mà cắt đứt .
-
TÌM HIỂU VỊ MINH SƯ BÊN TRONG CỦA CHÍNH MÌNH ĐỂ NHẬN THỨC ĐƯỢC THƯỢNG ĐẾ
Xin chào quý vị ! Sư Phụ rất vui mừng khi thấy có nhiều người Hoa Kỳ xinh đẹp hôm nay . Phải , Sư Phụ rất ngạc nhiên . Sư Phụ được báo là hội trường đã đông nghẹt người và những người này đều rất xinh đẹp . Sư Phụ nghĩ rằng ông ta nói đúng .
Sư Phụ nghe nói nhiều về thành phố Boulder của tiểu bang Colorado , là nơi rất thiêng liêng và có một nguồn năng lực rất tốt đẹp . Sư Phụ đa nghe nói đến từ nhiều năm qua và đã đọc qua một số sách báo về tâm linh của thành phố Boulder này . Thật ra , hai năm trước Sư Phụ đã được mời đến Colorado một vài lần , lần đầu là thành phố Denver và sau đó là Boulder . Sư Phụ đã bỏ qua nhiều lần , nhưng lần này khi ghé qua Mỹ , Sư Phụ nghĩ rằng nên tới thăm . Mọi người có khoẻ không ? Tốt !
Sư Phụ rất hân hạnh khi thấy quý vị đã dành thời giờ đến đây để chúng ta có dịp gặp nhau - có thể chỉ một lần trong nhiều thế kỷ hay trong nhiều kiếp . Vì chúng ta không thể biết còn có cơ hội này nữa không . Chúng ta có thể trở thành một thân thể khác , có khi không được tốt đẹp như bây giờ . Bởi thế chúng ta nên nhận lãnh ân huệ này ngay từ bây giờ .
Sư Phụ biết rằng có nhiều người trong quý vị nơi đây đang đi trên những con đường tâm linh khác nhau hoặc chiều hướng khác nhau để tìm Thượng Đế , Phật tánh , Zen hoặc Đạo . (Có trở ngại về máy vi âm). Đó là giọng của Sư Phụ . Được chưa ? Tất cả mọi người nghe Sư Phụ nói có rõ chưa ? Cảm ơn quý vị . Giọng của Sư Phụ rất nhỏ , ngoại trừ khi Sư Phụ hét lên , quý vị biết không , giống như giọng của phái nữ . Đôi khi Sư Phụ phải làm nhiệm vụ của mình qua hình dáng của người nữ . Sư Phụ phải là nữ , nếu không người ta sẽ nghĩ rằng chỉ phái nam mới có thể thành Phật , Chúa hoặc là Vô Thượng Sư . Điều đáng mừng là nữ phái cũng có thể thành Vô Thượng Sư - đệ tử của Sư Phụ đều nghĩ như vậy . Rất tiếc Sư Phụ không nghĩ thế , bởi vì chúng ta không phải là nữ mà cũng chẳng phải là nam . Tất cả đều là Phật , "Phật vô minh"; cũng như mỗi quốc gia đều giống nhau , chỉ khác là có nước chậm tiến và có nước văn minh , phải không ?
Cho nên chúng ta cũng có thể tự mình phát triển bằng cách theo học một phương pháp , một lối sống , một đường hướng nào đó để lèo lái đời sống hằng ngày của chúng ta . Hầu hết mọi người hình như có một cuộc sống không được tốt đẹp cho lắm ? Sư Phụ không có ý ám chỉ quý vị . Có thể đường hướng của quý vị đã tốt đẹp rồi . Xin quý vị hãy nghe đây như là một sự hướng dẫn tổng quát .
Cuộc sống của chúng ta được chia ra làm nhiều đẳng cấp và mọi người đều biết rằng đẳng cấp cao nhất là sống trong khi nhận thức được Thượng Đế , hay khi chúng ta đã thật sự được câu thông hoặc nhận biết được Phật tánh của chính mình . Nhiều người đã cố gắng để nhận thức được Thượng Đế hay tìm được Phật tánh qua các phương pháp quán tưởng khác nhau . Quán tưởng hay thiền định là phương cách tốt nhât để chúng ta nhận biết được bản lai diện mục của chính chúng ta . Nhưng có rất nhiều phương pháp thiền định ; và dù quý vị có tìm được phương pháp nào đúng nhất , nhanh nhất hoặc mau chóng nhất , thì mỗi phương pháp cũng có nhiều đẳng cấp khác nhau .
Giả sử bây giờ chúng ta bàn về phương pháp cao nhất . Nếu chúng ta tìm được một phương pháp nào hay , cách thiền nào đúng để đạt được chân ngã , thì chúng ta sẽ thấy ngay được một khía cạnh nào đó của sự khai ngộ , một bằng chứng rõ rệt qua sự hiện hữu của chân ngã , để nhận biết ngay lập tức là chúng ta không phải chỉ có xác thân này không thôi , mà còn có gì khác nữa . Chúng ta sẽ cảm thấy tâm thức được nâng cao , không hẳn là sự phấn khởi . Vì khả năng ngôn ngữ có giới hạn nên không thể diễn tả hết trạng thái nhập định thiêng liêng , khi chúng ta tình cờ đi đúng đường hay rơi vào đúng trạng thái ý thức Thượng Đế . Chúng ta gọi đó là "tức khắc khai ngộ"
Mỗi ngày nếu chúng ta cứ tiếp tục theo con đường hoặc phương pháp nào đó để tiến tới gần Thượng Đế , thì chúng ta sẽ tiến bộ hơn và càng ngày càng biết chắc chắn về sự giải thoát của chính mình , càng chắc chắn hơn về sự vĩ đại của chúng ta . Cho đến một ngày chúng ta có thể nói với chính mình rằng : "À ! Ta và Cha ta là một", hoặc "Ta là thế đó", hoặc "Ta là Đồng Nhất Thể". Nhưng lúc đó mình không có ý tự hào và tự kiêu nữa . Vì đó chỉ là sự thật . Chúng ta chỉ mới khám phá ra trạng thái thật sự của giác ngộ , trong đó chúng ta biết rõ mình là ai , biết rõ con người trước đây của chúng ta . Chỉ vậy thôi . Khi tìm lại được những gì thuộc về mình , chúng ta không kiêu hãnh mà chỉ sung sướng vì nhận biết lại được những điều đó . Điều này thật đơn giản .
Nhiều người thường hiểu lầm khi có người nào đó tuyên bố hoặc xưng tán là Phật . Nhưng thường thì những vị Phật không bao giờ tự nhận rằng "Ta là Phật", ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt - khi các đệ tử hỏi hoặc cần minh xác . Hầu hết họ đều được các đệ tử của họ xưng tôn là Chúa , là Phật hay là Vô Thượng Sư . Nhiều người hiểu lầm và nghĩ rằng người được xưng tụng là Minh Sư hay Phật sẽ rất hãnh diện , cho rằng ông hoặc bà ấy muốn đề cao sự đạt thành , vinh danh cho chính họ - Phải , phải Sư Phụ không thể bỏ sót "phái nữ" ! Nhưng thật sự không phải như vậy . Điều đó cũng như quý vị khi ra trường , lấy được bằng tiến sĩ và nói , "Tôi mới đậu bằng bác sĩ", hoặc "Tôi vừa thi đậu bằng tiến sĩ", chỉ vậy thôi . Chúng ta vui mừng vì đã đạt được mục đích mà chúng ta đã cố gắng theo đuổi trong bao năm qua .
-
TÌM HIỂU VỊ MINH SƯ BÊN TRONG CỦA CHÍNH MÌNH ĐỂ NHẬN THỨC ĐƯỢC THƯỢNG ĐẾ
Cho nên sau khi thành Phật , chúng ta sẽ cảm thấy làm Phật cũng chẳng có gì là vĩ đại cả . Chúng ta chỉ cảm thấy rất vui vẻ , hài lòng , và thấy điều này rất ư là tự nhiên . Chỉ vậy thôi . Người thành Phật không cảm thấy phải ra ngoài công bố với tất cả mọi người là họ đã thành Phật . Không phải họ đã mất hết cảm giác , lòng từ bi hay vì họ ích kỷ , nhưng vì họ nhận thấy tất cả chúng sanh đều là Phật . Cho nên họ rất là ngạc nhiên khi có người không nhận biết được điều này . Nhưng dần dần vị Phật này sẽ nhận thức được thực trạng trên thế gian này , rồi vị đó sẽ biết rằng còn có rất nhiều người chưa nhận thức được họ là Phật và đó là sự thật .
Vì vậy , khi một người được gọi là "chưa khai ngộ", tức là chưa nhận thức được sự vĩ đại của chính họ , đến hỏi người được tôn xưng là Phật , xin được giáo huấn và hướng dẫn cho họ cách trở thành Phật , vị Phật đó sẽ chỉ , nhưng với một thái độ không kiêu ngạo hoặc nghĩ rằng mình có địa vị cao hơn . Ngài chỉ hơi ngạc nhiên một chút , nhưng không có sự kiêu hãnh trong đó . Ngài sẽ tự hỏi : "Sao họ không biết rằng họ là Phật nhỉ ?" Đúng vậy , một vị Phật , hay bất cứ một vị Minh Sư nào , thỉnh thoảng chỉ có một chút cảm giác ngạc nhiên trong suốt thời gian giản pháp mà thôi . Khi Sư Phụ nói danh từ Phật , xin quý vị hãy hiểu rằng - Sư Phụ nghĩ là quý vị hiểu - Sư Phụ muốn nói đến Chúa , hay bất cứ Đấng Cứu Thế nào , bất cứ vị Minh Sư nào , ý chỉ vị Minh Sư chân chánh tại thế .
Sư Phụ đã dành rất nhiều thời giờ để đọc kinh điển về Phật giáo , cho đến bây giờ Sư Phụ cũng đọc thêm các kinh điển khác nữa . Khi còn nhỏ , Sư Phụ quen với các danh từ Phật giáo nhiều hơn và vì thế đôi khi Sư Phụ hay nhắc tới "Phật" hay "kinh Phật". Xin đừng hiểu lầm rằng Sư Phụ chỉ đứng bên Phật giáo , và không kính trọng Thiên Chúa giáo hay bất cứ những triết lý cao quý nào khác . Sư Phụ là đại diện cho tất cả , Sư Phụ kính trọng tất cả và Sư Phụ biết rằng tất cả đều hướng về cùng một chân lý . Nhưng chúng ta phải hiểu biết chân lý . Đó mới chính là điều quan trọng . Không những hiểu biết đường lối , mà chúng ta còn phải thật sự hiểu biết chân lý nữa . Cũng như đức Phật xưa đã từng nói , "Ngón tay ta chỉ mặt trăng , nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng". Ý Ngài muốn nói rằng giáo lý của Ngài , triết lý của Ngài cũng chỉ là con đường giúp những người khao khát tìm Chân Lý , chứ tự nó không phải là Chân Lý .
Vì vậy chúng ta không nên bám vào những triết lý đó mà bỏ mất việc đi tìm Chân Lý , Chân Lý này nằm bên trong chúng ta ; đó còn gọi là Phật tánh , Thiên quốc , hay Bản Lai Diện Mục .
Chân Lý này đang hiện hữu trong ta , nhưng giờ đây chúng ta phải tìm thấy điều này . Có một phương pháp để thực hiện điều này trong tích tắc và sau đó tiếp tục theo đuổi hàng ngày cho đến khi chúng ta phục hồi trọn vẹn Thiên quốc của chính mình .
Cách sống của hầu hết mọi người hiện nay chưa được xem là hoàn toàn đầy đủ , và cũng không có gì gọi là lý tưởng để đem tới hạnh phúc và trí huệ cho chính mình . Có rất nhiều đẳng cấp trong cuộc sống hiện thời của chúng ta . Đẳng cấp thứ nhất là đẳng cấp vật chất mà hầu hết mọi người hiện đang sống cuộc đời của họ . Ở đẳng cấp này , hầu hết chúng ta đều yêu thích những cảm giác lạc thú ; chúng ta thích ngủ , thích ăn ngon và thích tất cả những thú vui về vật chất . Chúng ta còn có khuynh hướng lười biếng . Chúng ta làm việc vì sự cần thiết trong cuộc sống , nhưng chúng ta không có lý tưởng , không chú tâm vào công việc làm của chúng ta . Sư Phụ chỉ nói đại cương về những đẳng cấp khác nhau thôi , xin quý vị đừng giận nhé . Được không ?
Đó là đẳng cấp vật chất . Chúng ta cảm thấy công việc làm thật khó khăn , chúng ta không muốn làm nhiều chỉ vì nó liên quan đến sự an toàn của chúng ta . Chúng ta không dễ gì chịu nhích ngón tay làm việc cho kẻ khác hay làm việc gì để đạt lợi ích cho nhân loại . Sư Phụ chỉ nói tổng quát thôi , vì nếu đi sâu vào chi tiết sẽ tốn rất nhiều thời giờ .
Đẳng cấp thứ hai là đẳng cấp tình cảm . Ở đẳng cấp này chúng ta rất quý trọng đến ý kiến của chính mình . Có thể nói rằng chúng ta quá độc đoán quả quyết : điều gì mình nghĩ cũng đều đúng , điều gì mình làm cũng đều phải , và chúng ta muốn tất cả mọi người khác phải làm theo . Ở đẳng cấp này chúng ta tìm thấy các nhà độc tài hoặc những nhà lãnh đạo phong trào cực đoan . Thật vậy , vì quá khích nên đời sống của họ có quá nhiều tình cảm . Điều này thật tốt nếu họ đi đúng đường . Nhưng ngược lại , nếu sai đường , họ không muốn sửa đổi và không chịu chấp nhận những sai lầm của họ , như vậy rất nguy hiểm vì họ không có sự uyển chuyển .
-
TÌM HIỂU VỊ MINH SƯ BÊN TRONG CỦA CHÍNH MÌNH ĐỂ NHẬN THỨC ĐƯỢC THƯỢNG ĐẾ
Một đẳng cấp khác nữa là chúng ta sống theo phán đoán của đầu óc vật chất . Sư Phụ rất tiếc phải nói rằng đầu óc chỉ là vật chất tầm thường . Đó là một loại máy tính điện tử , một loại máy tốt thu thập tất cả dữ kiện và phát ra một cách trung thành , không chút khôn ngoan và phán xét . Nếu chúng ta không có thêm sự thông minh của linh hồn , thì đầu óc chỉ là một cái máy tự động mà thôi . Phải , những điều Sư Phụ đang nói tới là cái máy tự động này - một đầu óc khai ngộ .
Khi người ta sống ở đẳng cấp mà đầu óc này đã trở thành một cái máy tự động , họ chỉ chú trọng đến họ mà thôi . Họ không cần biết những gì xảy ra trên thế giới , và họ cũng không sai khiến người khác phải làm việc cho họ . Nhiều người sống ở đẳng cấp này rất có thể tìm trốn nơi hang động hoặc chôn vùi trong một lý tưởng nào đó . Rồi họ dính cứng ngắc ở đó , không cần biết chuyện gì xảy ra trên thế giới , và họ cũng không muốn thay đổi thế giới hoặc thay đổi chính họ . Họ nghĩ rằng con đường của họ đã hoàn hảo lắm rồi .
Nhiều người lầm tưởng rằng đây là sự khai ngộ cao nhất , vì họ nghĩ họ không còn gì dính dáng với thế giới này nữa . Nhưng "làm mà không làm" là một đẳng cấp khác , không phải như vậy . Không phải chúng ta không cần thế giới và không làm gì cho thế giới . Sự khai ngộ vĩ đại không phải như vậy . Đây chỉ là một trong những tiến trình đi đến sự hoàn toàn khai ngộ . Dù sao , mỗi ngày chúng ta đều khai ngộ với những trình độ khác nhau . Khi chúng ta tranh đấu để tiến về chân lý , hàng ngày chúng ta có những thể nghiệm khác nhau để mở mang trí huệ cho đến ngày chúng ta đạt được đến đẳng cấp cao nhất . Cho nên , đó chỉ là một trong những đẳng cấp mà thôi .
Nếu chúng ta tiến đến đẳng cấp cao hơn một chút , chúng ta sẽ sống trong cái gọi là linh hồn , đẳng cấp tự tánh , đẳng cấp nhận thức tự tánh . Lúc đó chúng ta biết rằng chúng ta là linh hồn , chúng ta sống vì linh hồn , chúng ta thông minh là vì ánh sáng của linh hồn , chúng ta có tình thương , lòng từ bi , cảm giác ... bởi vì có sự chủ động của linh hồn đằng sau chúng ta . Ở đẳng cấp này chúng ta biết được nhiều điều , và chúng ta cố gắng bằng mọi cách , mang lại lợi ích cho thế giới , giúp đỡ thế giới và giúp đỡ cho chính mình được sống an lạc , hạnh phúc ,... Bất cứ điều gì chúng ta muốn đều với mục đích cao thượng cho nhân loại , chúng ta cố hết sức , chúng ta cố gắng hết sức mình để hoàn thành công việc và giúp đỡ người khác để họ có thể hoàn tất như chúng ta .
Đây là đẳng cấp của linh hồn , đẳng cấp nhận thức tự tánh , bởi vì lúc đó chúng ta nhận diện chúng at bằng linh hồn , chúng ta biết rằng chúng ta và linh hồn , "nguồn cội của cảm ứng", là một . Chúng ta không phải là thể xác này . Nhưng đó cũng chưa phải là đẳng cấp cao nhất , bởi vì lúc đó chúng ta vẫn còn ngã chấp để nhận ra rằng sự hiểu biết đó là vĩ đại , biết được "Ta và Cha ta là một". Cho dù chúng ta nói , "Ta và Cha ta là một", nhưng bởi vì vẫn còn "Ta" và "Cha ta", đó chưa phải là "một". Cho nên chúng ta thấy đó là điều trái nghịch .
Nhưng đừng cho rằng Sư Phụ chỉ trích Chúa Giê Su . Điều này không đúng . Ngài chỉ nói : "Ta và Cha ta là một", chỉ để mọi người hiểu mà thôi . Nhưng Ngài không phải như vậy , quý vị có hiểu không ? Ngài biết rằng Ngài là khác . Cho nên ở một đoạn khác Ngài nói : "Không phải Ta , mà là Cha ta làm". Quý vị có hiểu ý Sư Phụ không ? Ngài biết nhiều hơn "Ta và Cha ta là một", nhưng Ngài phải nói một điều nào , nếu không người ta sẽ không hiểu Ngài muốn nói gì .
Thật vậy . Khi một vị Minh Sư đến trái đất này , các Ngài phải tự hạ đẳng cấp của các Ngài xuống cho đồng với mọi người rồi mới từ từ nâng họ lên ; nếu không làm sao các Ngài có thể làm việc được ? Cũng như khi quý vị dạy một đứa trẻ , quý vị phải dạy em làm thế nào để viết chữ ABC và cũng cần nắm tay em giúp cho em viết . Quý vị dạy em những câu văn , mà quý vị không cần phải học nữa , nhưng quý vị vẫn phải đọc lên vì lợi ích của đứa trẻ .
Sau đẳng cấp nhận thức tự tánh này , chúng ta tiến lên đẳng cấp Thượng Đế , ý thức Thượng Đế hoặc nhận thức Thượng Đế . Thượng Đế không ai khác hơn là chúng ta , dù ở đảng cấp tự tánh chúng ta cũng chưa nhận biết được , vì chúng ta còn nghĩ rằng Thượng Đế là ở bên cạnh chúng ta . À , lời nói nghe có vẻ khôi hài , phải không ? Nghe giống như chủ thuyết vô thần , phải không ? Sư Phụ hy vọng là không . Thật khó giải nghĩa . Ồ , khó giảng nghĩa quá . Thôi được , hãy cố mà hiểu . Không phải là quý vị không hiểu nhưng điều này Sư Phụ khó có thể giảng nghĩa .
-
TÌM HIỂU VỊ MINH SƯ BÊN TRONG CỦA CHÍNH MÌNH ĐỂ NHẬN THỨC ĐƯỢC THƯỢNG ĐẾ
Đẳng cấp nhận thức Thượng Đế là chúng ta đang hòa trong đó . Chúng ta làm vì những điều phải làm mà không cần suy nghĩ , không cần phải nhận biết , và cũng không cảm thấy rằng chúng ta đang làm việc đó . Chúng ta là như thế , chúng ta chỉ là vậy . Chúng ta là tác giả của mọi điều , nguồn gốc của mọi thứ , của tất cả hành động và hậu quả , nhưng không dính dáng gì đến nghiệp chướng . Sư Phụ hy vọng là Sư Phụ đã dẫn giải khá tường tận , nhưng Sư Phụ vẫn nghĩ là chưa đầy đủ ; mặc dù Sư Phụ cũng chẳng biết nói gì thêm . Lát nữa quý vị có thể hỏi thêm để Sư Phụ biết quý vị hiểu ra sao , và có lẽ Sư Phụ sẽ được "khai ngộ" thêm về điều khai ngộ của quý vị , lúc đó Sư Phụ có thể giảng thêm nữa .
Cho nên , hầu hết mọi người đều sống ở đẳng cấp vật chất , tình cảm hoặc trí lý - cao nhất cũng chỉ đến đẳng cấp nhận thức tự tánh mà thôi . Phần đông chúng ta không có thể nghiệm về đẳng cấp Thượng Đế . Nhưng chúng ta có thể , mọi người đều có thể , vì chúng ta có Thượng Đế ở bên trong chúng ta . Trong Thánh kinh có nói rằng chúng ta là đền thờ của Thượng Đế , và Thánh Linh sống trong chúng ta . Có phải vậy không ? Thật vậy , "Thiên quốc ngự trong ta". Thiên quốc không phải đến qua sự quan sát - (có nghĩa là không do sự lý luận hoặc sự thông thái), không phải do sự bàn cãi hoặc nghiên cứu sách vở , kinh điển , nhưng do "Thiên quốc ở trong ta".
Vì vậy , phải biết điều này một cách trực tiếp , phải thể nghiệm điều này , có nghĩa là phải nắm giữ lấy điều này . Đó là lý do tại sao nhiều vị thiền sư nói : "Quý vị không cần kinh điển". Nghe qua có vẻ như vô thần , phải không ? Không tin tưởng nơi Thượng Đế , phải không ? Đôi khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni , có lẽ trong lúc mệt mỏi Ngài cũng nói : "Không có đấng Thượng Đế như vậy !" Thật vậy , không có Thượng Đế . Ngài không có ý nói là không có Thượng Đế ; mà là không có một đấng "Thượng Đế" như chúng ta tưởng tượng . Cho nên Ngài nói : "Không phải như thế này , không phải như thế kia , không phải như thế nọ ; không có đấng Thượng Đế như vậy !" Người ta bám vào câu đó mà cho rằng Phật không tin vào Thượng Đế . Nhưng điều này không đúng , không phải vậy ! Bởi vì ở một đoạn khác Ngài có nói : "Ta không nói có Thượng Đế hay không có Thượng Đế , nhưng ta nói rằng có một thứ mà tất cả mọi thứ đều đến từ đó và rồi cũng trở về đó". Cho nên quý vị hiểu ý nghĩa này rồi chứ , phải không ? Được rồi .
Chúng ta thường có khuynh hướng thích phân tích một hoặc hai câu nói của các tiên tri thời nào đó rồi phân loại họ , và cho rằng : "Ông ta là thế này , ông ta là thế kia , ông ta là thế nọ". Rồi chúng ta lập ra đủ thứ "giáo phái", đánh nhau chỉ vì "giáo phái". Ngay cả trong cùng một "giáo phái", cũng có sự bất đồng ý kiến , đôi khi đi tới tình trạng đánh nhau đến đổ máu . Đây là một việc đáng buồn . Các tiên tri hoặc các vị Minh Sư của bất cứ thời đại nào cũng không bao giờ muốn gây nên sự chia rẽ này . Sau khi chúng ta đã nhận thức được Thượng Đế , có thể chúng ta sẽ hiểu nhiều hơn là những điều chúng ta diễn tả bằng lời nói , nhưng lúc đó , có một cảm giác mà cho dù chúng ta không nói ra , mọi người cũng hiểu .
Ví dụ , nếu một vị Minh Sư có rất nhiều đệ tử , vị Sư Phụ này không thể thường xuyên đích thân chăm sóc từng đệ tử , bằng thân xác hoặc bằng lời nói ; nhưng nếu tất cả các đệ tử đều được khai ngộ , tất cả các đệ tử đều tự hiểu được và họ dần dần đạt đến trình độ của vị Sư Phụ . Tại sao ? Bởi vì chúng ta là Sư Phụ , chúng ta có Sư Phụ bên trong , chúng ta là "thế đó", chúng ta là Thượng Đế , chúng ta là Phật , tất cả chúng ta đều có Phật tánh bên trong . Một khi vị Minh Sư đã giúp chúng ta đánh thức được vị Phật bên trong , hoặc vị Sư Phụ bên trong chúng ta . Vị Sư Phụ bên trong sẽ chăm sóc mọi việc cho chúng ta , sẽ thức dậy làm việc sau bao nhiêu kiếp ngủ vùi mà không làm gì cả .
Khi chúng ta ở đẳng cấp vật chất , chỉ có thể xác làm việc . Thể xác đòi hỏi và làm việc . Thể xác ưa thích những thú vui nhục thể , nhưng điều này không dính dáng gì đến vị Sư Phụ bên trong . Ở đẳng cấp tình cảm , vị Sư Phụ bên trong cũng không điều khiển ; đấy chỉ là những thói quen tạo ra do đầu óc điều khiển , đó là tham vọng muốn làm bá chủ mọi người . Đầu óc là đẳng cấp lý trí , lý trí này phân biệt sự thật , chỉ huy thể xác phải làm gì ; phải sống trong hang động , phải thiền định , phải làm điều này , điều nọ , điều kia ; đó không phải là linh hồn , cũng không phải là Thượng Đế , và cũng chẳng phải là vị Sư Phụ .
Chỉ khi nào gặp được vị Chân Sư thì vị Sư Phụ bên trong mới nhận biết . Bởi vì tổng thống mới nói chuyện với một vị tổng thống và quốc vương thương nghị với một vị quốc vương . Một vị quốc vương không tìm bất cứ một vị bộ trưởng nào để bàn về tình hình quốc gia . Vị quốc vương cũng không thăm hỏi bất cứ nhân viên cảnh sát nào để thương nghị về những vấn đề quan trọng liên quan đến hai nước . Hiểu không ? Trừ trường hợp có liên quan đến hành chánh quốc phòng , còn nếu không thì vị tổng thống không có mặt ở đó , hoặc vị quốc vương cũng không cần ở đó .
Cho nên chỉ khi nào quốc vương đến thì vị quốc vương kia mới xuất hiện để gặp mặt , tiếp chuyện , thương lượng hoặc hoạch định với nhau những chương trình của các quốc gia hay toàn thế giới . Đó là sự quan trọng của việc gặp gỡ một vị Minh Sư . Đó là dịp để đánh thức Chân Ngã bên trong của chúng ta . Vị quốc vương chỉ nói chuyện với một vị quốc vương khác .
Cho nên chúng ta có thể theo nhiều phương pháp khác nhau , chúng ta có thể làm bất cứ việc gì chúng ta muốn , như ở ẩn một trăm năm trong hang động ,... nhưng chúng ta cũng không thể tìm được vị Minh Sư bên trong . Vì đó không phải là vấn đề của vị Sư Phụ , nên "ông ta" không chịu lộ diện . Ông ta chỉ chờ đúng cơ hội để gặp vị quốc vương , bởi vì ông là một vị quốc vương . Cho nên chúng ta tu thiền , chúng ta theo học nhiều vị được mệnh danh là "Sư Phụ", chúng ta tu mọi khổ hạnh , và cũng ăn chay , nhưng điều này cũng chưa đưa chúng ta đến đất Phật , đến ngai vàng của Thượng Đế . Chỉ khi nào gặp được một vị Minh Sư chân chánh , qua sự giúp đỡ của Ngài , vị Sư Phụ bên trong chúng ta mới được đánh thức , thì lúc đó chúng ta mới biết được chúng ta . Quý vị có hiểu sự khác biệt này không ?
-
TÌM HIỂU VỊ MINH SƯ BÊN TRONG CỦA CHÍNH MÌNH ĐỂ NHẬN THỨC ĐƯỢC THƯỢNG ĐẾ
Đúng vậy , khi chúng ta theo những phương pháp khác , chúng ta có thể gặt hái được những ích lợi khác nhau . Chẳng có phương pháp nào mà không có lợi ích , nếu không , người ta đã chẳng theo đuổi làm gì ? Ngay cả cầu nguyện mà không được hướng dẫn cũng có lợi ích , ngay cả đi nhà thờ , đi chùa , làm những việc thờ phụng , đi hành hương đều làm cho tâm của chúng ta được hướng thượng , và cảm thấy vui vẻ được làm những điều này . Thường thường chúng ta có cảm giác hãnh diện vì chúng ta mộ đạo , vì chúng ta là người ăn chay , vì chúng ta đi nhà thờ mỗi ngày , vì chúng ta đi hành hương ở Mecca ,... Nhưng điều này chỉ làm tăng sự ngã mạn , sự tự cao của chúng ta thôi . Thật là một điều đáng tiếc .
Nhưng may thay , linh hồn luôn luôn hiện hữu và biết rằng điều đó không sao cả . "Hãy để cho trẻ em thong thả chơi đùa , đến khi mệt mỏi rồi tự chúng sẽ tìm về với mẹ chúng". Hiểu không ? Đó là lý do tại sao các vị Minh Sư chân chánh không bao giờ vội vã , cũng không bao giờ níu kéo đệ tử . Họ rất bình thản , rất tự nhiên trong đường lối của họ , và người nào đã sẵn sàng thì tới với họ . Họ cũng không lo lắng gì nếu cả thế giới không muốn nghe những lời rao giảng của họ , hoặc có nhiều người chống đối họ , hoặc nếu mọi người không sống theo mẫu mực mà họ phải sống , bởi vì họ hiểu rằng các em nhỏ có đời sống của các em . Điều này không sao cả . Chỉ có điều là một ngày nào đó rồi các em cũng sẽ phải trưởng thành , và các em sẽ phải xử sự như một người trưởng thành .
Bởi thế , những vị mệnh danh là Minh Sư hay Phật từ ngàn xưa đã đến và trình bày cho mọi người những đẳng cấp khác nhau trong đời sống hoặc những tư tưởng khai ngộ , để cho mọi người có thể lựa chọn . Những người đã sẵn sàng về việc này sẽ chọn lựa . Không phải là vị Minh Sư nóng lòng , vội vã hay lo lắng cho thế giới ; nhưng điều đó không có nghĩa là Ngài không làm gì hết . Ngài làm mà không làm , như Lão Tử đã nói : "Làm mà không làm". Đây là đẳng cấp hoàn toàn khác với những người ở đẳng cấp lý trí , những người tự giam mình trong rừng sâu và không màng đến công việc thế gian .
Vị Minh Sư đến thế giới này để giúp đỡ những người cần được giúp đỡ , nhưng Ngài không thuộc về thế giới này , Ngài không bị thế giới này lôi cuốn ràng buộc ; Ngài cũng không bám víu vào thế giới này , cũng không chấp vào sự thành công hay thất bại của Ngài ở thế giới này . Quý vị đã thấy Chúa Giê Su đã làm . Trong thời gian huy hoàng nhất của Ngài , Ngài sẵn sàng chết , nếu đó là thiên ý . Bằng cái chết , Ngài đã dạy rất nhiều người về sự phục tùng , không bám víu vào sự vinh quang và sự sống , Ngài dạy chúng ta về thiên ý , Ngài dạy chúng ta nên luôn phục tùng theo thiên ý (ý chỉ của Thượng Đế).
Nhưng để phục tùng theo thiên ý , chúng ta cũng phải biết Thượng Đế ở đâu và Ngài muốn gì . Và để biết điều này , chúng ta phải đạt tới trình độ nhận thức được Thượng Đế như Chúa Giê Su và đức Phật đã có . Sau đó chúng ta mới có thể phục tùng và không còn các nào khác . Trước đó , chúng ta luôn luôn tranh chấp với chính chúng ta , với cái gọi là trí thông minh để có thể thay đổi được thế giới , hoặc khiến thế giới trở nên tốt đẹp hơn ,... Chúng ta làm với sự kiêu hãnh . Sau khi khai ngộ , chúng ta làm nhưng không làm ; chúng ta làm cả ngàn , cả triệu , cả tỷ việc mà chẳng cần nhấc một ngón tay .
Quý vị có thể tưởng tượng được thứ việc đó không ? Làm cả tỷ việc mà chẳng cần động đến một ngón tay ? Điều đó đã xảy ra . Không phải là chuyện đùa . Mặc dù Sư Phụ kể giống như một chuyện đùa , nhưng không phải . Đó là trạng thái thật sự của chân ngã và mỗi người chúng ta đều có khả năng này , có quyền sử dụng quyền năng này . Chỉ là chúng ta không biết cách mà thôi . Chúng ta quá bận rộn lo phát triển về phương diện khoa học , về phương diện văn hóa , về cơ khí mà không lo phát triển quyền năng vô hạn . Đó là lý do tại sao , lý do duy nhất khiến chúng ta không biết cách sử dụng quyền năng này .
Nhiều người nói với Sư Phụ rằng : "Nhưng chúng tôi đã làm , chúng tôi đã làm . Chúng tôi đã hết sức cố gắng để phát triển quyền năng vô hạn này". Họ nói với Sư Phụ , "Vâng , chúng tôi đã làm điều đó . Chúng tôi đi nhà thờ , đi chùa và niệm tên Thánh và lần tràng hạt hàng ngày . Chúng tôi ăn chay . Chúng tôi bắt ấn một ngàn lẻ một lần , chúng tôi tụng cả trăm câu chú trong nhiều năm trường . Chúng tôi đếm , chúng tôi còn đếm nữa ; chúng tôi còn có cả một cuốn sổ ghi nữa". (Mọi người cười). Đúng vậy . "Và chúng tôi lễ bái vị thần này , vị thần nọ bao nhiêu lần trong ngày . Chúng tôi hành hương trung tâm này , trung tâm nọ , chúng tôi thờ phụng kiểu này , kiểu nọ , chúng tôi bái và tế lể , và chúng tôi cũng thiền nữa . Ồ , chúng tôi cảm thấy chúng tôi rất đạo đức !".
Phải rồi , Sư Phụ cũng đã từng cảm thấy như vậy . Nhưng sau một thời gian , Sư Phụ cảm thấy mệt mỏi . Sư Phụ nghĩ là chưa đủ thỏa mãn sự mong mỏi thâm sâu bên trong của Sư Phụ . Chỉ sau khi Sư Phụ tu hành pháp môn gọi là "Quán Âm", là một pháp môn không pháp môn , "trực chỉ tới bản tánh tự nhiên của chúng ta", khiến mọi điều không còn gây phiền muộn cho Sư Phụ , mọi thứ đều tan thành mảnh vụn , và lúc đó Phật tánh mới lộ diện .
Mọi người đều biết như vậy . Có người đi theo các phương pháp khác nói với Sư Phụ , "Phải rồi , chúng tôi biết là phải trực chỉ chân tâm và chúng tôi biết chúng tôi là Phật . Chỉ vậy thôi . Rồi chúng tôi khai ngộ". Nhưng đây chỉ là lời nói và lập lại những gì các vị tổ thiền tông nói cả trăm năm hoặc ngàn năm về trước . Chúng ta không hiểu "trực chỉ chân tâm" là gì , chúng ta cũng không biết điều này là gì nữa . Chúng ta nghĩ rằng Phật tánh là những gì chúng ta có thể hiểu bằng lý trí , có thể sờ mó được , lý luận được , tưởng tượng được , nhưng điều này không phải như vậy . Đó không phải là điều mà mình có thể tưởng tượng , sờ mó , cảm nhận hoặc lý luận . Chúng ta phải tự chính mình thể nghiệm lấy .
-
TÌM HIỂU VỊ MINH SƯ BÊN TRONG CỦA CHÍNH MÌNH ĐỂ NHẬN THỨC ĐƯỢC THƯỢNG ĐẾ
Phật tánh giống như một kho tàng ánh sáng , và trong ánh sáng này chúng ta biết tất cả . Cũng như loài người dùng ngôn ngữ của loài người , loài thú dùng ngôn ngữ của loài thú để nói chuyện với nhau , Thượng Đế dùng ánh sáng với những tầng số chấn động khác nhau để dạy Thượng Đế bên trong chúng ta . Hiểu không ? Thượng Đế bên trong chúng ta không hiểu , không muốn hiểu và cũng chẳng cần hiểu thứ ngôn ngữ vật chất của thế giới bên ngoài chúng ta ; ngôn ngữ này không phải của Ngài . Cũng giống như loài thú không thể dạy con người phải làm gì với tiếng líu lo hoặc giọng hót của chúng . Quý vị hiểu không ? Chúng ta không cần tiếng đó , chúng ta đã có ngôn ngữ riêng của chúng ta . Chúng ta làm theo cách của chúng ta , mặc dù chúng ta yêu thích thú vật và thích nghe giọng hót của chúng hoặc những âm thành chào mừng của chúng nhưng chúng ta không cần chúng dạy chúng ta những âm thanh đó . Chúng ta không cần phải học để hiểu thú vật nữa . Phải không ?
Cũng tương tự như vậy ; Thượng Đế bên trong cần sự dạy dỗ trực tiếp của Thượng Đế , được thể nghiệm qua ánh sáng và sức chấn động . Đó là lý do vì sao phương pháp , phương pháp không phương pháp này được gọi là "Quán (quan sát) Âm (âm thanh , sức chấn động)". "Quán Âm có nghĩa là quan sát sức chấn động - sức chấn động bên trong , không phải bên ngoài . Đó không phải là sự chấn động mà chúng ta có thể nghe bằng tai hoặc thấy bằng mắt . Không , không , không . Chúng ta chỉ có thể hiểu biết được mà thôi . Một khi biết được , chúng ta biết liền đó là tự tánh của chúng ta , và những điều khác sẽ tự nhiên tới . Đó là lý do tại sao Thánh Kinh nói : "Hãy tìm Thiên Quốc của các ngươi trước , rồi tất cả mọi điều khác sẽ đến với các ngươi". Thiên quốc thể hiện qua ánh sáng , với những âm thanh vô cùng tuyệt diệu . Đi thật xa mà chúng ta có thể tìm tới bên trong để giác ngộ và dần dần tiến đến sự Tuyệt Đối .
Ánh sáng thể hiện từ nơi Tối Thượng để liên lạc với những linh hồn lạc lối trên thế giới này hoặc những thế giới khác , có nhiều tầng lớp khác nhau ; không phải vì ánh sáng thay đổi , mà là những đám mây ở các tầng lớp khác nhau tạo sự khác biệt , khiến cho nó có phẩm chất khác nhau . Cũng giống như ánh sáng mặt trời khi xuyên qua các lăng kính khác nhau hay khi chiếu xuống những nơi khác nhau , sẽ thấy khác nhau .
Chúng ta phải lắng nghe những diệu âm dạy dỗ của Thượng Đế , rồi từ từ nương theo đó để tiến tới chỗ tối thượng . Đó là khi chúng ta biết được Phật tánh , biết được Thiên quốc là gì . Nếu không chúng ta chỉ phỏng đoán và nghĩ rằng chúng ta đã biết . Chúng ta phải thật sự biết điều này ; chúng ta phải ăn miếng bánh , trước khi chúng ta có thể nói miếng bánh ngọt hay chua . Thứ kinh nghiệm này chúng ta có thể đạt được ngay tức khắc , bởi vì Thiên quốc ngự trong ta .
Mặc dù ở bên trong chúng ta , chúng ta cũng không biết được điều này , bởi vì vị vua sẽ không ra mặt khi không có vị vua khác mời ra để nói chuyện , hiểu không ? Cho nên , vị mệnh danh là Minh Sư là người đã đạt đến trình độ đó và có thể liên lạc được với trình độ cao nhất của chúng ta . Nếu không , Tự tánh cao nhất của chúng ta sẽ không chịu xuất hiện , vì biết rằng chỉ phí thì giờ vô ích mà thôi .
Đó là lý do tại sao chúng ta đã theo nhiều phương pháp , mà chúng ta cũng không cảm thấy thỏa mãn . Chúng ta biết rằng là vẫn còn có điều gì thiếu sót . Chúng ta biết Tự tánh vẫn chưa chịu xuất hiện vì còn thiếu đối tượng tương xứng . Cho nên khi chúng ta thấy Tự tánh của mình xuất hiện , chúng ta biết ngay là mình đã gặp được Tự tánh khác . Đó là cách nhận diện của một vị Minh Sư chân chánh ; nếu không , chúng ta không thể biết được . Bất cứ người nào cũng có thể dạy chúng ta cả trăm việc khiến chúng ta luôn luôn bận rộn . Chỉ là để tiêu khiển thời gian , chứ không phải để đi đến bờ giác ngộ , không phải sống cuộc đời cao quý nhất trong cuộc sống của chúng ta .
Cho nên nếu quý vị tin tưởng những gì Sư Phụ nói , quý vị có thể tập thử ; ngược lại nếu quý vị không muốn , quý vị cứ tiếp tục con đường của quý vị và hãy làm bạn với Sư Phụ , cho tới kỳ sau , có thể là hàng trăm năm hay hàng ngàn năm nữa , bởi vì quý vị vẫn còn muốn ngủ .
Có hai cách để nhận diện chúng ta ; một cách là hành động ngay lập tức , ngay bây giờ , và chấm dứt mọi học hỏi , chấm dứt tất cả mọi đau khổ nếu chúng ta nghĩ rằng thế giới này quá đau khổ và quá vô minh . Nếu chúng ta nghĩ rằng đời sống hiện tại không đủ thỏa mãn cho lý tưởng của chúng ta thì chúng ta phải làm ngay bây giờ trong kiếp này .
Cách thứ hai là cứ tiếp tục con đường hiện nay của chúng ta , và ngủ - bên trong ngủ ; linh hồn ngủ . Và chúng ta có thể tỉnh dậy vào lúc khác , có thể cả trăm hoặc cả ngàn năm sau , tùy theo chúng ta muốn ngủ bao lâu . Được không ? Sư Phụ nghĩ là Sư Phụ phải để thời giờ cho quý vị đặt câu hỏi , lúc đó Sư Phụ sẽ biết được những thắc mắc của quý vị và biết rõ quý vị hiểu như thế nào . Cảm ơn quý vị đã chú tâm lắng nghe . Sư Phụ cảm nhận được nguồn năng lực ủng hộ của quý vị . Cảm ơn rất nhiều .
-
NGUYÊN NHÂN CỦA CHIẾN TRANH
Thưa quý vị , hôm nay chúng ta hãy dành vài phút để cầu nguyện cho việc làm cao đẹp của quý vị , để quý vị hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh này , và để cầu nguyện cho nền hòa bình mà chúng ta đang cùng nhau thực hiện . Nào chúng ta hãy bắt đầu . Quý vị cầu nguyện theo cách của quý vị và nhắm mắt lại , câu thông với Thượng Đế bên trong của mình .
Xin cảm ơn quý vị . Sư Phụ rất lấy làm hân hạnh được hiện diện nơi đây , một nơi tốt đẹp nhất trên thế giới để nhìn thấy những người được chọn lọc và thông thái nhất của nhiều quốc gia .
Xin gởi lời chào mừng đến quý vị hội viên Liên Hiệp Quốc . Sư Phụ có nói với vị Chủ Tịch của chúng ta rằng Liên Hiệp Quốc có thể là cao quý nhất sau "sliced bread", và bà ta nói chưa hề nghe ai dùng "thành ngữ" này bao giờ . Sư Phụ nói rằng chưa hề dùng đến ngoại trừ đúng lúc , đúng nơi , vì Sư Phụ e rằng mọi người sẽ không hiểu , và cũng vì không hẳn có được nhiều điều tốt đẹp hơn "sliced bread". Nhưng Liên Hiệp Quốc thật sự là cao quý . Sư Phụ đã đọc vài báo cáo về công việc quý vị đã làm cho thế giới , và Sư Phụ cầu mong rằng Thượng Đế sẽ ban phước lành cho quý vị được đầy đủ sức khoẻ , lòng dũng cảm và sự sáng suốt để thực hành sứ mạng của quý vị .
Sư Phụ không có cảm giác đây là lần đầu tiên đến đây hoặc lần đầu tiên nói chuyện cùng quý vị . Sư Phụ cảm thấy rất gần gũi và thân thiện , xin quý vị hãy có cùng cảm nghĩ như vậy nếu chưa có cảm giác gì . Trước khi Sư Phụ đến đây , lúc còn ngồi trong xe , Sư Phụ chỉ mới nhắm mắt trong giây lát là đã nhìn thấy lối vào . Đúng vậy . Tại vì Sư Phụ có hỏi cô tài xế rằng : "Cô có biết lối vào không ?" Cô trả lời : "Dạ biết . Chúng ta đã sắp đến nơi , chổ đó nó như thế này thế nọ". Sư Phụ nghĩ đây là lần đầu tiên cô ta tới đây , cô ta có thể vào nhầm cửa . Sư Phụ nhắm mắt lại nghỉ ngơi trong chốc lát , và Sư Phụ nhìn thấy "Lối vào dành riêng cho khách". Có thể Sư Phụ đã tới đây rồi hoặc chúng ta đã từng tham dự những buổi hội thảo của Liên Hiệp Quốc từ những kiếp trước . Nào ai biết được ? Sư Phụ đã nhìn thấy lối vào khi còn ngồi trong xe , như vậy chắc không phải đây là lần đầu tiên chúng ta gặp nhau .
Lúc trước , có một vài nhân viên của Liên Hiệp Quốc đã mời Sư Phụ tới đây nói chuyện , khoảng 8 tháng về trước , lúc đó Sư Phụ không hề nghĩ đến việc tới đây . Khi được mời , Sư Phụ có trả lời : "Có thể . Để coi đã . Bởi vì Sư Phụ nghĩ rằng những người làm việc tại Liên Hiệp Quốc có thể có mục tiêu khác với Sư Phụ . Sư Phụ chuyên về vấn đề tâm linh , còn những người của Liên Hiệp Quốc có lẽ hoạt động về chính trị". Đó là những ý nghĩ "vô minh" của Sư Phụ lúc bấy giờ , xin quý vị tha lỗi cho . Sư Phụ còn nghĩ rằng những người làm chính trị có thể sẽ không thích nghe những gì Sư Phụ nói . Nhưng sau đó Sư Phụ nghĩ rằng mình không nên nghĩ như vậy . Vấn đề chính trị không phải là việc làm duy nhất của Liên Hiệp Quốc , họ làm việc vì lòng nhân đạo , cũng như đem lại hòa bình và những việc khác để cứu giúp thế giới , và họ cũng tu tập thiền định nữa , sau này Sư Phụ nghe nói như vậy . Rồi chiến tranh Trung Đông xảy ra , lại có nhiều chuyện về người tỵ nạn Âu Lạc và chính thể hiện hữu ở Âu Lạc cũng như có một số người tỵ nạn Âu Lạc không muốn bị hồi hương nên đã tự vận . Cho nên Sư Phụ thấy đã đến lúc Sư Phụ phải tới đây để tìm hiểu thêm về việc làm của quý vị và để chúng ta cùng nhau bàn bạc trong sự êm đẹp .
Chúng ta không thể để cơ quan Liên Hiệp Quốc một mình với gánh nặng và trách nhiệm , rồi ngồi đó mà phê bình . Mọi người phải có bổn phận cộng tác với Liên Hiệp Quốc , vì chúng ta đều là những công dân của thế giới . Không ai có quyền đứng ngoài nhìn Liên Hiệp Quốc làm việc , rồi phê bình hay chỉ trích việc làm của họ . Và đó là lý do hôm nay Sư Phụ đến đây . Sư Phụ có giúp được điều gì hay không , đây lại là vấn đề khác , còn tùy thuộc nơi Thượng Đế , nhưng ý của Sư Phụ là muốn đến với quý vị một cách chân thực .
Cho nên Sư Phụ đã đặc biệt nghiên cứu sách vở , và tài liệu của quý vị , những gì Sư Phụ có thể tìm được . Sư Phụ hy vọng cũng có thể tham gia vào Liên Hiệp Quốc , để trở thành một thành viên của Liên Hiệp Quốc , một phần tử vô hình , một người làm việc tình nguyện . Quý vị không thể từ chối Sư Phụ được vì Sư Phụ là một tình nguyện viên (Sư Phụ cười). Sư Phụ sẽ hiện diện nơi đây mãi mãi . Sư Phụ là hội viên vĩnh viễn . Quý vị không thể gạt bỏ một hội viên , quý vị không thể đuổi một hội viên tình nguyện làm việc mãi mãi . Vì vậy hôm nay Sư Phụ có mặt nơi đây , dù sao quý vị cũng có thêm một hội viên rồi . Quý vị có đón nhận hay không ? (Sư Phụ cười , có người trả lời : Bằng lòng). Xin cám ơn .
Có người đề nghị chúng ta hãy nói về đề tài chiến tranh và hòa bình , vì đó là vấn đề hiện nay của thế giới . Sư Phụ sẽ nói gọn về chiến tranh và nói dài về hòa bình . Như quý vị đã biết , mỗi chúng ta đều nghe nói chiến tranh nhưng chưa thật sự hiểu rõ nguyên nhân gây ra chiến tranh và làm cách nào để tránh được chiến tranh . Điều này nghe như truyện tiểu thuyết , hay một huyền thoại , nhưng chúng ta có thể thực hiện được . Chúng ta có thể tránh được chiến tranh . Bởi vì sau một thời gian , mọi người sẽ mệt mỏi với chiến tranh , dù thắng hay bại . Dù là những anh hùng nổi tiếng như A Lịch Sơn Đại Đế , Nã Phá Luân , Arjuna của Ấn Độ , cuối cùng rồi họ cũng mệt mỏi . Và chúng ta , những người hùng hiện đại , sẽ làm cách nào để không bị mệt và tránh được điều này ? Nếu quý vị muốn tránh , điều này không phải chỉ là ý muốn của chúng ta không thôi , mà còn là sự mong mỏi của Thượng Đế nữa . Chúng ta nên làm theo ý muốn của Thượng Đế ; và để biết được Thượng Đế muốn gì , chúng ta phải sửa soạn lời nói , hành động và tư tưởng để lắng nghe những gì Thượng Đế nói chứ không phải những gì chúng ta nói . Chúng ta luôn luôn cầu nguyện cho hòa bình , nhưng chúng ta không nghe Thượng Đế nói gì với chúng ta về phương cách tìm kiếm hòa bình . Cho nên chúng ta không biết cách tìm , mặc dù trong lòng mọi người chúng ta ai ai cũng muốn ngưng chiến và duy trì nền hòa bình trên thế giới .
-
NGUYÊN NHÂN CỦA CHIẾN TRANH
Ủy Hội Liên Hiệp Quốc là cơ quan đầu tiên lo lắng nhiều nhất về vấn đề chiến tranh , đã nổ lực duy trì hòa bình và luôn luôn thực hiện điều này kể từ ngày được thành lập . Sư Phụ thắc mắc không hiểu thế giới có được như ngày nay chăng nếu không có sự hiện diện của cơ quan Liên Hiệp Quốc . Tuy chúng ta vẫn còn chiến tranh , đói kém và khó khăn về tỵ nạn , nhưng nếu không có cơ Quan Liên Hiệp Quốc , Sư Phụ nghĩ rằng thế giới sẽ còn tệ hại hơn nữa , quý vị có hiểu không ? Quý vị không thể làm việc một cách hoàn hảo nếu không có sự hợp tác của nhiều quốc gia . Cho nên nếu chúng ta vẫn còn chiến tranh thì đó không phải hoàn toàn là lỗi của cơ quan Liên Hiệp Quốc ; còn phải kể đến những lý do chính trị và những vấn đề không thể giải quyết được , vì có những hội viên trên thế giới từ chối không hợp tác . Sư Phụ biết rằng rất khó khăn cho một tổ chức như cơ quan Liên Hiệp Quốc điều hành toàn thế giới trong khi có một vài phần tử đứng dậm chân tại chỗ , như những đứa bé , không chịu nghe lời mà chỉ làm theo ý muốn của họ . Với những thành phần này , Sư Phụ thấy làm tiếc cho họ . Công việc của cơ quan Liên Hiệp Quốc rất là khó khăn và tế nhị , đòi hỏi nhiều kiên nhẫn , mưu lược , và thế lực . Cầu xin Thượng Đế ban phước lành cho quý vị bất cứ lúc nào quý vị cần đến Ngài .
Trước khi A Lịch Sơn Đại Đế mất , ông có chỉ thị cho những người thân cận của ông rằng hãy để ông vào quan tài với hai bàn tay bỏ ra ngoài , mục đích muốn răng dạy những thế hệ sau rằng đừng gây chiến tranh , đừng tích lũy tài sản , bởi vì khi chết không mang theo được gì cả . Nhưng nghe nói có vài hội viên , vài "công dân của thế giới" hoặc vài quốc gia không hiểu trọn vẹn bài học này . Chúng ta hy vọng họ sẽ hiểu .
Những người gây chiến tranh thường là những người quá bảo thủ , họ nói chuyện từ trong phòng riêng , từ ghế sofa , nhưng không đối diện với hiểm nguy ngoài chiến trường . Cho nên họ đem sự tệ hại này đến cho người khác , gồm cả dân chúng của họ , bởi họ không thật sự cảm nhận được sự nguy hiểm của chiến trận và sự đau khổ khi bị thương hoặc thiệt hại bởi sự vô tình của chiến tranh .
Khi Nã Phá Luân của nước Pháp đứng trên trận chiến giữa Pháp và Áo , ông rất xúc động và đau đớn bởi những tai biến . Có khoảng hơn mười lăm ngàn quân lính của hai bên đã tử trận . Lúc đó ông đã viết một bức thơ tuyệt vọng đến vua Áo nói rằng : "Chúng ta hãy sống hòa bình , hãy ngưng chiến tranh". Ông còn viết thêm rằng : "Ngài không tham dự trận chiến như tôi , nên Ngài không có cái cảm giác khi đứng trước mười lăm ngàn xác chết xung quanh Ngài , và mỗi ngày phải chứng kiến sự đau đớn của quân lính . Chưa hết , còn những người ở lại thì sao ?" Đúng vậy , Sư Phụ nghĩ rằng đa số quý vị đã xem qua cuốn phim "Born on the Fourth of July" Sinh vào ngày Độc Lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ) và quý vị hẳng biết sự việc như thế nào rồi . Còn có những hậu quả về sau này , không phải chỉ có những hậu quả ngay lúc đó .
Có một đài truyền hình đã phỏng vấn Sư Phụ khi Sư Phụ đang ở tiểu bang Texas , hỏi rằng : "Chiến tranh tốt hay xấu ? Chúng ta những người tu hành , có nên đến những nơi có chiến tranh như ở miền Trung Đông hay không ?" Sư Phụ trả lời : "Chúng ta nên tìm cách ngăn chận nguyên nhân , không phải ngăn chận hậu quả , vì đã trễ rồi . Nếu chúng ta không muốn ăn cam , chúng ta đừng trồng cam , hoặc ít ra chúng ta cũng đừng tưới nước vào cây cam , hãy nhổ chúng lên khỏi mặt đất khi chúng còn nhỏ . Nhưng có vài người , không hiểu vì lý do gì , lại thích nuôi dưỡng chiến tranh , quý vị có thể hiểu rõ điều này hơn Sư Phụ . Đôi khi có người nói với Sư Phụ : "Chúng tôi phải chăm sóc dân chúng của quốc gia mình , nên chúng tôi phải gây ra chiến tranh để thu lợi cho quốc gia chúng tôi". Điều này thật tốt , đứng về khía cạnh của một công dân biết yêu nước , nhưng trên đường trường và đứng về khía cạnh tâm linh , đây là một sự thiệt thòi , vì sau này nghiệp chướng phải tới . Nghiệp chướng là kết quả của việc mà chúng ta đã làm . Trong Thánh Kinh có nói : "Gieo nhân gì sẽ gặt quả nấy". Nếu nhân không tốt thì quả cũng không tốt . Nếu chúng ta muốn kiếm tiền , ham danh lợi hoặc nuôi dưỡng một nhóm người hoặc một quốc gia từ mối lợi chiến tranh , sau này chúng ta sẽ gặt quả báo và chúng ta sẽ là nạn nhân . Chúng ta không thể trồng hạt cam mà được trái táo , đây là luật thế gian . Ngày nào chúng ta còn sống trên thế gian , chúng ta còn phải tuân theo luật lệ của thế gian . Không ai có thể tránh được , ngay cả đức Phật hoặc đức Chúa , huống chi chúng ta chỉ là những người bình thường .
Do đó , những người gây chiến tranh là những người chưa đọc cuốn Bhagavad Gita giáo lý của Phật giáo về nghiệp chướng . Và có thể họ cũng không hề để mắt trên Thánh Kinh về câu : "Gieo nhân gì gặt quả ấy".
Ngày xưa , khi đức Phật còn tại thế , Ngài có kể một câu chuyện rất là hào hứng thích thú về nguồn gốc của chiến tranh , nguyên nhân thế này . Từ thời xa xưa , xưa thật là xưa , từ khi con người mới bắt đầu xuất hiện trên trái đất , thì nguyên nhân của chiến tranh , mầm móng của chiến tranh đã có rồi . Vì vậy , ngày nay những gì mà chúng ta có chỉ là hậu quả , một hậu quả triền miên liên tục và không thể tránh khỏi .
-
NGUYÊN NHÂN CỦA CHIẾN TRANH
Câu chuyện như thế này : Lúc khởi thủy , sau khi trái đất của chúng ta bị hủy diệt , thế giới không còn gì cả . Mọi người đều đi đến những nơi khác nhau tùy theo sự chọn lựa của mỗi người và sự ước muốn của họ khi còn sống trên trái đất . Có người được gởi đến một nơi kinh hoàng hơn , có người ngủ một giấc thật dài , có người đi đến thiên đàng . Đa số những người có đức hạnh đã đến một nơi gọi là thế giới "Quán Âm". "Quán Âm" này không có liên hệ gì đến Pháp Môn Quán Âm của chúng tôi đâu . Chỉ là một nơi mang tên "Quán Âm". Rồi mọi người sống nơi đất Thánh này một thời gian lâu thật lâu . Sau đó trái đất này hình thành . Lúc đầu nó chỉ là một nơi âm u , và cũng không thể ở được . Rồi sau một thời gian cũng thật lâu , quý vị có thể tưởng tượng là tỷ tỷ năm sau , trái đất bắt đầu hình thành .
Rồi từ từ , những người đầu tiên của thế giới "Quán Âm" xuất hiện trên trái đất này . Vào lúc đó , trái đất không có người lãnh đạo , không có ai và không có gì hết . Rồi một trong những người sống ở thế giới cao hơn đó nhìn xuống trái đất thấy hoàn toàn trống vắng , nhưng ghế lãnh đạo thì đã sẵn sàng , dó đó ông ta xuống ở . Đó là người đầu tiên , mà chúng ta gọi là Brahma . Đây là câu chuyện mà đức Phật kể lại , chứ không phải tự Sư Phụ đặt ra đâu nhé !
Nhưng đột nhiên ông ta cảm thấy cô đơn , như vậy là không tốt , cho nên ông ta mới nghĩ rằng : "Tôi cầu mong có nhiều người đến sống với tôi". Và những người từ thế giới Quán Âm đến với ông ấy . Gọi là Quán (ánh sáng) Âm (âm thanh) vì những người sống ở thế giới này được nuôi dưỡng bằng ánh sáng và âm thanh . Họ không cần thực phẩm như chúng ta .
Rồi có nhiều người xuống trái đất này để định cư . Nhưng khi họ xuống đây , họ sống trong ánh sáng và có hào quang xung quanh . Họ có thể bay đến những nơi họ muốn đến , và hiện hữu ở khắp mọi nơi . Họ không cần xe hoặc bất cứ phương tiện chuyên chở nào , cũng không cần ngôn ngữ mà vẫn hiểu nhau một cách tốt đẹp . Họ rất tự tại và sống trong vòng hào quang của họ , thật lâu dài , từ hàng tỷ ức năm . Rồi trái đất càng ngày càng trở nên vững chắc hơn , đẹp đẽ hơn , dễ nhìn hơn , và sáng chói hơn .
Một ngày kia , có vài người trong nhóm dạo chơi trên bờ biển và nhìn thấy một vài miếng bọt biển . Miếng bọt biển này trông thật đẹp mắt , sáng lấp lánh và có mùi thơm dễ chịu . Mùi thơm tỏa ra từ miếng bọt biển đang trôi bập bền trên mặt nước . Có người tò mò , nhặt lên nếm thử . Trước tiên họ ngắm nghía miếng bọt biển mà họ chưa từng thấy bao giờ ; họ nghĩ rằng họ không cần ăn . Họ cũng không nghĩ rằng có một loại thực phẩm ngon miệng như vậy , cho nên họ tiếp tục ăn , ăn càng nhiều thêm . Và từ từ , người nào cũng biết đến miếng bọt biển đẹp mắt có mùi thơm và ngon miệng đó , mọi người đổ xô đến để nếm thử . Càng ăn họ càng trở nên nặng nề , diện mạo cũng thay đổi , lực lượng của họ cũng đổi khác và từ từ họ không thể bay xa được nữa . Rồi hào quang bao quanh người họ càng ngày càng thâu nhỏ lại , màu sắc trông thô kệch hơn , nhưng họ lại không cảm nhận được điều này . Dù sao thì cũng đã quá chậm trễ để thay đổi , vì miếng bọt biển đó quá ngon . Càng ăn họ càng thích , và họ không thể ngừng ăn miếng bọt biển đó được nữa . Sau khi mọi người đều đã dùng qua miếng bọt biển này , bọt biển cũng không còn vì có quá nhiều người ăn .
Rồi lại có loại thực phẩm khác xuất hiện trên trái đất , một loại lúa mọc trên mặt đất mà mọi người có thể hái và ăn được . Đó là loại lúa bò sát trên mặt đất . Mọi người cũng thích ăn loại lúa này vì không còn bọt biển nữa , và họ bắt đầu dùng thử lúa . Những hạt lúa cũng thơm ngon . Cho nên họ bắt đầu ăn lúa , mọi người đều ăn . Càng ăn , thân thể và trí óc của họ càng trở nên thô kệch . Họ không còn bay được nữa . Thân xác họ trở nên tệ hại hơn . Lúc trước trông họ đẹp đẽ và có hào quang , nay nhìn họ thô kệch hơn và có âm thanh phát ra từ miệng . Trước kia họ không cần dùng đến lời nói , hay họ phải nói để người bên cạnh hiểu ý họ muốn gì . Dù chỉ là một vài âm thanh bập bẹ nhưng vẫn là âm thanh . Họ không thể nhịn ăn được nữa . Bây giờ họ như những người nghiện ăn . Họ cho rằng ăn rất tốt nên họ tiếp tục ăn .
Sau đó , việc khác lại xảy ra . Hạt lúa xinh đẹp không còn ở đó nữa , và họ phải đi vòng quanh tìm vật khác để ăn . Và quả đất lại sanh ra một thứ khác , giống như là gạo và lúa mì . Nhưng những thứ này lại mọc bên ngoài , trên những cánh đồng . Từ nơi trú ngụ , họ phải đi bộ một quảng đường dài để lấy mang về nhà . Những thức ăn này không có sẵn ở mọi nơi như lúc trước , cho nên họ phải đi lấy mang về nhà để ăn , và mọi người lấy vừa đủ dùng trong một ngày . Nhưng dần dần con người lại bắt đầu làm biếng và nói rằng : "Tại sao tôi phải ra đồng mỗi ngày để lấy về những gì tôi cần ? Nếu tôi có thể lấy luôn cho hai , ba ngày thì tôi khỏi phải đi mỗi ngày". Rồi họ lấy đủ ba ngày . Những người hàng xóm thấy vậy cũng bắt chước . Một số người tham lam hơn lấy cho mười ngày , và vài người khác lấy cho đủ hai mươi ngày .
Dần dần , số lượng lúa bị giảm sút bởi vì mọi người đều lấy về phần ăn nhiều hơn họ cần . Sau một thời gian , bắt đầu có sự phiền toái vì những người có quá nhiều lại sợ những người không có sẽ đến đánh cắp , hay làm gì đó . Cho nên một hội đồng được thành lập để giải quyết những việc xích mích và ban bố luật lệ . Đó là chính quyền đầu tiên trên thế giới - cũng là bởi vì ăn uống , chớ không vì điều chi tốt đẹp cả . Rồi họ phân chia đất đai ra làm nhuều mảnh ; mảnh đất này của ông nọ , mảnh đất khác của bà kia , và không ai được xâm phạm .
-
NGUYÊN NHÂN CỦA CHIẾN TRANH
Càng ăn những thực phẩm này , họ càng trở nên thô kệch , và thân thể bắt đầu thay đổi . Có người đổi thành hình dáng đàn bà , có người đổi thành hình dáng đàn ông - cho nên mới có đàn ông và đàn bà ngày nay . Trước kia không có hình dáng gì cả , mọi người đều hoàn toàn giống nhau , cùng nhau chung sống trong sự cao đẹp và tình thương . Không có sự hấp dẫn lẫn nhau về hình dáng bên ngoài . Nhưng sau khi họ ăn những thức ăn này quá nhiều , bắt đầu sanh ra ẩu đả , ăn cắp , tranh chấp , và hoàn cảnh bắt đầu thay đổi . Con người bắt đầu nhìn nhau bằng ánh mắt háo kỳ và lôi cuốn .
Những người ăn ít thì vẫn còn xinh đẹp , nhưng những người ăn nhiều thì trở nên xấu xí hơn . Người xấu theo đuổi người đẹp . Những người xinh đẹp là đàn bà . Có lẽ vì chúng tôi ăn ít (Sư Phụ cười). Vì thế , cho đến bây giờ đàn bà cũng còn được gọi là phái đẹp . Thế rồi đàn ông bắt đầu theo đuổi đàn bà vì họ xinh đẹp hơn . Mọi người đều thích vẻ đẹp , và đàn bà thích tự trang điểm , chỉ vì trong tiềm thức , họ còn nhớ là họ rất đẹp đẽ , hoặc họ biết rằng con người thật của họ vốn rất xinh đẹp . Cho nên , dù có được một hình dáng ra sao ở trên thế giới này , họ cũng không vừa lòng . Và những người đàn ông cũng vậy , cho dù vợ của họ có đẹp cách mấy , họ vẫn thích ngắm nhìn những người đẹp khác . Bởi vì họ còn nhớ đến những ngày xa xưa mọi người đều rất đẹp đẽ , còn đẹp hơn vợ của họ bây giờ nữa . Cho nên họ không thể nào thỏa mãn bằng cách chỉ nhìn ngắm một người đẹp mà thôi . Đây là nguyên nhân của sự bất trung . Không phải vì họ xấu , mà chỉ vì đó là bản chất tự nhiên bên trong mỗi chúng ta .
Cho đến sự tham lam và ham mê sắc đẹp , ưa tích trữ tiền bạc và của cải , đều từ nguồn gốc cao quý của chúng ta , đã từng ở tại một thế giới huy hoàng , nơi mà mọi thứ đều ê hề , mọi vật đều đầy rẫy , không cần phải hỏi xin . Chúng ta đều có những gì cần thiết mà khỏi cần phải hỏi đến , và bản thân chúng ta rất lộng lẫy và rực rỡ . Vì vậy chúng ta mới còn ham mê những ngọc ngà châu báu sáng chói và thích tự trang điểm , thích đàn ông đẹp , đàn bà đẹp , và muốn có đời sống xa hoa , lộng lẫy . Đó là vì chúng ta đã có đầy đủ trong quá khứ rồi , và bây giờ chúng ta vẫn còn nhớ . Cho nên chúng ta mới tìm đủ mọi cách để lấy lại , càng nhiều càng tốt , tùy theo khả năng của bản thân . Cho nên những thói quen tật xấu trong con người xuất phát từ một căn nguyên cao quý . Biết như vậy , chúng ta sẽ cảm thấy tội nghiệp mình hơn là tự trách mắng , hoặc gán tội cho những người đàn ông hay đàn bà theo đuổi sắc đẹp hoặc tiền bạc .
Một khi chúng ta hiểu điều này sau khi tu hành , chúng ta sẽ xả bỏ những sự ham muốn này . Chúng ta vẫn có những thứ ấy , nhưng chúng ta không còn ao ước , chúng ta sẽ dùng những gì chúng ta có và cảm thấy thỏa mãn , chúng ta sẽ không còn làm nô lệ cho chúng , không còn ao ước , không dùng mọi cách để chiếm hữu , tạo ra chiến tranh chỉ vì vật chất . Sau khi chuyện này xảy ra , con người khởi sự theo đuổi và bắt đầu hấp dẫn lẫn nhau . Họ bắt đầu sống thành đôi . Và rồi người khác nhìn vào không hiểu tại sao lúc trước không có chuyện này . Họ thắc mắc tại sao một người lại làm như vậy với người khác . Cho nên con người cảm thấy xấu hổ nên mới rời khỏi những nơi đông dân và xây dựng những hang động , chòi riêng để ở . Từ đó những căn nhà bắt đầu mọc lên và phòng ở riêng rẽ bắt đầu thành hình .
Đó là những việc xảy ra và cũng là lịch sử của loài người , theo lời của đức Phật . Nếu quý vị có trách thì trách Phật . Đừng nói với Sư Phụ , Sư Phụ không biết chuyện này là thật hay giả . Sư Phụ không có ở đó (Sư Phụ cười). Sư Phụ cũng không biết là Sư Phụ có ở đó hay không . Chuyện lâu quá rồi , và Sư Phụ đã quên mất rồi . Có thể Sư Phụ ở đó , nhưng lâu lắm rồi , hàng tỷ tỷ ức năm . Ai mà nhớ cho được ? Ai lại muốn ngồi đó nhớ , phải không ? Hiện nay chúng ta còn nhiều chuyện để làm , như chiến tranh Trung Đông và tỵ nạn Âu Lạc và nhiều chuyện khác nữa .
Tiếp sau đó , vì người ta bắt đầu xây nhà cửa , tích trữ cho chính họ và phân chia đất đai , hoàn cảnh càng trở nên tại hệ hại . Có nhiều người siêng năng cần mẫn , trồng trọt rất nhiều và thu hoạch rất khá , nhưng lại có những người khác làm biếng hơn thì đến ăn trộm . Thế là khởi sự chiến tranh . Và cứ tiếp tục xảy ra như vậy cho đến bây giờ , bởi vì người có nhiều , kẻ lại có quá ít . Người có nhiều không muốn chia xẻ với người có quá ít . Người có nhiều , do sự siêng năng chăm chỉ làm việc , khinh rẽ những người không có bởi vì họ làm biếng , hoặc có lẽ kém may mắn hơn .
Vì thế , Phật kết luận rằng nguyên nhân của chiến tranh là thiếu lòng chia sẻ giữa con người với nhau , đến từ sự tham lam bên trong chúng ta . Có những người chỉ thích gom góp riêng cho mình , không chừa cho người khác . Thời nay , các khoa học gia phân tích và nghĩ rằng nguyên nhân gây ra chiến tranh là từ nạn đói . Có nhiều nước bị đói và có nhiều nước lại dư thừa , nghe nói như vậy . Nhưng không phải vậy , chúng ta không phải có quá nhiều . Chỉ vì chúng ta dùng không đúng và phung phí .
-
NGUYÊN NHÂN CỦA CHIẾN TRANH
Những khoa học gia cũng có những nghiên cứu khác . Ví dụ , có một người ở Toronto , có nhà hàng chay , đọc tờ báo về ăn chay , nói với Sư Phụ rằng , theo thống kê , nếu tại vùng Bắc Mỹ mỗi người có thể ăn chay một bữa trong một tuần , thì chúng ta sẽ có đủ thực phẩm để cung cấp cho mười sáu triệu người mỗi năm . Sư Phụ nghe giật mình hỏi : "Sao có thể như vậy ?" Nhưng sự thật là thế . Không phải vì sự ăn uống mà vì nhiều khía cạnh khác liên quan đến việc biến chế thịt đã làm phí rất nhiều tài sản của con người , và chính là nguyên nhân gây ra nạn đói tại nhiều quốc gia . Chẳng hạn như đất đai thay vì được cày cấy trồng trọt ra thực phẩm thì phải dùng nuôi súc vật bò heo , hoặc cần có nhiều thực phẩm và chất đạm , thuốc men , sự chuyên chở , và nước để nuôi một con bò ; và những thứ này cũng đến từ các quốc gia chậm tiến nữa . Những chất đạm và thực phẩm này có thể cung cấp và phân phát ra bằng cách khác , dùng để nuôi dưỡng cả thế giới thay vì cho bò ăn , rồi ăn lại bò - ăn gián tiếp như vậy .
Vì vậy ngày nay người ta tin tưởng rằng ăn chay có thể giúp ích cho cả thế giới và giảm thiểu rất nhiều chiến tranh . Sư Phụ cũng không phản đối ý kiến này . Có lẽ trong tương lai rất gần chúng ta nên làm thử , ít nhất để biết công dụng như thế nào , rồi mới chỉ trích . Nhưng Sư Phụ tin tưởng rằng sẽ có kết quả , với điều kiện mỗi chúng ta ủng hộ và cố gắng hợp tác . Từ thuở ban sơ , không phải ai trong chúng ta cũng hợp tác bởi vì ai cũng muốn làm chủ . Trong một đường hướng riêng , trong một hoàn cảnh riêng nào đó , chúng ta lúc nào cũng thích làm chủ . Tại sao vậy ? Cũng không phải là xấu lắm . Đó cũng là nguồn gốc cao quý , lúc xa xưa chúng ta đã có quyền lực , chúng ta đã từng là thiên thần , đã từng là thánh nhân . Chúng ta đã ở trên thiên đàng , nơi mà tất cả đều dưới quyền hành của chúng ta . Bây giờ , chúng ta đã lạc lối và rơi xuống thế giới vật chất này , mất đi gần hết lực lượng , nên chúng ta rất khao khát có lại những quyền lực này . Nhưng mà sự việc lại khác đi , chúng ta đã khát vọng và đi tìm lại lực lượng đó không đúng cách , nên chúng ta thay vì tìm thấy lại số lượng đã mất thì chúng ta chỉ nhận được những sự thảm hại mà thôi . Chỉ đơn giản vậy đó .
Cách duy nhất để lấy lại lực lượng là sự thanh tịnh hóa chính mình , câu thông với Thượng Đế . Chính Sư Phụ đã làm như vậy và Sư Phụ có thể khẳng định rằng Sư Phụ đã thành công , trong một mức độ nào đó . Đây không phải là những lời rỗng tuếch Sư Phụ nói với quý vị mà là từ kinh nghiệm . Nếu quý vị muốn thử thì rất tốt . Quý vị có thể cố gắng tự tìm lấy con đường cho mình , hoặc có thể tìm một người quý vị nghĩ rằng có đủ trí huệ , đủ kinh nghiệm , chỉ dẫn cho quý vị để quý vị tìm lại lực lượng của chính mình . Một khi chúng ta đạt được lực lượng đó , chúng ta sẽ có tất cả . Nhưng dù chúng ta không có tất cả đi nữa , thì chúng ta cũng cảm thấy mãn túc . Là như vậy đó . Không phải chúng ta sẽ có cả thế giới trong tay , nhưng chúng ta thỏa mãn với những gì chúng ta có , và chúng ta sẽ không thèm muốn những gì người khác có . Chúng ta sẽ không bị ràng buộc quá nhiều vào vật chất của thế giới này , nhưng chúng ta lại có rất nhiều . Thật sự là như vậy .
Thánh Kinh có nói : "Trước tiên hãy tìm lại Thiên quốc và tất cả mọi mọi thứ khác đều đến với chúng ta". Sư Phụ thấy câu này đúng thật . Đó là sự thật . Và trong kinh Phật , ví dụ trong Kinh Lăng Nghiêm có nói rằng : "Sau khi chúng ta tu hành Pháp Môn Quán Âm và câu thông được với Phật tánh bên trong , những chuyện của thế tục sẽ được thuận lợi , và chúng ta cũng sẽ đạt được mọi điều mong muốn". Sư Phụ phát hiện quả thật như vậy .
Cho nên tất cả kinh điển đều nói giống nhau . Quý vị có thể tìm thấy rất nhiều ví dụ khác trong kinh Ấn Độ hoặc kinh Do Thái ... Vì thế chúng ta thường nghe nói rằng những người giàu có là được ân điển của Thượng Đế . Điều này có thể là đúng trong một khía canh nào đó , nhưng sự giàu sang trên cõi đời này không phải lúc nào cũng là dấu hiệu ân điển của Thượng Đế . Điều này chỉ chứng tỏ rằng chúng ta là một người sống có đạo đức trong tiền kiếp , trước khi đến nơi này , chỉ vậy thôi . Ân điển của Thượng Đế đến trực tiếp , có thể đạo đức cũng không cần một khi chúng ta đã câu thông được với lực lượng của Thượng Đế .
Để kết luận , Sư Phụ cần phải nói cho quý vị biết Thượng Đế là gì . theo Thánh Kinh của Thiên Chúa giáo , Thượng Đế là "Word" (Âm Thanh). "Bắt đầu có vũ trụ đã có Âm Thanh . Âm Thanh ở cùng với Thượng Đế , Âm Thanh là Thượng Đế". Âm Thanh đó chúng ta gọi là "Âm", Chấn Động lực , hoặc là Đạo , Phật tánh , theo từ ngữ của Phật giáo hay là luồng Âm lưu theo ngôn ngữ của Ấn Độ Giáo . Một khi chúng ta được câu thông với cái gọi là Âm Thanh này , nghĩa là chúng ta được câu thông với Thượng Đế bởi vì Âm Thanh này chính là Thượng Đế . Thượng Đế không phải là một hình dáng với râu dài hoặc với cây gậy , đứng đó sai bảo chúng ta . Thượng Đế là lực lượng , một dòng điện với tình thương mà chúng ta có thể dùng để điêu khắc thành đời sống , và mọi vật đều có được sự sống từ phẩm chất sáng tạo này . Cho nên đối với những ai đã được câu thông với Thượng Đế , những gì họ mong muốn đều trở thành sự thật , và những người chưa được câu thông với Thượng Đế , không cần biết họ cầu nguyện bao lâu , cũng chẳng có gì đến với họ bởi vì họ không biết họ đang nói với ai . Nếu chúng ta muốn nói chuyện với một người bạn mà điện thoại lại không cắm dây hay là chúng ta ở quá xa điện thoại , nếu chúng ta không cầm lên , thì làm sao có thể nói chuyện với bạn , với cảnh sát , hay người nào đó ? Cho nên trước tiên chúng ta phải câu thông , rồi sau đó mới ước ao . Thế nào , hình như Sư Phụ đã nói quá nhiều rồi , hay là chưa ?
-
NGUYÊN NHÂN CỦA CHIẾN TRANH
Sư Phụ hiện đang du hành trong chuyến hoằng pháp khắp nơi trên nước Mỹ , và lần trước khi Sư Phụ từ giã để đến hội nghị Liên Hiệp Quốc , đệ tử của Sư Phụ có kể một câu chuyện về thể nghiệm thần kỳ của họ . Chẳng hạn như lúc phi cơ sắp cất cánh , một vị đệ tử bị bỏ lại , người ấy cầu nguyện , và phi cơ đã quay trở lại rước .Thật vậy ! Sư Phụ nói là Sư Phụ không tin , nhưng họ nói : "Thật mà . Chúng con tất cả đều đến được đây !" Sư Phụ và các đệ tử thường hay nói đùa như vậy . Sư Phụ nói là Sư Phụ không tin , nhưng Sư Phụ biết chắc đó là thật . Cho nên Sư Phụ mới nói với họ : "Được rồi , bởi vì quý vị cầu nguyện quá linh ứng , quý vị nên cầu nguyện cho người khác . Quý vị không nên lúc nào cũng chỉ cầu nguyện cho mình mà thôi . Vì đó là ích kỷ". Họ hỏi Sư Phụ rằng : "Chúng ta nên cầu nguyện cho ai ?" Và Sư Phụ trả lời : "Chẳng hạn như cầu nguyện cho hòa bình tại Trung Đông , hoặc cho những người tỵ nạn Âu Lạc đang mơ ước được gia nhập vào đời sống và trở thành công dân của các quốc gia khác". Họ trả lời : "Vâng , chúng con không ngại cầu nguyện cho họ , nhưng mà họ ở quá xa ; nghiệp chướng quá nặng nề . Chúng con không biết câu nguyện cho họ có được không".
Nghe họ nói như vậy , Sư Phụ chợt nghĩ lại cũng đúng , tại vì những người tỵ nạn Âu Lạc còn chưa câu thông được với Thượng Đế . Và những người mà Sư Phụ gọi là "đệ tử" đó - thật ra Sư Phụ muốn gọi họ là "bạn", nhưng sợ quý vị không hiểu cho nên mới gọi là "đệ tử" - họ đã được câu thông với Thượng Đế nên những gì họ cầu xin đều được toại nguyện .
Cho nên không hẳn là chúng ta không muốn cầu nguyện cho chính mình hoặc cho người khác , nhưng vấn đề là phải biết cầu xin ở đâu , cầu xin với ai , và làm thế nào để tìm cho được thứ lực lượng đáp ứng với những lời cầu xin đó . Bởi vì tất cả lực lượng đều nằm bên trong chúng ta , vạn vật trong vũ trụ đều đã có sẵn bên trong . Chúng ta chỉ cần biết cách tìm ra được lực lượng này và tận dụng nó , nhưng phần đông chúng ta đều không biết . Sư Phụ đã thật sự nhận thức được rằng "Trước hết hãy tìm lại Thiên quốc bên trong , rồi sau đó mọi việc khác sẽ tự động đến". Thiên quốc không thể quan sát từ bên ngoài mà thấy , Thiên quốc đã ở trong tay của quý vị rồi . Đó là những gì Thánh Kinh muốn nêu ra .
Tại sao Thiên quốc ở ngay bên trong mà chúng ta không biết ? Bởi vì chúng ta không biết được ở nơi nào . Chúng ta không biết "bên trong" là chỗ nào ? Trong tim , trong gan , trong phổn , hay trong mạch máu ? Chúng ta thật không biết là ở đâu ?
Nếu có người nào biết được thì có thể chỉ cho chúng ta . Sư Phụ đã được chỉ rõ Thiên quốc ở đâu , và Sư Phụ đã ứng dụng sự hiểu biết này vào cuộc sống hàng ngày để mang lại lợi ích đến cho chính bản thân Sư Phụ và cho những người khác nữa . Sư Phụ lúc nào cũng khuyên mọi người là rất dễ dàng tìm lại lực lượng của chính mình , toại nguyện mọi điều ước muốn , tìm được thiên đàng tại thế , và chấm dứt tất cả những việc khác . Chiến tranh cũng sẽ tự chấm dứt . Điều này rất có hiệu quả đối với đệ tử của Sư Phụ . Không ai sau khi thọ Tâm Ấn còn cảm thấy thích tranh dành hoặc cãi vã những chuyện vô lý , hay là ham đòi vật chất hơn là cần thiết . Điều này thật sự có hiệu quả đối với hàng trăm hàng ngàn người . Lúc nào cũng có hiệu quả , cho nên Sư Phụ biết đây là sự thật .
Nhưng hầu hết nhiều người chưa hiểu được điều này , và họ cũng không tin rằng họ có lực lượng này . Sư Phụ rất ngạc nhiên vì sao người ta tự khinh thường mình như vậy . Không phải chúng ta là con của Thượng Đế và được tạo nên bằng hình ảnh của Ngài hay sao ? Không phải chúng ta đều có Phật tánh bên trong hay sao ? Hoặc không phải chúng ta là con cái của Thánh Allah hay sao ? Và nếu chúng ta là con cái của Ngài thì chúng ta phải có cùng một lực lượng ít nhất cũng tương tự như Ngài , không nhiều thì ít , vậy tại sao chúng ta lại tự khinh rẽ mình như vậy ? Chúng ta là những hoàng tử , những công chúa , con của Thượng Đế , và như vậy có nghĩa là gì ? Lời nói nghe qua như rỗng tuếch nhưng lại đúng sự thật .
Giả sử quý vị là con của một vị hoàng đế , quý vị phải biết quyền lực của mình . Nhưng hầu hết mọi người đều không biết . Họ chỉ biết rằng : "À ! Chúng ta là con của Thượng Đế . Thượng Đế tạo ra chúng ta bằng hình ảnh của chính Ngài , chúng ta là biểu hiện của Ngài". Vâng , chỉ có vậy thôi . Và rồi chúng ta lại đi ra ngoài tranh đấu từng đồng từng cắc và cầu xin đủ thứ , nhưng lại không được gì , chỉ vì chúng ta cầu xin không đúng chỗ . Chúng ta không tìm đúng nơi chấp nhận lời cầu xin đó . Sự thật lại rất dễ dàng , còn dễ hơn là ăn bánh nữa . Bởi vì quá dễ dàng cho nên mọi người hình như không thấy . Điều này rất đáng buồn , nhưng Sư Phụ phải kiên nhẫn . Phải kiên nhẫn mới được .
Cho nên , chúng ta bắt đầu nói về chiến tranh và kết thúc bằng sự hòa bình . Nếu mỗi người chúng ta đều không muốn có được sự yên ổn trong nội tâm , chúng ta phải tu hành , tìm kiếm Thiên quốc . Chúng ta phải câu thông với lực lượng của Thượng Đế , và việc này rất dễ dàng , chúng ta có thể làm được ngay lập tức , bởi vì Thượng Đế lúc nào cũng ở bên trong chúng ta . Ngài nào có ở xa xôi chi lắm ! Thiên quốc cũng bên trong chúng ta . Tại sao chúng ta phải lặn lội đến thánh đường hay chùa chiền để tìm ? Và tại sao chúng ta phải tốn nhiều thời giờ để tìm kiếm như vậy ?
-
NGUYÊN NHÂN CỦA CHIẾN TRANH
Đó là lý do tại sao chúng ta gọi pháp môn này là "Instant Enlightenment" (Lập Tức Khai Ngộ) hoặc "Immediate Enlightenment" (Tức Khắc Khai Ngộ). "Instant" (Lập Tức) là do đệ tử của Sư Phụ đặt ra , Sư Phụ không thích chữ này . Thật ra , lời của Sư Phụ là " Immediate Enlightenment and Eternal Liberation" Tức Khắc Khai Ngộ , Hiện Đời Giải Thoát). Một khi chúng ta được khai ngộ thì chúng ta sẽ vĩnh viễn khai ngộ và giải thoát . Giải thoát khỏi gì ? Giải thoát sanh tử luân hồi , sanh ra rồi chết đi rồi lại tái sanh , đau khổ triền miên . Ví dụ việc làm của quý vị tại Liên Hiệp Quốc là việc làm tốt nhất , một việc làm cao thượng nhất , vì tại đây quý vị làm việc cho toàn thế giới , không phải chỉ cho một hay hai công ty , một hay hai gia đình , mà là cho cả thế giới . Việc làm của quý vị là cao cả nhất . Sư Phụ khuyên mọi người hãy ở lại Liên Hiệp Quốc càng lâu càng tốt và xin đừng bỏ đi nơi khác . Nhưng dù vậy , quý vị vẫn có đau khổ , phiền não , và bị nhức đầu . Quý vị có thấy không ? Cuộc đời lúc nào cũng không hoàn mỹ như ý muốn .
Có một cuộc sống khác tốt đẹp hơn , một đời sống hoàn mỹ hơn ở bên trong chúng ta . Một khi chúng ta đã đạt được sự hoàn mỹ bên trong thì đời sống bên ngoài cũng theo đó mà được tốt đẹp hơn nhiều . Chúng ta có thể dùng trí huệ bên trong và lực lượng để giải quyết công việc một cách thiết thực hơn , lẹ làng hơn , có nhiều lợi ích hơn cho cả thế giới . Thật ra chúng ta muốn có được một địa vị quan trọng hay được thành công trong mọi khía cạnh , chúng ta phải dùng đúng lực lượng mới được , đừng dùng đầu óc . Lực lượng có hai đẳng cấp . Đẳng cấp thứ nhất , thấp hơn , là đầu óc , là sự hành động và phản ứng tự động . Vâng , đó là đầu óc . Còn một lực lượng khác cao hơn thì toàn là sự thanh nhã , tình thương , và phép lạ . Sư Phụ không phải nói loại phép lạ làm thay đổi thời tiết hoặc ... Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể làm được như vậy .
Chẳng hạn như đệ tử của Sư Phụ , chỉ cầu nguyện mà phi cơ phải quay trở lại rước người bị bỏ lại . Trong khi trước đó họ không thấy có cách gì khác hơn , vì họ nói rằng vé không có giá tiền , hay làm sao đó . Hình như có sự trục trặc gì , nhưng chúng tôi đã trả tiền vé rồi . Có lẽ chỉ là trục trặc về hành chánh vậy thôi . Và phi cơ phải quay trở lại . Đây cũng được gọi là phép lạ , nhưng không phải chúng tôi cố ý làm vậy . Chúng tôi chỉ cầu nguyện , và những ai đã được câu thông với Thượng Đế đều có thể cầu xin bất cứ điều gì , với điều kiện là chúng ta cầu nguyện bằng chính lực lượng của mình . Có hiểu không ? Nếu chúng ta cầu nguyện cho một người nào khác mà người đó không đồng nhất thể với chúng ta thì việc này cũng hơi khó khăn , không phải là chúng ta không muốn . Nếu không , ít nhất Chúa Giê Su cũng đã cầu nguyện cho những người Do Thái rồi ; hoặc đương nhiên Phật Thích Ca cũng đã cầu nguyện cho cả nước Ấn Độ rồi . Quý vị có hiểu ý của Sư Phụ không ? Cho dù chúng ta đã được khai ngộ , chúng ta cũng không thể thay đổi được thế giới . Chúng ta chỉ có thể giải thích , nói lý lẽ cho họ nghe và khuyên họ tự sửa đổi lấy mà thôi .
Cho nên mọi việc bắt đầu từ chúng ta. Chúng ta không thể ngồi chờ phép lạ . Không ai có thể thay đổi được thế giới này , ngay cả một ngàn ông Phật hay một triệu đức Chúa cũng không được . Các Ngài đã làm rồi nếu các Ngài có thể . Phép lạ không xảy ra theo chiều hướng này , khi còn có sự liên quan đến nghiệp chướng . Chúng ta phải tự tắm rửa sạch sẽ , tự uống thuốc để chữa lấy bệnh . Người y sĩ tài ba nhất cũng chỉ có thể cho thuốc nhưng không thể uống thuốc dùm cho chúng ta . Cho nên thật đáng tiếc và rất khó khăn khi phải cầu nguyện cho một người khác , lúc họ không đồng nhất thể với đúng nguồn lực lượng đáp ứng những lời cầu xin đó .
Cách tốt nhất là câu thông với Thượng Đế , rồi sau đó mới cầu nguyện . Chúng ta cũng không cần phải cầu nữa , vì mọi việc sẽ đến . Sư Phụ biết chắc như vậy . Sư Phụ có kinh nghiệm rồi . Và hàng ngàn đệ tử của Sư Phụ cũng có kinh nghiệm qua . Họ đều biết là có thật . Sư Phụ muốn trình bày với quý vị ngày hôm nay , nếu quý vị thích thú và tin tưởng rằng có một phương cách thiết thực để giải quyết chiến tranh , bằng cách sửa đổi chính mình , bằng cách tìm sự hòa bình bên trong chúng ta , thì chúng ta sẽ có hòa bình trên thế giới . Mỗi một chúng ta phải làm như vậy. Cho dù chúng ta không ảnh hưởng được cả thế giới , nhưng chúng ta cũng đốt lên một ngọn đuốc ; giúp cho cơ hội hòa bình càng nhiều và chiến tranh càng giảm thiểu . Đó cũng là một thành quả rực rỡ rồi . Thế giới bây giờ tốt đẹp hơn nhiều so với ngày xưa , bởi vì có những vị Minh Sư đã xuống đây truyền dạy cho chúng ta những điều luật về tiến hóa và sự văn minh . Chúng ta đã cải thiện rất nhiều . Thế giới chúng ta ngày càng trở nên văn minh , sáng sủa hơn , dễ chịu hơn , so với mấy ngàn năm về trước . Đó là nhờ vào những vị đại Minh Sư khai ngộ đã giúp đỡ nâng cao sự hiểu biết của chúng ta . Dù họ chỉ dạy dỗ một số ít người , nhưng sự giáo dục vẫn để lại một dư âm cho hậu thế , và hạt giống cứ tiếp tục sanh trưởng , giúp ích cho cả thế giới với một tỷ lệ rất lớn , và đã nâng cao ý thức của nhân loại lên một đẳng cấp cao hơn . Nhờ vậy thế giới chúng ta ngày càng tiến triển một cách tốt đẹp hơn . Cho nên , nhờ vào những vị đại Minh Sư và một số đệ tử của họ mà thế giới chúng ta đã trở nên tốt đẹp hơn nhiều .
Quý vị có thể gia nhập đoàn thể của họ . Sư Phụ không nói rằng quý vị phải đến học với Sư Phụ . Không phải như vậy . Học với người nào mà quý vị thích , người nào quý vị cảm thấy là khai ngộ nhất , giúp ích cho quý vị nhất , và chỉ rõ con đường cho quý vị . Nhưng quý vị phải hành động . Hãy câu thông với trí huệ và lực lượng của chính mình , rồi áp dụng vào công việc hàng ngày . Còn tốt hơn là chỉ vận dụng đầu óc điện tử , mỗi ngày bị nhức đầu , phiền não , và vướng nhiều trở ngại . Không có gì là khó khăn nếu chúng ta biết dùng trí huệ sáng suốt để làm việc thay vì dùng sự thông minh hạn hẹp , lệ thuộc vào thói quen của đầu óc điện tử . Cảm ơn quý vị rất nhiều .
-
TẤM GƯƠNG HOÀN MỸ CỦA MỘT VỊ THÁNH NHÂN
Đây là một câu chuyện đã xảy ra cách đây hai ngàn năm được ghi chép trong Thánh Kinh . Sư Phụ sẽ đọc ra một đoạn .
"Khi Chúa Giê Su vừa Giáng Sinh thì bỗng xuất hiện một luồng ánh sáng , sáng đến nỗi tất cả mọi người đều phải che mắt lại và từ trong ánh sáng một giọng nói của Thiên Sứ vang lên : "Đừng sợ . Ta báo cho các người và thế gian một tin lành . Đấng Cứu Thế đã giáng phàm ! Thiên Chúa sẽ hạ sanh hôm nay tại thành Bethlehem . Các ngươi sẽ gặp một hài nhi nằm ngủ trong máng cỏ !"
Lúc ấy những người chăn cừu thấy các Thiên Thần ca ngợi Thiên Chúa rằng : "Vinh danh Thiên Chúa trên trời . Và bình an dưới thế cho người thiện tâm".
Khi tất cả các Thiên Thần đã đi khỏi , bầu trời tối đen trở lại . Những người chăn cừu bàn tán với nhau : "Chúng ta hãy đến thành Bethlehem để xem thử chuyện gì vừa xảy ra . Đấng Cứu Thế đã giáng phàm để cứu độ loài người trên mặt đất . Vinh danh đức Chúa Trời ! Vinh danh Chúa Giê Su ! Vinh danh tất cả con cái của Ngài ! Amen".
Bây giờ chúng ta hãy hồi tưởng lại hai ngàn năm trước có một vị Thánh Nhân vĩ đại đã sinh ra giữa chúng ta . Ngài quá vĩ đại đến nỗi chúng ta không còn lời gì để ca tụng . Chỉ có Thượng Đế mới hiểu nổi sự vĩ đại của Ngài , còn phàm phu chúng ta không thể nào hiểu nổi . Chúng ta chỉ hiểu được điều này khi chúng ta cũng vĩ đại giống như Ngài .
Chúng ta thường tự hỏi : "Tại sao Chúa Giê Su lại lìa đời sớm như vậy khi Ngài vừa đạt đến vinh quang tột đỉnh trong sứ mệnh truyền rao thông điệp của Thượng Đế ?" . Nếu Ngài không rời bỏ trái đất một cách bi thảm trong một thời gian ngắn ngủi như vậy , thì có lẽ bây giờ tên tủi của Ngài đã bị lãng quên rồi . Thượng Đế đã hy sinh Ngài bằng cách này để dạy chúng ta phải biết quý trọng Sứ Giả của Thượng Đế , dù Ngài được gởi đến qua bất cứ danh hiệu nào .
Từ xưa đến nay , thế giới này luôn luôn có nhiều phiền não . Con người luôn luôn lầm lỗi và quên mất Thượng Đế . Do đó Thượng Đế thường phái Sứ Giả đến để khuyên dạy chúng ta . Tuy nhiên Chúa Giê Su là một trong những Sứ Giả được ghi nhớ nhất vì sự vĩ đại của Ngài , vì thời gian ngắn ngủi của Ngài với chúng ta , vì cách lìa đời và sự phục sinh của Ngài . Bây giờ chúng ta tự hỏi : "Tại sao Đức Chúa Con không sửa đổi định mệnh của mình trong khi Ngài có quyền năng phi phàm và thực hiện rất nhiều phép lạ ? Tại sao Ngài lìa đời một cách bi thảm như vậy ?" Ngài phải làm thế , nếu không chúng ta sẽ không thức tỉnh , vì chúng ta nghĩ rằng thế giới này là vĩnh cửu hoặc minh sư mãi mãi trường tồn .
Trước Chúa Giê Su cũng có nhiều Minh Sư , nhưng hiện tại người ta không nhớ đến họ nhiều như nhớ đến Chúa Giê Su . Khi chúng ta nhớ đến Chúa Giê Su chúng ta sẽ được phước lành bởi vì Chúa Giê Su là con của Đức Chúa Trời . Nói một cách khác , Chúa Giê Su là Thiên Chúa hiện hữu bằng hình hài trên trái đất . Ngài phải rời bỏ chúng ta sớm như vậy với mục đích làm thức tỉnh chúng ta .
Vài ngàn năm sau chúng ta vẫn còn bàng hoàng cảm xúc khi nhớ lại câu chuyện trên bởi vì bản chất vô thường cua sự hiện hữu của chúng ta trên trái đất . Mọi người đều phải chết , đó là lẽ đương nhiên . Ngay cả một vĩ nhân như Chúa Giê Su cũng không thể duy trì cái xác thân tạm bợ này và cũng không thể bảo vệ cho chính mình trước sự ác độc và vô minh của loài người trên thế giới này , làm sao chúng ta có thể cảm thấy an toàn được ? Đó là lý do tại sao Ngài tự nguyện nhận lãnh sự trừng phạt mà lẽ ra Ngài không đáng bị . Ngài đã vì chúng sanh mà chịu khổ .
Nếu nói rằng Chúa Giê Su đã dùng máu Ngài để rửa tội cho chúng ta thì cũng không quá đáng . Đó là sự thật . Bởi vì mỗi lần nghĩ về Ngài là chúng ta có thể học được nhiều điều tốt , hay ít ra chúng ta cũng nhớ lại bản chất vô thường của thế giới này và của thân thể chúng ta hoặc ít nhất chúng ta cũng học được lòng khiêm tốn , vì ngay cả một vĩ nhân mà cũng phải chịu đau khổ như vậy . Ngài quá khiêm tốn đến nỗi tự dâng hiến mình cho Thượng Đế và nói : "Thiên ý phải được thi hành !" Bằng không thì Ngài cũng có thể tự trốn thoát . Chúng ta biết rằng Ngài có rất nhiều thần thông , kể cả phép tàng hình , nhưng Ngài đã chọn theo Thiên ý . Khi nghĩ về Ngài chúng ta sẽ tự hỏi : "Chúng ta là ai mà dám tự hào , dám quên đi Thiên ý mà không tự dâng hiến ?" Nhưng những bài học này rất khó học . Nếu tất cả mọi người đều học kỹ những bài học trên thì sự hy sinh của Chúa Giê Su rất có giá trị và chúng ta cũng cảm thấy vinh hạnh được làm tín đồ của Ngài .
-
TẤM GƯƠNG HOÀN MỸ CỦA MỘT VỊ THÁNH NHÂN
Mọi việc điều do Thượng Đế an bài với mục đích nào đó . Sự cố gắng của chúng ta rất cần thiết để hiểu rằng chúng ta không cần cố gắng gì cả . Tất cả những lời huấn thị và tất cả những giờ thiền mà Sư Phụ đã đòi hỏi nơi quý vị , và tất cả sự cố gắng của quý vị là cần thiết để rồi cuối cùng quý vị sẽ học được dùng cái không cần phải cố gắng - không cần sự cố gắng của con người - như Chúa Giê Su đã làm . Ngài đã hy sinh trên thập tự giá để cho chúng ta một tấm gương toàn thiện về sự cống hiến . Nếu chúng ta hiểu rõ và học kỹ được điều này thì chúng ta là những tín đồ Thiên Chúa giáo tốt . Bởi vì trong thời gian ngắn ngủi và với sứ mệnh to lớn , Ngài luôn luôn thuyết giảng điều này . Trong Thánh Kinh cũng luôn luôn nhấn mạnh điều này : "Hãy tìm Thiên quốc bên trong trước rồi tất cả mọi việc sẽ đến với ngươi sau". "Không nên lo lắng cho ngày mai . Chỉ quan tâm đến chuyện của ngày hôm nay thôi". "Không nên lo lắng về việc ăn và việc mặc". "Hãy nhìn những cây hoa huệ ngoài đồng . Nếu Thượng Đế còn chăm sóc đến loài hoa đồng này thì có lẽ nào Ngài lại không chăm sóc đến chúng ta ? Các ngươi há chẳng quý trọng hơn chúng sao ?"
Trong thời đại đó nhiều người không quan tâm đến thông điệp của Ngài . Trong thời đại này cũng vậy , vẫn còn nhiều người không lưu tâm đến thông điệp của Ngài , ngay cả những người tự gọi là tín đồ Thiên Chúa giáo . Mỗi năm chúng ta ăn mừng sinh Nhật Chúa Giê Su và cố gắng tưởng nhớ về Thượng Đế và nhắc nhở những người khác về sự cống hiến cho Thượng Đế hay ít ra cũng tưởng nhớ đến Thượng Đế .
Thượng Đế ngự trong mỗi chúng ta , nhưng nếu chúng ta quá bận rộn suy tính về những việc ngoài đời , hoặc ham muốn quá nhiều thứ khác , thì Thượng Đế không có cơ hội để tiếp xúc với chúng ta và truyền thông điệp của Ngài đến cho chúng ta , dù là truyền qua sự im lặng của tâm hồn hoặc qua một Sứ Giả tại thế . Sư Phụ nghĩ rằng Chúa Giê Su đã hy sinh thân mình để dạy chúng ta bài học này . "Các ngươi đừng chứa của cải ở dưới đất là nơi có sâu mọt làm hư , nhưng phải chứa của cải ở trên Trời , đó mới chính là nơi vĩnh cửu".
Làm sao chúng ta có thể chứa của cải ở trên Trời ? Chúng ta có nên xây một tủ sắt để bỏ tiền vào đó hay không ? Không cần . Ở trên Thiên Đàng , chúng ta đâu cần tiền . Tất cả mọi thứ đều được cung cấp đầy đủ trước khi chúng ta cần đến . Như vậy thì tại sao Chúa Giê Su lại dạy chúng ta phải chứa của cải ở trên Trời ? Ý của Ngài muốn bảo chúng ta phải tích trữ công đức của chúng ta và yêu thương Thượng Đế .
Làm sao chúng ta có thể yêu thương Thượng Đế ? Phải về giữ các điều răn của Ngài , chỉ có mười điều mà thôi . Những điều răn này vừa ít vừa dễ nếu so sánh với nhiều sự cám dỗ và khó khăn của thế giới này , hoặc nếu so sánh với những sự nhẫn nhục mà chúng ta phải chịu đựng để bảo tồn hôn nhân , duy trì sự nghiệp hay nỗ lực học hành . Chúng ta chấp nhận mọi việc trên thế giới này với mục đích gì ? Mỗi người chỉ ăn có ba bữa một ngày , mặc vài bộ quần áo , nhưng chúng ta phải làm việc cực khổ để duy trì tất cả mọi thứ khác . Chúng ta phải tuân theo tất cả mọi luật lệ trong hãng để bảo vệ việc làm của mình hoặc để làm vui lòng ông chủ . Nhưng ông chủ đã cho chúng ta những gì ? Không có bao nhiêu ! Còn Thượng Đế sẽ cho tất cả nếu chúng ta chịu giữ những điều răn , nhưng chúng ta lại bỏ quên Ngài , vì chúng ta không thấy được Ngài .
Thượng Đế rất đại lượng , Ngài không quở trách chúng ta mỗi ngày : "Này , ngươi không giữ điều răn , ngươi không ...", nên chúng ta không sợ Ngài như chúng ta sợ ông chủ , thân nhân , bạn bè , vợ hoặc chồng ..., của chúng ta . Trong vài trường hợp khi lập gia đình nếu gặp phải ông chồng hay bà vợ khó tánh và gây nhiều khổ não , nhưng chúng ta vẫn chịu đựng vì chúng ta thương yêu hoặc nể sợ họ . Nhưng chúng ta lại không nể sợ Thượng Đế và giữ điều răn của Ngài .
Có nhiều người hỏi Sư Phụ : "Tại sao chúng ta phải ăn chay ?" Vì điều răn thứ nhất là : "Các người không được giết". Tất cả mọi vật đều do Thượng Đế tạo ra . Chúng ta không có quyền phá hủy bất cứ vật gì nếu Thượng Đế không cho phép , và Ngài đã không bao giờ cho . Đọc lại Kinh Cựu Ước thì Thượng Đế không cho phép chúng ta giết súc vật . Ngài nói rằng : "Hãy cai quản các loài súc vật . Đó là bạn của ngươi". Và Ngài nói rằng Ngài đã tạo ra tất cả đủ thứ thực phẩm cho từng loại súc vật . Ngài cũng đã nói : "Ta ban cho các ngươi mọi thứ rau cỏ mọc trên đồng , và các loài cây sanh quả vừa đẹp mắt vừa ăn ngon , ấy là thực phẩm cho các ngươi".
-
TẤM GƯƠNG HOÀN MỸ CỦA MỘT VỊ THÁNH NHÂN
Sư Phụ chưa bao giờ tìm thấy câu nào như "Súc vật là thức ăn của các ngươi" trong Kinh Cựu Ước hay Tân Ước . Thượng Đế không bao giờ dạy chúng ta điều đó . Thánh Moses có lẽ cho phép người ta giết súc vật bởi vì trong thời đại đó con người sát hại lẫn nhau nhiều quá . Vì thế nên Ngài dạy : "Dừng tay , dừng tay . Giết súc vật thay vì giết người !" Việc này có thể xảy ra như vậy . Ngài không thể ngăn cấm họ giết chóc cho nên Ngài hạn chế tối thiểu việc sát hại . Nhưng tất cả những chuyện đó đều là ý của loài người chứ không phải ý của Thượng đế . Vì thế Thượng Đế đã tiêu diệt trái đất hay ít ra một phần của trái đất , rất nhiều lần và vẫn còn tiếp diễn . Nhìn lại lịch sử loài người , khi Thượng Đế tiêu diệt một phần của thế giới hoặc toàn thể thế giới thì tất cả mọi người sống trên đó đều phải chết . Đâu phải tất cả mọi người đều là kẻ sát nhân . Còn các trẻ em và những người bệnh hoạn , tàn tật thì sao? Họ đã làm gì để Thượng Đế phải nổi giận ? Họ đâu có giết người . Giả sử câu "các ngươi không được giết" ám chỉ đến việc giết người mà thôi thì những người già cả , ốm yếu , tàn tật và các trẻ em đâu đủ sức để giết ai ? Vậy thì nguyên nhân nào đã làm Thượng Đế nổi giận ? Nguyên nhân là do sự sát hại súc vật và ăn thịt các loài động vật .
Sư Phụ còn nhớ trong Kinh Thánh có viết : "Các ngươi không nên giết những con dê cái và những con trâu đực cúng dường cho ta vì tay các ngươi dính đầy máu của những con vật vô tội . Các ngươi phải ngưng ngay lập tức và sám hối tội lỗi , nếu không ta sẽ không tha thứ cho các ngươi . Ta sẽ không nghe lời cầu nguyện của các ngươi". Chúng ta đã không thi hành đứng đắn các điều răn của Thượng Đế . Vì lẽ đó Thượng Đế đã dùng thiên tai để dạy bảo và kéo chúng ta ra khỏi sự vô minh . Sự ưa thích các mùi vị đó sẽ dẫn đến nhiều ham muốn khác , rồi chúng ta sẽ làm nhiều điều tội lỗi và sẽ bị cột chặt ở thế giới này . Do đó "Các ngươi không được giết" là điều răn thứ nhất .
Chúa Giê Su đã lìa khỏi thế giới này khi Ngài còn rất trẻ vì Ngài muốn làm một tấm gương tốt , muốn nhắc nhở chúng ta là không nên bám víu vào thế giới này , vì có nhiều cảnh giới vĩnh cửu hơn ở Thiên Quốc . Chúa Giê Su đã không khước từ cái chết . Ngài cũng không chống đối hoặc phản kháng bởi vì Ngài biết rõ về Thiên Quốc . Ngài thường bảo rằng : "Giang sơn của Ta ở tại Thiên Quốc". Do đó Ngài đã nêu một tấm gương hoàn hảo để cho chúng ta không còn sợ hãi trước cái chết , nếu chúng ta tin vào Đức Chúa Trời . Ngài nói : "Giang sơn của Cha ta có rất nhiều cõi". Tại sao chúng ta lại bám víu vào thế giới phù du giả tạo và đầy đau khổ này , trong khi nước Chúa Trời có rất nhiều cõi đẹp mà chúng ta có thể sống vĩnh viễn với Ngài ? Sự hy sinh của Chúa Giê Su trên thập tự giá đã cho chúng ta rất nhiều bài học quý giá đầy ý nghĩa . Nếu chúng ta để tâm suy ngẫm về việc này thì chúng ta sẽ rút tỉa được nhiều kết quả và quan niệm .
Chúa Giê Su còn rất trẻ tuổi . Ngài có thể có một người yêu xinh đẹp . Ngài cũng có thể hưởng thụ thế giới này sau khi Ngài đã nổi danh . Rất nhiều người đã yêu mến Ngài , nhưng đến lúc phải ra đi thì Ngài lập tức đi ngay . Ngài không hề luyến tiếc danh vọng hoặc vương vấn tình cảm thế gian . Còn chúng ta tại sao lại bám víu vào thế giới này , khi chúng ta không có được nhiều thứ như Ngài , lại già cả lớn tuổi hơn Ngài , cũng không có dung mạo đẹp đẽ như Ngài , cũng không khôn ngoan bằng Ngài , cũng không được thiên hạ mến chuộng , quý mến và tôn sùng như Ngài !
Ngài đã chu du khắp thế giới trên mười năm . Ngài đã học hỏi được rất nhiều thứ . Ngài có thần thông quảng đại , có thể biến hóa tùy theo ý muốn , ngay cả biến nước thành rượu cũng được . Còn chúng ta phải lo lao động cực khổ cả ngày mới được một ít nước trái cây mà chúng ta vẫn không chịu buông bỏ thế giới này ?
Chúa Giê Su đã thầm lặng hy sinh để nêu một tấm gương sáng cho chúng ta . Đó là lý do khiến chúng ta luôn luôn nhớ đến Ngài . Đó là lý do mọi người , kể cả Sư Phụ vẫn còn rơi lệ khi nghĩ đến Ngài . Mới đây khi đọc về cách người ta đối xử với Ngài , Sư Phụ cảm thấy rất đau lòng . Có lần Sư Phụ ở trong phòng một mình và đã khóc thật lớn . Sư Phụ gọi tên Ngài và khóc nức nở . Dĩ nhiên Sư Phụ hiểu rằng đó là sự an bài của Thượng Đế . Sư Phụ cũng hiểu rõ mục đích của Chúa Giê Su , nhưng đã trót mang một thân thể và trái tim bằng xác thịt thì đôi khi cũng không thể nào tránh khỏi tình cảm của con người .
-
TẤM GƯƠNG HOÀN MỸ CỦA MỘT VỊ THÁNH NHÂN
Cách tốt nhất để trả ơn Chúa Giê Su là phải sống theo cách Ngài đã chỉ dạy và cố gắng giữ những điều răn của Thượng Đế , bởi vì Ngài dạy : "Nếu các ngươi yêu mến ta thì phải giữ những điều răn của ta". Đó là tất cả những gì Ngài mong muốn . Giữ những điều răn đó không phải là tốt cho Thương Đế hoặc là tốt cho Chúa Giê Su , mà thật sự là tốt cho chính chúng ta . Thượng Đế không cần bất cứ thứ gì từ chúng ta . Chúa Giê Su cũng không cần gì từ chúng ta . Nhưng Thượng Đế và Chúa Giê Su biết rằng nếu chúng ta giữ những điều răn trên thì thế giới sẽ tốt đẹp hơn và chúng ta sẽ có nhiều lợi ích , hòa bình và vui vẻ hơn . Mặc dù chúng ta chỉ ở đây trong một thời gian ngắn ngủi , nhưng Ngài muốn chúng ta an hưởng những ân sủng , những tiện nghi , và làm vinh quang cho chính chúng ta thay vì phải sống một cuộc đời đau đớn buồn khổ .
Nhưng đôi khi chúng ta không giữ được điều răn vì chúng ta nghĩ rằng Thượng Đế quá xa vời . Chúng ta quên mất những điều Ngài răn dạy , dĩ nhiên thiên tai tới làm cho chúng ta đau khổ , rồi khóc lóc và cầu nguyện Thượng Đế . Lúc đó Thượng Đế lại phải sai một Thiên Sứ xuống trần , có thể với một danh hiệu khác , để nhắc nhở và dạy bảo chúng ta phương pháp mưu cầu hạnh phúc vĩnh cửu .
Nếu có bất cứ ai dạy những điều như trên và cho chúng ta những sự an lành như Chúa Giê Su đã từng làm , như được kể trong Kinh Thánh , thì phải biết rằng người đó là Đấng An Ủi mà Thượng Đế đã phái đến cho chúng ta . Chúng ta có thể lựa một trong những người đó . Không cần nhiều , một người là đủ . Nếu chúng ta không tin có một vị Thiên Sứ hay một Đấng An Ủi nào , thì ít nhất chúng ta cũng nên giữ những điều răn của Thượng Đế , tưởng nhớ và luôn cầu nguyện Thượng Đế . Nếu không thì ân sủng của Chúa Giê Su sẽ không thể nào đến với chúng ta , sự hy sinh của Ngài thật uổng phí , và chúng ta cũng không biết tri ân Ngài chút nào cả .
Chúng ta nói : "Chúa Giê Su giáng trần để rửa tội cho chúng ta thì chúng ta cần gì phải sám hối , tưởng nhớ đến Ngài và cầu nguyện làm chi nữa". Nhưng chúng ta vẫn phải làm . "Hãy gõ cửa , cửa sẽ mở . Hãy xin , sẽ được cho". Chúng ta phải gõ cửa . Chúng ta phải cầu xin . Nếu không như vậy thì Chúa đã nói : "Không cần gõ cửa , không cần phải cầu xin . Dù thế nào đi nữa ta cũng sẽ cho các ngươi".
Ngài đã cho không chúng ta mọi thứ trong vườn Địa Đàng . Nhưng loài người đã không biết quý trọng . Vì thế Ngài đày chúng ta xuống trần để học tập qua sự cực khổ . Bây giờ chúng ta phải học tập mau chóng để được trở về vườn Địa Đàng . Bây giờ chúng ta phải cầu xin , chúng ta phải gõ cửa . Mọi thứ không còn được ban cho dễ dàng như trước kia nữa .
Nếu tin rằng Chúa Giê Su đã rửa tội cho tất cả mọi người thì tại sao có rất nhiều người Thiên Chúa giáo vẫn còn đau khổ ? Chắc chúng ta còn thiếu sót điều gì ? Có lẽ chúng ta chưa đủ lòng thành , có lẽ chúng ta không hiểu biết một cách đứng đắn , hoặc có lẽ chúng ta chưa được câu thông với bên trong vì chúng ta chưa tìm được Thiên quốc bên trong .
Chúa Giê Su dạy : "Thiên quốc ngự trong ta". Nếu chúng ta không thể nào nhận được ân điển của Chúa Giê Su". Cũng như khi cha ta để lại cho chúng ta một kho tàng châu báu vĩ đại mà chúng ta không biết chìa khóa ở đâu thì dù chúng ta cứ mãi lập lại nhiều lần : "Tôi có châu báu , tôi có châu báu , tôi có châu báu", cũng chẳng có ích gì .
Nếu chúng ta tự tìm ra được thì tốt quá . Nhưng nếu không tìm được thì phải hỏi . Chúng ta nên hỏi những người nào đã biết rõ điều này . Chúng ta phải gõ tất cả mọi cánh cửa . Gõ cho đến khi nào chúng ta tìm được đúng cửa , đó là cánh cửa thông với Thiên quốc . Nếu không thì đời sống của chúng ta thật là ngắn ngủi , tạm bợ , và luôn luôn bị đe dọa . Chúng ta không có gì để nương tựa .
Thôi được rồi , Sư Phụ không muốn nói nhiều , để quý vị còn nghỉ ngơi , về nhà , hoặc tiếp tục vui chơi . Chúc quý vị một mùa Giáng Sinh vui vẻ !
-
ÂM THANH BÊN TRONG TẠO NÊN TÌNH THƯƠNG BAO LA VÔ BỜ BẾN
Sư Phụ rất hân hạnh được gặp quý vị từ nhiều quốc gia đến sum họp nơi đây , ít nhất cũng có bốn hay năm nước . Thật là một buổi họp quốc tế hiếm có .
Chào mừng quý vị đến dự buổi họp quốc tế ngày hôm nay . Sư Phụ hy vọng rằng chúng ta sẽ cùng chung vui với nhau và khi trở về nhà , chúng ta sẽ giữ mãi được sự vui vẻ này trong một thời gian lâu dài . Phải , chắc chắn là như vậy . Đến nghe giảng về chân kinh , chúng ta được hưởng rất nhiều phước báu , bởi Thượng Đế hay Phật Bồ Tát sẽ gia trì cho buổi thuyết pháp này .
Bây giờ quý vị có thể hỏi tại sao Sư Phụ lại ở đây . Trước tiên , Sư Phụ đến đây để thăm đệ tử . Một số đệ tử của Sư Phụ rất thành tâm và mong được gặp "Shih Fu", có nghĩa là Sư Phụ của họ . Theo tiếng Trung Hoa , Shih Fu chỉ có nghĩa là một vị sư tu hành , chẳng có gì lớn lao cả . Như vậy có nghĩa rằng Sư Phụ không cho mình là vị "Đại Sư Phụ". Thứ hai , Sư Phụ đến đây để chia sẻ với quý vị một phương pháp có thể giúp quý vị câu thông với lực lượng vĩ đại nhất , tối thượng và vĩnh cửu ở bên trong quý vị .
Tại sao chúng ta cần phải câu thông với lực lượng vĩ đại này ? Tất cả chúng ta đều có cái gọi là "Thiên đàng" ở bên trong chúng ta . Người Trung Hoa gọi Thiên đàng này là "Phật tánh", là "Đạo" hay là "Lực Lượng của Tạo Hóa"; và tín đồ Thiên Chúa hay các nước Tây Phương gọi Thiên đàng là "Thiên quốc bên trong", hay là "Thượng Đế".
Mỗi người chúng ta đều có Thiên đàng hay lực lượng bên trong này . Nếu tìm được và dùng nó , chúng ta có thể làm được mọi việc hàng ngày . Chúng ta sẽ không quá đau khổ , và cũng không cảm thấy rằng lực lượng của mình quá yếu , công việc của chúng ta quá nhiều và áp lực lại nặng nề . Bởi thế Sư Phụ muốn cống hiến quý vị phương pháp này để đem lại lợi ích cho quý vị . Bởi vì lực lượng này là do cái gọi là Thượng Đế ban cho chúng ta , chúng ta nên tiếp nhận và sử dụng nó , hoàn toàn miễn phí . Chúng ta không cần phải thay đổi cuộc sống , thay đổi nghề nghiệp hay những liên hệ gia đình của chúng ta .
Chúng ta thường nghe nói rằng nếu có ai muốn tu thiền để tìm Thượng Đế , hoặc thành Phật , thì phải từ bỏ thế giới này , phải trở thành một nhà sư - cạo đầu và ẩn lánh trong núi sâu . Có phải vậy không ? Hay là chúng ta nghe rằng có nhiều thiền sư ẩn trốn ở những nơi yên tĩnh hoang vu để tu thiền , chẳng hạn như ở trong rặng núi Hy Mã Lạp Sơn ít người qua lại .
Tuy nhiên đa số chúng ta đều bị ràng buộc bởi công ăn việc làm , trách nhiệm gia đình , làm sao có thể lên Hy Mã Lạp Sơn được ? Làm sao chúng ta có thể bế quan ở những ngọn núi cao đó ? Như vậy là chúng ta không thể thành Phật , Chúa hay một vị Minh Sư được hay sao ? Không lẽ chúng ta không thể câu thông được với Thượng Đế hoặc Thiên đàng ? Có cách nào khác hơn để chúng ta có thể câu thông được với nguồn gốc chân thật của chúng ta không ?
Trong Thiên Chúa giáo nói rằng : "Thiên quốc ở trong con". Phật cũng nói rằng : "Phật tại tâm". Như vậy tại sao chúng ta lại phải lên núi cao để tìm ? Đúng ra chúng ta có thể tìm được điều này ở nhà , đó là cách ít tốn kém nhất , tiện lợi nhất và đơn giản nhất . Bởi vì chúng ta còn có trách nhiệm đối với xã hội , nếu tất cả mọi người đều cạo đầu , mặc áo nhà tu và đi lên núi Hy Mã Lạp Sơn thì thế giới này không còn ai nữa , và cũng không còn con cái chi nữa . Điều này không hợp lý chút nào cả , và cũng đi ngược lại truyền thống "nối dõi tông đường" của người Trung Hoa và chính phủ Ba Tây cũng không cho phép , vì Ba Tây đất rộng nhưng dân số lại thưa thớt , do đó cần phải có con cái nhiều hơn .
Sư Phụ có một phương pháp hữu ích cho kế hoạch quốc gia của quý vị , cho truyền thống nối dõi tông đường của người Trung Hoa , cho việc làm của quý vị cũng như điều kiện xã hội của quý vị nữa . Phương pháp này gọi là "Quán Âm" theo tiếng Trung Hoa , có nghĩa là chúng ta lắng nghe âm thanh "Nguyên Thủy" bên trong của chúng ta . Làm sao chúng ta nghe được âm thanh nội tại này ? Đó là một loại chấn động lực , mà Phật gọi là "Phật tánh" hay trong Thánh Kinh gọi là "Thánh Từ". Nó tương đương với "Thánh Từ" hoặc "Âm Thanh" trong Thánh kinh . Khi chúng ta lắng nghe chấn động lực bên trong , hay âm thanh của Thượng Đế , đó có nghĩa là chúng ta đang câu thông với Thượng Đế , với đức Chúa , hay với Phật , và cũng có nghĩa là chúng ta đã tìm được Phật tánh của mình , hay Thiên quốc ở bên trong . Rồi chúng ta sẽ phát triển nhiều về trí huệ , đồng thời sự đau khổ cũng sẽ giảm đi bởi vì Thượng Đế hay vị Sư Phụ bên trong sẽ săn sóc và giải quyết những khó khăn cho cuộc sống của chúng ta .
-
ÂM THANH BÊN TRONG TẠO NÊN TÌNH THƯƠNG BAO LA VÔ BỜ BẾN
Hầu hết chúng ta không thể giải quyết những khó khăn của chúng ta một cách dễ dàng , bởi vì chúng ta chỉ sử dụng đầu óc có giới hạn của mình mà quên mất lực lượng vô cùng tận ở bên trong của mình . Một khi tìm được lực lượng này rồi , chúng ta sẽ dùng hoài không bao giờ hết . Phật Thích Ca Mâu Ni đã tìm được lực lượng bên trong của Ngài , và Đức Giê Su Ki Tô cũng tìm được lực lượng bên trong vĩ đại nhất của Ngài . Cho nên các Ngài trở thành vĩ đại nhất và có trí huệ nhất cho đến hàng ngàn năm sau toàn thế giới vẫn còn sùng bái các Ngài . Chúng ta có thể tôn sùng đức Chúa Giê Su hay Phật Thích Ca Mâu Ni , nhưng chúng ta cũng không nên quên rằng chúng ta cũng có thể vĩ đại như các Ngài . Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có nói : "Ta là Phật đã thành , các con là Phật sẽ thành", đức Chúa Giê Su cũng nói rằng chúng ta có thể bình đẳng (ngang hàng) như các Ngài .
Nếu chúng ta muốn ngang hành như các Ngài , chúng ta cần phải học phương pháp mà các Ngài đã tu hành . Phương pháp này chính là Pháp Môn Quán Âm , hướng vào bên trong để nghe âm thanh Nguyên Thủy của chúng ta , đó chính là Thiên Quốc , lực lượng của Thượng Đế hay là Phật tánh . Càng câu thông với lực lượng bên trong này , chúng ta càng trở nên vĩ đại . Thật vậy , cũng giống như ở trường học , chúng ta càng học nhiều , kiến thức càng gia tăng . Chúng ta có thể học từ bên trong , và càng học , chúng ta càng mở mang trí huệ . Người Trung Hoa có câu : "Thường Tùy Phật Học" có nghĩa là học từ bên trong .
Sư Phụ có nói với những thính giả Trung Hoa rằng nếu họ không hiểu được tiếng Bồ Đào Nha hay tiếng Anh thì họ chỉ cần nhìn mắt Sư Phụ . Không cần phải phiên dịch gì cả . Mắt sẽ tự hiểu được . Phiên dịch chỉ dành cho đầu óc mà thôi . Nhưng mắt sẽ truyền thẳng tín hiệu đến linh hồn . Dù quý vị không biết nói tiếng của Sư Phụ , chỉ cần chăm chú nhìn vào mắt của Sư Phụ một lát là quý vị có thể cảm nhận được . Quý vị sẽ được khai ngộ , bình an , hạnh phúc và tràn đầy tình thương . Đây là ngôn ngữ của vũ trụ , là tình thương và hạnh phúc .
Sự thật là như vậy , không cần hiểu tiếng Trung Hoa , Bồ Đào Nha , Tây Ban Nha , tiếng Anh ... không cần những hệ thống phức tạp như vậy . Khi em bé vừa mới sanh ra , người mẹ chỉ cần ẳm em trong tay thì cả hai đều thông hiểu nhau . Con chó của quý vị hiểu được quý vị ; con mèo của quý vị hiểu được quý vị , không ai cần phải nói gì hết , có phải không ? Đấy mới chính là thứ ngôn ngữ tốt nhất .
Bởi thế Sư Phụ đến đây để nhắc nhở quý vị về ngôn ngữ của tình thương , ngôn ngữ của con tim . Ở bất cứ quốc gia nào chúng ta cũng có thể nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ này được . Phải , chúng ta đã có làm như vậy rồi , nhưng chúng ta nên phát triển thêm . Từ tình thương của mẹ đối với con , tình thương giữa vợ chồng , giữa bạn bè , cho đến tình thương đối với quốc gia , rồi đến tình thương đối với nhân loại , và đến tình thương đối với tất cả chúng sanh trong vũ trụ , bao gồm tất cả loài vật , loài hoa cỏ , các côn trùng và tất cả chúng sanh vô hình mà chúng ta rất sợ hãi . Chúng ta không cần phải sợ chúng sanh vô hình nếu chúng ta có tình thương , vì chúng sanh vô hình cũng sẽ thương chúng ta . Chúng ta dùng sức mạnh vĩ đại của tình thương nội tại này để đánh tan bóng tối , để kết hợp tất cả mọi người và tất cả chúng sanh lại với nhau .
Tất cả chúng ta đều có lực lượng tình thương này . Đó là Thượng Đế bên trong chúng ta mà người Đông Phương gọi là "Phật tại tâm". Thật ra , Phật và Thượng Đế cùng giống nhau . Ở Đông Phương , Phật đại biểu cho tình thương , lòng từ bi , và ở Tây Phương , Thượng Đế có nghĩa là tình thương . Thật vậy , nếu Phật và Thượng Đế đều là tình thương thì Phật và Thượng Đế giống nhau .
Vấn đề của chúng ta bây giờ là làm sao tìm tình thương bên trong của chúng ta . Chúng ta đều tưởng rằng chúng ta biết rõ tình thương là gì . Phải , chúng ta đã biết , nhưng chỉ một phần nhỏ mà thôi . Bởi thế cho nên Chúa Giê Su đã dạy chúng ta phải biết thương yêu những người chung quanh , và cao cả hơn nữa là thương yêu kẻ thù của chúng ta . Đức Phật , Mohammet , Socrates , Lão Tử , Trang Tử cũng dạy người ta như vậy . Bởi thế Sư Phụ đến đây cũng để nhắc nhở quý vị cùng một thông điệp xa xưa là : "Làm thế nào để phát triển tình thương vĩ đại bên trong này , để chúng ta có thể yêu thương những người chung quanh của chúng ta".
-
ÂM THANH BÊN TRONG TẠO NÊN TÌNH THƯƠNG BAO LA VÔ BỜ BẾN
Tình thương này là vô hình , nhưng thật vĩ đại , cho nên chúng ta có thể cảm nhận được và tùy nghi sử dụng . Tại sao lực lượng vĩ đại bên trong này gọi là tình thương ? Bởi vì nó tha thứ hết tất cả những tội lỗi của chúng ta và rửa sạch hết tội lỗi này , chúng ta sẽ trở thành vô tội như một trẻ thơ vậy . Vì thế được gọi là tình thương ; tình thương không biết đến tội lỗi , không có biên giới , không có quá khứ , chỉ có hiện tại . Chúa Giê Su đã dùng tình thương này để rửa sạch tội lỗi của các môn đồ , đức Phật đã dùng tình thương này để đưa chúng sanh về Phật quốc , và vị Krisna ở Ấn Độ , vì có được tình thương này mà cho đến nay vẫn còn được người dân Ấn Độ yêu thương và tôn kính .
Các Ngài là những vị Minh Sư vĩ đại thời xưa , và còn rất nhiều vị nữa . Giả sử có muốn kể hết tất cả những vị Minh sư của thời cổ xưa , chúng ta không thể kể hết trong một ngày , hai ngày hoặc ba ngày được . Chúng ta biết và tôn sùng các Ngài thì đó là điều tốt , bởi vì các Ngài sẽ nhắc nhở chúng ta phải tự mình trở thành Minh Sư . Phải , Sư Phụ đến đây cũng để nhắc nhở quý vị rằng quý vị cũng có thể vĩ đại như Chúa Giê Su , Krisna , đức Phật , Mohammed , Lão Tử , Trang Tử ...
Muốn trở nên vĩ đại rất dễ , chỉ cần tìm được trí huệ của mình . Điều này đã có sẵn bên trong quý vị , chứ không phải điều mà Sư Phụ sẽ ban cho quý vị , hoặc Chúa Giê Su hay đức Phật sẽ ban cho quý vị . Không ai có thể cho chúng ta trí huệ được , ngoại trừ chính bản thân chúng ta . Nhưng các Ngài có thể nhắc nhở chúng ta , các Ngài có thể chỉ chúng ta phương cách tìm lại trí huệ của mình . Các Ngài có thể cầm tay chúng ta , đứng một bên và khuyến khích chúng ta tiếp tục tìm . Nhưng chúng ta phải biết rằng chúng ta cần phải tìm , phải biết cách tìm và chúng ta phải biết quý trọng trí huệ này sau khi chúng ta đã tìm được .
Cho nên con đường trở về Thiên quốc là đi tìm trí huệ của mình . Ý nghĩa thật sự của Thiên quốc là trạng thái của mầu nhiệm , của hạnh phúc và của sự thánh thiện . Cho nên chúng ta trở thành Thánh Nhân , chúng ta thanh cao , thật hạnh phúc , thật khoái lạc , điều đó có nghĩa là chúng ta đã tìm được Thiên quốc . Cũng đôi khi chúng ta cảm thấy cực lạc và hạnh phúc , đó cũng thật sự là Thiên quốc trong trình độ hiểu biết của chúng ta . Vì thế chúng ta thường nghe nói rằng có Phật quốc đẹp đẽ , có lạc thổ , có Thiên quốc hay Thiên đàng ... Tất cả có thật , và chúng ta có thể tự ý dạo chơi . Khi đến đó rồi , chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc và khoái lạc , và càng hay đến đó , trí huệ của chúng ta sẽ càng mở mang hơn và càng cảm thấy vui vẻ hơn .
Đó chính là lý do tại sao chúng ta cần phải tìm được Thiên quốc hay Phật quốc . Sau khi chúng ta đến thăm Phật quốc nhiều lần , chúng ta sẽ có trí huệ như Phật , và chúng ta sẽ trở thành Phật . Cũng tương tự như vậy , Tây phương nói rằng : "Sau khi chúng ta đến Thiên Quốc thường xuyên , chúng ta sẽ đồng nhất thể với Thượng Đế". Bởi thế cho nên , Chúa Giê Su sau khi đến thăm Thiên quốc nhiều lần , Ngài đã tuyên bố : "Ta và Cha ta là một". Tuy nhiên ở thời đại của Ngài lúc đó không phải mọi người ai cũng tin tưởng vào những gì Ngài nói , vì bản thân họ chưa đạt đến trình độ của Ngài nên họ không hiểu được Ngài ; rốt cuộc họ không tin Ngài .
Chúng ta bây giờ cũng vậy , nếu có người nói với chúng ta rằng : "Ta đồng nhất thể với Thượng Đế , Ta và Cha Ta là một", hay là "Ta đã thành Phật", chúng ta khó hiểu và tin được . Nhưng chúng ta không cần phải tin , chúng ta có thể tự mình thể nghiệm . Sau đó chúng ta cũng còn đủ thời gian để mà tin . Mục đích của Sư Phụ là cống hiến với quý vị một cơ hội để tự mình thể nghiệm , để quý vị có thể tin tưởng được . Thật sự có Phật quốc không ? Thật sự có thiên quốc không ? Thật sự có Thiên đàng không ? Chúng ta có thể tự tìm thấy trong lúc được truyền Tâm Ấn .
Thí dụ như chúng ta nhìn thấy tất cả những vị Thánh Nhân thời xưa , quanh đầu các Ngài đều có hào quang . Đó là vì các Ngài đã phát triển được ánh sáng bên trong , các Ngài câu thông được đầy đủ lực lượng của Thượng Đế . Nếu chúng ta được đong đầy điện lực này , chúng ta cũng sẽ trở thành ánh sáng . Chúng ta có nghe qua rằng khi Chúa Giê Su được rửa tội bằng nước , Ngài trông thấy ánh sáng trắng chiếu xuống từ Thiên đàng . Bây giờ , khi được rửa tội , chúng ta cũng có thể nhìn thấy như vậy hay tối thiểu cũng thấy tương tự , thì chúng ta mới tin rằng chúng ta thật sự được rửa tội , nếu không , đó chỉ là một thứ lễ nghi và không có gì đáng nói . Khi được truyền Tâm Ấn , quý vị có thể có thể nghiệm như Chúa Giê Su vậy .
Trong Thánh Kinh cũng có nói rằng có người nhìn thấy Thượng Đế : "Thượng Đế giống như một cột lửa lớn , như tiếng sấm , như tiếng thủy triều". Khi chúng ta được truyền Tâm Ấn , chúng ta sẽ có thể nghiệm giống như vậy , hay có khi còn cao hơn .
Khi đó chúng ta có thể biết và tin tưởng rằng chúng ta cũng được khai ngộ như những vị Thánh Nhân ngày xưa , và cũng đang được ở trong sự hiện hữu của Thượng Đế . Trong kinh Phật cũng có nói rằng Phật Bồ Tát nghe được nhiều âm thanh khác nhau và nhìn thấy ánh sáng . Quý vị cũng có thể nhìn thấy ánh sáng này và nghe được những âm thanh này lúc thọ Tâm Ấn . Như vậy quý vị có thể biết rằng mình đã đi đúng đường , và thật sự đã được khai ngộ , quý vị đã trở thành Bồ Tát như những để tử của đức Phật khi Ngài còn tại thế .
-
SỰ QUAN TRỌNG CỦA VIỆC TÌM ĐƯỢC MỘT VỊ MINH SƯ
Cảm ơn tình thương của quý vị . Những người bạn của Sư Phụ , Sư Phụ rất hân hạnh lại một lần nữa tới đây thăm viếng quý vị . Quý vị rất bận rộn , ban ngày làm việc vất vả , buổi tối lại vội vã đến đây . Sư Phụ rất cảm động trước lòng thành của quý vị . Hôm nay Sư Phụ muốn chia sẻ với quý vị một câu chuyện hay . Câu chuyện nói về sự khó khăn trong việc vâng lời một vị Minh Sư . Muốn trở thành một vị Minh Sư không phải chuyện dễ , nhưng tìm được vị Minh Sư lại càng khó hơn , và điều khó hơn nữa là sự tin tưởng và vâng lời vị Minh Sư đó .
Câu chuyện như thế này : Có một vị Sư Phụ vô cùng vĩ đại và hoàn mỹ , nhưng vị đó không giống như chúng ta tưởng tượng . Vị đó la rầy trách mắng đệ tử của Ngài hàng ngàn lần (Mọi người cười). Đúng vậy , rất có thể là vị đó đôi khi còn đánh đập một hoặc hai người đồ đệ của Ngài nữa . Cũng giống như câu chuyện của Mật Lạc Nhất Ba (Milarepa), vị thiền sư nổi tiếng ở Tây Tạng và người thầy của ông ta . Có thể quý vị không biết câu chuyện của Mật Lạc Nhất Ba . Sau này Sư Phụ sẽ kể cho quý vị nghe .
Vị Sư Phụ này có những hành động mà chúng ta nghĩ rằng một vị Minh Sư không nên làm . Thí dụ khi có người đến nói rằng : "Sư Phụ sẽ không bao giờ giận dữ", thì vị Sư Phụ đó sẽ nổi giận ngay lập tức để cho người ta thấy điều trái ngược . Chúng ta có thể gọi Ngài là "kẻ khùng điên". Thật sự , chúng ta phải có những hành động như một kẻ khùng điên thì chúng ta mới có thể làm Minh Sư được (Mọi người cười). Nếu quý vị giống như những người bình thường , quý vị không thể thành Minh Sư được . Trên thế giới này , tất cả đều ngược ngạo , điên đảo cả . Những chuyện tốt chúng ta nghĩ là xấu , những chuyện xấu chúng ta ca tụng và nghĩ là tốt . Chỉ khi nào quý vị hoàn toàn khai ngộ mới thấy được những điểm nực cười của thế gian này , sau đó quý vị có thể khùng , một người "khùng điên" hạnh phúc , một kẻ "khùng điên" quân bình .
Một ngày kia , vị Sư Phụ "khùng điên" này bảo một đệ tử của Ngài hãy cầm hai củ khoai lang này và ăn đi . Vị Sư Phụ này nhấn mạnh nhiều lần là nói với vị đệ tử phải ăn hết hai củ khoai cùng một lúc . Sau đó vị Sư Phụ này lại dặn : "Con nhất định phải ăn hai củ khoai này". Người đệ tử đón nhận hai của khoai từ tay của thầy mình , đi ra bờ suối , ngồi xuống và bắt đầu ăn .
Ăn hai củ khoai thật là đơn giản , có phải vậy không ? Quý vị nghĩ rằng : "Khảo nghiệm này có gì là khó ! Bất cứ người nào cũng có thể ăn được hai củ khoai mà !"
Người đệ tử đó vừa ăn vừa suy nghĩ : "Không biết Sư Phụ làm gì đây ?" Nhưng vì người đệ tử đã theo Sư Phụ mình quá lâu , nên biết rằng những lời nói của Ngài đều hàm chứa ngụ ý bên trong và phải nghe lời Sư Phụ mình . Cho nên vị đó ngồi và ăn . Sau khi ăn hết của thứ nhất , vị ấy bắt đầu lột vỏ củ thứ nhì .
Bỗng nhiên có một người hành khất bước đến , đói gần muốn xỉu , và nói rằng :" Xin làm ơn , xin làm ơn cho tôi củ khoai này . Anh vừa ăn hết một củ còn tôi đã mấy ngày rồi không có gì ăn . Nếu anh không cho tôi củ khoai đó , tôi sẽ chết mất".
Sự việc xảy ra như vậy , quý vị phải làm sao ? Quý vị nghe lời Sư Phụ của mình hay nghe theo tấm lòng từ bi của quý vị ? Vị Sư Phụ đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần là phải ăn hai củ khoai ấy . Và quý vị biết rõ quy luật là "trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được trái lời Sư Phụ của mình". Nhưng lòng từ bi chúng ta phải có , và cần phải giúp đỡ những kẻ nghèo đói ! Không cho người nghèo đói ăn thì thật là tàn nhẫn .
Cho nên vị đệ tử này cứ ngồi đó suy nghĩ miên man , nên nghe lời chỉ dạy của Sư Phụ hay nghe theo lời cầu nguyện của người hành khất ? Bỗng nhiên , người hành khất ấy khóc nức nở , ngã xuống mặt đất như sắp chết vậy . Vị đệ tử này vội vã đưa củ khoai còn lại cho người hành khất này .