Đọc báo thấy bài này:
http://www.tinvietonline.com/1/0/200...ce_lawyer.html
Printable View
Đọc báo thấy bài này:
http://www.tinvietonline.com/1/0/200...ce_lawyer.html
wow, ko ngờ vn là như vậy , cám ơn SN nhiều lắm
Quote:
Theo thời gian những bí mật dần dần được tiết lộ, trận chiến mất nước 1975 đã được sắp đạt sẵn y như một vở tuồng hề, Việt Nam đã trở thành bãi chiến trường tan nát vì bom đạn, tệ hại hơn thế nữa, nó đã trở thành món hàng mua bán đổi chác giữa các thế lực siêu cường.
Khà...khà.....Đã biết vậy mà vẫn còn tìm đủ mọi cách để cho người ta thưởng thức cảnh gà nhà bôi mặt đá nhau...........1000 năm giặc Tàu ,100 giặc Tây và 20 năm.....và có lẽ còn một ít người muốn VN trở về thời kỳ đồ đá lắm thì phải !?
PO thì ngược lại...........lịch sử đã biết ,đã hiểu ,đã học......hiện tại là con đường chúng ta cần biết phải làm gì? Có lẽ câu nầy Em bé lớp mẫu giáo trả lời hay hơn......
Tôi không biết ông Trọng Đạt là ai. Tuy nhiên đọc bài này tôi có cảm giác ông này "khát máu". Không biết ông ấy có nỗi đau nào liên quan đến cuộc chiến tàn khốc ấy không.
Cuộc chiến 1954 - 1975, chúng tôi được dạy là "kháng chiến chống Mỹ", theo nhận định của HPL thì không phải như vậy, nó chính là cuộc chiến của 2 phe: Quốc tế Cộng Sản và liên minh Cộng Hoà đại diện là Anh-Mỹ, Việt Nam biến thành bãi chiến trường, và trở thành một cuộc nội chiến đầy máu và nước mắt. Người Việt có cùng dòng máu lạc hồng, vốn không thù không oán cầm súng bắn lẫn nhau, bắn vào người mình không quen biết để phục vụ mục đích chính trị của nhà cầm quyền.
Cuộc chiến chỉ kết thúc khi một bên thua và một bên thắng.
Chiến tranh thật thảm khốc! hình nhưng mỗi gia đình người Việt đều có nợ máu với chiến tranh. Bắc kỳ thì hy sinh cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Nam kỳ thì hy sinh cho Việt Nam Cộng Hoà, Trung kỳ thì mỗi bên phân nửa. Có lẽ vết thương này thực sự rất khó lành.
Nhà tôi cũng có 2 chú ruột đi bộ đội.
Năm 1971 một chú hy sinh, mất xác, mất mộ phần. Mãi gần đây mới nhờ một nhà ngoại cảm ở HN (cậu Liên thì phải) tìm mộ qua điện thoại di động (cậu ngồi ở HN, gọi điện chỉ đường cho đoàn quân tìm kiếm). Năm đó tôi không có trong đội quân đi tìm kiếm vì đang ở nước ngoài. Gia đình tôi đã tìm được mộ của chú được qui tập về nghĩa trang Cam Lộ, Đông Hà, Quảng Trị. Bia mộ là "liệt sĩ vô danh". Đành phải tin là thật vì nó có rất nhiều sự trùng khớp mà người thường không giải thích được.
Ban đầu tính là tìm mộ, nếu tìm được sẽ qui tập về nghĩa trang dòng họ ở quê. Nhưng khi tìm được rồi thì quyệt định là để nguyên bởi không có được 100% chắc chắn. Chỉ làm một cái bia thay cho cái bia "liệt sĩ vô danh".
Ông chú thứ hai thoát chết trong chiến tranh, có lẽ đây là kỳ tích của ông trời. Thành cổ Quảng Trị năm 1972, một cuộc cá cược đầy máu và nước mắt giữa hai bên cầm quyền "xem bên nào giữ được thành cổ?". 82 ngày đêm, quân đội Bắc Việt mỗi ngày nướng 1 đại đội để giữ thành. Mỗi đại đội là 100 người. Cứ đại đội này vào tiếp quản thì dọn xác của đại đội trước. Mãi tận 82 ngày, quân Bắc Việt mới thấy là mình ngốc. Một cái "ngốc" nực cười mà cười không nổi, một cái cười méo xệch đầy máu và nước mắt. Lấy mạng người làm mồi cho bom và phi pháo.
Trong một lần dọn xác đồng đội, họ phát hiện một người còn thoi thóp thở, bị đè bên dưới lớp lớp xác đồng đội khác, tất cả các lỗ chân lông trên toàn thân đang rỉ máu. Họ đưa người chiến sĩ đó lên cáng đưa về hậu tuyến. Tuy nhiên họ nghĩ: "anh ấy cũng khó có thể thoát khỏi quỉ môn quan".
Thế nhưng không biết ông trời làm kỳ tích, hay ý chí muốn sống của người chiến sĩ ấy đã tạo ra kỳ tích. Ba tháng sau, người chiến sĩ ấy đã trở về đến quê nhà, trên mình còn đầy thương tích, nhưng người chiến sĩ ấy còn sống.
Người đầu tiên gặp người chiến sĩ ấy là ông nội tôi, ông bán hàng nước, và ông không nhận ra anh bộ đội đến ngồi ở quán nước mà không nói chuyện.
Từ dưới bếp, cô của tôi đi lên, nhìn thấy anh bộ đội đang nửa ngớ ngẩn kia rất giống em mình. Cô của tôi đã kêu lên: "ơ!... Trình!...", rồi chạy ra ôm chầm lấy em mà khóc tức tưởi.
Tôi mong trên đời này không còn những kẻ tham thích chiến tranh để con người khỏi bị biến thành nạn nhân của nó.
Như Lão Lan đã nói, cuộc chiến Việt Nam chỉ là bãi chiến trường giữa hai khối Quốc Tế Tự Do và Quốc Tế Vô Sản thử lửa với nhau.
Chính sách của Quốc Tế Tự Do là ngăn chận sự bành trướng thế lực của Quốc Tế Vô Sản. Chính sách này đã sinh ra "Kế Hoạch Marshall" tức là Marshall Plan.
Sau khi Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc, toàn thể Âu Châu tan hoang. Những vùng đất nào của Châu Âu do Nga Sô Viết nắm giữ đều được Stalin viện trợ kinh tế tối đa để thành lập những quốc gia theo chủ nghĩa Cộng Sản. Khối Tự Do dẫn đầu là Mỹ, Anh và Pháp thất kinh, nhất là Mỹ. Vì cả Âu Châu tan hoang, nếu lo kiến thiết lại thì sẽ bị Nga Sô Viết đi trước như đang làm ở Đông Âu. Từ đó Chính Sách Truman (được gọi theo tên tổng thống Harry S. Truman của Mỹ lúc bấy giờ, người quyết dùng đủ mọi cách để ngăn chận Cộng Sản) được ra đời. Đứa con đầu lòng của Chính Sách Truman là Kế Hoạch Marshall (gọi theo tên ngoại trưởng George Marshall của Mỹ) với 13 tỷ đô la viện trợ kinh tế cho Tây Âu, những nơi dưới quyền cai quản của khối Anh - Pháp - Mỹ, trong vòng bốn năm trời.
Nhờ sự nhìn xa của tổng thống Truman, nền kinh tế Tây Âu phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy trong lịch sử, còn mạnh hơn hồi chưa có chiến tranh. Tất nhiên Tây Âu giàu có thì dân chúng chẳng dại gì quăng bỏ đi hết để đi theo chính sách vô sản. Do đó Tây Âu được giữ.
Ngoài ra Mỹ còn viện trợ kinh tế cho Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp để ngăn chận sự bành trướng của những phần tử muốn đi theo Mạc Tư Khoa thay vì Hoa Thịnh Đốn hoặc Luân Đôn.
Cũng vì Mỹ quá chú trọng đến Tây Âu mà bỏ rơi Tưởng Giới Thạch tại Hoa Lục. Là một bốn vị lãnh tụ của khối Đồng Minh đánh lại phe Trục (Roosevelt, Churchill, Stalin và Tưởng Giới Thạch), sau khi Nhật đầu hàng vô điều kiện thì Tưởng Giới Thạch cũng dần dần mất chỗ đứng tại Liên Hiệp Quốc.
Lúc bấy giờ Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng được nằm trong Ngũ Cường (Anh, Mỹ, Pháp, Nga và Trung Hoa Quốc Dân Đảng) của Liên Hiệp Quốc, còn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa của Mao Trạch Đông thì không được. Nội chiến Quốc - Cộng Trung Hoa xảy ra từ sau Đệ Nhị Thế Chiến cho đến năm 1949 thì kết thúc. Trung Hoa Quốc Dân Đảng đại bại, Tưởng Giới Thạch đem tàn quân chạy ra đảo Đài Loan và năn nỉ Mỹ như điên. Vì mất Hoa Lục nên Tưởng cũng mất luôn địa vị tại Liên Hiệp Quốc.
Có lẽ thấy để mất Hoa Lục là một sai lầm, Mỹ quyết không để tái phạm sai lầm lần thứ hai. Mỹ nhúng tay vào Chiến Tranh Triều Tiên.
Ngày 6 tháng 8 năm 1945 Mỹ thả quả bom nguyên tử đầu tiên vào thành phố Hiroshima, Nhận Bản. Tất cả thành phố bị san thành bình địa.
Ngày 8 tháng 8 năm 1945 Nga Sô Viết xé bỏ hiệp ước bất xâm phạm giữa Nga - Nhật và đánh vào Mãn Châu với ba lộ quân đoàn (3 army groups). Khoảng hai tuần lễ sau, trên một triệu quân Nhật tại Mãn Châu hoàn toàn bị tiêu diệt. Quân Nhật bị diệt thì Triều Tiên bỏ ngõ. Nga Sô Viết đem quân vào bắc Triều Tiên, dùng vĩ tuyến 38 làm ranh giới giữa Nga Sô Viết ở bắc và lực lượng Mỹ ở nam.
Ngày 9 tháng 8 năm 1945 Mỹ thả quả bom nguyên tử thứ hai vào thành phố Nagasaki, Nhật Bản và san thành bình địa.
Ngày 14 tháng 8 năm 1945 hoàng đế Hirohito của Nhật Bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Bán đảo Triều Tiên được chia nam bắc dùng vĩ tuyến 38 làm ranh giới. Phía nam được Mỹ viện trợ kinh tế nên đi theo khối Tự Do. Phía bắc thì bị ảnh hưởng của Mạc Tư Khoa nên đi theo chủ nghĩa Cộng Sản.
Ngày 25 tháng 6 năm 1950, với sự chấp thuận của Mạc Tư Khoa, Kim Nhật Thành ra lệnh cho quân tràn qua vĩ tuyến 38 để đánh miền nam. Vì ra quân bất ngờ, sự thành công của quân đội miền bắc vô cùng rực rỡ.
Nhưng Bình Nhưỡng đã tính sai lầm vì nghĩ rằng Mỹ không đủ thời gian đem quân giải cứu chính phủ miền nam Triều Tiên.
Ngày 15 tháng 9 năm 1950, tổng tư lệnh của quân đội Liên Hiệp Quốc (hầu hết là quân Mỹ) là đại tướng MacArthur ra lệnh đổ bộ tại thành phố Inchon và cắt đường rút lui của quân đội bắc Triều Tiên. Cuộc ra quân vô cùng bất ngờ này đem lại sự thành công vô cùng to lớn khiến cho MacArthur muốn đuổi hết quân đội Cộng Sản Bắc Triều Tiên ra khỏi bán đảo Triều Tiên.
Cuối tháng 10 năm 1950, vì quân đội Mỹ đến quá gần Mãn Châu, Mao Trạch Đông ra lệnh dùng chiến thuật biển người đánh lui quân Liên Hiệp Quốc (gồm Mỹ, Anh và nam Triều Tiên).
Đến đầu tháng 1 năm 1951, quân bắc Triều Tiên với sự tiếp viện vô cùng hùng hậu của Trung Hoa tấn công mạnh mẽ hơn và đẩy lui quân đội Liên Hiệp Quốc về phía nam vĩ tuyến 38.
Sau đó thì hai bên giằng co ở vĩ tuyến 38 cho đến hai bên ký hiệp ước ngưng bắn vào 27 tháng 7 năm 1953 và dùng vĩ tuyến 38 làm ranh giới.
Tuy không đuổi được khối Cộng Sản ra khỏi bán đảo Triều Tiên nhưng khối Tự Do đã ngăn chặn được ở vĩ tuyến 38 cho đến nay.
Đến đây thì cuộc chiến Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh đã đến giai đoạn khốc liệt nhất.
Đầu năm 1945 thì quân đội Nhật ở Đông Dương lật đổ chính quyền Pháp tại Đông Dương để làm chủ. Nhưng khi Nhật đầu hàng thì Đông Dương bỏ ngõ.
Lúc bấy giờ tại Việt Nam tình hình chính trị rối ren. Nào phái bảo hoàng, muốn giữ ngôi vua cho họ Nguyễn, trong đó có Trần Trọng Kim. Nào là phái thân Pháp của Bình Xuyên. Phái thân Nhật của Đoàn Kiểm Điểm. Phái theo Đệ Tứ Quốc Tế Cộng Sản của Tạ Thu Thâu. Theo Đệ Tam Quốc Tế có Nguyễn Hải Thần, Lê Hồng Phong, Nguyễn Tất Thành, Võ Nguyên Giáp v.v. Phái theo Trung Hoa Dân Quốc là các vị thủ lĩnh của Việt Nam Quốc Dân Đảng gồm Trần Khánh Giư (Khái Hưng), Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Nghiêm Kế Tổ v.v. Hình như nhà cách mạng Phạm Quỳnh cũng có ý đi theo Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Có nhiều thuyết nói rằng Nguyễn Tất Thành đi theo Nguyễn Hải Thần rồi sau đá Nguyễn Hải Thần ra để nắm lấy đảng Việt Nam Sinh Viên Đồng Chí Hội.
Có một nhà cách mạng khá nổi tiếng lúc bấy giờ tên cúng cơm là Hồ Học Lãm. Khi ông Lãm làm cách mạng thì lấy tên là Hồ Chí Minh. Sau khi Hồ Học Lãm chết thì Nguyễn Tất Thành (trước tên Nguyễn Sinh Côn) đổi tên mình thành Hồ Chí Minh.
Cũng có thuyết nói rằng vì Việt Nam sau Đệ Nhị Thế Chiến nằm trong tình trạng chi năm xẻ bảy Hồ Chí Minh đi đêm với Pháp, mời Pháp trở lại Đông Dương. Khi Pháp trở lại Đông Dương rồi thì Việt Nam Sinh Viên Đồng Chí Hội, sau đổi thành Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, đứng vào vai trò lãnh đạo hô hào đánh Pháp cứu nước.
Theo hồi ký "2000 Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi" của Dương Đình Lôi thì Việt Minh giết tập thể rất nhiều giáo dân theo Cao Đài và Hòa Hảo ở Nam Việt. Có rất nhiều thuyết nói là giáo chủ Huỳnh Phú Sổ của bị Việt Minh giết. Tạ Thu Thuâu thì bị người em kết nghĩa là Trần Văn Giàu đi theo Đệ Tứ Quốc Tế giết. Nhà cách mạng kiêm nhà văn Phạm Quỳnh cũng bị Việt Minh giết. Tướng Nguyễn Bình, thủ lãnh quân đội Việt Minh ở Nam Việt cũng bị giết vì có tư tưởng khác với nhóm lãnh đạo. Dương Bạch Mai thì bị đầu độc và chết tại Quãng Trường Ba Đình khi đang đọc diễn văn.
Giữa Việt Minh và Việt Nam Quốc Dân Đảng trong thời gian này kình chống nhau ra mặt vì Việt Nam Quốc Dân Đảng một là không chịu để cho Việt Minh lãnh đạo và hai là không muốn đi theo chủ nghĩa Cộng Sản.
Khi Pháp chiếm lại Đông Dương thì Việt Minh được Nga và Tàu cung cấp võ trang để "đánh Pháp cứu nước" còn Việt Nam Quốc Dân Đảng thì chỉ thuần túy một đảng chính trị, do đó hầu như ngồi chơi xơi nước trong cuộc chiến Đông Dương (1945 - 1954).
Pháp thì mới kiến thiết sau chiến tranh ở Châu Âu, thuộc địa thì nơi nào cũng đòi độc lập, cuộc chiến Đông Dương ngày càng leo thang nên Pháp bị hụt hơi, một mình không "chơi" nổi với Nga, Tàu nên mời Mỹ vào giúp sức.
Năm 1954, Pháp bị đại bại ở Điện Biên Phủ, chính phủ Pháp quyết định bàn giao cuộc chiến Đông Dương lại cho Mỹ.
Với Chính Sách Doctrine đạt thắng lợi ngăn chận sự bành trướng của khối Cộng Sản hầu hết mọi nơi, tổng thống Eisenhower "vui vẻ" nhận sự bàn giao của Pháp. Chia đôi Việt Nam, dùng vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Miền Bắc do Hồ Chí Minh làm lãnh tụ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Miền Nam do Ngô Đình Diệm làm quốc trướng (sau tổng thống) của Việt Nam Cộng Hòa. Những thành phần Việt Nam trong quân đội Pháp tại Đông Dương được Pháp bàn giao lại cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Những thành phần quân đội ấy là nòng cốt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sau này.
Vì nghĩ ngăn chia Việt Nam cũng dễ dàng như ngăn chia Triều Tiên, Mỹ hoàn toàn không nghĩ đến chiêu bài "đánh Mỹ cứu nước" của Bắc Việt. Mỹ đổ tiền bạc vào Miền Nam để dựng lên một nền kinh tế và một quân đội theo binh pháp của Mỹ.
Không biết là vô tình hay cố ý mà Mỹ đã dùng Miền Nam và Nga Tàu dùng Miền Bắc Việt Nam làm nơi thử vũ khí chiến tranh kéo dài trên 20 năm.
Nhưng khách quan mà nói, Mỹ dùng Chính Sách Truman và Kế Hoạch Ngăn Chận (Containment Plan), tốn kém không biết bao nhiêu tiền của và sinh mạng dân chúng của hai nước để rồi thất bại vào năm 1975 khi Mỹ bắt đầu chán ngấy cuộc chiến vào năm 72. Điều chắc chắn rằng nếu Mỹ không tiếp quản được cuộc chiến Đông Dương từ Pháp thì tất cả Nam, Bắc, Trung Việt Nam đều theo Cộng Sản từ năm 1954 và có lẽ sẽ không hơn được Bắc Hàn hay Cuba ngày nay.
Dựa theo lịch sử mà nói, hễ đạt được thái bình sau khi thắng lợi vẻ vang một cuộc chiến đầy cam go thì nền kinh tế của một quốc gia phát triển vô cùng mạnh mẽ, dân chúng sẽ cảm thấy sung sướng rất nhiều. Không riêng gì Việt Nam mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều vậy.
Sau Đệ Nhất Thế Chiến chấm dứt thì các quốc gia Tây Âu và Mỹ có nền kinh tế phát triển tột bực. Đức, Áo, Hung, Thổ là kẻ chiến bại thì đi vào sự nghèo nàn, loạn lạc.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến thì Mỹ, Tây Âu, Úc, Tân Tây Lan và Nhật Bản kinh tế phát triển mạnh mẽ vô cùng.
Sau khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt, Mỹ đại thắng ở Vịnh Ba Tư năm 91 thì nền kinh tế của Mỹ phát triển chưa từng có.
Trở lại lịch sử Việt Nam:
- Sau khi Hai Bà Trưng thành đại nghiệp vào năm 39, năm 40 và 41 Lĩnh Nam trúng mùa, lúa thóc dư không biết bao nhiêu mà kể. Tiếc là đến năm 43 thì Lĩnh Nam mất.
- Sau khi đánh đuổi quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm 939, kết thúc 1050 năm bị Tàu đô hộ, Ngô Vương thành lập một nền cai trị vững vàng. Chỉ tiếc là ngài làm vua được 6 năm thì mất và đưa đến loạn 12 Sứ Quân.
- Dẹp xong loạn 12 Sứ Quân, Đinh Bộ Lĩnh lập ra Đại Cồ Việt. Đất nước lại thanh bình, không còn nạn trộm cắp, dân được yên ổn.
- Đánh thắng được quân Tống vào năm 980, vua Lê Đại Hành thanh thế lẫy lừng. 24 năm cai trị của ông đất nước không có cảnh loạn lạc hay đói khổ.
- Từ thời vua Lý Thái Tổ đến hết đời vua Lý Nhân Tông (1024 - 1128) Đại Việt cường thịnh chưa từng có. Năm lần đánh Tống (thắng) và một lần chống Tống (thắng) với ba lần bình Chiêm (cũng thắng) hiển hách, nhiều sử gia cho rằng Đại Việt là quốc gia hùng mạnh nhất Á Đông lúc bấy giờ, chỉ sau nhà Tống.
- Ba lần đánh bại quân Mông Cổ, chiến công lẫy lừng. Nhà Trần thành lập một nền học phong và cai trị vô cùng kỷ cương, tốt đẹp, nhất là dưới thời vua Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông.
- Từ lúc ngài Lê Lợi lên ngôi vua (1428) cho đến hết đời vua Lê Hiến Tông (1504) Đại Việt hùng mạnh vô song, đến nhà Minh cũng còn phải nể sợ. Ngoài chiến công đánh đuổi quân Minh ra còn có đánh Ai Lao, Bồn Mang, Chiêm Thành dưới thời vua Lê Thánh Tông.
- Sau khi đánh đuổi nhà Mạc, chúa Trịnh và chúa Nguyễn chấm dứt chiến tranh với nhau thì kinh tế và văn học của Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài đều phát triển tốt đẹp.
- Nhà Tây Sơn tuy ngắn ngủi nhưng Thái Đức đế làm vua ở Nam Hà và Quang Trung Đế làm vua ở Bắc Hà đều đóng góp vào việc học phong (chữ Nôm) và binh bị rất nhiều.
- Nguyễn Phúc Ánh thống nhất Việt Nam vào năm 1802 và lên làm Gia Long hoàng đế cho đến đời vua Tự Đức, giặc giã tuy có nhiều nhưng không phải vì vậy mà không phát triển, nhất là văn học.
Cứ theo đó mà suy, hầu hết là sau khi chiến tranh chấm dứt đều có sự phát triển kinh tế, văn học và quân đội.
Nhìn lại nước Việt Nam từ sau năm 75 đến nay ai cũng phải lắc đầu. Từ năm 75 đến năm 95, đất nước nghèo nàn, lạc hậu, đói khổ. VL còn nhớ thời gian năm 83 - 85, nhà có ruộng lúa nhưng ăn cơm phải ăn độn với khoai lang và khoai mì. Sữa không có nên uống nước cơm thay thế. Gia đình vào hạng khá mà còn vậy thì gia đình nghèo ra sao?
Còn văn học và âm nhạc từ năm 75 đến nay có được những cái gì? Báo chí thì viết chữ sai be bét; sai lỗi chính tả, sai cách hành văn và sai luôn cách dùng chữ. Âm nhạc cũng chẳng khá hơn. Nhạc trẻ bây giờ chỉ là một thứ nhạc lai căng hoặc nhạc ăn cắp. Toàn là dùng những bản nhạc nổi tiếng của nước khác rồi thêm lời Việt vào, tự mình sáng tác chẳng được bao nhiêu. Ca sĩ mới lẫn cũ, nếu muốn có được chút tên tuổi thế nào cũng phải hát lại những bản "nhạc Vàng" tức là nhạc ở Miền Nam trước năm 75.
Kinh tế Việt Nam thì được kê vào những nước nghèo nhất trên thế giới. Lận đận mãi đến năm ngoái mới vào được WTO.
Chính phủ Hà Nội thì lúc nào cũng tự hợm mình có tài đánh thắng Pháp, đánh thắng Mỹ cứu nước. Nếu giỏi thế sao mỗi năm nhận một số tiền viện trợ kinh tế của Pháp? Nếu giỏi thế sao lại lạy lục xin Mỹ để Mỹ đưa vào WTO? Chưa một lần nào trong lịch sử Việt Nam mà các anh hùng cứu quốc xa xưa sau khi đánh thắng quân thù thì lại đi lạy lục quân thù để mà kiến thiết và phát triển đất nước.
Lý do rất dễ hiểu. Xin đọc giả đọc câu chuyện cười hổng nổi sau đây
Trong cuộc thi chèo thuyền, đội Việt Nam và đội Nhật tranh tài
Kết quả đội Nhật thắng
Người việt tìm hiểu nguyên nhân thì thấy bên thuyền người Nhật
có 6 người chèo và một người chỉ huy , còn thuyền của đội Việt Nam
có 6 người chỉ huy và một người chèo.
http://img267.imageshack.us/img267/4...othuyennb8.jpg
Chuyện cô nữ giảng viên trường Đại học Sư Phạm Thái B́inh` Đoàn Dự
Ngày 9-1-2007, trong mục “Ai là triệu phú” trên đài Truyền h́nh VTV3 Hà Nội, do MC kỳ cựu Lại văn Sâm điều khiển, người trúng cách được mời lên chiếc “ghế nóng” tham dự chương tŕnh là cô Nguyễn Thị Tâm, 27 tuổi, giảng viên trường Đại học Sư phạm thành phố Thái B́nh (Thái B́nh nay là thành phố, không c̣n thị xă nữa).
MC đặt câu hỏi nguyên văn như sau: “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng; ai là người khâng phải anh em ruột với ba người kia ?” .
Cô nữ giảng viên Đại học Sư Phạm suy nghĩ một lát rồi nói:
- Tự Lực Văn Đoàn… Hừ, Tự Lực Văn Đoàn, tôi chưa nghe nói đến bao giờ cả. H́inh như đó là một gánh cải lương. Cọn Nhất Linh chắc chắn là một nghệ sĩ cải lương. – Riêng Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng…
tôi không biết ba ông này có phải nghệ sĩ cải lương như Nhất Linh không.
- Vậy chị kết luận ai không phải anh em ruột với ba người kia ?
- Tôi đề nghị cho tôi được hưởng quyền trợ giúp, gọi điện thoại cho người thân.
- Chị muốn gọi cho ai ?
- Cho anh Nam, một bạn đồng nghiệp cũng dạy trong trường. Anh Nam là người đọc rất nhiều sách, kiến thức rất rộng, chắc chắn anh ấy biết.
MC cho pḥong máy liên lạc với người tên Nam đang chờ sẵn ở nhà để trợ giúp, “cứu bồ” cho cô Tâm.
- A lô, anh Nam phải không ạ ? Tôi là Lại Văn Sâm đang ngồi với chị Nguyễn Thị Tâm trong chương tŕinh “Ai là triệu phú”. Anh có sẵn ḷng trợ giúp chị Tâm một câu hỏi không ạ ?
- Vâng, xin chào anh Lại Văn Sâm. Tôi rất sẵn ḷng.
- Nếu vậy anh và chị Tâm có ba muơi giây để vừa hỏi vừa trả lời. Ba mươi giây của anh và chị bắt đầu…
Cô Tâm lập lại câu hỏi như chương tŕnh đă hỏi: <> “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn…”, “Anh cho em biết Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, ai không phải là anh em ruột với ba người kia…” Đầu dây có tiếng trả lời rất lớn và dứt khoát, nghe rơ mồn một:
- Hoàng Đạo, Hoàng Đạo không phải là anh em ruột với Nhất Linh, Thạch Lam và Khái Hưng.
- Chắc chắn không anh:
- Chắc trăm phần trăm.
- Ba mươi giây của chị đă hết. Xin chị cho biết câu trả lời.
- Tôi tin vào kiến thức của người bạn đồng nghiệp của tôi. Tôi trả lời, Hoàng Đạo không phải anh em ruột với ba người kia.
- Chị quyết định như thế?
- Vâng, câu trả lời của tôi là phương án B, Hoàng Đạo.
- Sai. Giải đáp của chúng tôi là phương án D, Khái Hưng. Khái Hưng không
phải anh em ruột với Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam. Hoàng Đạo tên thật là Nguyễn Tường Long, sinh năm 1906, em ruột nhà văn Nhất linh, anh ruột nhà văn Thạch Lam. Như vậy phần thưởng của chị từ năm triệu đồng c̣n lại một triệu đồng. Nhưng không sao, chúng ta lấy vui làm chính. Xin cám ơn chị đă tham dự chương tŕnh.
Ứng viên Nguyễn Thị Tâm bị loại khỏi cuộc chơi, nhường chỗ cho người khác.
Thưa quy' bạn, ở ngoài Bắc, một giảng viên hoặc một sinh viên đại học không biết Tự Lực Văn Đoàn hoặc Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam là ai là một điều bính thường, đối với chúng tôi không có ǵi đáng ngạc nhiên. Thậm chí, trong tṛo chơi “ Rung Chuông Vàng”, được hỏi Hùng Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ là ai? , họ không biết, chúng tôi cũng không ngạc nhiên luôn. Tuy nhiên, trong bốn tiếng “Tự Lực Văn Đoàn” đă có hai tiếng “Văn Đoàn” thí đó không thể là một gánh cải lương được và Nhất Linh không thể là một kép hát cải lương được, phải suy nghĩ chứ.
Đem cái kiến thức như vậy ra giảng dạy cho sinh viên rồi sau này sinh viên (ĐHSP) ra trường, lại đi giảng dạy cho học sinh th́ rất nguy hiểm. Ông Lư Quang Diệu, cựu thủ tướng Singapore năm nay đă 82 tuổi, mới sang thăm Việt Nam nói: “Ngay cả về mặt kinh tế, nếu muốn thành công trước hết phải có sự đầu tư vào giáo dục tốt”.
– Một nền giáo dục với những giảng viên có kiến thức như vậy tôi e rằng không phải là một nền giáo dục tốt.
Bài viết sưu tầm trên net
Ngày hôm nay VL mới biết thêm được nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam là ba anh em ruột. Lúc trước VL chỉ biết Nhất Linh là bút hiệu của nhà văn kiêm nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam và Khái Hưng là bút hiệu của nhà văn kiêm cách mạng Trần Khánh Giư. Hoàng Đạo chỉ nghe nói chứ không có đọc tác phẩm nào của ông ta. Còn Thạch Lam thì có đọc một phần truyện "Gió Đầu Mùa"
Thanks Inspector :)
Nghe nói nhà nước ta đã xin lổi và bồi thường thiệt hại cho "Nhan dân giai phẩm" tời bi giờ chỉ còn sống sót có 2 người , Nhà nước ta lợi hại thiệt:g:
hahahaha cám ơn Gadget về tấm hình này , tôi xin giữ lại để làm kỹ niệm , hồi đó tơi ở VN tơi cũng có nghe câu chuyện này rồi.....nhưng hơi khác 1 chút nhưng ý thì y chang
ca7u chuyện đã được nghe là như vậy
Trong 1 buổi ăn nhâu của người Nhât có 10 người thì có 1 sư đoàn trưởng
Trong 1 buổi nhâu nhẹt dân ta trong 10 người thì có 10 thằng sư đoàn trưỡng :g:
VL đang chê về lỗi chính tả, thì GADGET lại copy ngay một bài ở đâu về để chê cái lỗi "cù léc". Nhưng khi đọc cái bài do GADGET copy ấy, nếu không quá 10 lỗi chính tả thì lão cứ "đi đầu xuống đất"!
Thực ra lão có biết đến cái tên "Tự lực văn đoàn", biết thôi, chứ không hiểu rõ lắm, nhưng không đến nỗi nhầm thành "gánh hát". Nếu hỏi về ai không phải là anh em ruột với 3 người kia thì lão hoàn toàn mù tịt... kẹ kẹ... chuyện này chắc cũng bình thường thôi.
Hiểu chít liền! "Nhan dân giai phẩm" là cái gì vậy ta? có liên quan gì tới mấy cái này không?
Đọc sao mà nghe giống "gian nhân giai phẩm" :biggrin:
hừm, giảng viên đại học sư phạm mà kiến thức như thế thì...
Ngày nay, các em học sinh ở VN đã được học Tự lực văn đoàn rồi. Học cả Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ... hơn chục năm nay rồi. Không biết ai trong số 4 ông không phải là anh em ruột thì có thể thông cảm, chứ lầm TLVĐ với 1 gánh hát thì quá tệ. Là giảng viên đào tạo ra nhà giáo tương lai mà kiến thức như vậy em đoán chắc cô này có gốc "bự" chứ chẳng có tài cán gì .
Chương trình hôm đó em cũng có coi, cười muốn bể bụng. Ông anh ngồi kế bên nói với em (về cái cô giảng viên kia): "Tao không biết học trò của cô ta sau này sẽ như thế nào". Em cũng bó tay
Xin lỗi bà koan nha ,,,,nãy giờ Hamster đọc bài của mọi người ,,,có cái tỏ cái kô,,,nói chung là loạn xà ngầu lên hít ,,,,kô bik ý nghĩa chung là cái gì,,,,có ai xung phong giải thik dùm kô a.,,,,,???? ^_^
Chủ đề của topic này là Chẳng biết bỏ bài này ở đâu
Đó là chủ đề chứ không phải là nội dung :) Cứ để ngay đây vẫn thấy tốt hơn.
Mỗi người mỗi ý thì làm gì có ý chung được TH :)
"Nhân Văn Giai phẩm "..........thì đúng hơn !
Thú thật PO cũng khó mà nói và bình phẩm " Tự lực văn đoàn " vì sự hiểu biết còn nông cạn.Vả lại theo lịch sử thì nhóm nầy có chủ trương cách mạng văn học theo lối canh tân.........xoay chiều theo định hướng tự do phóng khoáng Âu Tây thời đó........Họ có cái hay là muốn dùng vủ khí văn chương để đánh vào giới trí thức ( thành phần gần gủi với chính quyền Đô hộ ).............nhưng họ thất bại vì quên rằng lực lượng chủ chốt gây sức mạnh thượng phong là dân nghèo và hạng người trung niên và lớn tuổi ( nên nhớ rằng lớp trẻ VN thời bấY giờ đâu có ai dám cãi lời Ông Bà Cha Mẹ? Do đó họ gây tiếng vang nhưng rồi cũng bị quên lãng......có nhóm cho rằng bị trấn áp bởi phe kháng Pháp , cũng có người cho rằng không được tiếng vang lâu dài vì họ dám cả gan đem lối Tây học giải phóng đạo đức Khổng giáo?!
Việt Làng nói không phải là không đúng......nhưng Văn chương Việt Nam vào thời đó tương đối đang có những chuyển biến đáng kể ,nhưng rồi chiến tranh và sự nổi dậy dành độc lập dân tộc đã đưa VN vào một thời kỳ đen tối nhất của lịch sử?! Gia tài bây giờ đâu có gì ngoài những hình thức văn chương chấp vá hoặc với hình thức quần chúng sơ khai.........chiến tranh đã kéo lùi sự tiến hóa của dân tộc vài thế kỷ là chuyện thường.
Hiện tại sự giao lưu theo nhịp phát triển chung của cái gọi là Thế giới Mậu dịch ,theo PO nghĩ nó đang đi trở về cái thuở xa xưa..........liệu người Việt sẽ phản ảnh ra sao và con đường Văn học nghệ thuật sẽ đi về chiều hướng nào?! Đó là sự sáng suốt và công tâm của người mua kẻ bán.........của giới trình diễn và kẻ thưởng lãm......
". . . cả gan đem lối Tây học giải phóng đạo đức Khổng giáo" VL cho rằng không phải cả gan mà là cần thiết. Cái gọi là Nho Giáo của thế kỷ 19 và 20 đem lại cho Việt Nam được những gì? Cần thiết để cải cách, cần thiết để canh tân và cần thiết để phát triển một quốc gia nghèo nàn, nhu nhược và lạc hậu. Trong khi xã hội Tây Phương dùng phương thức khoa học (Scientific Method) để canh tân và bành trướng công nghệ, kỹ nghệ, kinh tế và quân sự thì ở Việt Nam vua Tự Đức khen Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát qua đôi câu đối:
Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy nhất thịnh đường
Tạm dịch: Văn chương như Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát thời tiền Hán không có.
Thi thơ như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương ngang với thời Đường.
Cao Bá Quát ngông thì ngông đấy, nhưng lấy hiệu là Chu Thần (tức thần tử nhà Chu).
Thời buổi nào rồi mà còn đem Hán, Đường, Chu của Tàu ra mà trích dẫn, mà tự hào? Những thứ từ chương trích cú như vậy đâu thể làm cho Việt Nam phú cường. Việc chính sự triều đình cũng như cách đối ngoại với Tây Phương, thấy nhà Thanh làm sao rập khuôn làm vậy. Nguyễn Trường Tộ được qua Mỹ, được chứng kiến cảnh văn minh của Tây Phương qua cái bóng đèn điện, khi về nước thì chẳng được người nào nghe. Cuối cùng thì chết trong ấm ức. Cái gọi là Nho Giáo đó chỉ là mở miệng nói suông, không có thực tiễn, thì tại sao lại không bỏ nó đi?
Nhà cách mạng Phan Chu Trinh khi còn trẻ là một nhà thâm Nho. Khi thấy cái Nho Giáo không còn dùng được thì lập tức cắt tóc ngắn, mặc âu phục, đi từ bắc chí nam làm cách mạng, canh tân đất nước.
Phan Bội Châu lập ra chương trình Đông Kinh Nghĩa Thục đưa thanh niên Việt Nam ra nước ngoài du học để có thể canh tân đất nước.
Vua Duy Tân tự học lái xe, mặc âu phục vì muốn canh tân.
Nhà văn Phan Kế Bính, Phan Khôi, Nhất Linh, Khái Hưng, v.v. mở đầu nền Quốc Ngữ Việt Nam. Sự việc này quan trọng biết bao nhiêu.
Các nhà thơ như Phan Khôi, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bàng Bá Lân, Hồ Dzếnh, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, v.v. dùng văn thơ của mình để phát triển thêm chữ Quốc Ngữ.
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, nền giáo dục ở Việt Nam là học chữ Nho và học chữ Pháp. Chữ Nôm tuy có nổi tiếng với các thi hào như Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, v.v. nhưng chữ Nôm rất khó học vì không có một hệ thống nhất định. Muốn học chữ Nôm trước hết phải thông thạo chữ Hán.
VL không đồng ý với PO ở điểm Nhóm Tự Lực Văn Đoàn nhắm vào giới trí thức là điểm yếu của họ. Ngược lại VL cho đó là hành động cao cả với cái nhìn xa trông rộng thật đáng khen ngợi.
Tại sao?
Muốn canh tân đất nước thì phải nhắm vào người có học, mở mang sự học hành và khuyến khích tư tưởng mới lạ. Có ai lại canh tân đất nước mà nhắm vào đám bần cố nông ngoại trừ Cộng Sản để rồi từ năm 54 đến năm 75 miền Bắc cống hiến được những gì vào nền văn học Việt Nam?
Tư tưởng của mỗi người mỗi khác. Người bi quan nhìn sự việc theo chiều xấu, người lạc quan nhìn sự việc theo chiều tốt. Trịnh Công Sơn chỉ dùng cái tài của mình để than mây khóc gió để viết lên:
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn
...
Gia tài của mẹ là rừng xương khô
Gia tài của mẹ là chuỗi đầy mồ
...
Gia tài của mẹ là bọn lai căng
Gia tài của mẹ là lũ tội tình
Vậy theo Trịnh Công Sơn, trong một ngàn năm nô lệ giặc Tàu thì các vị Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bố Cái Đại Vương, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Mai Hắc Đế, Khúc Hạo, v.v. chỉ là một nước Việt buồn, một rừng xương khô, một chuỗi đầy mồ ... vậy những người trên, theo Trịnh Công Sơn, là tội đồ của đất nước chăng?
Thời Pháp thuộc có Trương Định, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám, v.v. dưới con mắt của nhạc sĩ họ Trịnh thì những người đó còn nặng tội hơn các vị anh hùng thời Bắc Thuộc.
Nội chiến Việt Nam là cuộc tranh đấu giữa hai ý thức hệ: Cộng Sản và Tư Bản. Việt Nam chỉ là bàn cờ mà quốc tế dùng để thí quân và thử lửa một cách vô tội vạ. Nhưng không phải vì vậy mà nó không có giá trị của nó.
Vì vậy VL nói, người yếm thế nhu nhược sẽ nhìn đời bằng cặp kính bi ai, thống khổ. Người mạnh dạn đứng lên tranh đấu sẽ cho đó là bài học, là gương sáng để nối gót tiền nhân, đem đất nước từ đống đổ nát thành một quốc gia phú cường. Nhật Bản làm được, Pháp làm được, Anh làm được, Ý làm được, Đức làm được, Nam Hàn làm được, Ấn Độ và Trung Hoa đang làm, còn Việt Nam sao lận đận mãi.
Cũng theo chủ ý trên, PO cho rằng nền văn học Việt Nam thời kỳ trước chiến tranh Đông Dương (1932 - 1945) là thời kỳ "đen tối ... Gia tài bây giờ đâu có gì ngoài những hình thức văn chương chấp vá hoặc với hình thức quần chúng sơ khai."
VL thì nghĩ ngược lại.
Thời đó sơ khai vì nó còn mới (sơ khai có nghĩa là mới) nhưng không thể bảo nó không có ý nghĩa sâu sa gắn liền với lịch sử văn học nước nhà. PO cho nó là một gia tài "đâu có gì" tức là rỗng tuyếch nhưng VL lại cho nó là một bảo tàng vô giá.
Nên nhớ rằng, nhóm Tự Lực Văn Đoàn có Khái Hưng và Nhất Linh đứng đầu thì Khái Hưng Trần Khánh Giư và Nhất Linh Nguyễn Tường tam cùng với Nghiêm Kế Tổ, Trương Tử Anh, Vũ Hồng Khanhv.v. là những vị lãnh tụ sáng giá nhất của Đại Việt Quốc Dân Đảng trong thời kỳ tiền chiến và thời chiến tranh Đông Dương (1945 - 1954). Đại Việt Quốc Dân Đảng là Việt Nam Quốc Dân Đảng là do ngài Nguyễn Thái Học (1902 - 1930) khai sáng và biến thành.
Sau khi Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị chém đầu ở Yên Bái trước khi tung hô xong khẩu hiệu "Việt Nam Muôn Năm" vào ngày 17 tháng 6 năm 1930. Sau đó Việt Nam Quốc Dân Đảng bị chia ra làm nhiều nhóm rồi về sau họp lại thành một gọi là Đại Việt Quốc Dân Đảng (ở trong nước) và Quốc Dân Đảng Việt Nam (ở Trung Hoa).
Về mặt chính trị Quốc Dân Đảng là đảng phái mạnh nhất, có thế lực nhất chống lại Việt Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương, ủng hộ hoàng đế Bảo Đại (1947). Năm 1947 Khái Hưng Trần Khánh Giư chết ở Nam Định. Nhiều người cho rằng ông bị Việt Minh giết. Tháng 8 năm 1948, Hoàng Đạo qua đời tại Trung Quốc. Năm 1949 Nhượng Tống bị du kích Việt Minh ám sát.
Ngày 11 tháng 11 năm 1960, Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông đảo chánh Ngô Đình Diệm được đảng Đại Việt và Việt Quốc (Quốc Dân Đảng) ủng hộ. Hai phi công tên Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc vốn là hội viên của Quốc Dân Đảng ném bom Dinh Độc Lập. Cuộc đảo chánh thất bại. Nhiều đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng bị bắt.
Ngày 8 tháng 7 năm 1963, khi một toàn án đặc biệt được thiết lập để xử những người có liên can đến vụ đảo chánh năm 1960 và binh biến 1962, Nguyễn Tường Tam tự tử.
Sỡ dĩ VL viết dông dài về Việt Nam Quốc Dân Đảng là để chứng minh giữa Việt Nam Quốc Dân Đảng và Cộng Sản "thề không đội trời chung". Thế nhưng ngày nay chính quyền Hà Nội cho phép nói đến Tự Lực Văn Đoàn, cho học đến văn chương của họ, vậy sao có thể nói "Gia tài bây giờ đâu có gì ngoài những hình thức văn chương chấp vá hoặc với hình thức quần chúng sơ khai".
...
Nhóm Tự Lực Văn Đoàn ra đời vào năm 1932 và làm chủ tờ báo Phong Hóa, một tờ báo cực lực đề cao nền thơ, văn mới và chê bai cựu học rõ rệt. Nhóm Tự Lực Văn Đoàn gồm có từng này người:
Nhất Linh ( Nguyễn Tường Tam)
Khái Hưng (Trần Khánh Giư)
Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long)
Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân)
Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu)
Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ)
Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu)
Trần Tiêu (em ruột Trần Khánh Giư).
Tờ Phong Hóa lúc bấy giờ rất nổi tiếng và là một trong những nơi đưa chữ Quốc Ngữ và ý tưởng mới cho văn học Việt Nam nửa bán thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Nếu nền văn chương Việt Nam từ năm 1932 - 1954 cho là "đâu có gì" thì văn học Miền Nam (1954 - 1975) chỉ là một tờ giấy nháp còn Miền Bắc (1954 - 1975) và từ năm 75 cho đến nay chỉ là những tờ giấy trống không với một đôi nét gà bới.