PDA

View Full Version : Đức Tín Và Dân Tộc



Magnolia
01-13-2006, 04:54 PM
?ức Tín Và Dân Tộc

Lm F.X. Hồng Kim Linh p.s.s.

Với tựa đ? nầy, ngư?i viết muốn chia sẻ với ngư?i đồng đạo và đồng hương gốc Việt, nói g?n là “đồng bào Công giáo? v? những suy tư liên quan đến căn tính Việt tộc với ni?m tin Công giáo của mình : những điểm thuận lợi mà ngư?i Việt dân tộc tìm gặp khi đón nhận ?ức Tin được tuyên xưng trong Giáo Hội Công giáo. Mong bài nầy được đón nhận như là một đóng góp nh? cho việc phát huy “Ni?m Tin Công giáo? trong môi trư?ng mới và mở ra một cuộc đối thoại hữu ích - khi có cơ hội - với các đồng bào khác tôn giáo sống quanh ta.

Vậy ?ức tin "Công giáo" là gì ? Thưa là những đi?u đã được ghi nhận và truy?n lại trong Thập Giới phải thực hành và hai bài kinh phải biết để sống theo : một bản tóm g?n trong "Kinh Tin Kính của các thánh Tông đồ", và một bản kinh, chi tiết hơn trong "Kinh Tin Kính Công đồng Nicée – Constantinople". Tất cả gồm 12 đi?u mà ngư?i Công giáo phải thuộc lòng nên thiết nghĩ không cần viết lên đây, chỉ nêu lên những đi?u khoản mà ngư?i Việt dân tộc nhận ra là đã có cách ti?m tàng hay minh nhiên trong tâm thức và ni?m tin truy?n thống của ngư?i Việt dân tộc : chẳng hạn ni?m tin vào Ông Tr?i, ni?m tin vào ?ấng thưởng phạt : "Ông Tr?i có mắt", ni?m tin hồn thiêng bất tử, ni?m tin vào liên hệ giữa ngư?i sống và ngư?i chết vv. ?ó là những điểm sẽ lần lượt nêu ra trong bài nầy.

Dân tộc nói đây là Dân tộc Việt nam. Nói theo căn tính chân tướng lịch sử thì dân Việt có một n?n văn hóa lâu đ?i (5 ngàn năm văn hiến) và một truy?n thống dựng nước và giữ nước hào hùng nh? ý chí đảm lược kiên trì biết chấp nhận vượt qua những gian lao thử thách xứng với tên g?i là "Việt" (= Vượt quá, vượt lên). Một dân tộc biết bảo tồn cái gì của riêng mình qua sự xác định v? tên g?i suốt dòng lịch sử (5 ngàn năm với 6 lần xưng danh là "Việt") để như nhắc nhở đến căn tính của Việt tộc. Một dân tộc biết lấy khiêm nhu làm khiên thuẫn, như việc "thắng xong là lo cầu hòa" vì chiến là bất đắc dĩ lấy "hòa bình" làm chiến thuật tâm công "dĩ hòa vi quý". Tâm thức yêu chuộng hòa bình của dân tộc đã được thể hiện qua ngôn từ danh g?i các địa danh khắp xứ sở từ bắc chí nam : Nhi?u thôn làng đất nước mang tên "an, yên, bình, hòa, ninh" như Yên Thế, Bắc Ninh, Nam Ninh, Hòa Bình, Thái Bình, Ninh Bình, Ninh Hòa, Phú yên, Bình ?ịnh. Hội An, Khánh Hòa Tây Ninh, Biên Hòa, Long An, Kiến Hòa, An Thạnh, An Thới, Vĩnh Bình vv... ?ó là một biểu chứng của tâm thức thuộc v? cá tính dân tộc hiếu hòa.

Qua chi?u dày của lịch sử nhi?u chứng tích cho thấy dân tộc Việt được coi là "bại không nản, thắng không kiêu".

Gặp thất bại

- với giới binh nghiệp còn sức vóc đảm lược, thì biết trì chí rút lên non cao hang động rừng thẩm, để ch? đợi th?i cơ, thiên cơ, địa lợi hầu xuống núi cứu đ?i, với giới văn nghiệp : thất bại ở quan trư?ng là dịp để thi thố sở h?c để truy?n đạt cho hậu sinh "khả quý" để nối chí xây dựng đất nước.

- với kẻ sĩ khí tự nhận th?i vận đã qua thì hoặc v? "vui thú đi?n viên ngâm thơ vịnh nguyệt tiêu khiên an nhàn, hoặc lên non tu thoát tục "Tu Tiên" không màn thế sự an hưởng cuộc đ?i nơi bồng lai tiên cảnh.(*1) Qua ba lối sống vừa kể, tiêu biểu ở những nhân vật "tiếng tăm lịch sữ" nghìn đ?i của Việt Nam, ta thấy ngư?i "Việt mẫu" không trốn tránh trách nhiệm khi phải lao mình vào binh đao trận chiến để cứu nước khi cần, nhưng khi hết binh loạn là thích qui v? cảnh an nhàn hòa h?p với thiên nhiên.

Thắng không kiêu

- tức là không tự mãn kiêu căng v? chiến thắng. Một khi đã thắng địch thì biết xử hòa không làm nhục đối phương(*2a), như để vuốt mặt kẻ cả (*2b) tìm cách thông hiếu, nối lại bang giao với cựu thù, một mặt nương theo khí thế hòa bình đang lên để xây dựng xã tắc mong đưa vận nước bay cao làm một cuộc thăng hóa như Rồng (*3). Việc sớm sủa đặt danh hiệu thủ đô "Thăng long" (*4) và việc đặt tên nước rất kêu (*5) đúng với biệt danh con cháu Rồng Tiên (xem Truy?n thuyết Lạc Long, Âu Cơ).

Thuật sống ôn nhu khôn khéo đó khiến một nước nh? vẫn còn tồn tại sau nhi?u ngàn năm bên cạnh nước lớn như Trung quốc cũng là đi?u đáng gẫm suy như bài h?c lịch sử đặc biệt của dân tộc. Tuy có nhi?u th?i bị thôn tính - phần lớn tại chia rẽ nội bộ, bị ngư?i ngoài phân hóa - "bị trị" nhưng vẫn không bị "đồng hóa" : trái lại là dịp để tiếp nhận và thâu thái những cái mới mẽ, bất luận nó đến từ phương đông (Trung Hoa) hay phương tây (Pháp).

Dân Việt do đó được đánh giá là một dân tộc vừa già vừa trẻ, lão luyện vì hiện hữu dài lâu trong lịch sử, vừa trẻ trung sung sức vì biết thích nghi cập nhật. Bởi vậy qua những biến thiên của lịch sử cận đại, với những giai đoạn thăng trầm rất bi đát, dân Việt vẫn vượt thoát tái tạo vươn lên.

?ược nhìn nhận là một dân tộc cần cù siêng năng có óc cầu tiến và hiếu h?c, biết thích nghi mau chóng, và khi có hoàn cảnh thuận lợi cho phép thì dân Việt có năng lực bắt kịp với đà tiến chung của nhân loại trên thế giới.

Với những đức tính làm nên bản chất của Việt tộc, coi như một "căn tính" được định hình qua muôn thử thách biến thiên lịch sử, mà các tôn giáo cũng như các luồng tư tưởng dù được du nhập từ đâu đến cũng được ngư?i Việt đón nhận một cách trang tr?ng. Tuy vẫn có những va chạm do sự ch?n lựa hơn thua của các tri?u đại - như Tri?u Lý với Phật giáo, tri?u Trần với Khổng giáo - nhưng trong lịch sử Việt Nam không có "chiến tranh tôn giáo" như bên tây phương mà chỉ có việc cổ xúy "hòa đồng tôn giáo". ?ó là một điểm son cần được ghi nhận v? tinh thần khoan dung, như?ng nhịn và tôn tr?ng tín ngưỡng của dân Việt truy?n thống (*6). Tinh thần hòa đồng tôn giáo đã tôi luyện con ngư?i Việt thành "ngư?i có khí cốt tôn giáo" tự nhiên, do vậy với việc du nhập Kitô giáo (Công giáo) vào Việt Nam thế kỷ XVI (điểm mấu chốt 1522 hoặc 1533) Ni?m Tin Công Giáo được đón nhận một cách thuận lợi. Bằng chứng là sau l00 năm truy?n gíáo - tuy không liên tục - vào khoảng năm 1644-1652 có chừng 300.000 ngư?i được Rửa Tội (*7). ?i?u quan tr?ng là tuy đến nước Việt muộn màn do những nhà truy?n giáo tây phương giàu nhiệt thành nhưng (phần lớn) không thông thạo ngôn ngữ bản địa - so với những vị thông h?c uyên bác trong các tôn giáo tới Việt Nam trước, nhưng "?ạo Chúa" vẫn lan tràn nhanh chóng mặc cho những cuộc bách hại từ phía vua quan đất Việt. ?ó cũng là đi?u "kỳ diệu" theo cái nhìn của ?ức tin : việc ?ạo Chúa bị bách hại là chuyện Chúa đã nói trước, và việc bênh vực và truy?n bá ?ức Tin, phát triển ?ạo Chúa qua thử thách là việc của Chúa Thánh Thần "máu Tử đạo là hột giống sanh ngư?i có đạo" (Tertullien). Nhưng ở đây trong cái nhìn so sánh với các dân tộc khác, dân Việt có lợi điểm là ?ức tin Công giáo trở thành hột giống gặp được "đất mầu mỡ ở lòng của dân tộc" để phát triển nhanh chóng "một thứ đất thích hợp để dụng võ".

- Thứ nhứt đối với Tín đi?u số một của ?ạo Chúa : v? Thiên Chúa duy nhất. Trong vũ trụ quan và nhân sinh quan Việt tộc ta có cái nhìn tương quan trên dưới cao thấp d?c ngang với số quan niệm tiên thiên như sau : bên trên ta quan niệm v? "Tr?i" rất phong phú với những cụm từ ngữ để diễn đạt : Trên (Ơn) (B?) Trên, Tr?i (Ông), Tr?i (ơi) và những từ ngữ hệ thuộc Tr?i nắng, Tr?i mưa, Tr?i dông, Tr?i gió, Tr?i bão, Tr?i gầm, Tr?i trống, Tr?i giáng (*8). Qua đó ta có thể nói trong ngôn ngữ dân Việt có sẵn những từ ngữ nhắc nhớ hướng thiên. Với một n?n văn hóa hướng thượng như thế, ?ức Tin Công giáo giúp ta đi xa hơn trong tầm hiểu biết v? ?ấng tối cao, v? ?ức Chúa Tr?i, v? Thiên Chúa đấng Sáng Tạo quy?n năng, Quan Phòng yêu thương và gần gũi với nhân loại (Lc 12,28-31). Tín đi?u số một với Luật đi?u thứ nhứt trong Thập giới tôn th? Thiên Chúa và yêu mến Ngài trên hết m?i sự (Lc 10,27-28) giúp ta tiến gần kh?i xa lạ với ?ấng ta tin là có quy?n thưởng phạt công minh...

- Kế đến với luật đi?u thứ bốn "thảo kính cha mẹ" trong 10 giới răn ?ạo Chúa, nhân sinh quan của ngư?i Việt tộc ở tương quan hàng ngang bậc dưới Tr?i : bàng quang Thiên hạ, ta có đạo ngư?i. Trong gia đình là truy?n thống thảo kính cha mẹ, ngư?i sống ?ức Tin Công Giáo thấy rằng mình sống phù h?p với ?i?u Răn thứ Bốn của Thập Giới Chúa truy?n (Mt 19,19). ?ức hiếu thảo được thể hiện không những lúc cha mẹ sanh ti?n mà còn tiếp tục sau khi cha mẹ khuất bóng. Khi cha mẹ còn sống con cái biết lo phụng dưỡng, khi qua đ?i con cái vẫn có bổn phận cầu nguyện tế lễ dâng lễ trong Thánh lễ, trong các gi? kinh sớm tối. Ngoài ra còn phải lo hy sinh thực hành bác ái bằng đ?i sống để dâng ý chỉ cầu cho cha mẹ ông bà. Tiếp tục sống sự hiện diện liên kết phục vụ hằng ngày chứ không chỉ ch? ngày giỗ, giáp năm mới nghĩ tới vv.

?ó là cách sống ?ức Tin sâu sắc diễn tả ni?m tin - linh hồn bất tử - ngư?i sống và ngư?i chết vẫn còn liên hệ thông công, phù hợp với ?ức Tin Công giáo v? Tín đi?u "Các Thánh Thông Công"...

Con cái lo "tròn chữ hiếu để tr?n đạo con" vì mẹ cha đã nêu gương sinh thành dưỡng dục và hợp nhứt với nhau. Các câu nói sau đây gói g?n tình tự dân tộc liên hệ đến cha mẹ con cái vợ chồng liên kết gắn bó với nhau :

"Công cha như núi Thái sơn ,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng th? mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con"

"Dạy con dạy thuở nên ba
Dạy vợ từ thuở ban sơ mới v?
Thuận vợ thuận chồng,
Tát biển ?ông cũng cạn".
(tức là ?ông hải chứ không nói Nam Hải).

Với những câu nhắc nhủ dạy bảo gia đình vợ chồng con cái đối xử phải đạo với nhau, ngư?i Công giáo lại tăng cư?ng ni?m xác tín hơn nữa. Bởi chưng L?i dạy của Kinh Thánh nêu rõ khía cạnh bao quát sâu rộng cao siêu của tình yêu đó là bắt nguồn từ Thiên Chúa và chính ?ức Giêsu đã nêu gương đối với Giáo Hội. Tình yêu con cái với cha mẹ, cha mẹ với nhau g?i là nghĩa tào khang là mô ph?ng một tình yêu cao trổi của chính Thiên Chúa đối với con ngư?i (x. 1Cor13, thơ Ephêsô).

Cũng trong chi?u ngang "Thiên hạ" (dưới tr?i) từ gia đình lan rộng ra chòm xóm làng nước, "bá tánh", ý niệm tình nghĩa đồng bào, "bà con" ruột thịt trong văn hoá Việt Nam : ngôn ngữ Việt với cụm từ "đùm b?c" hay câu chữ "lá lành đùm b?c lá rách" còn gói ghém ngữ nghĩa hay ho gắn li?n với huy?n thuyết "b?c trăm trứng", cụm từ "bà con" (chứ không nói "ông con" khi nói v? h? hàng thân thuộc) "ruột thịt" nói lên tình tự con cái một Mẹ (Âu Cơ) cộng với tinh thần "tứ hải giai huynh đệ" : anh em bốn bể một nhà với những câu nhắn nhủ con dân đất nước ba mi?n hãy sống tinh thần tương thân tương ái dù đất nước có chia cách qua phân qua trong những giai đoạn bi đát của lịch sử nội chiến :

"Bầu ơi thương lấy bí cùng.
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Nhiểu đi?u phủ lấy giá gương
Ngư?i trong một nước hãy thương nhau cùng."

Nói rộng ra một cách rốt ráo hơn nữa theo tinh thần nầy thì ?ức Tin Công giáo dạy ta rằng không chỉ ngư?i trong một nước thương nhau mà thôi nhưng hết "m?i ngư?i" phải được thương vì là m?i ngư?i đ?u là con một Cha (Ga 4,7). Thương Chúa là Cha theo tinh thần hiếu thảo đã vậy mà còn phải "thương anh em như chính mình" (Mt 19,19-20). Thương Chúa thương ngư?i phải đi đôi. Không thể tách lìa thương Chúa mà không thương ngư?i. Như câu nói của Thánh Gioan : "nếu ai nói tôi thương Chúa được mà không thể thương ngư?i là nói dối" (1Ga 4, 20-21). Sự thương yêu theo đòi h?i ?ức Tin không phải là thương bằng môi miệng nhưng thương yêu với tất cả tấm lòng "thương ngư?i như thể thương thân" đi đôi với hành động. Tình yêu chấp nhận khía cạnh chịu đựng đồng lao cộng khổ : chữ thương nói lên góc độ độc đáo của "thương đau, thương tích, thương khó". ?ối tượng của yêu thương không dừng lại ở ngư?i anh em nào dể thương mà lan rộng ra với m?i ngư?i kể cả với địch thù : "hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em" (Lc,6, 27-28; Mt 5,43). Lý do là Thiên Chúa đã thương h? và đã phó mình chịu chết cho tất cả như câu nói Phúc Âm : "Vì Tôi không đến để kêu g?i ngư?i công chính mà để kêu g?i ngư?i tội lỗi" (Mt 9,13). Công chính và tội lỗi trong ý nghĩa của ?ức Tin là những ngư?i tốt dễ thương (công chính) đối lại với ngư?i có nhi?u tật xấu không dễ thương (tội lỗi).

?ó là nói toát lược những đi?u cốt yếu mà ?ức Tin Kitô giáo giúp cho ta sống được tr?n hảo đức tính kể như cốt l?i của con ngư?i Việt Nam.

Ngoài ra, trong thế cách thực hành ngư?i Việt còn có những thể cách sống nếu khai triển đúng mức thì rất là phù hợp với Phúc Âm, tức là phù hợp với ?ức Tin trong những đi?u tinh túy nhứt.

Ví dụ : tính hiếu khách - ni?m nỡ lịch sự trong cách cư xử, hợp với tinh thần tr?ng đãi khách như gương của tổ phụ Abraham tiếp ba ngư?i khách dưới gốc cây ở Mambré (St18,1-6). Ngư?i Việt hay m?i khách dùng bữa, cho khách đỗ nhà (x. các chứng từ của các nhà truy?n giáo ngoại quốc ở Nhật khen lao ngư?i Việt ở đó).

Ngư?i Việt có sẵn "nụ cư?i Việt" rất phong phú để tiếp nhân xử thế (xem ngôn ngữ Cư?i với 106 từ ngữ ý trong sách "Ngư?i Việt" của chúng tôi) có cách diển đạt l?i ăn tiếng nói nh? nhẹ khiêm tốn gần gũi với tinh thần của câu nói Phúc Âm : "Hãy h?c với tôi, vì tôi hi?n lành và khiêm nhượng thật trong lòng" (Mt 11, 28) :

Ví dụ cách thưa thốt nhún như?ng hạ mình dể thương để thưa chuyện "Thưa vâng, thưa phải". Hoặc cách thức ngôn ngữ biểu thị - kính trên như?ng dưới, như cách m?i m?c ăn nói xưng hô, kín đáo trong xác nhận quyết đoán ; nhẹ nhàng trong cách chối từ khôn khéo, tránh phật lòng ngư?i. Ngôn ngữ Việt nam phong phú v? cách nói làm vui lòng, và thiếu vắng những kiểu nói có thể gây phật ý, rất ít từ ngữ chối từ cộc lốc. Từ ngữ biểu thị ưng ý, bằng lòng nhi?u hơn từ ngữ khước từ. ?ó là một cách thế biểu thị tinh thần tế nhị và nhạy cảm của ngư?i Việt Nam thích làm vui lòng ngư?i hơn là làm phi?n hà thiên hạ một cách thẳng thừng trực diện..

Sống theo ?ức Tin dựa vào l?i dạy Phúc Âm một cách sâu sắc là làm giàu thêm sự tinh tế khiêm nhu sẵn có của tâm thức ngư?i Việt.

Kể ra những đức tính đó để cho thấy cái dễ thương và hấp dẫn của ngư?i Việt. Nh? vậy mà dù ngư?i Việt tị nạn ở đâu thư?ng được ngư?i ta thương nhi?u. Có nhi?u nhân chứng từ nhi?u quốc tịch khác nhau dù các nhân chứng nầy là Hòa Lan, ?, Pháp Mỹ, Canada, Nhật v...

Cung cách dễ thương và lòng trung tín biết ơn là một đức tính được cổ võ bởi Phúc Âm như câu chuyện ngư?i phong hủi biết ơn : "Không phải cả mư?i ngư?i được sạch sao ? Thế thì chín ngư?i kia đâu ? Sao không thấy h? trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có ngư?i ngoại bang nầy ? (Lc 17, 17-18 ).

Ngư?i Việt sống ?ức Tin thể hiện được sứ mệnh làm "đèn sáng" nêu lên trong Phúc Âm (Mt 5, 14) : Dân tộc có lễ phép, tr?ng lễ nghi và lễ nghĩa nên chi nơi đâu có ngư?i Việt định cư, thì nơi đó có những cuộc tập h?p đ?c kinh cầu nguyện, kiệu rước (?ức Mẹ đã chẳng dạy kiệu rước mỗi lần hiện ra nơi nầy nơi khác trong thế giới ư ?). Các cộng đồng Việt cũng thích chưng d?n trang trí nhà th?. Dịp lễ lạc, thích trưng bày hoa lá cành c? quạt nơi phượng tự (Vd : Thi công làm các lồng đèn, hang đá, máng c? mùa giáng sinh ở các nhà xứ, giáo đư?ng ở Nhật bản. Có lễ lạc thích làm cổng chào, trang trí chổ củ hành lễ nghi phụng tự. B? nhi?u thì gi? để dàn dựng mà không sợ tốn công mất gi?). Ngoài ra lại thích thành lập các ca đoàn lớn nh? để tăng phần long tr?ng trang nghiêm của các lễ lạc (chữ lạc cố ý viết tận cùng bằng "c" là nhằm ý nghĩa "vui tươi" chứ không có nghĩa ăn lạt (viết bằng chữ "t").

Sẵn tr?ng lễ nghĩa lễ nghi như vậy nên có lòng qúi tr?ng cách đăc biệt đối với những bậc tu hành phụng sự việc th? phượng tế tự. Ngư?i Việt nh? vậy dễ được nhận ra là một dân có cung cách kính tr?ng đối với các bậc tu hành : từ danh g?i đối với các vị và lan rộng ra với những ngưòi có liên hệ trong thân tộc của các vị (Vd cách g?i tôn tr?ng các thân sinh của linh mục chẳng hạn : ông bà nội, ông bà cố). Các linh mục và tu sĩ nam nữ Việt Nam được một chỗ đứng trong lòng của các tín hữu là một đi?u đích thực, dù sống bất cứ nơi đâu...

Với những kiểu thức sống đạo được nhận diện, được trông thấy như thế, nên chi các cộng đoàn Công giáo Việt Nam khắp nơi trên thế giới thư?ng được các thẩm quy?n tôn giáo (các Giám Mục, Linh Mục) khen thưởng và khuyến khích tham gia các cộng đồng địa phương để nêu gương sáng cho dân chúng địa phương. Các Linh mục Việt nam hải ngoại cũng được tr?ng dụng trong các nước nh? thấm nhuần tinh thần sống đạo và được vun trồng trong vư?n ươm của Giáo Hội Việt Nam.

Với truy?n thống chịu đựng thử thách trong việc dựng nước và giữ nước như đã nói, riêng ngư?i Công Giáo còn bị thử thách trong ?ức tin "Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Tr?i là của h?" (Mt 5,10-12) bởi những cơn bách đạo th?i chúa Trịnh chúa Nguyễn và thảm khốc th?i Minh Mạng Tự ?ức kéo dài từ thế kỷ XVIII tới gần cuối thế kỷ XIX. Với hơn 100.000 tử đạo trong đó 117 vị được tôn vinh hiển thánh năm 1988 do ?GH Gioan Phaolô II, ngư?i Công Giáo vẫn nêu gương sáng ?ức Tin trong việc t? ra biết thương nhau (ngư?i lương th?i cấm cách quen g?i ngư?i Công giáo là đạo của những ngư?i thương nhau : nên nhớ từ ngữ "Công giáo" có nghĩa là phổ quát, phổ cập, chung cho m?i ngư?i, dịch từ nguyên ngữ Hy lạp "catholicos" chưa được dùng th?i bấy gi?). Ngư?i Công giáo dù bị hiểu lầm là đạo của tây do thực dân đem vào (*9).

Dù bị nghi kỵ và kết án oan uổng, ngư?i Công giáo vẫn sống tr?n nghĩa quốc dân đồng bào trong những cố gắng phát huy văn hóa, phong tục, trồng tỉa. ?ặc biệt lãnh vực chữ quốc ngữ : các linh mục Việt Nam tuy là những vị thông thạo chữ Nho, chữ Nôm, nhưng vẫn lo phát triển và phổ biến chữ quốc ngữ cho quảng đại quần chúng. Cho tới nay, ngư?i ta sưu tầm được những 1.000 danh mục quyển sách ấn bản bằng chữ quốc ngữ phần lớn do nhà in Tân ?ịnh ấn hành (*10). Ngoài các linh mục như Philippê Bỉnh, Luca B?n, giáo dân Raphael (ngư?i dạy chữ Việt cho Giáo sĩ Alexandre de Rhodes) còn có những ngư?i Công giáo nổi danh như Paulus Huỳnh Tịnh Của và đặc biệt nhà bác h?c Petrus Trương Vĩnh Ký với 100 quyển sách xuất bản và công trình đem hột giống hoa qủa lạ từ Mã lai Penang vào Việt Nam như sầu riêng, măng cụt, bòn bon, chôm chôm, vv)(*11). Khi sống ngư?i Công giáo cộng tác xây đựng xã hội v? nhi?u mặt : văn hoá, h?c đư?ng, bệnh viện, cứu giúp cô nhi quả phụ, già lão (*12) nhưng vẫn nhớ mình là khách ki?u cư ở trên dương thế như Kinh Thánh nhắc nhở để cư xử đúng đắn (Xh 23,9) bởi vậy ngư?i Công giáo có ?ức Tin không bám bíu với chốn cư ngụ trần thế mà sống sâu sắc câu "Sinh ký tử qui, sống là sống gởi, thác là v? với tổ tiên". Tổ tiên của ngư?i CGVN không những là h? hàng bà con theo huyết tộc mà còn trải rộng ra với các bà con thiêng liêng, các thánh nam nữ đủ nhi?u quốc tịch của trần thế đ?i. V? chốn "suối vàng", "tuy?n đài" được ngư?i CGVN thăng hóa và nói rõ hơn là Nước Thiên đàng, nơi cực lạc của những ngư?i sống tr?n kiếp ngư?i trong thánh đức và vưng phục Thiên ?. Lối sống của Ngư?i CGVN chân chính thể hiện được sự Vượt thoát bay lên từ đất lên đến Tr?i của Rồng Thiêng và của Tiên giới. Chân đạp đất để vẫn cộng tác xây dựng trần thế để có chổ cư ngụ tạm xứng phẩm vị con ngư?i là tạo vật mang hình ảnh Thiên Chúa, nhưng lòng vẫn qui hướng v? quê Tr?i là quê thật nơi đó con ngư?i được vĩnh viễn hưởng phúc trư?ng sinh bất tử, là hướng v?ng của loài ngư?i khi còn ở dương thế. Bồng lai tiên cảnh là một cảnh vực thần linh của con ngư?i hướng thượng. Lý cùng của cuộc đ?i được ta sống một cách có ý nghĩa nh? ?ức Tin.

Như vậy có thể nói ngư?i sống ?ức Tin là ngư?i có sự hiểu biết và thực hành của thần h?c gia và triết gia : bởi một mặt nhận ra mạc khải của Thiên Chúa để biết rõ cội nguồn và hướng đi, mặt khác bổ túc cho sự khôn ngoan triết lý để thấu đáo v? đạo làm ngư?i và lẽ sống của con ngư?i trong dương gian...

Ngư?i CGVN sống ?ức Tin một cách tr?n hảo phải vừa là một công dân tốt của dất nước vừa là công dân đích thực của Nước Tr?i. ?ó là con đư?ng Nhập thế và Xuất Thế theo gương Chúa Giêsu là Thiên Chúa Giáng Trần để đem con ngư?i v? quê Tr?i. ?ể được như vậy, con ngư?i phải sống tr?n ?ức Tin tức là phải nên Thánh như l?i dạy Phúc Âm "Vậy anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên tr?i là ?ấng hoàn thiện" (Mt 5,48 ; Ga 17,19). Chung cuộc là ta trở v? với tổ tiên trên Thiên quốc sau khi đã sống tr?n chi?u ngang dấn thân trong m?i thực tại trần thế đối nhân và chi?u d?c - qui thần - qui hướng v? đ?i sống vĩnh cửu trong một viển tượng siêu thoát và thăng lên tận tr?i cao...

_________________________

Chú thích :

(1*) Xin xem ý nghĩa của "Tiên" của huy?n sử dựng nước trong sách "Ngư?i Việt" của tác giả.
(2a*) Xin xem cách xử thế Nguyễn Trãi sau chiến thắng nhà Minh : cung cấp phương tiện lương thực đưa 10.000 binh tướng bại trận nhà Minh v? nước, cách hành xử khôn khéo kiến ?ại Việt tránh được nạn binh đao gần 200 năm.
(2b*) như lập đ?n tưởng nhớ kẻ xâm lăng Sầm nghi ?ống.
(3*) xem ?ại Việt sử lược nói v? "Rồng vàng" xuất hiện mỗi khi có biến cố tr?ng đại xảy ra cho đất nước.
(4*) danh hiệu có từ thế kỷ VI tới XIX th?i Minh Mạng mới bị đổi.
(5*) Văn Lang, ?ại cồ Việt, ?ại Việt vv xem thêm Sách Ngư?i Việt của tác giả quyển 1 do Hồng Lĩnh tái xuất bản tại California 1999 .
(6*) đi?u nầy không có nghĩa là một số vua Việt không tránh kh?i thái độ quá thiên vị đối với một tôn giáo như các sử thần Lê văn Hưu, Ngô sĩ Liên, Ngô thì Sĩ nêu lên để phê phán một số vua Lý đối với Phật giáo, xin xem trong "?ại Việt sử ký toàn thư" của Ngô sĩ Liên.
(7*) Xem bản phúc trình của giáo sĩ Alexandre de Rhodes gởi Propaganda Fide Roma, trong văn khố Bộ Truy?n giáo tập tài liệu SOCG, quyển 193, trang 462: v? con số xác thực đến đâu vẫn còn trong vòng tranh cãi.
(8*) Trong giai đoạn lịch sử tri?u Ti?n Lê, tri?u Lý, ý thức v? chữ "Thiên" khắc đậm trong lối đặt tên tri?u đại, niên hiệu, đ?n đài chùa, tháp (Báo Thiên) miếu, danh tánh hoàng hậu, hoàng tử, công chúa.
(*9) Xem thêm bài viết "Tháp Báo Thiên" của tác giả đăng trong tập san nghiên cứu và nghị luận "?ịnh Hướng" số 23, mùa hè 2000 tr. 61-77) đi?u nầy sai lịch sử : đạo vào VN do các cha Bồ đào nha với mấu chốt 1533 (hay 1522), còn thực dân Pháp vào Việt Nam bắt đầu năm 1884, th?i kỳ mà nước Pháp với khuynh hướng bài xích đạo ở chính quốc với các chính phủ thiên tả - với chủ trương bè nhiệm giới hạn ảnh hưởng của Công giáo trong các thể chế xã hội đặc biệt v? mặt giáo dục h?c đư?ng. Chẳng hạn dưới th?i Thủ tướng Jules Ferry 1881 : 5 đại h?c có tầm cỡ của Công giáo Pháp bị quốc hội đổi danh g?i ?ại H?c Công giáo (Université catholique) thành H?c Viện Công giáo (Institut Catholique). Chiến dịch bài bác công giáo, chống giáo sĩ lên cao độ khiến ?GH Léo XIII đã phải ra thông điệp Humanum genus (1884) lên án gắt gao. Các linh mục bị bắt đi lính với khoản luật g?i là "các cha sở mang balô" (les curés sac au dos) do khoản luật 9.7.1889 dưới th?i Tổng thống Sadi-Carnot. Và tháng 9, năm 1891, các Nhóm Bè nhiệm vẫn tổ chức ?ại Hội của các phân Bộ mở chiến dịch chống giáo sĩ. Những luật lệ h?c đư?ng "laiques" khắc khe với các h?c đư?ng công giáo, tiếp theo những nghị định chống báng giáo sĩ vẫn tiếp tục áp dụng. Báo chí cũng ùa theo như t? Le progrès lexovien tố cáo cái g?i là chủ thuyết "u tối" (obscurantisme) của Giáo Hội Công giáo. Ông Isodore Guérin, cậu ruột của thánh Têrexa Nh? đã phãn ảnh hiện tượng bài xích đạo nói trên và t? ra lập trư?ng bảo vệ Giáo hội trong t? báo Le Normand. Năm 1905 có luật tách biệt Giáo Hội và Nhà Nước ; tiếp đến có phong trào xua đuổi các Dòng Tu ra kh?i Pháp quốc, như Dòng Oblates de St Francois de Sales chuyên lo giáo dục giới bình dân phải bị đóng cửa 23 nhà tại Pháp và nhà Mẹ phải buộc lòng di tản qua Pérouse Italia. Trong th?i đại chống-giáo sĩ dữ dội, lẽ nào bên xứ thuộc địa "Indochine française" lại có sự dung dưỡng cho việc lo phát triển ?ạo Chúa ?
(10*) Tài liệu sưu tra mới đây của ông Hoàng Xuân Việt, tác giả của trên 200 quyển sách. Việc tìm được 1000 danh mục có ích lợi để bổ cứu cho số ít ?i chỉ 300 quyển ! do sưu tầm còn thiếu sót trước kia của Linh mục Thanh Lãng)
(11*) Hiện nay Cái Mơn, Lái Thiêu, Bún là những địa danh mà ngư?i Công giáo chiếm đa số, ta vẫn thấy là các giống trái cây nêu trên còn được biết đến.
(12*) Theo thống kê, trước 1975, 80% cơ sở giáo dục tu nhân nằm trong tay của Giáo Hội Công giáo.

-----------------------------------------------------------------------------------

Tài liệu trích dẫn kê cứu :

- Kinh thánh tr?n bộ, Cựu ước và Tân Ước, bản dịch của nhóm Phụng vụ L?i Chúa, Tòa Tổng Giám Mục Thành Phố Hồ Chí Minh thực hiện 1998.
- Sách Ngư?i Việt của Hồng Kim Linh - Tên dân, tên nước, ngữ ảnh, ngữ ý nghĩa. Tủ sách Nghiên cứu dân tộc ngôn ngữ do Hồng Lĩnh xuất bản 1999.
- Cần tham khảo thêm để mở rộng vấn đ?, đ?c Văn kiện Tòa Thánh v? "Thái độ của Giáo Hội đối với các tín đo các tôn giáo khác" do Hội đồng Tòa Thánh v? đối thoại liên tôn ban hành năm1984.
- Văn kiện "?ối thoại và Rao Truy?n" do Thánh Bộ truy?n bá Phúc Âm và Hội đồng giáo Hoàng v? đối thoại liên tôn ban hành 19.05.1991.
- "Kitôgiáo và các Tôn giáo" do Ủy ban Thần h?c Quốc tế 10.1996 do Hồng Y Joseph Ratzinger cho phép phổ biến.
- Tông huấn "Gíáo Hội tại ? châu" do ?GH Giáo Phaolô II ban hành 06.08.1999.