PDA

View Full Version : Những tên tuổi gắn li?n lịch sử dân tộc Việt Nam



minhhieuleo
09-02-2005, 11:19 PM
Cao Bá Quát - nhà thơ lớn thơ kỷ 19
Cao Bá Quát (1808 - 1855) ngư?i làng Phú Th?, Gia Lâm (nay thuộc Hà Nội), từ nh? đã nổi tiếng thông minh, gi?i thơ văn. Trong th?i gian làm quan, ông nhi?u lần bị trách phạt, giáng chức, thậm chí chịu tù ngục do tính tình thẳng thắn cương trực. Năm 1854, ông cùng bạn bè dựng c? khởi nghĩa Mỹ Lương song cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị thất bại, Cao Bá Quát cũng hy sinh. Mặc dù thơ văn Cao Bá Quát sau đó bị cấm lưu hành, song nhi?u tác phẩm vẫn được lưu truy?n đến nay như Cao Chu Thần thi tập, Mẫu hiên thi loại, v.v
Cao Bá Quát (1808 - 1855) là nhà thơ xuất sắc của Việt Nam thế kỷ 19. Ông tự Chu Thần, hiệu Mẫn Hiên, Cúc Dương, quê làng Phú Th?, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Hà Nội). Cao Bá Quát cùng ngư?i anh song sinh là Cao Bá ?ạt nổi tiếng thông minh, h?c gi?i từ nh?. Thân sinh của hai ông là Cao Cửu Chiêu, một nhà nho hay chữ, có ước v?ng khi lớn lên, các con mình sẽ trở thành quan đại thần của tri?u đình nên lấy tên của hai h?c sĩ đ?i Chu cũng là hai anh em sinh đôi để đặt tên cho hai con.
Ngay từ nh?, Cao Bá Quát đã có gi?ng văn hùng hồn, ý tứ mạnh mẽ, thể hiện ý chí của ngư?i tài hoa. Lưu truy?n rằng Cao Bá Quát thư?ng nói: Trong thiên hạ có bốn bồ chữ, mình tôi chiếm hai bồ, anh tôi và bạn tôi, Nguyễn Văn Siêu, chiếm một bồ, còn bồ thứ tư chia cho m?i kẻ khác. Khi theo h?c ở trư?ng Bắc Ninh, danh tiếng của Cao Bá Quát đã lừng lẫy.
Năm 1832, ông đi thi Hương, đỗ á Nguyên tại trư?ng thi Hà Nội, sau đó vào kinh đô (Huế) thi Hội, nhưng thi mãi không đỗ (truy?n rằng do các quan chấm thi ghét ông kiêu ngạo nên đánh h?ng). Năm 1841, nh? sự tiến cử của quan tỉnh Bắc Ninh, Cao Bá Quát được vào kinh đô nhậm chức Hành Tẩu Bộ Lễ. Tuy làm quan, cuộc sống của ông cũng hàn vi, không thay đổi.
Tháng 8-1841, ông được cử làm sơ khảo trư?ng thi Thừa Thiên, thấy một số bài thi hay nhưng phạm húy. Ông cùng ngư?i bạn lấy muội đèn chữa giúp. Việc bị phát giác, đáng lẽ ông bị xử chém, nhưng sau được xét lại chỉ bị cách chức, bị tù ba năm, phát phối đi ?à Nẵng. V? sau nhân có ?ào Tri Phủ đi sứ sang Indonesia, ông được tha và được cử theo phái đoàn phụ tá công việc. Trở v? nước, ông được khôi phục chức cũ, một th?i gian rồi bị thải. Năm 1847, Cao Bá Quát được g?i vào làm việc ở Viện Hàn Lâm, sưu tầm văn thơ. Hồi ấy, Tùng Thiên Cộng lập ra Mạc Vân thi xã, được nhi?u quan văn trong tri?u tham gia, hưởng ứng. Giai thoại kể rằng có lần Cao Bá Quát được xem những bài thơ của "Mạc Vân thi xã" đã lắc đầu, bịt mũi ngâm:
"Ngán thay cái mũi vô duyên
Câu thơ thi xã con thuy?n Nghệ An"
(vần thơ của thi xã như mùi tthuy?n chở nước mắm Nghệ An). Hai vị công khanh Tùng Thiện Công, Tuy Lữ Công chẳng những không giận vì thái độ của Cao Bá Quát mà còn nhún mình đến kết giao. Thấy nhà ông thanh bần, hai vị còn giúp đỡ vật chất. Cảm kích thái độ của hai vị công khanh, Cao Bá Quát gia nhập Mạc Vân thi xã. Trong th?i gian này, ông đã xướng h?a nhi?u bài hay nổi tiếng, đến đỗi vua Tự ?ức, một ngư?i gi?i và chuộng văn chương phải khen ngợi văn tài của ông là một trong bốn tay cự phách của Mạc Vân thi xã:
"Văn như Siêu, Quát vô ti?n Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất thánh ?ư?ng"
(Văn của Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát có thể hơn th?i ti?n Hán, thơ của Tùng Thiện Vương, Tuy Lữ Vương lấn át ngay cả thơ đ?i thánh ?ư?ng). Còn ngư?i đương th?i thì tôn g?i ông là Thánh Quát (cùng với Nguyễn Văn Siêu là Thần Siêu, Thánh Quát). Vì hay châm biếm vua và tri?u đình nên ông bị đẩy kh?i kinh đô (1850) ra làm giáo thụ ở Quốc Oai, Sơn Tây, một vùng heo hút, nghèo nàn.
Tại đây, chứng kiến những nỗi cơ cực của nhân dân, thông cảm với sự bất bình của đại chúng, ông đã bí mật kết giao với nhi?u bạn bè, dựng c? khởi nghĩa ở đất Mỹ Lương (1854). Nghĩa quân lấy danh nghĩa phù Lê, tôn Lê Duy Cự làm minh chủ, Cao Bá Quát làm quốc sư, chống lại tri?u đình. Song cuộc khởi nghĩa chỉ kéo dài được mấy tháng thì bị dập tắt. Cao Bá Quát bị viên suất đội ?inh Thư Quang bắn chết giữa lúc ông đang ở trận ti?n. Nhà Nguyễn đã trả thù, tru di ba h? của ông. Các tác phẩm của ông đ?u bị cấm tàng trữ, thu hồi và đốt hết.
Tuy nhiên, tác phẩm của Cao Bá Quát vẫn sống mãi trong lòng ngư?i. Những cố gắng sưu tầm sau này đã thu thập được trên một nghìn bài thơ, phú bằng chữ Hán và chữ Nôm của ông. Thư viện Khoa h?c Xã hội Việt Nam hiện có trên 12 tập mang tên Cao Chu Thần thi tập, Mẫu hiên thi loại, Cúc ?ư?ng thi thảo, v.v. Nhi?u bài thơ chữ Hán, thơ ca trù và bài phú Tài tử đa cùng của ông, được nhi?u thế hệ thuộc lòng. Qua các sáng tác đó, Cao Bá Quát hiện ra là một nhà thơ có bản lĩnh. Tâm hồn ông bao trùm thiên nhiên, gắn bó với quê hương đất nước. Ông ca ngợi các anh hùng dân tộc: Phù ?ổng Thiên vương, Trần Hưng ?ạo, Lê Lợi; trân tr?ng các nhà chữ sĩ Chu Văn An, Nguyễn Trãi. Ông cũng rất quan tâm đến phận của ngư?i lao động lầm than. ?ặc biệt, một số bài chứng t? ông có tầm nhìn xa rộng, khác với những nhà nho, nhà thơ đương th?i. Ông phàn nàn v? lối h?c tứ chương "nhai văn nhá chữ", ông cảm thấy cái nguy cơ xâm lược của b?n thực dân phương Tây (như trong bài Hồng mao h?a thuy?n ca). Nổi bật lên là một ni?m ưu ái lo đ?i, khắc khoải vì không có cách gì làm cho thiên hạ thái bình:
Thái bình vô nhất lược,
Lộc lộc sĩ vi nho
(Không có khó gì cho thiên hạ thái bình,
Thẹn mình là anh nhà nho kém c?i).
Trước đây, nhi?u ngư?i cho rằng Cao Bá Quát là một ngư?i khinh bạc, kiêu ngạo và nhất là có giấc mộng đế vương. Nhưng tác phẩm của ông, không h? thấy một tư tưởng hay một phong cách nào như thế ! Nói đến tình quê hương, tình bè bạn, nghĩa vợ chồng, Cao Bá Quát lúc nào cũng chân tình tha thiết. Có những chuyện nói ông xấc láo với Minh Mệnh, Tự ?ức hay chửi bới b?n quan lại là "thượng hạ giai cẩu" v.v. Thực ra chỉ là những hư cấu, mượn ông để đả kích b?n cầm quy?n. Cả những câu thơ như "Ba hồi trống giục mồ cha kiếp v.v." Ba vòng dây sắt bước thì vương v.v. cũng đ?u là những câu chuyện gán ghép vì sẵn mối cảm tình với ông mà tưởng tượng ra.

minhhieuleo
09-02-2005, 11:19 PM
Chu Văn An - ngư?i thầy mẫu mực
Chu Văn An (1292 - 1370) ngư?i làng Văn Thôn, huyện Thanh ?àm (nay là huyện Thanh Trì-Hà Nội) đương th?i đã nổi tiếng là một nhà giáo tài đức, có nhi?u h?c trò thành đạt. ??i vua Trần Minh Tông, ông được m?i làm Tư nghiệp Quốc tử giám để dạy Thái tử h?c. ?ến đ?i Trần Dụ Tông, tri?u chính suy vị, bị b?n gian thần lũng đoạn, ông dâng sớ Thất trảm (xin chém 7 kẻ sủng thần). Vua không nghe, ông b? quan v? ở ẩn. Với tài năng, đức độ và tính cương trực, ông được coi là tấm gương tiêu biểu cho nhà giáo Việt Nam
Trần vãn thử hà th?i, dục vịnh đại phi hi?n giả lạc Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trư?ng ngóng triết nhân phong.
(Cuối Trần đã là th?i nào, ngâm vịnh rong chơi đâu phải thú vui hi?n giả.
Non phượng còn dấu nơi ẩn, núi sông mãi mãi ngắm nhìn phong cách triết nhân).
?ó là đôi câu đối mà ngư?i đ?i mãi mãi còn truy?n tụng để t? lòng mến phục đối với Chu Văn An - nhà Nho, nhà hi?n triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối th?i Trần.
Chu Văn An tên hiệu là Ti?u ẩn, tên chữ là Linh Triệt, ngư?i làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh ?àm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội). Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi th? ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370).
Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một ngư?i cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đ?c sách. Khi thi đỗ Thái h?c sinh, ông không ra làm quan, mà trở v? mở trư?ng dạy h?c ở quê nhà. H?c trò nhi?u nơi tìm đến theo h?c rất đông. Trong số môn đệ ông có nhi?u ngư?i thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong tri?u như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi v? thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít l?i thì rất lấy làm mong. Có những h?c trò không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chỉ quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghặt, tư cách thanh cao và h?c vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. ?ức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho h?c trò đến theo h?c càng nhi?u và có đủ các loại.
Một huy?n thoại vẫn được lưu truy?n nói v? ngôi trư?ng và nhân cách, đạo đức của ông như sau: "Tương truy?n khi Chu Văn An mở trư?ng dạy h?c ở quê nhà, có nhi?u h?c trò tìm đến theo h?c. Trong số này có một ngư?i sáng nào cũng đến thật sớm nghe giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. ông bèn cho ngư?i dò xem thì cứ đến khu đầm ?ại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng ?ại To , Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài, giảng bài xong ông tụ tập các trò lại h?i xem ai có tài thì làm ma giúp dân, giúp thầy. Ngư?i h?c trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con vâng l?i thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó ngư?i này ra giữa sân lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên tr?i khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên tr?i. Lập tức mây đen kéo đến, tr?i đổ mưu một trận rất lớn. ?êm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở đầm. Chu Văn An được tin khác thương luyến tiếc sai h?c trò làm lễ an táng, nhân dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đ?n th?. Nay vẫn còn dấu vết mộ thần. Theo truy?n thuyết , chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là ?ầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn h?c quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, v.v... Trong đ?n th? thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này.
Mặc nghiễn khởi t?ng vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận.
Chu đình lu hoa v?, thiên trù v?ng thiếp địa phồn khô.
( Mây lành to nghiên mực bay lên, một ng?n bút ra công tr?i thuận theo lẽ phải.
Ma tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa).
(Chu đình ca hai nghĩa: sân son và sân h? Chu, chỉ Chu Văn An).
Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại v? Chu Văn An để nói rằng tài đức của h? Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ của Chu Văn An lúc đương th?i là rất lớn.
?ến đ?i vua Trần Minh Tông, ông được m?i vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy Thái tử h?c. Ông đã cùng với Mạc ?ỉnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố tri?u đình lúc đó đang đi dần vào con đư?ng khủng hoảng, suy thoái. ?ến đ?i Dụ Tông, chính sự càng thối nát, b?n gian thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An nhi?u lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, đ?u là ngư?i quy?n thế được vua yêu. ?ó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo m? ở cửa Huy?n V? " rồi b? quan v? ở ẩn tại núi Phương Sơn thuộc làng Kiệt ?ắc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Ti?u ẩn (ngư?i đi ẩn hái củi). Sau ông mất tại đó.
Theo thư tích có thì Chu Văn An viết nhi?u sách, ông đã để lại cho đ?i sau những tác phẩm: hai tập thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Ti?u ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước v? Tứ thư nhân đạo, Tứ thư thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên soạn quyển Y h?c yếu giải tập chu di biên gồm những lý luận cơ bản v? chữa trị bệnh bằng ?ông y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là được th? ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn h?c nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đ?n Phương Sơn đã giải thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên định của đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một ngư?i đã kết hợp được hai mặt của đạo đức: bên ngoài thuần nhã, hi?n hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng đầu các nhà giáo từ xa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo gi?i của một đ?i để đạt tới làm thầy giáo gi?i của muôn đ?i như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông: "h?c nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được".
Ngày nay, để tưởng nhớ tới đạo đức và sự nghiệp của ông, nhân dân Thủ đô đã lấy tên ông để đặt tên cho một đư?ng phố và một trư?ng trung h?c lớn của Hà Nội. ?ó là phố Chu Văn An và Trư?ng phổ thông Trung h?c Chu Văn An. Phố Chu Văn An, nguyên là đại lộ Van Vôlenhôven th?i Pháp thuộc, đi từ đư?ng ?iện Biên Phủ đến phố Nguyễn Thái H?c. Còn Trư?ng trung h?c Chu Văn An nằm trên đư?ng Thụy Khuê ngay ven Hồ Tây, nơi lưu truy?n đầy những giai thoại và truy?n thuyết cổ xa. Trư?ng này nguyên trước là Trư?ng cao đẳng tiểu h?c Bảo hộ college

minhhieuleo
09-02-2005, 11:19 PM
Nhà canh tân ?ặng Huy Trứ

?ặng Huy Trứ (1825 - 1874) là một nhà cải cách lớn của Việt Nam thế kỷ 19. Ngay trong lúc hệ tư tởng nho giáo đang thống trị, ông đã tâm đắc với triết lý "làm ra của cải là một đạo lý lớn". Với cương vị phụ trách Ty Bình Chuẩn, ông chú tr?ng mở mang thương nghiệp, thủ công nghiệp, khai m?. Ông là ngư?i du nhập nhi?u kiến thức kỹ thuật phương Tây vào Việt Nam.
Một buổi chi?u bi thương ở "chiến khu" ?ồn Vàng cách đây đúng 125 năm (7-8-1874), ?ặng Huy Trứ đã ngã bệnh và chết như một ngư?i lính. Bóng c? đen xao xác, từ phía thành Sơn Tây, vài khẩu "quá sơn pháo" nổ vu vơ như tiễn biệt ông "quan lái súng" đã kéo 239 khẩu v? từ Trung Quốc cách đó 6 năm. Di chúc để lại, ông muốn được chôn dưới chân đồn cùng với những nghĩa sĩ của Hoàng Kha Viêm – Lưu Vĩnh Phúc... V?ng v? Từ Sơn (Bắc Ninh) ông dặn lại ngư?i con trai chạy loạn: "Từ rày trở đi con cháu không ai được ra làm quan".
?ó là cái kết cục bi thảm của nhà canh tân đất nước thế kỷ 19. Vua Tự ?ức còn chưa để cho ông yên ng? ông giả chết "tính lập mưu khác" mới hạ lệnh cho ngư?i mang quan tài ông bì bõm lội qua "nước Kim Bôi - Hạ Bì", vượt đư?ng rừng biên giới vào Thanh Hóa, đi thuy?n qua cửa Thuận An, ngược sông Bồ, sông Hương đến biển Thương Bạc... Tại đó sai ngư?i bật nắp quan tài ra xem ông đã chết thật chưa, rồi mới cho chôn ở núi Hạc Thú trông sang dải Trà Lĩnh quê nhà.
?ặng Huy Trứ hơn Nguyễn Lộ Trạch 28 tuổi, và là ngư?i cùng th?i, cùng chơi với Nguyễn Trư?ng Tộ, Bùi Viện... Ông sống vào những năm tháng bi hùng của nước "?ại Nam" trong sự đối mặt với Trung Hoa và Pháp. Nhưng ngư?i ta thư?ng nghĩ đến ?ặng Huy Trứ như một ông quan to, ham đi buôn. Ông mở Lạc ?ức ?iểm buôn củ nâu từ mi?n ngược xuống mi?n xuôi. Lại mở Lạc Sinh ?iểm và Lạc Thanh ?iểm mang hải sản và muối ngược lên mi?n núi. Sang công cán Hương Cảng, ông mang máy ảnh và vật liệu chụp ảnh v? theo, nửa năm sau (14-3-1869) thì mở hiệu ảnh Cảm Hiệu ?ư?ng, và chính tay ông chủ hiệu ảnh ?ặng Huy Trứ hạ bút viết văn "quảng cáo" cho máy mực này của Tây Dương. ?ó là bài văn độc nhất thế kỷ 19 trong di sản Hán Nôm ngày nay phục vụ cho kinh doanh.
Ông rất tâm đắc: "Làm ra của cải là một đạo lý lớn, không thể coi thư?ng". 50 năm sau (1917) nhà tư sản lừng danh Bạch Thái Bưởi có lẽ rất thích triết lý này nên đã đặt tên cho chiếc tàu thủy chạy biển xuyên Việt đầu tiên của mình là Bình Chuẩn - một chức quan của ?ặng Huy Trứ lúc sinh th?i, để tưởng nhớ ông.
Trên đư?ng hoạn lộ, ông cũng đóng góp nhi?u thứ cho đ?i đáng được đ?i sau ca tụng. Năm 1858 làm tri huyện Quảng Xương, bị vua cắt một năm lương ăn, nhưng đã trộm phép nước lập ra các nghĩa trang để có chốn chôn cất, cúng tế cho nắm xương tàn của những cô hồn. Từ đó mới có lệ lập ra nghĩa trang ở các vùng.
Tất cả các hoạt động của ?ặng Huy Trứ đ?u phục vụ cho một mục đích lớn: canh tân đất nước.
Ông sinh ngày 16-5-1825, tại làng Thanh Lương, Hương Xuân, Tiên ?i?n, Thừa Thiên Huế, trong một gia đình nho h?c. Bố là cháu Thượng Thư Bộ lễ, mẹ là một phụ nữ làng chài Tân Sa. Vì mẹ ông sa sẩy luôn, nên thân phụ ông phải cho đào một đư?ng ngầm thông từ buồng sản phụ sang nhà hàng xóm để khi trở dạ, đứa bé được ông thầy cúng cầm đuốc soi đư?ng đa sang nhà hàng xóm ngay đêm đó, không cho cha mẹ nhìn thấy mặt. Ng?n đuốc đã thành tên chú bé (Trứ nghĩa là ng?n đuốc). Suốt 12 năm tr?i, cậu Trứ phải ở nhà dì không được phép trông cha mẹ hay lai vãng gần nhà kẻo "quỷ luân hồi" theo gót bắt cậu đi. Bà mụ lại đem cậu ra chùa Từ Hiếu, xin cho cậu quy y, lấy pháp danh là Hải ?ức.
40 năm sau, một viên quan nhà Nguyễn theo lệnh của Viện Cơ mật đi Trung Quốc – Hương Cảng để "thám ph?ng Dương tình (xem xét tình hình phương Tây)". ?i đến chùa Phúc Lâm thì xin cạo đầu, nh? lưỡi dao của Tam Bảo chứ không chịu để tóc đuôi sam theo kiểu nhà Thanh. Chuyến đi "do thám" ấy không mấy thành công. ?ặng Huy Trứ chỉ mang v? một cuốn sách kỹ thuật của ngư?i Tây Dương viết v? máy hơi nước do chính ông biên dịch sang tiếng Hán. Nhưng lòng mong m?i cách tân đang nhen nhúm trong lòng ông. Ông không sánh với Nguyễn Trư?ng Tộ v? hệ thống h?c vấn khoa h?c kỹ thuật Tây Dương, cũng không ham viết đi?u trần... Ông một mực tâu Vua xin đi buôn. Ở cấp vĩ mô, ông xin lập ra Ty Bình Chuẩn, mà cho đến nay nhi?u ngư?i vẫn nghĩ rằng Bình Chuẩn chỉ là mua bán gạo cứu đói. Thực chất, Bình Chuẩn đảm nhiệm cả khai m?, mở mang thủ công nghiệp, thương nghiệp, phát triển giao thông vận tải. Bình Chuẩn sử dụng sức mạnh của Nhà nước để đi?u chỉnh n?n kinh tế. ở cấp nh? hơn, ông lập ra các Thương ?iểm như một công ty cổ phần. Cũng năm đó ông tâu vua dùng biện pháp khen thưởng để dân Tày, Thổ nộp khoáng sản khai thác được cho Nhà nước, hạn chế các con đư?ng buôn bán biển lận sang nhà Thanh. Ông lại đi khai thiếc, đem thiếc đi bán cho Tây Dương thu được 8.000 lạng bạc nộp cho quốc khố.
Hai năm sau, ông lại được phái sang Trung Quốc, áo Môn lần 2 như một "viên lái súng". Chuyến đi đầy bất trắc. Trong nước, Lưu Vĩnh Phúc vâng lệnh tri?u đình bắt đầu đi đánh dẹp thổ phỉ, nhưng Tự ?ức phế b? ty Bình Chuẩn, cấm các phủ huyện không được mộ quân, đúc vũ khí. Vừa đến Quảng Châu, thì thấm lang chướng, đổ bệnh nằm bẹp trong nhà thương nước ngoài mất 9 tháng tr?i, không ti?n tiêu, không bè bạn.... Ông chúi đầu viết phương lược cứu nước cảm cái khổ, cái nhục của kẻ tha hương để bàn v? cái nhục, cái khổ của quốc gia.
Tổng kết kinh nghiệm canh tân của nhà Thanh - Cao Ly - Ba Tư - Nhật Bản để đưa ra quyết sách tự cư?ng. Chưa yên tâm, sợ chết sớm, ông viết nhanh cuốn Tự thụ yếu quy với 4 tập 900 trang để bàn v? vấn đ? chống tham nhũng. Chuyến đi bất trắc hóa ra thành công khi v?? ông mang theo 239 khẩu "quá sơn pháo"...V? nước, ông ở riệt mi?n bắc và mở hiệu ảnh, nhà in, cho xuất bản binh thư và minh thư, cùng ?ại Nam quốc sử diễn ca. ?ặng Huy Trứ trở nên bí ẩn trong con mắt của Phú Xuân. Vua nghi ngại ông "tìm một cách gì đó ngoài phạm vi của tri?u đình".
?ặng Huy Trứ vẫn tiếp tục con đư?ng binh nghiệp. Năm 1871, ông theo Hoàng Khả Viêm đi đánh dẹp biên giới, giã từ nghiệp buôn đang phát đạt (cho chuyển hiệu ảnh v? Gia Lâm). Hơn một năm sau, phố Thanh Hà - thương điểm lừng lẫy của ông cùng với thành Hà Nội bị thực dân Pháp chiếm đóng. Nghiệp buôn phá sản. Ông theo Hoàng Khả Viêm và các quan rút lên ?ồn Vàng, ông mất ở đó trong sự ng? vực của tri?u đình Huế. Bởi lúc đó phong trào kháng mệnh tri?u đình diễn ra mạnh mẽ, Trần Tấn, ?ặng Như Mai là những ngư?i thân của ông đã nổi dậy khởi nghĩa...
?ặng Huy Trứ chết đi, con đư?ng canh tân của ông bị b? dở. Cũng giống như cuộc đ?i của các nhà canh tân thế kỷ 19, ông cô đơn đi giữa một xã hội đầy biến động mà những ngư?i không lư?ng trước được những biến động đó. L?i của các nhà canh tân trở thành viển vông. Tự ?ức phê ông: "Lập thân hơi thiên, nói thì cao, tài thì kém". Chẳng qua, Vua chưa nghe được l?i nói rộng mà lại thiếu kiên trì trong việc làm, đâm ra những nỗ lực canh tân đ?u h?ng cả.
Chẳng riêng gì ông, Nguyễn Trư?ng Tộ cũng bị phê là "Y quá tin ở những đi?u y đã nghĩ, tại sao y cứ thúc giục trẫm hoài...".
Cái tai của một xã hội phải mấy chục năm sau mới nghe thủng l?i ông, đúng như Phan Bội Châu đánh giá: "?ặng Huy Trứ là một trong những ngư?i trồng mầm khai hóa đầu tiên ở Việt Nam".

minhhieuleo
09-02-2005, 11:20 PM
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720 - 1791) là đại danh y có đóng góp lớn cho n?n y h?c dân tộc Việt Nam. Sống trong th?i buổi loạn lạc (Trịnh - Nguyễn phân tranh, các cuộc khởi nghĩa nổ ra liên miên) ông đã biết thoát kh?i vòng danh lợi, chuyên tâm nghiên cứu y thuật, viết sách, chữa bệnh cho nhân dân. Ông để lại nhi?u tác phẩm lớn như Hải thượng y tông tâm lĩnh gồm 22 tập, 66 quyển chắt l?c tinh hoa của y h?c cổ truy?n, các cuốn Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh kế sự không chỉ có giá trị v? y h?c mà còn có giá trị văn h?c, lịch sử, triết h?c.
Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông. Sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tỵ (11-12-1720) tại thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện ?ư?ng Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương. Nay là xã Hoàng Hữu Nam huyện Yên Mỹ, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, ông sống nhi?u (từ năm 26 tuổi đến lúc mất) ở quê mẹ xứ Bầu Thượng, xã Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn và cũng qua đ?i ở đây vào ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791) th? 71 tuổi. Mộ ông nay còn nằm ở Khe nước cạn chân núi Minh Từ thuộc huyện Hương Sơn (cách phố Châu huyện lộ Hương Sơn 4 cây số).
Lê Hữu Trác là con thứ bảy của Lê Hữu Mưu và bà Bùi Thị Thưởng.
Dòng h? của ông có truy?n thống khoa bảng; ông nội, bác, chú, anh và em h? đ?u đỗ tiến sĩ và làm quan to. Cha Lê Hữu Trác đỗ đệ tam giáp tiến sĩ làm Thị lang Bộ Công tri?u Lê Dụ Tông, gia phong chức ngự sử, tước bá, khi mất được truy tặng Thượng thư.
Năm Kỷ Mùi (1739) Lê Hữu Trác 20 tuổi thì cha qua đ?i, ông r?i kinh thành v? nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đ?c sách, thi vào tam trư?ng, sau đó không thi nữa.
Năm 1739 cũng là năm mở ra quy mô lớn của phong trào nông dân nổi dậy chống phong kiến, chỉ một năm sau (1740) nghĩa quân của Hoàng Công Chất đánh sát huyện ông. Chàng thư sinh trẻ tuổi Lê Hữu Trác đang mê mải đ?c sách phải lánh đi nơi khác đ?c sách. Có ngư?i thấy thế đã bảo ông "Binh lửa khắp nơi, con trai th?i loạn há chịu già đ?i ở trong phòng sách mãi sao?" và khuyên ông nên theo ngh? võ. Từ đó ông vừa dùi mài kinh sử vừa nghiên cứu binh thư. Sau nh? ẩn sĩ h? Võ ở ?ặng Xá dạy võ thuật âm dương (phép bói toán độn số), ông "nghiên cứu trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thử nghiệm sức h?c của mình" (Tựa "Tâm lĩnh").
Chiến tranh phong kiến đã gây đau thương chết chóc cho biết bao nhiêu gia đình làng xóm, nó không đem lại gì cho nhân dân, cho đất nước; đã làm cho Lê Hữu Trác chán nản muốn ra kh?i quân đội, nên ông đã nhi?u lần từ chối sự đ? bạt của tướng nhà Trịnh. Ông nhận ra theo Lê hay Trịnh cũng là chỉ theo đuổi chiến tranh "cốt nhục tương tàn"; cái chí mạnh "xung Ngu ?ẩu" của ông cũng hóa "ngông cuồng" mà thôi. (??c bài thơ trong l?i tựa bộ "Tâm lĩnh"). Cho nên năm 1746 khi ngư?i anh ở Hương Sơn mất, ông viện cớ v? nuôi mẹ già, cháu nh? thay anh, để xin ra kh?i quân đội, thực sự "bẻ tên cởi giáp" theo đuổi chí hướng mới.
Lê Hữu Trác bị bệnh từ lúc ở trong quân đội, giải ngũ v? phải gánh vác công việc vất vả "trăm việc đổ dồn vào mình, sức ngày một yếu" (L?i tựa "Tâm lĩnh"), lại sớm khuya đ?c sách không chịu nghỉ ngơi, sau mắc cảm nặng, chạy chữa tới hai năm mà không kh?i. Sau nh? lương y Trần ?ộc, ngư?i Nghệ An là bậc lão nho, h?c rộng biết nhi?u nhưng thi không đỗ, trở v? h?c thuốc, nhiệt tình chữa kh?i.
Trong hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông đ?c sách thuốc "Phùng thư cẩm nang" hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc. Ông Trần ?ộc thấy lạ, muốn đem hết cái hiểu thấu v? y h?c truy?n cho ông. Vốn là ngư?i thông minh h?c rộng, ông mau chóng hiểu sâu y lý, tìm thấy sự say mê ở sách y h?c, nhận ra ngh? y không chỉ lợi ích cho mình mà có thể giúp ngư?i đ?i, nên ông quyết chí h?c thuốc.
ở Hương Sơn, ông làm nhà cạnh rừng đặt tên hiệu Lãn Ông (ông lư?i) ý nói lư?i biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình kh?i sự ràng buộc của danh lợi, của quy?n thế, tự do nghiên cứu y h?c, thực hiện chí hướng mà mình yêu thích gắn bó.
Giữa cảnh thiên nhiên tĩnh mịch của núi rừng Hương Sơn, sớm khuya mê mải đ?c các sách thuốc: Y h?c nhập môn, Cảnh nhạc toàn thư, Nam dược thần hiệu (của Tuệ Tĩnh), Bảo sinh diệu toản yếu... thật là:
Sá chi vinh nhục việc đ?i,
?em thân đạo nghĩa vào nơi lâm tuy?n.
(Bất can vinh nhục sự
Bảo đao nhập cùng lâm.
An bần - Y lý thâu nhàn)
Hải Thượng Lãn Ông muốn tìm thầy, tìm bạn để h?c thêm nhưng nơi núi rừng hẻo lánh "trên không có thầy gi?i để h?c, dưới không có bạn hi?n giúp, chỉ một mình nói với mình, tự h?i tự đáp mò mẫm tưởng tượng đủ thứ" (L?i tựa "Tâm lĩnh") để tìm ra chân lý. Sau ông nh? một ông lang ở làng bên đi lại thân mật, giúp ông giải đáp những mắc mớ, vài ba năm sau ông đã chữa được một số bệnh thông thư?ng trong gia đình và làng xóm.
Mùa thu năm Bính Tỵ (1754) Lê Hữu Trác ra kinh đô mong tìm thầy để h?c thêm vì ông thấy y lý mênh mông nhưng không gặp được thầy gi?i, ông đành b? ti?n mua một số phương thuốc gia truy?n, trở v? Hương Sơn "từ khước sự giao du, đóng cửa để đ?c sách" (Tựa "Tâm lĩnh"), vừa h?c tập và chữa bệnh. Mư?i năm sau tiếng tăm của ông đã nổi ở vùng Hoan Châu (Nghệ An).
Sau mấy chục năm tận tụy với ngh? nghiệp, Hải Thượng Lãn Ông đã nghiên cứu rất sâu lý luận Trung y qua các sách kinh điển: Nội kinh, Nam kinh, Thương hàn, Kim quỹ; tìm hiểu n?n y h?c cổ truy?n của dân tộc; kết hợp với thực tế chữa bệnh phong phú của mình, ông hệ thống hóa tinh hoa của lý luận ?ông y cùng với những sáng tạo đặc biệt qua việc áp dụng lý luận cổ điển vào đi?u kiện Việt Nam, đúc kết n?n y h?c cổ truy?n của dân tộc. Sau hơn chục năm viết nên bộ "Lãn ông tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt v? y h?c: Y đức - Y lý, Y thuật, Dược... Phần quan tr?ng nữa của bộ sách phản ảnh sự nghiệp văn h?c và tư tưởng của Hải Thượng Lãn Ông.
Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782) Lãn Ông nhận được lệnh chúa triệu v? kinh. Lúc này ông đã 62 tuổi, sức cũng yếu lại là ngư?i chăm lo chữa bệnh cho trăm h?, nhất là ông đã quyết chí xa lánh công danh, theo đuổi nghiệp y đã mấy chục năm nên ông nhận chiếu chỉ của chúa Trịnh với tâm trạng vừa lo lắng, vừa chán nản; mãi sau nghĩ đến bộ "Tâm lĩnh" chưa in được, mà ông "không dám truy?n thụ riêng ai, chỉ muốn đem ra công bố cho m?i ngư?i cùng biết, nhưng việc thì nặng sức lại m?ng, khó mà làm được" (Thượng kinh ký sự), nên ông hy v?ng lần đi ra kinh đô có thể thực hiện việc in bộ sách, phần "con cái trong nhà cũng hết sức van nài", ông tạm làm vui từ giã gia đình, h?c trò r?i Hương Sơn lên đư?ng.
Ra kinh vào phủ chúa xem mạch và kê đơn cho thế tử Trịnh Cán, ông được Trịnh Sâm khen "hiểu sâu y lễ" ban thưởng cho ông 20 xuất lính hầu, và bổng lộc ngang với chức quan kiểm soát bộ Hộ để giữ ông lại. Nhưng Lãn Ông thấy nếu nhận thưởng chịu ơn thì khó lòng r?i kinh đô trở lại Hương Sơn được, nên ông giả ốm không vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc thư?ng ốm yếu để được tr? ở ngoài.
B?n ngự y ghen tị với Lãn ông không chịu chữa theo đơn của ông, nên thế tử không kh?i, ông biết thế nhưng không h? thắc mắc với b?n thầy thuốc thiếu lương tâm này, mặt nữa ông không thật nhiệt tình chữa, kết quả để sớm thoát kh?i vòng cương t?a của quỳên thần, danh lợi.
Th?i gian ở kinh đô, Lãn Ông muốn v? thăm cố hương Hải Dương của mình, nhưng mãi đến tháng 9 năm 1782, sau chúa Trịnh mới cho phép ông v?. Sau hơn 20 năm xa cách, được trở v? mảnh đất "chôn nhau cắt rốn".
?ang sống giữa quê hương, ông lại có lệnh triệu v? kinh vì Trịnh Sâm ốm nặng. Nhận được lệnh triệu, ông đành phải r?i quê hương.
V? kinh ông chữa cho Trịnh Sâm kh?i và cũng miễn cưỡng chữa tiếp cho Trịnh Cán. Trịnh Sâm lại tr?ng thưởng cho ông. Ông bắt buộc phải nhận nhưng bụng nghĩ: "Mình tuy không phải đã b? quên việc ẩn cư, nhưng nay hãy tạm nhận phần thưởng rồi sau vứt đi cũng được" (Thượng kinh ký sự).
Trịnh Sâm chết vì bệnh lâu ngày sức yếu, Trịnh Cán lên thay, nhưng Trịnh Cán cũng ốm dai dẳng nên "khí lực khô kiệt", khó lòng kh?e được, lại nóng lòng trở v? Hương Sơn, Lãn Ông đang tìm kế thoái lui, thì may có ngư?i tiến cử một lương y mới, ông li?n lấy cớ ngư?i nhà ốm nặng r?i kinh.
Hải Thượng Lãn Ông trở v? Hương Sơn bằng đư?ng thủy, nhưng sợ tri?u đình bắt trở lại ông phao tin đi đư?ng bộ. Thoát kh?i kinh đô ông sung sướng như "chim sổ lồng, cá thoát lưới", lòng chỉ muốn "bay nhanh" v? quê nhà:
Lên đư?ng từ giã long lâu
Gươm đàn nửa gánh ra ngay đô thành,
Ngựa quen đư?ng cũ v? nhanh,
Quay thuy?n khi lúc lênh đênh giữa dòng.
Mây qua đư?ng để bớt nồng
Núi non mở mặt như lòng vì ai
Xanh xanh một dải non đoài
Giống non ta có chỉ vài hòn thôi.
(Thượng kinh kí sự).
Ngày 2 tháng 11 (năm 1782) Lãn Ông v? đến Hương Sơn.
Gần một năm sống giữa kinh đô phong kiến biết bao công danh phú quí lôi kéo, nhưng ông "thung dung" ra đi lại "ngất ngưởng" trở v?, lòng trong không h? đục, chí lớn không h? s?n.
Năm 1783 ông viết xong tập "Thượng kinh kí sự" ghi lại tỉ mỉ chuyển đi kinh, tập kế ấy là một tác phẩm văn h?c vô cùng quí giá. Mặc dầu tuổi già, công việc lại nhi?u: chữa bệnh, dạy h?c, nhưng ông vẫn tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, viết thêm (tập Vân khi điển, năm 1786) để hoàn chỉnh bộ "Tâm lĩnh". Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho n?n y h?c dân tộc, ông còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của th?i đại.

minhhieuleo
09-02-2005, 11:21 PM
Nhà cải cách Hồ Quí Ly
Hồ Quí Ly (1336-1407) quê gốc ở Quỳnh Lưu (Nghệ An) là ngư?i có năng lực và tư tưởng cải cách toàn diện cả trong chính trị, kinh tế lẫn văn hóa. Dưới tri?u Trần, lúc này đã suy yếu cực độ, ông giữ tới chức Phụ chính Thái sư, nắm tr?n quy?n hành trong nước. Năm 1400, ông truất ngôi vua Trần, lập nên nhà Hồ, chấn chỉnh bộ máy quan lại, thi hành nhi?u cải cách, song bởi không được lòng dân, ông đã để mất nước vào tay giặc Minh xâm lược. Tuy sử sách còn nhi?u ý kiến đánh giá khác nhau v? Hồ Quí Ly, song không thể phủ nhận ông là một nhà cải cách lớn, có những đóng góp nhất định cho lịch sử phát triển dân tộc.
Hồ Quí Ly (1336-1407) quê gốc ở Quỳnh Lưu (Nghệ An).
Ông có hai ngư?i cô đ?u được vua Trần Minh Tông lấy làm cung phi và đếu trở thành mẹ nhà vua Trần, do đó ông sớm được đưa vào tri?u đình.
Ban đầu, vua Trần Dụ Tông cho ông làm Trưởng cục Chi hậu (1371), đến vua Trần Nghệ Tông đưa lên làm Khu mật đại sứ, lại gả con gái là công chúa Huy Ninh.
Ông là ngư?i có nhi?u năng lực v? chính trị, kinh tế, văn hóa.
Làm việc trong hoàn cảnh nhà Trần đã suy yếu cực độ, đất nước nghiêng ngả, nhân dân cực khổ, ông không chịu nổi. Ông được cử giữ chức cao nhất trong tri?u. Năm 1395 Thượng hoàng Trần Nghệ Tông chết, ông được cử làm Phụ chính Thái sư, tước Trung tuyên Vệ quốc ?ại vương, nắm tr?n quy?n hành trong nước.
Năm 1400, ông truất ngôi vua Trần, lập nên nhà Hồ, chấn chỉnh bộ máy quan lại.
Chưa được một năm, Hồ Quí Ly theo cách nhà Trần, như?ng ngôi cho con là Hồ Hán Thương, làm Thái Thượng Hoàng.
Hồ Quí Ly là vị vua Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng n?n văn hóa dân tộc, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập thiên "vô dật" để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông khi trước.
V? mặt xã hội, ông thiết lập sở "Quản tế" (như trạm y tế ngày nay). ở các lộ, ông đ?u lập một kho lúa g?i là "Thư?ng bình", lấy ti?n công mua lúa trữ vào, phòng những năm mất mùa đem bán rẻ cho dân chúng.
Ông thực thi lại chính sách phân phối ruộng đất, quy định trong nước chỉ cho đại vương và trưởng công chúa, còn không ngư?i nào được phép có quá 10 mẫu ruộng. Số ruộng thừa phải nộp lại cho Nhà nước. Ông còn hạn chế số nô tỳ trong các nhà quy?n quí, các gia đình phải tùy theo thứ bậc mà nuôi tôi tớ nhi?u hay ít, không được quá số quy định.
Hồ Quí Ly cũng là ngư?i đ? xướng việc phát hành ti?n giấy đầu tiên ở Việt Nam.
Trước sự lăm le xâm lược của nhà Minh, Hồ Quí Ly tích cực chấn chỉnh quân đội, xây thành, đóng thuy?n chiến, v.v...
Nhìn chung, những cải cách của Hồ Quí Ly là tích cực, với mong muốn xây dựng một nước Việt Nam cư?ng thịnh, tư tưởng đổi mới của ông cũng rất đáng trân tr?ng song những cải cách của ông cha mang lại những kết quả đáng kể.
Tri?u Hồ thành lập cha được mấy năm thì quân Minh tràn sang xâm lược. Hồ Quí Ly tổ chức cuộc kháng chiến, song "quân nhà Hồ trăm vạn nhưng không một lòng", Hồ Quí Ly không thể cố thủ bằng cách dựa vào thành quách, cho nên sau 6 tháng kháng cự, ông và con cháu bị giặc Minh bắt đưa v? Trung Quốc.
Tuy thất bại, nhưng ông là ngư?i có tinh thần tự chủ cao. ?áp l?i ngư?i Trung Quốc h?i v? phong hóa nước Nam, ông tự hào viết nên một bài thơ:
"Dục vấn An Nam sự
An Nam phong tục thuần
Y quan ?ư?ng chế độ
Lễ nhạc Hán quân thần
Ng?c ủng khai tâm tửu
Kim đao chước tư lân
Niên niên như tam nguyệt
?ào lưu nhất ban xuân"
Tạm dịch:
"An Nam muốn h?i rõ
Xin đáp: phong tục thuần
Lễ nhạc nghiêm như Hán
Y quan chẳng kém ?ư?ng
Dao vàng cá nh? vẩy
Bình ng?c rượu long hương
Mỗi độ mùa xuân tới
Mận đào nở chật vư?n".
Khi còn nắm chính quy?n, ông cương quyết đ? cao công tác giám sát, chống lại xu th?i không dám can gián cái sai của nhà vua khiến quốc pháp bị xem thư?ng. Với quan Ngự sử Trung đô úy ?ỗ Tử Tr?ng có trách nhiệm, ông gửi l?i trách cứ trong một bài thơ:
"Ô đài cửu hỹ, cấm vô thanh
?ốn sử tri?u đình phong hiển khinh
Tá vấn Tử Trong nhu Trung úy
Thi sinh hà sự phụ bình sinh"
Tạm dịch:
"?ài gián từ lâu tiếng lặng thinh
Tri?u đình để phép bị coi khinh
Tử Trong, Trung úy sao m?m yếu?
Kẻ sĩ không nên b? chí mình!"
Với nhà vua bất tài vô dụng, ông cương quyết phế b?. Kẻ giáo đi?u theo chính thống thì cho rằng thế là thoán nghịch, nhưng nhà sử h?c công minh thì không thể không thừa nhận đó là việc cần làm, nếu đứng trên lập trư?ng vì quy?n lợi đất nước, chứ không vì quy?n lợi của một cá nhân, một dòng h?. ?ối với nhà vua bất tài mà tham quy?n cố vị, ông xóa bài thơ Khu Nguyên quân (gửi Nguyên quân) viết như sau:
"Cũng một duộc vua hi?n
Hôn ?ức và Linh ?ức
Sao chẳng sớm liệu đi?
Chỉ để ngư?i nh?c sức!".
(Bản dịch của Tuấn Nghi)

minhhieuleo
09-02-2005, 11:21 PM
Hoàng Diệu - cuộc đ?i và sự nghiệp
Hoàng Diệu (1829-1882) quê làng Xuân ?ài, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, đỗ phó bảng năm 25 tuổi. Là một nhà khoa bảng cương trực, yêu nước, thương dân, ông làm quan ở đâu cũng được quý mến. Năm 1880, ông nhận chức tổng đốc Hà Nội, chuẩn bị chiến đấu chống thực dân Pháp. Sau những ngày chiến đấu quyết liệt, thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tuẫn tiết tại võ miếu. Sự nghiệp và tính cách của ông được ngư?i đ?i ngưỡng mộ
Gia thế - Gia phong
Hoàng Diệu tên chữ là Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày 10-2 năm Kỷ Sửu (tức ngày 5-3-1829) tại làng Xuân ?ài, nay thuộc xã ?iện Quang, vùng Gò Nổi, ?iện Bàn. Ông là một trong các nhà khoa bảng yêu nước ở quê hương đất Quảng.
Theo gia phả h? Hoàng, làng Xuân ?ài vốn gốc làng Huệ Trù (nay trong xã Lộc Trù, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông tổ đ?i thứ nhất di cư vào Quảng Nam, th?i gian đầu ở làng ?ông Bàn, sau một trận lụt lớn đưa gia đình định cư ở làng Xuân ?ài. Quá trình ấy đến thế hệ Hoàng Diệu đã trải qua 7 đ?i. Hiện nay, tại nhà th? h? Hoàng ở Xuân ?ài còn giữ câu đối:
Hải đạo Huệ Trù chi hương, bản căn thâm cố
Nam châu Xuân ?ài thử địa, dịch diệp hi long.
L?i diễn nôm của Hoàng Diệu:
Huệ Trù xứ vốn là cõi Bắc, do tổ tiên cội gốc vững b?n
Xuân ?ài châu nay thuộc mi?n Nam, truy?n con cháu
giống dòng hưng thịnh.
Gia đình xuất thân nhà nông và theo nho h?c. Ông thân sinh là Hoàng Văn Cự làm hương chức, qua đ?i năm 54 tuổi. Bà thân mẫu Phạm Thị Khuê th? 88 tuổi, tần tảo làm ruộng và chăn tằm, nuôi dạy con cái. Gia đình có Ph¹m ThÞ __________________________________________________ _____________________________________________ 11 ngư?i con, 8 trai, 3 gái. Lớn lên và được h?c hành, 6 ngư?i đỗ đạt: một phó bảng, 3 cử nhân và 2 tú tài.
Khoa thi hương tại Thừa Thiên năm 1848, Hoàng Kim Giám, 23 tuổi và Hoàng Kim Tích, tức Hoàng Diệu, 20 tuổi cùng đỗ cử nhân (1). Bấy gi?, chánh chủ khảo - Tham tri bộ binh Hoàng Tư Mỹ và phó chủ khảo - biện lư bộ lễ Phan Huy Thực thấy trong văn bài của hai anh em có những điểm giống nhau nên ng? vực. ?ược tấu trình, Tự ?ức cho tổ chức phúc hạch riêng hai anh em, mỗi ngư?i ngồi một phòng ở tả vu và hữu vu điện Cần Chánh... Sau khi xét duyệt, Tự ?ức ngự phê(dịch): Sự hành văn là việc chung, cốt để ch?n chân tài, anh em đỗ đồng khoa là việc tốt đẹp.
Hoàng Kim Giám không ra làm quan, qua đ?i năm 34 tuổi.
Hoàng Diệu, 25 tuổi thi đình (1853) đỗ phó bảng.
Một nhân cách cao đẹp
Gần xa trong tỉnh, anh em Hoàng Diệu nổi tiếng hiếu h?c và h?c gi?i.
Trên các bước đư?ng làm quan, theo ?ại Nam chính biên liệt truyện, Hoàng Diệu "tính tình cương trực, thanh liêm, lâm sự quyết đoán, có phong độ bậc đại thần".
V? phần mình, trong khi bôn ba với công việc, Hoàng Diệu luôn giữ nếp nhà. Theo tục th?i ấy, vừa nhận chức hàn lâm viện kiểm thảo (giúp việc trưởng biên tập, biên duyệt sách có quan hệ đến tri?u đại", Hoàng Diệu xin v? chịu tang cha (1854) cho đến mãn tang. Cuối năm 1879, trước khi đi trấn nhiệm tổng đốc Hà Ninh, Hoàng Diệu được v? thăm mẹ già đã 80 tuổi. Vào dịp ấy, Tự ?ức ban thưởng sâm, quế, lụa và bạc, Hoàng Diệu dâng biểu tạ ơn, có câu: "Thần bận việc nước nên cha dám lo việc nhà. Xin hết lòng làm việc có lợi cho nước..." (dịch nghĩa).
Hoàng Diệu đảm nhận các tr?ng trách, cha mẹ và vợ chánh thất được vinh phong các tước hiệu, nhưng gia đình ở làng sống rất dân dã. Khi tin Hoàng Diệu tuẫn tiết được báo v? làng, bà vợ đang làm ở ngoài đồng đã ngất xỉu bên b? ruộng.
Sau th?i hạn mãn tang cha, Hoàng Diệu được bổ làm tri phủ ở Tuy Phước, Bình ?ịnh. Do nha lại lầm lẫn án , ông bị giáng chức làm tri huyện Hương Trà, Thừa Thiên. Năm 1864, xảy ra vụ nổi dậy của Hồng Tập, con hoàng thân Miên áo, em chú bác của Hồng Nhậm tức vua Tự ?ức, cùng với một số ngư?i khác. Bại lộ, Hồng Tập và Nguyễn Văn Viện bị án chém. Hoàng Diệu đến nhậm chức tri huyện Hương Trà thay Tôn Thất Thanh bị đổi đi nơi khác, bấy gi? có mặt trong lúc hành quyết đã nghe Hồng Tập nói: "Vì tức giận v? hòa nghị mà bị tội, xin chớ ghép vào tội phản nghịch". Sau đó các quan Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ và Biện Vĩnh tâu lên Tự ?ức, đ? nghị nhà vua nên theo gương Hán Minh ?ế, thẩm tra lại vụ án. Tự ?ức phán là vụ án đã được đình thần thẩm xét kỹ, nay nghe Phan Huy Kiệm nói Hoàng Diệu đã kể lại l?i trăn trối của Hồng Tập, bèn quyết định giáng chức Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ, Biện Vĩnh và Hoàng Diệu (theo ?ại Nam thực lục chnh biên, NXB Khoa h?c xã hội, Hà Nội, 1974).
Tháng 9 năm Giáp Tí (1864), ?ặng Huy Trứ đang là Bố chánh Quảng Nam, trong một bản sớ tiến cử ngư?i hi?n tài trình lên Tự ?ức đã viết: "...Ông Nguyễn Quỳnh, nguyên Bố chánh Khánh Hòa, ngư?i trong hạt của thần, ông Hoàng Diệu, nguyên chi phủ Hương Trà và ông Phan Thanh Nhã, cả ba ngư?i này đ?u cử nhân, phó bảng xuất thân, đ?u là ngư?i cương trực, mẫn cán từng kinh qua địa phương, phủ, huyện cai trị không nhiễu dân, tuy mắc lỗi lầm chưa khôi phục, nhưng khi ở địa phương hoặc phủ huyện đ?u được sở dân tin yêu, khi ra đi m?i ngư?i đ?u nhớ. Những ngư?i như vậy không có nhi?u. Nếu h? được nhà vua b? qua lỗi lầm mà đem dùng thì ở một huyện, h? là tri huyện hi?n tài, ở phủ có thể là tri phủ tốt, ở tỉnh có thể giữ chức quan tr?ng, nghĩ rằng không nên vì một chi tiết mà để một số ngư?i suốt đ?i mai một. Huống chi lúc này, nước nhà đang gặp nhi?u việc, lại ngư?i không có việc thì thật là uổng phí, tri?u đình đã mất nhi?u năm đào tạo, dạy bảo mới được những ngư?i như thế. Trong số này, ông Nguyễn Quỳnh có thể đảm nhận được chức bố chánh, án sát một tỉnh lớn. Các ông Hoàng Diệu, Phan Thanh Nhã có thể đảm đương chức tri huyện, tri phủ một nơi quan yếu còn khuyết...".
Ngày 20 cùng tháng, Bộ Lại nhận l?i châu phê: "... Nguyễn Quỳnh lãnh ngay chức chi phủ, Hoàng Diệu và Phan Thanh Nhã được phục ngay chức tri huyện".
Qua duyên tri ngộ này, năm 1871, Hoàng Diệu với chức trách khâm phái quân vụ, đã cùng ?ặng Huy Trứ đi dẹp phỉ ở biên giới (trích ?ặng Huy Trứ, con ngư?i và tác phẩm do ?ặng Huy Côn chủ biên, nhóm Trà Lĩnh xuất bản năm 1990).
Năm 1874, trong khi giữ chức tham tri Bộ Lại, kiêm quản ?ô sát viện và sung cơ mật đại thần, Hoàng Diệu lại bị giáng hai cấp.
Năm 1878, ở Quảng Nam xảy ra nạn lụt rất lớn g?i là "nạn lụt bất quá" vì dân chúng cho là "bất quá nước tràn đến sân là cùng", ít đ? phòng... Nhưng rồi nước tràn v? rất mạnh, cuốn trôi nhi?u nhà cửa thóc lúa và súc vật, một số ngư?i chết trôi, đồng ruộng nhi?u nơi ngập úng, hư hại. Tiếp đó, nhi?u phủ huyện lâm vào cảnh bệnh tật, chết đói, trộm cướp, dân chúng phải ăn củ chuối trừ bữa.
Tiếp được biểu chương của quan địa phương, Tự ?ức quyết định xuất ti?n gạo công quỹ để chẩn tư và tìm ngư?i giao phó trách nhiệm.
Theo đ? nghị của Hoàng Diệu, và biết ông là ngư?i chính trực, am hiểu dân tình, phong tục đất Quảng, Tự ?ức trao cho ông chức khâm sai đại thần cầm c? tiết và quy?n "tiện nghi hành sự", lo việc chẩn tu an dân, dẹp trừ trộm cướp.
?i sát tìm hiểu dân tình, sử dụng quy?n hành thận tr?ng, Hoàng Diệu sớm hoàn thành tr?ng trách, ổn định lại tình hình.
Hồi ấy ở làng Giáo ái có một cư?ng hào tên là Hương Phi, lợi dụng tình hình nhiễu nhương, tổ chức một b?n tay chân chuyên đi cướp bóc dân lành. Bị khống chế, bà con trong vùng sợ báo thù, không dám tố giác với cửa quan. Hoàng Diệu được tin li?n mở cuộc đi?u tra, nắm bắt các bằng chứng xác thực, rồi bàn với quan tỉnh g?i Hương Phi đến xét h?i. Theo chủ trương của Hoàng Diệu, nhi?u nạn nhân gửi đơn tới tỉnh đư?ng tố cáo tội ác của tên gian tế. Hoàng Diệu cho niêm yết tội trạng của Hương Phi và lên án trảm quyết. Dân chúng yên tâm, tin tưởng, và b?n cướp không dám hoành hành nữa.
Cũng trong th?i gian ấy, Hoàng Diệu phát giác tại các địa phương trong tỉnh có một ngư?i đỗ cử nhân khoa Bính Tí (1876) vì đã nh? ngư?i khác làm bài, và hai ngư?i mang danh "tú tài" nhưng không có thực h?c. Cả ba đ?u bị truất bằng và phạt tội (theo Thực lục của Cao Xuân Dục, NXB Khoa h?c xã hội, Hà Nội, 1976). Thêm nữa, hai "ông tú tài", nhân nạn đói, chuyên mua rẻ bán đắt, vơ vét để làm giàu nên dân chúng càng oán ghét. Hoàng Diệu tìm hiểu chu đáo, trực tiếp gặp h? như những nhân sĩ trong vùng, qua để thẩm tra h?c vấn. ?ược tấu trình, vua Tự ?ức cho tổ chức sát hạch riêng những ngư?i ấy để có quyết định xử lý một cách danh chính ngôn thuận.
Một năm lu lại làm việc ở tỉnh nhà, Hoàng Diệu nổi tiếng là một ngư?i tài trí và quang minh chính trực.
Sự nghiệp trên đất bắc
Phục chức sau vụ "tẩy oan" Hồng Tập, Hoàng Diệu lần đầu ra bắc năm 1868, làm tri phủ ?a Phúc, rồi tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), ám sát Nam ?ịnh, bố chánh Bắc Ninh.
Trong ch?n năm ấy, ông lập nhi?u quân công, dẹp trộm cướp và an dân. ở đâu ông cũng được sĩ dân quí mến.
ở Quảng Nam ra Huế, năm 1878, Hoàng Diệu nhận chức tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh), nhưng vì nguyên tổng đốc Nguyễn Chính vẫn lưu nhiệm nên ông ở lại Huế, làm tham tri Bộ Lại (Thực lục của Cao Xuân Dục).
Năm 1879, ông được cử làm phó sứ, cùng với chánh sứ là thượng thư Bộ Lễ ?ỗ ?ệ hội bàn với sứ thần Tây Ban Nhav? một hiệp ước giao thương. Tiếp đó, ông được thăng thượng thư Bộ Binh.
?ầu năm 1880, Hoàng Diệu nhận chức tổng đốc Hà Ninh (1) kiêm trông coi công việc thương chánh.
Biết rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lúc bấy gi?, Hoàng Diệu bắt tay ngay vào việc chuẩn bị chiến đấu, biên phòng. Như ?ại Nam chính biên liệt truyện nêu, tổng đốc Hà Ninh đã "cùng với tổng đốc tỉnh Sơn Tây Nguyễn Hữu ?ộ dâng sớ nói v? việc bố phòng, lại cùng với Nguyễn ?ình Nhuận mật tâu v? chước phòng v? sẵn". Vua (Tự ?ức) khen. "Nhưng sau đó - như trong di biểu nêu - vua lại trách cứ lui binh... vì sợ giặc"... "chế ngự không đúng cách" (?)
Một mặt khác, Hoàng Diệu quan tâm ổn định đ?i sống của dân chúng trong công bằng và trật tự. Ngày nay, ở Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiêu, còn áp ở mặt tư?ng cổng ra vào một phần tấm bia Lệnh cấm tri tệ (Thân cấm khu tệ), niêm yết năm 1881, của tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu và tuần phủ Hà Nội Hoàng Hữu Xứng, nhằm ngăn chặn các tệ nhương nhiễu đối với nhân dân trong các dịp ma chay, cưới xin cũng như nạn vòi ti?n, cướp bóc trên sông và ở các chợ, kèm theo các quy định cụ thể cần thi hành đến nơi đến chốn. Một di tích qúi hiếm nói lên tấm lòng ưu ái của ngư?i công bộc mãi mãi còn giá trị của nó.
Hoàng Diệu sống và làm việc ở Hà Nội non ba năm; bên mình hàng ngày chỉ có hai ngư?i tùy tùng. Một ngư?i con trai ra thăm cha, ông bảo con trở v? sớm.
Sau những ngày chiến đấu quyết liệt, gian lao, thành mất vào tay quân giặc và Hoàng Diệu tuẫn tiết tại Võ Miếu ngày 25-4-1882 (tức ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ng?). Ngư?i Hà Nội vô cùng đau đớn. Ngay hôm sau, nhi?u ngư?i h?p lại, sắm sửa nệm tử tế, rước quan tài của Hoàng Diệu từ trong thành ra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vư?n Dinh ?ốc h?c (nay là địa điểm khách sạn Royal Star ở đư?ng Trần Quí Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà Nội).
Hơn một tháng sau hai ngư?i con trai ông ra Hà Nội lo liệu đưa thi hài thân sinh v? an táng ở quê quán vào mùa thu năm ấy.
Khu lăng mộ Hoàng Diệu, theo quyết định ngày 25-1-1994 của Bộ Văn hóa Thông tin, được công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa của nước nhà.
Sau lần trùng tu thứ nhất năm 1982, ngày 3 tháng 4 năm 1998, công cuộc trùng tu lần thứ hai khu lăng mộ đã hoàn thành. Khang trang và khiêm tốn giữa một vùng đồng quê vạn vật, trên diện tích khuôn viên khoảng 1.600 mét vuông, công trình này mãi mãi tồn tại trong lòng dân đất Quảng và cả nước, phù hợp với phong cách Hoàng Diệu và th?a lòng ngưỡng mộ, ước mong của m?i ngư?i.

minhhieuleo
09-02-2005, 11:22 PM
Nhà bác h?c Lê Quí ?ôn
Lê Quí ?ôn (1726 - 1784) quê tại Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ (nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Ngay từ nh?, ông đã nổi tiếng thông minh, năm 27 tuổi đỗ ?ình Nguyên, làm tới chức Bồi tụng. Ông được coi là nhà bác h?c lớn nhất của Việt Nam trong lịch sử trung đại, là tác giả của 40 bộ sách gồm hàng trăm quyển viết v? nhi?u lĩnh vực khác nhau. Ngoài ra, ông còn có cuốn Qúi ?ư?ng thi tập với nghệ thuật thơ phong phú, đa dạng, tư tưởng sâu xa
Lê Quí ?ôn nguyên là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Qúi ?ư?ng, sinh ngày 2-8-1726, trong một gia đình khoa bảng; cha là tiến sĩ Lê Tr?ng Thứ, quê tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Phú Hiệu, xã ?ộc Lập, huyện Hng Hà, tỉnh Thái Bình. Ngay từ nh? ông đã nổi tiếng thông minh, chăm h?c. Năm 14 tuổi, Lê Quí ?ôn theo cha lên h?c ở kinh đô Thăng Long. Lúc ấy cậu bé 14 tuổi đã h?c xong toàn bộ sách kinh, sử của Nho gia. 18 tuổi, Lê Quí ?ôn thi Hương đỗ Giải nguyên. 27 tuổi đỗ Hội nguyên, rồi đỗ ?ình Nguyên Bảng nhãn. Sau khi đã đỗ đạt, Lê Quí ?ôn được bổ làm quan và từng giữ nhi?u chức vụ quan tr?ng của tri?u Lê - Trịnh, như: Hàn lâm chỉ sung toản tu quốc sử quán (năm 1754), Hàn lâm viện thứ giảng (năm 1757), ?ốc đồng xứ Kinh Bắc (năm 1764), Thứ thư kiêm Tư nghiệp Quốc tử Giám (năm 1767), Thủ phó đô ngự sử (năm 1768), Công bộ hữu tư lang (năm 1769), Bồi tụng (Phó thủ tướng) (năm 1773), Lại bộ tả thứ lang kiêm Tổng tài quốc sử quán (năm 1775), Hiệp trấn tham tán quân cơ Trấn phủ Thuận Hóa (năm 1776), Hiệp trấn Nghệ An (năm 1783), Công bộ thượng thư (năm 1784)...
Lê Quí ?ôn chết ngày 1-5-1784 tại quê mẹ, làng Nguyên Xá, huyện Duy Tiên (nay thuộc Hà Nam). Thi hài ông được đưa v? mai táng ở quê nhà.
Trong cuộc đ?i làm quan của Lê Quí ?ôn, có mấy sự kiện sau có ảnh hưởng lớn đối với sự nghiệp trước tác, văn chương của ông. ?ó là chuyện đi sứ Trung Quốc năm 1760 - 1762. Tại Yên Kinh (Bắc Kinh), Lê Qúi ?ôn gặp gỡ các sứ thần Tri?u Tiên, tiếp xúc với nhi?u trí thức nổi tiếng của nhà Thanh, bàn luận với h? những vấn đ? sử h?c, triết h?c... H?c vấn sâu rộng của ông được các h?c giả Trung Quốc, Tri?u Tiên rất khâm phục. Tại đây, Lê Quí ?ôn có dịp đ?c nhi?u sách mới lạ, kể cả sách của ngư?i phương Tây nói v? địa lý thế giới, v? ngôn ngữ h?c, thủy văn h?c... ?ó là các đợt Lê Quí ?ôn đi công cán ở các vùng Sơn Nam, Tuyên Quang, Lạng Sơn những năm 1772, 1774, làm nhiệm vụ đi?u tra nỗi khổ của nhân dân cùng tệ tham nhũng, ăn hối lộ của quan lại, khám đạc ruộng đất các vùng ven biển bị địa chủ, cư?ng hào địa phương man khai, trốn thuế... Chính nh? quá trình đi nhi?u, thấy nhi?u, nghe nhi?u biết nhi?u việc đ?i như vậy mà kiến thức Lê Quí ?ôn trở nên phong phú vô cùng. Ông viết trong l?i tựa sách Kiến văn tiểu lục: "Tôi vốn là ngư?i nông cạn, lúc còn bé thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan, xem lại sách đã chứa trong tủ, vâng theo l?i dạy của cha, lại được giao du nhi?u với các bậc hi?n sĩ đại phu. Thêm vào đấy phụng mệnh làm việc công, bốn phương rong ruổi: mặt bắc sang sứ Trung Quốc, mặt tây bình định Trấn Ninh, mặt nam trấn thủ Thuận Quảng (Thuận Hóa, Quảng Nam). ?i tới đâu cũng để ý tìm tòi, làm việc gì mắt thấy tai nghe đ?u dùng bút ghi chép, lại phụ thêm l?i bình luận sơ qua, giao cho tiểu đồng đựng vào túi sách".
Ngoài đầu óc thông tuệ đặc biệt cộng với vốn sống lịch lãm và một nghị lực làm việc phi thư?ng, phải kể đến th?i đại mà Lê Qúi ?ôn sống. Và ông là “đứa con đẻ, là sản phẩm của th?i đại ấy kết tinh lại?.
Lê Quí ?ôn sống ở thế kỷ thứ 18 th?i kỳ xã hội Việt Nam cũ nhi?u biến động lớn. Trong lòng xã hội Việt Nam đầy mâu thuẫn khi ấy đang nảy sinh những mầm mống mới của th?i kỳ kinh tế hàng hóa, thị trư?ng trong nước mở rộng, thủ công nghiệp và thương nghiệp có cơ hội phát triển... Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ tới đ?i sống văn hóa, tư tưởng, khoa h?c.Tại thế kỷ 18, xuất hiện nhi?u tên tuổi rực rỡ như ?oàn Thị ?iểm, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Gia Thi?u, ?ặng Trần Côn, Lê Hữu Trác... ?ồng th?i các tri thức văn hóa, khoa h?c của dân tộc được tích lũy hàng ngàn năm tới nay đã ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến trình độ phải hệ thống, phân loại. Thực tế khách quan này đòi h?i phải có những bộ óc bách khoa và Lê Quí ?ôn với h?c vấn uyên bác của mình đã trở thành ngư?i "tập đại hành" m?i tri thức của th?i đại. Có thể nói, toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ thứ 18 đ?u được bao quát vào trong các tác phẩm của Lê Quí ?ôn. Tác phẩm của ông như cái mốc lớn đánh dấu thành tựu văn hóa của cả một th?i đại với tất cả những ưu điểm cùng nhược điểm của nó.
Tác phẩm của Lê Qúi ?ôn thống kê có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số bị thất lạc. Những tác phẩm tiêu biểu của Lê Quí ?ôn còn giữ được có thể kể ra như sau:
- Quần thư khảo biện, tác phẩm chứa đựng nhi?u quan điểm triết h?c, tích sử, chính trị được viết trước năm ông 30 tuổi.
- Vân đài loại ngữ, Lê Quí ?ôn làm xong lúc ông 30 tuổi. ?ây là một loại "bách khoa thư", trong đó tập hợp các tri thức v? triết h?c, khoa h?c, văn h?c... sắp xếp theo thứ tự: V? trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội... Vân đài loại ngữ là bộ sách đạt tới trình độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc đối với n?n khoa h?c Việt Nam th?i phong kiến.
- ?ại Việt thông sử, còn g?i Lê tri?u thông sử, là bộ sử được viết theo thể kể truyện, chép sự việc theo từng loại, từng đi?u một cách hệ thống, bắt đầu từ thái Tổ đến Cung Hoàng, bao quát một th?i gian hơn 100 năm của tri?u Lê, trong đó chứa đựng nhi?u tài liệu mới mà các bộ sử khác không có, đặc biệt là v? cuộc kháng chiến chống Minh.
- Kiến văn tiểu lục, là tập bút ký nói v? lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đ?i Trần đến đ?i Lê. Ông còn đ? cập tới nhi?u lĩnh vực thuộc chế độ các vương tri?u Lý, Trần, từ thành quách núi sông, đư?ng xá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, m? đồng, m? bạc và cách khai thác cho tới các lĩnh vực thơ văn, sách vở...
- Phủ biên tạp lục, được viết trong th?i gian Lê Quí ?ôn làm Hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung ghi chép v? tình hình xã hội. ?àng Trong từ thế kỷ thứ 18 trở v? trước.
Công trình biên soạn lớn nhất của Lê Quí ?ôn là bộ Toàn Việt thi lục 6 quyển, tuyển ch?n 897 bài thơ của 73 tác giả từ th?i Lý đến đ?i Lê Tương Dực (1509 - 1516). Lê Quí ?ôn hoàn thành Toàn Việt thi lục năm 1768, dâng lên vua, được thưởng 20 lạng bạc.
V? sáng tác văn xuôi, theo Phan Huy Chú, Lê Quí ?ôn có Quí ?ư?ng văn tập 4 quyển, nhưng sách này đã mất. V? sáng tác thơ, Lê Quí ?ôn để lại có Quí ?ư?ng thi tập khoảng vài trăm bài làm ở trong nước và trong th?i gian đi sứ Trung Quốc.
Nhận xét tổng quát v? thơ Lê Quí ?ôn, Phan Huy Chú viết: "Ông là ngư?i h?c vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. L?i văn hồn nhiên..., không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia".
Quan niệm v? thơ của Lê Quí ?ôn được tổng hợp lại như sau: "Làm thơ có 3 điểm chính: một là tình, hai là cảnh, ba là việc. Tiếng sáo thiên nhiên kêu ở trong lòng mà động vào máy tình; thị giác tiếp xúc với ngoài, dựa cổ mà chứng kim, chép việc thuật chuyện, thu lãm lấy tinh thần... đại để không ngoài ba điểm ấy".
?ây là những tiêu chuẩn v? thơ mà Lê Quí ?ôn đưa ra cho quá trình sáng tác của mình. ??c thơ Lê Quí ?ôn, chúng ta thấy thơ ông thật phong phú đa dạng, sâu sắc v? tư tưởng, nghệ thuật và để lại trong lòng ta những xúc động đẹp đẽ, sâu xa.

minhhieuleo
09-02-2005, 11:22 PM
Lê Thái Tổ - ngư?i Anh hùng giải phóng dân tộc
Lê Lợi (1385-1433) sinh tại Lam Sơn (nay thuộc huyện Th? Xuân, Thanh Hóa) trong một gia đình "đ?i đ?i làm quân trưởng một phương". ?ất nước bị giặc Minh xâm lược, Lê Lợi với tài năng và uy tín lớn đã dựng c? khởi nghĩa, chiêu mộ hi?n tài, kêu g?i nhân dân cả nước cùng đứng lên đánh giặc. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nhanh chóng nhận được sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân. Cùng với tư tưởng chiến lược quân sự đúng đắn, tài lãnh đạo kiệt xuất của Lê Lợi, tới năm 1428 cuộc khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn. Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lo chấn chỉnh nội trị, mở nhi?u khoa thi... đặt n?n móng cho n?n thống trị lâu dài của đất nước.
Lê Lợi sinh ngày 10-9-1385 (6-8 năm ất Sửu) tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay thuộc huyện Th? Xuân, Thanh Hóa, trong một gia đình "đ?i đ?i làm quân trưởng một phương". Năm Lê Lợi 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương tri?u Hồ thất bại, nước ?ại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng ra kh?i b? cõi.
?ầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18 ngư?i bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ th? đánh giặc giữ yên quê hương. ?ó là hội Th? Lũng Nhai đã đi vào sử sách.
Tin Lê Lợi dựng c? khởi nghĩa, chiêu mộ hi?n tài bay xa, thu hút các anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo v?. ?ất Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa. Tại đó có đủ các tầng lớp xã hội và thành phần dân tộc khác nhau, với những đại biểu ưu tú như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Nguyễn Xứ, Lê Lai, Cầm Quí, Xa Khả Tham... Sau một th?i gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình ?ịnh Vương, truy?n hịch đi khắp nơi, kêu g?i nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ mở đầu tới kết thúc thắng lợi (tháng 12-1427), qua các giai đoạn phát triển và chiến lược, chiến thuật của nó đã chứng minh Lê Lợi là ngư?i có tầm vóc của một thiên tài, một nhân cách vĩ đại, chỉ thấy ở những lãnh tụ mở đư?ng, khai sáng. Nếu Ngô Quy?n với chiến thắng trên sông Bạch ?ằng năm 938 đã chấm dứt th?i kỳ 1.000 năm mất nước, mở đầu th?i kỳ độc lập mới của dân tộc thì Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, kết thúc 20 năm thống trị của giặc Minh, khôi phục n?n độc lập lâu dài cho Tổ quốc, bắt đầu một kỷ nguyên xây dựng mới. Không có Lê Lợi, không có phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Nhưng Lê Lợi không chỉ là ngư?i nhen nhóm, tạo lập ra tổ chức khởi nghĩa Lam Sơn mà ông còn là nhà chỉ đạo chiến lược kiệt xuất. Một nét đặc sắc, mới mẻ trong đư?ng lối chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Minh mà Lê Lợi thực hiện là dựa vào nhân dân để tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhìn vào lực lượng nghĩa binh và bộ chỉ huy, tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa, có thể thấy rõ tính chất nhân dân rộng rãi của nó, một đặc điểm nổi bật không có ở các cuộc khởi nghĩa khác chống Minh trước đó. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết, tập hợp m?i lực lượng xã hội trong một tổ chức chiến đấu, rồi từ cuộc khởi nghĩa ở một địa phương, lấy núi rừng làm căn cứ địa, phát triển sâu rộng thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trên quy mô toàn quốc. ?ây là một cống hiến sáng tạo to lớn v? đư?ng lối chiến tranh của Lê Lợi và bộ tham mưu của ông, để lại một kinh nghiệm lịch sử quí giá.
Vừa là nhà tổ chức và chỉ đạo chiến lược v? chính trị, quân sự, vừa là vị tướng cầm quân mưu trí, quả quyết, Lê Lợi đã vận dụng lối đánh "vây thành diệt viện" theo lý thuyết quân sự ông nghi?n ngẫm: ?ánh thành là hạ sách. Ta đánh thành kiên cố hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức m?i, khí nhục, nếu viện binh giặc lại đến thì ta đằng trước, đằng sau đ?u bị giặc đánh, đó là đư?ng nguy. Chi bằng nuôi sức kh?e, chứa khí hăng để đợi quân cứu viện tới. Khi viện binh bị phá thì thành tất phải hàng". Chiến thuật "Vây thành diệt viện" của Lê Lợi kết hợp với chủ trương "mưu phạt nhân tâm công", uy hiếp, phân hoá, chiêu dụ địch của Nguyễn Trãi tạo nên một phương thức độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Cuộc vây hãm Vương Thông ở ?ông Quan và tiêu diệt viện binh giặc tại Chi Lăng, Xương Giang cuối năm 1427 là kết quả thắng lợi của tư tưởng quân sự của Lê Lợi - Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi hết giặc Minh v? nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, sáng lập ra vương tri?u Lê. Lê Lợi làm vua được 5 năm thì mất (1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, niên hiệu là Thái Tổ.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước buổi đầu của vương tri?u Lê, Lê Lợi đã có những cố gắng không nh? v? nội trị, ngoại giao, nhằm phục hồi, củng cố, phát triển đất nước trên m?i mặt, như tổ chức lại bộ máy chính quy?n từ trung ương xuống địa phương; ban hành một số chính sách kèm theo những biện pháp có hiệu quả để khôi phục sản xuất nông nghiệp, ổn định đ?i sống xã hội. Lê Lợi cũng chú ý tới việc phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo nhân tài. Năm 1428, lên ngôi vua, năm sau (niên hiệu Thuận Thiên thứ 2, 1429), Lê Lợi đã cho mở khoa thi Minh Kinh. Năm 1431, thi khoa Hoành từ năm 1433, Lê Lợi đích thân ra thi văn sách. ?ấy là chưa kể năm 1426 trong khi đang vây đánh ?ông Quan, Lê Lợi đã mở một khoa thi đặc cách lấy đỗ 32 ngư?i, trong đó có ?ào Công Soạn, một nhà ngoại giao xuất sắc th?i Lê Lợi. Nhưng, nhiệm vụ chính trị lớn nhất phải quan tâm giải quyết hàng đầu sau khi đất nước được giải phóng là việc tăng cư?ng củng cố, giữ vững n?n độc lập, thống nhất của Tổ quốc. V? phương diện này, Lê Lợi đã làm được hai việc có ý nghĩa lịch sử. Thứ nhất, ông đã thành công trong cuộc đấu tranh ngoại giao, thiết lập quan hệ bình thư?ng giữa tri?u Lê và tri?u Minh. Thứ hai, Lê Lợi đã kiên quyết đập tan những âm mưu và hành động bạo loạn muốn cát cứ của một số ngụy quân trứơc, điển hình là vụ ?èo Cát Hãn ở Mư?ng Lễ, Lai Châu. Trong bài thơ làm khắc vào vách đá núi Pú Huổi Chò (bên sông ?à, thuộc Lai Châu) năm 1431 khi đánh ?èo Cát Hãn, Lê Lợi đã nói rõ ý chí bảo vệ sự thống nhất giang sơn:
?ất hiểm trở từ nay không còn,
Núi sông đã vào chung một bản đồ.
?ó thơ khắc vào núi đá
Trấn giữ mi?n Tây của nước Việt ta.
Sau bài thơ trên, Lê Lợi còn viết bài thơ thứ hai khắc vào vách núi Hào Tráng bên Chợ B?, Hòa Bình.
Lê Lợi trong 5 năm làm vua, bên cạnh những công lao to lớn, có phạm một số sai lầm mà sử sách đương th?i cũng thẳng thắn phê phán. ?ại Việt sử Ký toàn thư viết: "Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 20 năm mà thiên hạ đại đình. ?ến khi lên ngôi, định luật lệ, chế lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, lập quan chức, lập phủ huyện, thu góp sách vở, mở trư?ng h?c, có thể g?i là có mưu lớn, sáng nghiệp. Song, đa nghi, hay giết, đó là chỗ kém".

minhhieuleo
09-02-2005, 11:23 PM
Lê Thánh Tông
Lê Thánh Tông (1442 - 1497) là vị vua mà tên tuổi và sự nghiệp vẻ vang đã gắn li?n với giai đoạn cư?ng thịnh của Việt Nam nửa cuối thế kỷ 15. Trong gần 40 năm làm vua, ông đã tiến hành nhi?u cải cách v? chính trị, quân sự, kinh t?; khởi xướng bộ luật Hồng ?ức được xem là sự kiện đánh dấu trình độ văn minh cao của Việt Nam; đó cao những giá trị văn hóa dân tộc. Bản thân ông là một nhà thơ lớn, để lại nhi?u tác phẩm có giá trị
Tên tuổi và sự nghiệp Lê Thánh Tông gắn chặt với một giai đoạn cư?ng thịnh của Việt Nam ở nửa sau thế kỷ 15.
Lê Thánh Tông tên là Tư Thành, hiệu Thiên Nam động chủ, con thứ tư Lê Thái Tông, mẹ là Ngô Thị Ng?c Dao. Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442) tại nhà ông ngoại ở khu đất chùa Huy Văn Hà Nội ngày nay, mất ngày 30 tháng giêng năm ?inh Tý (1497).
Lê Thánh Tông lên làm vua năm 1460, hai lần đổi niên hiệu: Quang Thuận (1460-1469) và Hồng ?ức (1470-1497). Trong gần 40 năm làm vua, ông đã đưa tri?u Lê phát triển tới đỉnh cao v? m?i mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, quốc phòng, văn hóa. Sử gia Ngô Sĩ Liên khen Lê Thánh Tông là "vua sáng lập chế độ, mở mang đất đai, b? cõi khá rộng, văn vật tốt đẹp, thật là vua anh hùng, tài lược".
V? phương diện văn h?c, Lê Thánh Tông là một nhà thơ lớn, tác phẩm ông để lại rất phong phú, vừa thơ, vừa văn xuôi, vừa Hán, vừa Nôm, hiện còn được sao chép trong các tập: Thiên Nam dư hạ (trong đó có bài phú nổi tiếng Lam Sơn Lương Thủy phú), Châu Cơ thắng thưởng Chinh Tây kỷ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vinh, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn...
* Nhà cải tổ và xây dựng đầy nhiệt huyết. Nh? sự ủng hộ sáng suốt, quyết liệt của nhóm đại thần Nguyễn Xứ, ?inh Liệt..., Lê Thánh Tông đã bước lên ngai vàng giữa lúc tri?u chính nhà Lê đang lục đục mâu thuẫn. Lên nắm chính quy?n, Lê Thánh Tông nhanh chóng chấm dứt tình trạng phe phái trong cung đình, khẩn trương tổ chức xây dựng đất nước với một tinh thần cải cách mạnh mẽ, táo bạo. V? cơ cấu chính quy?n các cấp, ông đã tiến hành xóa b? hệ thống tổ chức hành chính có th?i Lê Lợi tế 5 đạo đổi thành 12 đạo (tức 12 thừa tuyên). Bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý các biện pháp phát triển kinh tế, sửa đổi chế độ thuế khóa, đi?n đóa, khuyến khích nông nghiệp, trồng tr?t, chăn nuôi, mở đồn đi?n, khai khẩn đất hoang. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển đất nước của Lê Thánh Tông đã được phản ánh khá rõ qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông ban bố, như Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn đi?n, Chiếu đinh quan chế... Dưới th?i Lê Thánh Tông, lực lượng quốc phòng bảo vệ đất nước được tăng cư?ng hùng hậu. Trước kia, quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhi?u ti, vệ. Ngoài tổ chức quân thư?ng trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương. 43 đi?u quân chính Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao.
* Ngư?i khởi xướng bộ luật Hồng ?ức. Bộ luật Hồng ?ức là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của sự nghiệp Lê Thánh Tông và của cả th?i đại ông. Sự ra đ?i của bộ luật Hồng ?ức được xem là sự kiện đánh dấu trình độ văn minh cao của xã hội Việt Nam hồi thế kỷ 15. Lê Thánh Tông, ngư?i khởi xướng luật Hồng ?ức, là ngư?i thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành. Ông đã thu lại quy?n chỉ huy của tổng quân đô đốc Lê Thiệt vì con Lê Thiệt giữa ban ngày phóng ngựa trên đư?ng phố và dung túng gia nô đánh ngư?i. Lê Thánh Tông thư?ng bảo với các quan rằng: "Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các ngư?i phải tuân?.

minhhieuleo
09-02-2005, 11:24 PM
Lý Nhân Tông - đặt n?n móng xây n?n giáo dục đại h?c Việt Nam
Vua Lý Nhân Tông (sinh năm 1066, trị vì từ 1072 đến 1128) là vị vua đặt ra nhi?u chính sách nhằm chấn hưng đất nước, khuyến nông, đắp đê chống lụt. ?ặc biệt, ông là ngư?i đầu tiên khởi xướng và thực hiện chế độ thi cử và giáo dục đại h?c của ?ại Việt như tổ chức khoa thi Minh Kinh (1075), lập Quốc Tử Giám (1076), tổ chức "thi lại viên" nhằm lựa ch?n quan chức cao cấp cho bộ máy nhà nước.
Lý Nhân Tông là một vị vua nhân ái và có tài. Lúc lên ngôi tuy còn nh? tuổi, nhưng được mẹỶ Lan là một phụ nữ gi?i trị nước và các đại thần tài gi?i như Thái sư Lý ?ạo Thành, Phụ quốc Thái úy Lý Thư?ng Kiệt cùng nhân dân hết lòng ủng hộ. Bởi vậy, dưới tri?u đại Lý Nhân Tông, nước ?ại Việt đã làm nên những chiến công lừng lẫy cả v? nội trị lẫn ngoại giao, và ngày càng trở nên hùng mạnh.
Lý Nhân Tông có nhi?u chính sách nhằm chấn hưng đất nước.
Trong lĩnh vực chính trị, Lý Nhân Tông là vị vua đầu tiên ban hành lệ dân chủ với "Chiêu cầu l?i nói thẳng" (tháng 4 Bính Thìn - 1076) nhằm huy động trí tuệ của m?i tầng lớp nhân dân đóng góp vào công cuộc "trị quốc, bình thiên hạ". Và kể từ đấy, các tri?u đại đã kế thừa một kế sách trị quốc an dân.
V? kinh tế, ông là ngư?i rất quan tâm đến công việc nhà nông. Việc bảo vệ trâu bò, phương tiện sản xuất của cư dân nông nghiệp ?ại Việt, lần đầu được Lý Nhân Tông đưa vào luật pháp. Lý Nhân Tông đã hai lần xuống chiếu ra lệnh cấm giết trộm trâu.
Lý Nhân Tông là ngư?i đầu tiên khởi xướng việc đắp đê phòng lũ, đã huy động dân "đắp đê ở phư?ng Cơ Xá" (nay là đoạn đê sông Hồng ở gần cầu Long Biên, Hà Nội), năm 1108.
Trong việc bảo vệ thiên nhiên, môi trư?ng sinh thái đối với cư dân làm nông nghiệp, tháng giêng năm 1126, ông đã xuống chiếu "Cấm dân chúng mùa xuân không được chặt cây" và việc bảo vệ môi trư?ng thiên nhiên thành pháp lệnh.
Nhưng đi?u lớn lao, đáng kể hơn cả của Lý Nhân Tông, của tri?u đại ông, là sự mở đầu nghiệp thi cử và n?n giáo dục cao cấp của nước nhà.
Tiếp tục sự nghiệp mong m?i của vua cha, ngư?i đặt n?n móng xây dựng Trư?ng đại h?c quốc gia vào năm 1070 với việc lập Văn Miếu để biểu dương Nho giáo, th? Chu Công, Khổng Tử và các vị tiên hi?n. Năm, sáu năm sau, Lý Nhân Tông là ngư?i đầu tiên khởi xướng và thực hiện chế độ thi cử và giáo dục đại h?c của ?ại Việt để từ đó v? sau, ngày càng được các tri?u đại nối tiếp hoàn thiện.
Khoa thi đầu của n?n giáo dục cao cấp Việt Nam được mở vào tháng 2 năm Ất Mão, hiệu Thái Ninh năm thứ tư (1075), là khoa thi Minh kinh bác h?c nhằm tuyển ch?n ngư?i có tài văn h?c. Khoa này ch?n được mư?i ngư?i.
Một năm sau, năm Bính Thìn (1076), vua cho lập Quốc Tử Giám ở kế sau Văn Miếu (ban đầu là cho các hoàng tử, sau mở rộng cho những ngư?i gi?i trong thiên hạ vào h?c), và ch?n những ngư?i gi?i, những nhà khoa bảng cho vào dạy h?c. ?ây là trư?ng đại h?c đầu tiên của nước nhà.
Tháng 2 năm ?inh Tỵ (1077) lại tổ chức "thi lại viên bằng phép viết chữ, phép tinh và hình luật", nhằm lựa ch?n quan chức cao cấp cho bộ máy nhà nước. ?ây là kỳ thi ch?n quan lại đầu tiên với nội dung kiến thức tương đối toàn diện: văn, toán, luật pháp (chính trị).
Tháng 8 năm Binh Dần (1086) mở khoa thi ch?n ngư?i cử tài văn h?c trong nước, sung làm việc ở Hàn lâm viện. Khoa thi này Mạc Hiển Tích đỗ đầu, được bổ chức Hàm lâm h?c sĩ.
Là một minh quân, Lý Nhân Tông cũng là một tấm gương khổ luyện, phấn đấu đạt đến độ "h?c thức cao minh, hiểu sâu đạo lý" (Phan Huy Chú). Chính vì vậy, đánh giá tổng quát v? ông, các sử gia từ Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, đến Phan Huy Chú, Lê Quí ?ôn... đ?u cho rằng, ông là "vị vua gi?i", "vị anh quân" của trìêu Lý.

minhhieuleo
09-02-2005, 11:24 PM
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) ngư?i làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng) có trí tuệ thông minh mẫn tiệp từ nh?. Ông sống ẩn dật suốt th?i thanh niên, mãi đến năm 45 tuổi mới đi thi và đỗ Trạng nguyên, giữ chức Tả thị lang dưới tri?u Mạc. Sống trong buổi các phe phái tranh chấp quy?n lực liên miên, ông vẫn giữ một cái nhìn sáng suốt, cố gắng làm những đi?u có lợi cho dân cho nước. Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại cho hậu thế nhi?u tác phẩm thơ văn có giá trị, mang tính triết h?c cao, xứng đáng là "cây đại thụ", nhà h?c giả, triết gia của thế kỷ 16.
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, mất năm 1585, ngư?i làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Sinh trưởng trong một gia đình v?ng tộc (cháu ngoại quan thượng thư Nhữ Văn Lan) có h?c vấn, cả hai thân mẫu đ?u là những ngư?i có văn tài h?c hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truy?n thống gia giáo kỷ cương. Nhất là phụ mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, từơng truy?n bà là ngư?i gi?i giang văn tài và tinh thông địa lý, tướng số. Ngay từ khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đ?i, thấy con mình có tướng mạo khác thư?ng, bà đã dốc lòng đào tạo con trai thành một tài năng giúp nước, cứu đ?i. Ni?m thôi thúc đó khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm tìm được thầy h?c có đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn Lương ?ắc Bằng. Với trí tuệ mẫn tiệp, thông minh từ nh?, lại gặp thầy gi?i khác nào như rồng gặp mây. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm thành tài năng kiệt xuất nổi tiếng. Và sau này, tài h?c vấn uyên thâm của ông đã vượt xa thầy. Tương truy?n Lương ?ắc Bằng là ngư?i gi?i lẽ h?c, đã đem sách Thái ất thần kinh ra dạy cho h?c trò, nhưng có những đi?u trong sách ấy Lương ?ắc Bằng cũng không hiểu được mà chỉ có Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này mới tinh thông.
Lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà Lê suy thoái, các phe phái trong tri?u đố kỵ, chém giết lẫn nhau. Năm 1572, Mạc ?ăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một tri?u đại mới. Thế là suốt cuộc đ?i thanh niên trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố được tài năng. Mãi tới năm 1535, lúc này đã 45 tuổi, ông mới đi thi. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi ?ình ông đ?u đỗ đầu và đỗ Trạng nguyên. Từ đấy, ông làm quan với tân tri?u, nhà Mạc phong chức Tả thị lang (chức đứng hàng thứ ba trong bộ Hình). Tri?u đình nhà Mạc rất trân tr?ng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông hy v?ng tri?u đại nhà Mạc có thể xây dựng lại đất nước. Lúc này, Mạc ?ăng Dung đã như?ng ngôi cho con là Mạc ?ăng Doanh và rút v? làm Thái thượng hoàng. Doanh là ngư?i t? ra có chí khí đảm lược. Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà h?c giả uyên thâm, một tri thức dân tộc đã nhìn thấy đi?u đó. Và ông hy v?ng: với nhân vật này, tri?u đại mới có thể đưa đất nước thoát kh?i tình trạng rối ren mà vua tôi nhà Lê và các tập đoàn phong kiến trước đó gây ra.
Nhưng ni?m tin đó bị thất v?ng. Là một h?c giả, h?c rộng biết nhi?u, trong thơ ông hay nhắc tới sự thăng trầm "thương hải biển vi tang đi?n" (biển xanh biến thành nương dâu) của tr?i đất, tạo vật và cuộc đ?i trôi nổi như "phù vân". Ông thương xót cho "vận mệnh" quốc gia và cảm thông sâu sắc tình cảnh của "dân đen", "con đ?". Ông thật sự mong muốn đất nước thịnh vượng, thái bình. Tương truy?n, hình như để tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương tàn cho chúng dân và nhìn thấy trước th?i cuộc, "vận mệnh" của đất nước trong hoàn cảnh ấy chưa thể có những lực lượng đảm đương được việc thống nhất, nên khi các tập đoàn phong kiến đến h?i kế sách, ông đ?u bày cho h? những phương sách khác nhau để giữ thế "chân vạc". Năm 1568, Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm sát hại, lo cho "số phận" nên đã ngầm cho ngư?i h?i kế an thân, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (ngụ ý nói: Dựa vào một dải Hoành sơn cư thể lập nghiệp được lâu dài). Thế là Nguyễn Hoàng tức tốc xin anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ ?èo Ngang trở vào).
Tại Thăng Long, th?i ấy chúa Trịnh cũng ra sức ức hiếp vua Lê và muốn phế b?, li?n cho ngư?i h?i ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không trả l?i và lẳng lặng dẫn sứ giả ra thăm chùa và nói với nhà sư: "Giữ chùa th? Phật thì ăn oản", ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn phò nhà Lê thì quy?n hành tất giữ được. Nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến binh đao. Còn đối với nhà Mạc, sau những cuộc chiến tranh liên miên, phải b? chạy lên Cao Bằng thế thủ, vua Mạc cho ngư?i v? h?i ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông đã trả l?i: "Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể" (Cao Bằng tuy đất hẹp, nhưng có thể giữ được vài đ?i). Quả nhiên, mãi đến năm 1688, sau ba đ?i giữ đất Cao Bằng, nhà Mạc mới bị diệt. Các truy?n thuyết trên đây muốn chứng t? rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là ngư?i có tài tiên đoán, đo nắm được bí truy?n của sách Thái ất thần kinh. Vả lại còn truy?n thuyết nữa v? Trạng Trình với tập Trình quốc công sấm kế. Tương truy?n trong tập sách đó, ông đã tiên tri và biết trước các sự việc nhân tình thế thái, th?i cuộc xảy ra "năm trăm năm sau". Thực, hư thế nào, còn là vấn đ? cần phải nghiên cứu khẳng định hay phủ định của các nhà h?c giả Việt Nam sau này để trả lại giá trị xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. ?ương nhiên, một đi?u cần khẳng định: Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự là nhà h?c giả "thượng thông thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự" (trên tr?i hiểu thiên văn, dưới đất tư?ng địa lý, ở giữa hiểu con ngư?i).
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như: Tập thơ Bạch Vân (gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán còn lưu lại) và hai tập: Trình quốc công Bạch vân thi tập và Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập hay còn g?i là Bạch Vân quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang tính triết lý sâu xa của th?i cuộc. Ông phê phán gay gắt b?n tham quan ô lại hút máu, hút mủ của dân. Thơ ông còn truy?n đạt cho đ?i một đạo lý đối nhân xử thế, đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng gi?ng. ??c thơ ông là thấy cả một tấm lòng lo cho nước, thương đ?i, thương dân, và một tâm hồn suốt đ?i da diết với đạo lý: "Tiên thiên hạ chiu phiu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Vì thế khi v? ở ẩn, ông vẫn mở trư?ng dạy h?c, mong đào tạo cho đ?i những tài năng "kinh bang tứ thư". H?c trò của ông cũng có ngư?i trở thành danh tướng, Trạng nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quỳnh...
Có thể nói ở thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết h?c lớn của Việt Nam. Tư tưởng triết h?c của ông "không bận tâm đi vào xu hướng duy lý... đi tìm khái niệm bản thể luận như Lão Tử, như triết h?c Phật giáo hay cái phong nhiệm nhi?u lúc đến ngụy biện của Trang Tử. Ông hiểu sâu sắc triết h?c Tống Nho nhưng không đi vào sự câu nệ vụn vặt, không lý giải quá sâu cái lý, có khi rắc rối, hoặc chẻ sợi tóc làm tư để tìm hiểu, biện giải nhi?u thứ mơ hồ rối rắm trong những khái niệm hỗn tạp đó. Với sự uyên thâm vốn có, ông được tri?u đình nhà Mạc và sĩ phu đương th?i phong là Trình tuyên hầu, tức là một vị Hầu tước khơi nguồn dòng suối triết h?c của h? Trình (tức Trình Di, Trình Hiện - hai nhà triết h?c khai phá ra phái Lạc Dương của Tống Nho), hoặc đ?i còn g?i ông là cụ Trạng Trình. Tuy vậy, triết h?c của ông là triết h?c đã được sống dậy, biểu hiện trong thơ như sự gợi ý mách bảo của cuộc sống thực tiễn. Ông chắt l?c từ trong nhận thức triết h?c mà mình thu lượm được, phép biện chứng nhìn bên ngoài có vẻ như thô sơ để giải đáp nhi?u hiện tượng tự nhiên và xã hội nảy sinh ở quanh mình. Trong thơ ông, ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi bật lên những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát "luật" đ?i bằng những phạm trù triết h?c. Vì lẽ đó, ông rất hay dùng đên những cặp phạm trù đối lập như: đen - trắng, tốt - xấu, đầy - vơi, sinh - diệt, vuông - tròn, để giãi bày quan niệm triết lý nhân sinh của mình.
Tuy nhiên, "một hạn chế dễ nhận thấy trong tư tưởng triêt h?c của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tuy nắm được phép biện chứng, nhưng vẫn nặng v? duy tâm. Quan niệm v? sự phát triển của ông còn nằm trong khung tròn khép kín chứ cha phải là vòng tròn xoáy ốc. ?ó là sự phát triển tuần hoàn, là cái phép biện chứng của Chu dịch... ông đã nhận được trong n?n giáo dục Nho h?c đương th?i, cộng với phép biện chứng thô sơ của Lão Tử trong ?ạo đức kinh. ?ó cũng là những hạn chế đương nhiên của rất nhi?u nhà triết h?c cổ đại" (?ào Thái Tôn).
Nhìn lại toàn bộ tiến trình lịch sử và con ngư?i thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm(1) xứng đáng là "cây đại thụ", nhà h?c giả, nhà triết gia của thế kỷ.

Ánh Sao Đêm
09-05-2005, 11:50 AM
tr?i tr?i,,,,,,,, chóng mặt li?n