PDA

View Full Version : Bầy Chim Chôn Cất Vị Ân Nhân



gioidinhhue
03-13-2010, 05:40 AM
21. Bầy Chim Chôn Cất Vị Ân Nhân

Có một người sống cô độc trong một túp lều tranh. Ông tên là Tôn Lương, vốn là người trung hậu, bản tính nhân từ, cuộc sống thanh bần đạm bạc. Ông đi lầm thuê, thấy người ta bắt nhốt một bầy chim trong lồng, động mối từ tâm, có bao nhiêu tiền công, ông dốc ra mua tất cả, rồi đem thả chúng vào rừng hoang. Trải qua bao năm, không hiểu ông thả được bao nhiêu chim mà vẫn nghèo kiết xác. Sau đó, tuổi tác ông càng ngày càng cao, ông phải đi xin ăn kiếm sống qua ngày. Vào một buổi sớm mai năm ông bảy mươi tuổi, ông cảm thấy thân thể bải hoải, bèn nằm thẳng cẳng trên giường, rồi vĩnh viễn từ giã cõi đời.

Tôn Lương vốn không có thân nhân bằng hữu, gia thế lại bần hàn, không có được một chiếc quan tài để chôn cất tử tế, nên đành nằm không trên giường, trong một tình trạng hết sức thê lương.

Vào một buổi sáng sớm sau hai ngày ông qua đời, bỗng nhiên có một bầy chim từ đâu bay đến bàng bạc trên bầu trời, bay thẳng vào trong lều tranh của Tôn Lương. Những người ở gần đó thấy thế lấy làm lạ kéo nhau tới trước nhà ông để xem. Họ ngỡ rằng bầy chim bay đến đó để xơi thịt Tôn Lương; nào ngờ chúng tha đất đến chôn cất vị ân nhân đã cứu mạng chúng.

Bầy chim này đông hàng vạn con, bay đi bay lại như con thoi, nên chẳng bao lâu chúng đã tha đất lấp đầy ngôi nhà tranh để chôn cất Tôn Lương.

Đến khi ấy, mọi người trong làng mới biết ông ta suốt đời từng làm việc thiện, nên được bầy chim chôn cất một cách lạ lùng như thế. Từ đó trở đi dâng làng càng hiểu rõ công đức của sự phóng sinh là vô cùng cao quý.

22. Nhờ Phóng Sinh Mà Khỏi Chết Chìm

Vào đời nhà Tấn có một người tên là Mao Bảo. Ông là một nho sinh, tính tình nhân từ, tâm trí thông tuệ. Lúc chưa làm quan, một hôm đang đi trên đường, ông bỗng thấy một ngư phủ tay xách một con rùa, hăm hở ra chợ bán. Mao Bảo lập tức xuất tiền ra mua con rùa ấy, rồi đem thả xuống sông. Về sau, ông làm đến chức tướng quân, sự nghiệp rực rỡ một thời.

Có một lần cầm quân ra trận, ông cùng quân địch giao chiến. Nhưng quân ông yếu thế, bị thua to, quân lính bỏ chạy tán loạn. Quân địch hung hãn đuổi theo rất gấp. Mao Bảo chạy lạc đến một dòng sông, nhưng nơi đây không có thuyền, cũng không có cầu để đi qua. Ông nhìn lại phía sau thì thấy bụi bay mịt trời, truy binh đang đuổi đến. Mao Bảo long dạ như lửa đốt, hoang mang vô cùng, ngửa mặt lên trời than thở: "Trời hại ta rồi!".

Vừa dứt tiếng than, ông định rút gươm tự sát để đền nợ nước. Nào hay, mặt nước bỗng nổi sóng cuồn cuộn, rồi một vật lạ nổi lên, theo sóng bơi bào phía ông. Khi nó đến bên bờ sông thì vừa lúc quân địch cũng đã đến gần. Trong tình huống nguy cấp như lửa cháy này, Mao Bảo thầm nghĩ: "Thà chôn thân vào bụng cá chứ quyết không để cho quân địch bắt sống mà phải chịu nhục. "Nghĩ thế rồi, ông vươn mình nhảy xuống nước.

Khi đang ngoi ngóp trong dòng nứơc, ông bỗng cảm thấy dưới chân có vật gì đỡ ông lên, rồi nương theo làn sóng bơi gấp vào bờ bên kia. Ông lấy làm quái lạ, hốt hoảng ngoái đầu nhìn lại phía sau, thì thấy quân địch đã đến sát bờ sông. Chúng bắn theo như mưa, nhưng tất cả tên đều rơi xuống nước, Mao Bảo chẳng hề hấn gì. Thoắt chốc đã đến bờ bên kia, Mao Bảo tung chân nhảy lên bờ, cón con rùa đen hướng về ông, gật đầu chào rồi lặng lẽ bơi đi. Bấy giờ Mao Bảo mới nhớ lại chuyện xảy ra cách đây khoảng mười năm. Lúc ấy, ông có mua một con rùa đen, đem thả xuống sông. Có lẽ vì thế mà giờ đây nó đến cứu ông. Nghĩ đến lòng tri ân của loài vật, tâm hồn ông dâng lên một niềm cảm động vô vàn.



23. Nhờ Cứu Loài Ong Mà Thoát Khỏi Tử Hình

Một hôm, ông chủ quán bán rượu trông thấy một con ong mật sa vào trong hũ rượu, long ông cảm thấy thương xót, liền dung một que tre vớt nó ra ngoài. Chẳngmấy chốc, mình ong khô nuớc cánh ong cứng lại, nó liền vươn cánh kêu vo ve mấy tiếng, rồi tung cánh bay đi.

Từ ấy trở đi, hễ thấy con ong mật nào rơi vào hũ rượu, ông đều cứu chúng thoát chết.

Cách vài năm sau, bỗng nhiên một hôm, lính từ đâu xông đến quán ông, chúng chẳng hỏi mô tê ất giáp gì hết, mà bắt ông còng hai tay lại, rồi dẫn lên cửa quan. Bấy giờ ông mới biết mình bị kẻ gian vu cáo, nhưng không có cách nào biện bạch đựơc nỗi oan tình. Đến khi vị quan thẩm quán cầm bút định kết ông vào tội tử hình thì đột nhiên nghe vang cả tiếng ong từ xa vang lại, càng lúc càng rõ dần. Chẳng mấy chốc, cả bầy ong vương cánh bay đến, chúng lần lượt đâm đầu vào ngòi bút son của viên thẩm phán. Quan đuổi mấy chúng cũng chẳng chịu đi, mà càng lúc lại càng bay đến nhiều hơn, khiến cho long quan băn khoăn, lấy làm quái lạ. Thấy tình hình như thế, viên thẩm phán đoán rằng tên tiểu bảo kia nhất định bị kẻ gian phi vu cáo. Thế rồi ông goại kẻ tố cáo kia đến thẩm tra lại, thì phát giác ra lời tố cáo của y trước sau đều mâu thuẫn. Do đó, ông tra hỏi lại thật cặn kẽ thì hay tên tiểu bảo kia với tên gian phi ấy chẳng có dây mơ rễ má gì với nhau hết, mà y chỉ dựng chuyện để vu oan giá họa cho người ta.

Bấy giờ viên phán quan mới khẳng định người tiểu bảo kia quả thực là vô tội. Bầy ong lúc này cũng rã đám vút đi.

Viên phán quan liền hỏi kỹ tên tiểu bảo do nguyên nhân gì mà có chuyện lạ như thế, thì tên tiểu bảo cứ tình thực trình bày lại việc nhân đức mà trước kia mình đã làm. Bấy giờ viên phán quan mới rõ anh ta là người long thiện, bình sinh ưa tạo phúc và vui sống theo đạo lý của thánh hiền, nên quan nói: "Thật khó nghĩ rằng do anh cứu bầy ong thoát khỏi chết đuối mà nay chúng bay đến đểu cứu mạng cho anh. Vậy từ nay trở đi anh nên làm nhiều việc phúc thiện hơn nữa, thì sau này sẽ hưởng được những quả phúc tốt lành".

Người chủ quán về sau trở nên phát đạt, tài sản hàng trăm vạn, suốt đời chăm làm việc thiện, tuổi thọ rất cao, không bệnh mà chết một cách an lành.



24. Hồn Lên Cõi Trời

Ngày xưa, tại một vùng kia, có một viên tiểu lại họ Trương vốn là người phụ tá cho quan Huyện. Ông Trương tính tình ôn hòa nhưng cương trực, ưa làm việc thiện, thường dùng số tiền lương của mình đến lò sát sinh, mua những con vật sắp bị giết đem về để nuôi chúng.

Tuy là một viên quan tiểu lại, nhưng gia cảnh của ông cũng khá giả, mỗi ngày trở nên giàu có, con cháu đông đúc vui vầy. Do đó, việc làm phúc thiện của ông không bị gián đoạn mà càng ngày càng thêm gia tăng. Về sau, đến tuổi về hưu, ông trở về sống với gia đình, mỗi khi thấy con vật nào chết, ông liền đem chôn cất tử tế. Những người hàng xóm thấy thế, cho ông là một tên gàn điên, nhưng ông vẫn thản nhiên, mặc cho thiên hạ đàm tiếu, chẳng cần quan tâm đến. Trái lại, ông thường dạy con cháu không được sát sinh, và khuyên cả nhà đều ăn chay lạt.

Vì ông đã từng cứu sống sinh vật rất nhiều nên đến tuổi cổ lai hy (bảy mươi tuổi) mà sức lực của ông vẫn khang kiện như người còn trẻ. Về cuối đời, lúc ông răm tuổi, một hôm ông cho gọi người nhà tập họp lại, với gương mặt tươi sáng, tinh thần quắc thước, ông nói với mọi người: "Cả đời ta từng phóng sinh rất nhiều, chứa đức sâu dày, nên nay Thiên đế cho người đến rước. Nhà họ Trương ta từ nay trở đi ngày càng thịnh vượng, con cháu đều đựơc vui hưỡng tuổi trời. Sau khi ta qua đời, các ngươi phải vâng lời di chúc, không được hại vật sát sinh".

Nói xong thì từ từ nhắm mắt. Mọi người nghe trên không trung tiếng nhạc kêu vang, âm thanh rất êm tai. Tiếng nhạc ấy mỗi lúc mỗi gần, con cháu trong nhà đều ngước mắt lên xem. Thế rồi, chẳng mấy chốc, tiếng nhạc lại xa dần. Mọi người nhìn lại ông, thì thấy ông đã vĩnh viễn an giấc ngàn thu nhưng dung nhan vẫn như người còn sống. Tin ông chết loan đến triều đình, nhà vua bèn gia phong ông tước hiệu Viên ngoại lang. Về sau, con cháu ông nhiều đời đều dốc long làm theo lời di huấn.



25. Người Giữ Lưới Săn Thả Thỏ Chạy

Đức Lục Tổ Huệ Năng là một bậc cao Tăng đức độ. Sau khi nhận được tâm ấn tại Hoàng Mai, Ngài liền đi ở ẩn. Nhân quan sát thấy cảnh sinh hoạt của người đời, Ngài nhận thấy phân nửa nhân loại vì gây tội sát sinh, nên phải chuốc lấy quả báo đau khổ muôn trùng, khó có ngày nào tránh khỏi. Ngài thường khuyên họ không nên sát sinh để tránh đau khổ, nhưng họ lại mê muội, chấp trước không hề thức tỉnh.

Nhân thấy các thợ săn sát hại quá nhiều sinh linh, trong long cảm thấy bất nhẫn, nên Lục Tổ cải trang thành kẻ thế tục, ẩn mình trong đám thợ săn. Do thế, bọn họ sai Ngài giữ lưới. Đó là cơ hội tốt nhất để thực hiện hoài bão của Ngài. Mỗi lần bọn thợ săn bắt được ác loài chương, thỏ, trông vẻ mặt thê lương của chúng, lòng Ngài quặn thắt, ảo não xúc động, âm thầm rơi lệ.

Cứ mỗi lần chương hay thỏ sa vào lưới, mà có thể cứu được, thì Ngài đều tìm cách thả chúng chạy thoát. Sống chung với bọn thợ săn như thế suốt mười năm trường, Ngài mới cảm hóa được bọn họ, khiến họ thay đổi nghề nghiệp. Thế rồi không lâu sau đó, Ngài trở về chùa Bảo Lâm, chủ trì đạo tràng Tào Khê, rộng độ quần sinh. Danh sĩ khắp nơi nghe đến đức vọng của Ngài, đều lũ lượt kéo về Tào Khê lễ bái, thờ Ngài lầm thầy, quy y thọ giáo. Về sau, ngọn tuệ đăng kế thừa Lục Tổ được chia làm năm cánh, ân đức đượm khắp mười phương, khiến cho hàng tăm triệu người hướng về tôn thờ và ngưỡng mộ.



26. Đem Chôn Thịt Biếu

Cách đây rất lâu, tại huyện Tuyên thành có một người tên Dữu Bản Thục, xưa nay vốn không ăn thịt bò. Vì thế, khi có người nào mang thịt bò đến biếu thì ông đem cho tôi tớ dùng, nghĩ rằng làm như thế là vô tội. Bỗng một hôm, Dữu Bản Thục lâm bệnh, thầy thuốc bèn dùng não bò hòa với thuốc cho ông uống. Thế rồi, đêm ấy ông nằm mộng, thấy một vị thần mặc áo gấm đến trước ông quát nạt:

- "Ngươi là kẻ ăn thịt bò, nếu không thì tại sao toàn thân ngươi xông lên mùi hôi hám như vậy?"

- "Đâu có! Lâu nay tôi chưa từng ăn thịt bò bao giờ!", Dữu Bản Thục quay đầu lại đáp.

Vị thần mặc áo gấm bèn bảo kẻ tùy tùng kiểm tra lại số ghi chép, rồi nói: "Tuy ngươi không ăn thịt bò, nhưng vì bệnh mà phá giới, lại còn đem thịt bò cho bọn tôi tớ ăn, lẽ ra ta phahi giảm bớt tuổi thọ của ngươi, nhưng niệm tình ngươi đã có long hối cải, vả lại, cũng nhằm để khuyến khích mọi người không nên ăn thịt bò, vì thế, ta tạm thời tha cho ngươi khỏi chết".

"Giả sử có người khác lại đem thịt bò cho tôi nữa thì sẽ xử trí thế nào?". Dữu Bản Thục hỏi lại.

Vị thần mỉm cười đáp: "Đem chôn đi là được thôi! Chỉ sợ tâm ngươi không kiên trì, chứ lo gì không thể làm được việc thiện tốt hơn trước!"

Dữu Bản Thục chợt tỉnh giấc, hóa ra vừa rồi chỉ là một giấc mộng, bèn chép lại câu chuyện trong giấc mộng ấy để khuyến cáo mọi người cùng làm việc thiện.



27. Công Đức Chép Kinh Giải Được Oan Gia

Vào đời Đường có một người họ Phan tên Quả, ở tại kinh đô. Lúc còn trẻ, tính tình ông nhân từ, không hiểm ác; hơn nữa, nhờ biết được chút ít võ nghệ, nên xin được chút ít võ nghệ, nên xin được một châu Tiểu lại ở tại huyện đường. Do đó, Quả thường giao du với một số thanh niên đồng lứa.

Một ngày kia, trông thấy một con dê mà người chăn dê bỏ sót lại tại bãi tha ma, nó đang ăn cỏ và lá cây, phan Quả bèn họp cùng bè bạn bắt dê đem về nhà. Lúc đi dọc đường, Dê cất tiếng kêu be be, Quả hoảng quá, sợ chủ nó nghe được, bèn cắt đứt lưỡi dê, và tự cho mình có cơ trí hơn người, xử lý công việc một cách độc đáo.

Sau khi dắt dê về tới nhà, Quả cùng bè bạn đem ra làm thịt, bày tiệc rượu nhậu nhẹt vui vẻ với nhau. Nào hay đâu, một năm sau, Phan Quả đột nhiên phát hiện lưỡi mình dần dần teo nhỏ, nói năng ngọng nghịu. Quả biết mình mắc bệnh kỳ quặc, mang phải ác tật, liền xin từ chức Tiểu lại.

Thế nhưng, quan Huyện lệnh Phú Bình là Trịnh Dư Khánh nghi y có điều gì man trá, bèn gọi đến khám nghiệm, thì quả thực, lưỡi y gần như biến mất, chỉ còn nhỏ xíu như hạt đậu. Quan huyện liền hỏi nguyên nhân, Phan Quả dùng bút kể lại đầu đuôi câu chuyện, biết vậy, viên quan huyện lệnh liền bảo thuộc hạ của mình làm phúc cho dê, và sai Quả chép kinh Pháp Hoa, Quả phát tâm kính tín, giữ gìn trai giới, vì con dê tội nghiệp kia mà tu phước. Sau một năm, lưỡi của y dần dần bình phục lại như trước.

Phan Quả thấy thế cao hứng muôn phần, vội vã đến quan huyện trình bày tất cả tự sự, và quan huyện cũng cựu kỳ thú vị, liền thăng chức cho Quả. Viên quan huyện này vốn là một vị quan thanh liêm, gần xa đều ca ngợi, nên măn Trinh Quán thứ chín, ông được thăng đến Giám sát Ngự sử. Câu chuyện này do ông kể lại, xem như một giai thoại để cho mọi người cùng chiêm nghiệm.



28. Ba Kẻ Câm Ngọng

Vào đời Đường, tại một vùng kia có một nông phu, bản tính rất độc địa. Một hôm vào giờ ngọ, y ra đồng thăm ruộng, bỗng nhiên thấy một con trâu của hàng xóm, vừa ăn luá, vừa giẫm đạp tơi bời đám ruộng của y, nổi giận xung thiên, y mắng: "Ta vất vả lắm mới làm được đám lúa tươi tốt như thế này, mà mi lại thản nhiên giẫm đạp lên, lại còn ăn phá không thương tiếc. Hừm! Mi tưởng mi được sống yên ổn mà không phải chịu sự trừng phát hay sao?"

Mắng xong, cười khẩy vài tiếng rồi gằn giọng: "Ta không giết mi tất nhiên mi lại ăn lúa của ta nữa, vậy ta phải cắt lưỡi của mi vứt đi, thou xem mi còn dám ăn lúa của ta nữa thôi!"

Con trâu biết mình có lỗi, nên đứng cúi đầu chẳng dám ho he gì hết; tên nông phu liền nắm chặt đầu trâu, rút ra một con dao bén, cắt đứt lưỡi trâu. Bấy giời con trâu lặng lẽ chịu đau, không kêu một tiếng nào cả.

Về sau, người nông phu ấy lấy vợ, sinh được ba đứa con, nhưng các đứa trẻ sau nửa năm biết nói, đột nhiên câm lặng.

Người nông phu thống khổ vô cùng, chẳng hiểu nguyên nhân vì sao, bèn đi tìm khắp danh y để chửa trị cho con, nhưng các thầy thuốc đều bó tay, không thể chữa được. Bỗng nhiên, nhớ lại cách đây khoảng mười năm, y đã cắt đứt lưỡi trâu, phải chăng vì quả báo ấy mà con y phải chịu tai họa ngày nay? Thế mới biết, lưới trời lống lộng, thiện ác phân minh, người nông phu chịu khổ đã đành, còn các đứa bé có lẽ đã gây một nghiệp duyên nào đó nên mới bị khổ lây.



28. Con Ba Ba Chữa Lành Bệnh Hiểm

Bỗng nhiên nghe dưới nhà bếp có tiếng kêu ầm ĩ: "Bắt nó lại, thả vào trong nồi!", Huỳnh Đức Hoàn vội đi tìm xem việc gì đã xảy ra mà gây nên sự huyên náo như thế. Ông liền bước xuống nhà bếp, thì thấy một con ba ba đang bò lồm cồm trên mặt đất, trông có vẻ rất đáng thương. Ông liền hỏi bọn đầu bếp vì sao vừa rồi chúng kêu la oai oái như thế thì một trong những tên đầu bếp đáp: "Nhân vì bà chủ nhà hầm con ba ba, nào hay nó nổi trên mặt nước, bò ngược nơi cái rổ đậy trên miệng nồi, khiến phần lưng bị phỏng nặng, chỉ còn hai chân và cái đầu là cựa quậy được, nên nó làm rơi cái rổ xuống đất mà bò đi. Chúng tôi thấy thế lấy làm lạ nên mới kêu la làm kinh động đến ông chủ".

Huỳnh Đức Hoàn lập tức sai người đem nó thả ngay xuống nước. Thế rồi, từ đó trở đi ông không ăn thịt ba ba nữa, và bắt đầu ăn chay một cách kiên trì. Khoảng một năm sau, Huỳnh Đức Hoàn mắc một chứng bệnh nhiệt, bệnh tình khá trầm trọng. Đến lúc sắp nguy kịch, người nhà bèn đưa ông đến ở trong một ngôi nhà bên dòng sông để dưỡng bệnh.

Một đêm kia, ông bỗng thấy một vật gì nằng nặng đang bò chầm chậm trên mình, làm cho thân thể mát mẻ dễ chịu, tinh thần sảng khoái vô cùng. Đến sáng sớm, trong người ông hơi có khí lạnh, nơi ngực lâng lâng thư sướng, nhìn kỹ thì nơi lồng ngực có những vết bùn, ngay lúc ấy, dưới mặt đất một con ba ba đang ngoái đầu nhìn lại ba lần, rồi từ từ bò đi. Ngày hôm sau, bệnh của Huỳnh Đức Hoàn bình phục đến chín phần.

Nếu như khi ấy không có chuyện lạ xảy ra, thì e rằng giờ đây ông đã ra người thiên cổ. Vì vậy, từ đó trở đi, ông cấm người nhà không đựơc sát sinh. Về sau, ông thọ đến tám mươi tuổi, không bệnh mà chết một cách an lành.

30. Gà Mổ Mắt Cọp

Tại đất Cù Châu có một viên Lý trưởng của một làng kia, ngày thường cư xử với mọi người rất hòa ái, thân thiện, nên được dân chúng trong làng hết lòng kính mến, ca ngợi.

Một ngày kia, ông đến nhà một nông dân họ Hầu để thúc giục tiến thuế. Ông nói: "Hầu huynh, xin anh nạp cho khoảng tiền thuế năm ngoái, để tôi đem nạp quan trên".

Hầu lão Nhị áy náy, cung kính nói: "Phương Tam Gia, há anh không biegt rằng mùa thu hoạch năm nay, gia đình tôi bị mất mùa khá nặng, quả tình không đủ tiền để nạp ngay được, xin anh hoãn cho mươi bữa, nửa tháng, đặng tôi đem bán một ít củi khô, thì may ra mới có tiền mà nạp". Viện Lý trưởng cúi đầu thở nhẹ, đưa mắt trông ra ngoài cửa sổ viề phía ven rừng, thì bỗng thấy chập chờn hình bóng một cô gái áo vàng từ xa hướng đến chào mình. Trong lòng lấy làm kì lạ, lại nghe tiếng kêu của con gà mái, ông chợt hiểu rằng cô gái áo vàng kia có lẽ là hóa thân của con gà mái nọ. Do đó, ông căn dặn Hầu lão nhị đừng giết con gà mái ấy.

Năm sau, viên Lý trưởng đến nhà đó thu thuế. Bấy giờ, gà mẹ lại dẫn đàn gà con ra nghênh đón ông ở ven bờ rào. Thu thuế xong, ông từ biệt ra về, khi qua khỏi một con suối nhỏ, đến một dãy núi gần đó, đột nhiên một con cọp dữ từ đâu phóng đến. Phương Tam Tùng kinh hoàng, chân cẳng luống cuống, than mình co quắp, chỉ còn biết nhắm mắt chờ chết. Ngay giây phút nguy kịch ấy, gà mẹ bèn xua đàn gà con xông đến trước mãnh hổ. Gà mẹ mổ vào mắt cọp, làm cho cọp già đau đớn, ôm lấy vết thương, bỏ chạy thụt mạng.

Giật mình tỉnh dậy, hóa ra vừa rồi chỉ là một giấc mộng. Phương Tam Tùng vô cùng cảm kích, liền xuất tiền ra mua gà mẹ và bầy gà con đem về nhà để nuôi chúng

http://www.thuvienhoasen.org/cuuvatphongsinh-03.html#21

gioidinhhue
03-13-2010, 05:44 AM
31. Làm Lành Thoát Khỏi Ách Nạn

Vào đời nhà Minh có vị Vương cư sĩ, cả đời ưa làm phước, giúp người, đối với những kẻ nghèo cùng cô độc, ông lại càng hết long cứu giúp. Cư sĩ là người rất tin tưởng Phật pháp, nhưng vì không giữ giới ăn chay, nên ở nhà không có chỗ để tụng kinh.

Trải qua mấy năm liền, thiên hạ chịu nhiều tai ách, nạn trộm cướp lộng hành, lòng ông thấy xót xa như lửa đốt. Nghe đồn ở Tiểu Động Thiên có một vị Hòa thượng tu hành đắc đạo, nên ông không quản ngại đường xa, tìm đến đó để tham vấn. Lúc gặp Hòa hượng, ông thưa: "Thưa Tôn đức, hiện tại xã hội đang bị nạn đạo tặc tung hoành, đất nước gặp cảnh nhiễu nhương, dân chúng sống trong điêu đứng, bất an, mong Tôn sư mở long từ bi giang tay ra cứu vớt sinh linh".

Tôn giả mỉm cười, hỏi: "Ông phải là Vương Thành chăng?" Vương thất kinh, lúng túng đáp: "Đệ tử chính là Vương Thành đây, chẳng hay Thầy có điều chi dạy bảo?"

"Nếu ông không thể giữ giới ăn chay, thì có hỏi việc đó cũng vô ích thôi" lão Hòa thượng đáp.

Vương lại hỏi nữa, nhưng vị sư không nói gì cả.

Ít năm sau, ông lại đến Tiểu Động Thiên, Tôn giả cười bảo: "Khá đấy! Ông có thể liễu ngộ, để cảm hóa, hiện tại bọn đạo tặc lộng hành khắp cả bốn phương, chỉ có những ai giữ giới sát sinh thì may ra mới hy vọng cứu được". Nói xong nhắm mắt nhập định.

Vương cư sĩ trở về, tích cực khuyên nhủ mọi người giữ giới sát sinh. Về cuối đời, đến lúc tuổi thọ rất cao, ông mới qua đời.


32. Bà Cụ Hiền Lành Được Sống Lâu

Vào thời nhà Minh, tại Côn Sơn có cụ bà Hứa Thái phu nhân là thân mẫu của quan Hàn lâm Từ Tích Dư. Cả đời bà chuyên ăn chay, ưa làm việc thiện, giúp đỡ người nghèo khốn không biết mỏi mệt. Mỗi ngày bà đều có hai thời công phu buổi sớm và buổi chiều, chưa hề gián đoạn. Người con phụng sự mẹ cực kỳ hiếu thuận, mẹ con vui vẻ sống an nhàn trải qua ngày tháng.

Khoảng năm Đinh Dậu, niên hiệu Sùng Trinh, cụ bà Hứa Thái phu nhân được lục tuần. Trước lễ mừng thọ lục tuần ba ngày, bà nấu cháo đem bố thí cho những người bần cùng và cho mỗi người một phần tiền.

Đến ngày lễ khánh tuế, khách khứa đầy nhà, trông rất náo nhiệt, chủ đãi khách toàn bằng chay lạt. Thân thích và bạn bè làm lễ chúc mừng cực kỳ linh đình. Phu nhân gọi con đến bảo: "Nghi lễ chúc thọ không nên làm một cách tuỳ tiện mà phải in một bộ kinh Pháp Hoa để ấn tống cho mọi người". Từ Tích Dư vâng dạ rồi lui ra, theo lời mẹ dạy tiến hành công việc. Trải qua ba năm, bộ kinh Pháp Hoa mới khắc bản xong rồi đem in. Nhân dịp chúc thọ bà năm ấy, khách khứa đến đông hơn, bà bèn đem bộ kinh đã in xong tặng cho mọi người.

Thân mẫu của Từ Tích Dư về sau thân thể càng khang kiện hơn, ăn uống cũng khỏe hơn, đến năm tám mươi tuổi mà trông bà như người mới hơn lục tuần. Về sau, người con lại được htăng quan tiến chức, còn bà thì hửơng thọ hơn chín mươi tuổi mới qua đời.

33. Tuổi Thọ Có Thể Tăng Thêm

Viên Lưu Trang vốn là một chuyên gia xem tướng. Một hôm có vị đại thần dẫn con đến nhờ ông đoán tướng. Viên xem tướng xong, biết đứa bé này vài năm sau sẽ chết, nên dùng lời nói thẳng bảo cho vị quan kia hay. Đương nhiên tâm tư vị quan ấy rất đau khổ nên vẻ mặt trông vô cùng thê thảm. Trên đường trở về, có một vị Hòa thượng gặp ông, thấy thế hỏi: "Ngài có điều chi sầu não mà trông thê lương như vậy?". Hòa Thượng hỏi xong liền xem tướng đứa bé, lập tức hiểu ra cớ sự, bèn nói: "Trong đời này chỉ có âm đức mới cứu vãn được số mạng của con ông. Nhưng cơ duyên để thực hiện âm đức cũng không phải dễ, thiết nghĩ không gì hơn là tùy thời phóng sinh thì may ra mới tạo được phước lành".

Tin lời Hòa thượng, viên quan kia liền phát nguyện phóng sinh, làm đựơc ít năm thì sau đó Hòa thượng gặp lại cha con ông, ngạc nhiên nói: "Thật lạ lùng thay, nếu không làm nhiều việc thiện thì mạng sống không thể tăng thêm như vậy!"

Viên quan ấy lại tiếp tục gia tăng công việc phóng sinh. Phàm điều gì có lợi ích cho sinh linh thì ông đều nỗ lực thực hiện. Nhờ cứu hộ sinh mệnh không kể số lượng, nên người con rốt cuộc không xảy ra việc gì. Vị thầy tướng kia cứ đinh ninh việc mình đoán là đúng không sai chạy chút nào. Thế rồi, mấy năm sau ông gặp lại cha con vị quan kia mới phát hiện là sách tướng có chỗ còn khiếm khuyết, liền nhất định khuyên người nhà làm việc thiện và phóng sinh; vì cho rằng có làm như vậy mới tăng thêm tuổi thọ và phúc đức lâu dài.


34. Phóng Sinh Tăng Tuổi Thọ

Vào đời Tiền Đường, Thái thú Đồ Cầm Ô một hôm bỗng nhiên mắc bệnh ngay kịch, thấy thuốc lại bốc nhầm thuốc nên tính mệnh cơ hồ sắp tuyệt. Ông bèn tự phát nguyện: "Tôi nguyện lấy việc giúp người, làm lợi cho đời để sám hối, ngoài ra các việc khác tôi không thiết tha gì nữa".

Thế rồi, một hôm ông nằm mộng thấy đức Quan Âm Đại Sĩ đến nói: "Đời trước ngươi làm quan tại nước Sở, khi gặﰠviệc công tỏ ra quá nghiêm khắc nên làm tổn thương đến đức nhân từ, nhưng vì không có ý riêng tư nên chỉ giảm trừ bổng lộc mà thôi. Hơn nữa, vì thường sát hại sinh linh nên bị quả báo đoản mệnh, cũng may là trong lúc lâm trọng bệnh, ngươi đã phát guyện kiên cố, mỗi nguyện đều lập chí cứu đời, lợi người, không một mảy may oán hận nên cõi U minh đã dùng phước của ngươi để khấu trừ, nhờ đó mà có lợi cho ngươi. Chỉ có cái âm đức phóng sinh mạng sống mới có thể làm tăng thêm tuổi thọ của chính mình, lại còn tăng thêm lộc vị, ngươi phải thận trọng cố gắng mà tiếp tục thực hiện".

Sau khi tỉnh giấc, ông bảo người nhà không đựơc sát sinh, lại còn xuất tiền ra mua loại vật phóng sinh, nên ngay mùa Đông năm ấy được thăng chức và có lệnh thuyên chuyển đến làm Thái tú Cửu Giang. Đến mùa Xuân năm thứ hai thì ông hoàn toàn khỏe mạnh. Thái thú cảm niệm sự vĩ đại của Phật pháp nên lấy sự tự lợi, lợi tha làm đại nguyện, dạy người khác phóng sinh, không được sát sinh, ăn chay lạt, đối xử với người cực kỳ khoan hậu, công chính mà không khắt khe. Về sau, ông hưởng được tuổi thọ khá cao, không bệnh mà mất.


35. Tạo Hóa Vãn Hồi

Đời nhà Nguyên có một nhà triệu phú gia tài hàng trăm vạn, nhưng không có con; vợ chồng thường than thở về số phận cô quả của mình. Vợ chồng tìm đủ trăm phương ngàn kế chỉ mong cầu có con mà rốt cuộc không sinh được đứa nào.

Nghe nói có một vị Hòa thượng ở một ngôi chùa nọ biết được việc quá khứ, vị lai, lại đoán việc rất tài tình, do đó ông tìm đến để vấn kế. Hòa thượng xem qua tướng mạo, phán đoán các việc rồi nói với ông triệu phú: "Đời trước ông tạo nghiệp sát sinh rất nặng khiến cho các loài vật không thể bảo toàn được con cháu, do đó ngày nay ông bị quả báo này. Nếu muốn sám hối ông phải phóng sinh đủ tám trăm vạn sinh linh, mới chuộc được tội lỗi. Thảng hoặc, khi lỡ làm hại một con trùng, con kiến, thì phải phóng sinh hàng trăm mạng sống mới tiêu được tội lỗi và tái tạo công đức. Có như thế ông mới sinh được mộg đứa con ưu tú".

Nghe lời Hoà htượng trình bày, ông triệu phú rất cảm động, liền đến trước Phật phát nguyện không sát sinh. Sau khi trở về nhà, ông đổ của ra lo việc phóng sinh, lòng dạ chí thành, và thường đến các tự viện tham thiền, lễ Phật, hôm sớm rất chuyên cần. Mỗi lần ông phóng sinh vô số các con vật được thoát chết, số lượng ấy chưa được tám vạn con thì người vợ mang thai và chẳng bao lâu hạ sinh một đứa bé trai. Người con này về sau đậu đến Hiếu liêm rồi ra làm quan vinh hiển.


36. Tái Sinh Thọ Phước

Ngày xưa tại tô Châu, Giang Tô có một người tên Vương Đại Lâm. Suốt đời ông thường yêu thương các sinh vật và thường mua chúng phóng sinh ròng rã mười năm trời, ngày nào cũng thế.

Khi nào ông thấy mấy đứa trẻ trong làng bắt các loại cá chim thì liền xuất tiền ra mua chúng phóng sinh, đồng thời khuyên các em: "Này các em thiếu niên, trăm nghìn lần không nên giết hại. Các em có thấy một con chim nhỏ ở trong rừng không? Nó đang vui thú biết bao, nhưng sau khi bị bắt, thì cha mẹ nó sẽ xót xa, đau đớn muôn phần. Con cá trong nước cũng vậy. Nó đang sảng khoái, bơi qua bơi lại, trông có vẻ rất khả ái; vì sao lại bắt nó, khiến cho nó phải chịu những nỗi oan khổ? Vì thế, các em không nên giết hại chúng".

Sau đó, các em nhỏ về nhà thuật lại những lý lẽ ấy với cha mẹ chúng, khiến cha mẹ chúng cũng rất cảm động.

Năm ấy, Vương Đại Lâm đột nhiên lâm bệnh rồi chết. Trong lúc chết , ông mơ màng nghe tiếng nói của thần linh, nửa tin nữa ngờ, thần bảo: "Này Vương Đại Lâm, vì bình nhật ông ăn chay, phóng sinh nên ta cho hưởng thọ thêm ba mươi năm nữa".

Đến chừng tỉnh lại, hóa ra đó là một giấc mộng mà bệnh ông cũng dần dần bình phục.

Về sau, Vương Đại Lâm sống đến chin mươi bảy tuổi, năm đời cùng sống chung một nhà, con cháu đều thành danh, rạng rỡ. Được như vậy là hoàn toàn nhờ hưởng phước báo của sự phóng sinh.

37. Kẻ Tàn Ác Chết Thảm Khốc

Đây quả thực là một sự việc trông rất thê thảm, không ai dám nhìn.

Ngày xưa, có một viên Tri huyện, ngày thường ưa ăn chân vịt và tim dê sống. Khi muốn ăn chân vịt thì ông sai người nhà đem con vịt bỏ vào trong chảo, rồi đốt lửa ở dưới. Lửa càng lúc càng cháy mạnh, chảo càng lúc càng nóng nhiều hơn, vịt chịu nóng không thấu kêu la bi thẩm, nhưng viên Tri huyện vẫn thản nhiên không chút động lòng. Vì lửa thiêu mạnh nên chân vịt càng lúc càng phồng to. Sau cùng, máu toàn thân dồn về đôi chân và vịt bị chết cháy, trong hình dáng rất thê thảm.

Thế rồi, ông sai người nhà đem con dê buộc chặt vào cột trụ, rồi dùng dao khoét da, mổ bụng, đoạn dùng tay móc lấy tim phổi sống của dê đem dầm vào rượu để làm thức nhấm. Khi ấy con dê kêu la be be, trông rất thảm thương.

Bấy lâu nay viên quan huyện này đã giết hại và ăn thịt hết bao nhiêu con vịt và dê thì không ai biết. Rồi một ngày kia có một người bạn văn sĩ đến khuyến cáo ông không nên sát sinh, không những ông không màng nghe mà còn trách cứ người ấy. Văn sĩ liền bảo: "Ông sắp mang bệnh hiểm nghèo rồi chết đóṦ?uot; nói xong liền bỏ đi.

Quả nhiên không lâu sau đó, quan huyện mắc ác tật, bèn cho người đi khắp nơi tìm kiếm danh y, nhưng không một ai có thể chữa được chứng bệnh ngặt nghèo ấy. Thế rồi, chỉ một thời gian ngắn căn bệnh quái ác ấy hoành hành, ông đã trút hơi thở cuối cùng, mùi hôi thối xông lên thấu tận trời xanh.


38. Cái Chết Thê Thảm Đáng Sợ

Vào năm Ung Chính thứ mười đời Thanh, tại huyện Quỷ Hưng có một người họ Ngụy, vốn là dân du mục, vô nghề nghiệp, chuyên nghề bắn súng, rất giỏi bắt chim. Những con chim bắt được, ông đem đi bán, hoặc giết dầm rượu vô số kể. Ông cũng ưa bắt lươn, cá, ếch, rùa, trạnh; thậm chí còn dùng thuốc độc để suốt cá, mỗi lần bắt được hằng mấy chục ký. Hoặc là y phá hủy ổ chim, không có việc ác nào mày không làm.

Có người thấy thế, khuyên ông: "Này ông Ngụy, không nên sát sinh mà nên cày ruộng, hoặc làm một nghề nghiệp chân chính nào đó mới tốt".

Ông Ngụy không những không nghe mà trái lại còn oán thiên hạ là lắm chuyện. Lâu ngày chầy tháng, tội nghiệt của ông càng lúc càng sâu dày. Sau cùng, ông mắc một chứng mụt độc, khắp người mọc những bọc nước lớn như trứng bồ câu, mỗi bọc có một cục sắt, không bao lâu, da tiêu, thịt rữa, nềm trên giường kêu la như quỷ rống.

Mang bệnh ác nghiệt như thế trong ít ngày rồi chết. Sau khi chết bỗng có số rùa, trạnh ếch, cá, chim, sẻ v.v…, xâm nhập vào nhà tranh nhau ăn thịt. Vợ con biết là oan gia nghiệp báo nên không dám làm hại chúng. Thế là chỉ trong khoảnh khắc, cái thây ma kia chỉ còn lại bộ xương trắng.

Sau khi ông chết, hoàn toàn bị tuyệt tự, không một mụn con nối dõi.


39. Hàng Vạn Con Chết Trong Nháy Mắt

Có một viên quan huyện từng giữ giới sát sinh đã lâu ngày, nhưng phu nhân của ông tính tình cực kỳ tàn ác, lại tham miếng ngon. Hằ஧?ngày bà sai người nhà giết các súc vật chế biến thức ngon để cung cấp cho bà.

Một năm kia, vào ngày sinh nhật của bà, bà sai những người đầu bếp chuan bị bữa tiệc thịnh soạn để đãi khách. Dưới nhà bếp, các giống heo, dê, gà, vịt ngẩng đầu kêu la bi thảm. Viên Tri huyện trông thấy cảnh tượng ấy, lòng bất nhẫn nói với bà: "Ngày mai là ngày sinh nhật của phu nhân mà các con vật lại bị chết, nghĩ thật đáng thương, phu nhân nên mở rộng lòng từ, gieo trồng cội phúc".

Phu nhân nổi giận, nói: "Cứ theo thời ông bảo, tôn sùng đức Phật, giữ giới sát sinh, thì khoảng mười năm nữa trong thiên hạ này sẽ đầy ắp loài cầm thú! Tôi sẽ không để cho ai lừa mình đâu".

Đến ngày hôm sau, khi giết heo thì hồn của phu nhân gá vào thân heo chịu nỗi thống khổ không thể tưởng tượng. Kế đến lại gá vào thân dê để chịu nỗi khổ của sự lăng trì. Rồi gá vào thân loài gà, vịt chịu sự cắt xẻ đau thấu cả tâm can. Cứ một lưỡi dao, chịu một sự đau đớn, cuối cùng bà giác ngộ được tấn bi kịch về sự tham thực của mình, nên không bao giờ dám sát sinh nữa. Nhân giữ giới sát mà hưỡng được cao tuổi, nên bà càng gắng sức gìn lòng từ thiện.

40. Nhờ Giữ Giới Sát Mà Khỏi Bị Bắt

Có một anh tú tài họ Triệu, vốn là người thẳng thắn, lại rất có lòng từ thiện, bình sinh giữ giới không sát sinh rất nghiêm ngặt. Một ngày kia, ông đi đến một xứ nọ để thăm viếng người thân, trong lúc đang đi trên chiếc thuyền, bỗng thấy một người đứng trên thuyền hơi có vẻ kỳ lạ, trông kỹ thì chính là người đầy tớ của mình đã chết trước đó ba năm, khiến ông kinh hãi, hỏi: "Hiện nay ngươi làm gì?"

Người ấy đáp: "Hiện nay tôi giữ chức vụ bắt hồn người xuống âm phủ. Ngày nay tôi phụng mệnh truy bắt ba mạng người".

- Ba người đó là ai vậy?

- Một người ở Hồ Quảng, một người khác chính là người thân mà ông định viếng thăm, và người thứ ba là…

- Là ai thế?

Người đầy tớ ấy không trả lời. Triệu Tú Tài biết là chỉ cho mình. Rồi hắn bảo: "Chớ có kinh sợ, đến đêm mà kẻ tôi tớ này không tới nhà ông thì có thể điều kia không ứng nghiệm". Triệu Tú Tài lại hỏi nguyên cớ, thì y đáp: "Trên đường đi sẽ có người giải thích cho ông rõ, vì ông cùng cả gia đình từng giữ giới sát sinh".

Triệu Tú Tài vừa đến nhà người thân thì nghe trong nhà có tiếng than khóc. Đoạn ông rở về nhà, trải qua một đêm, nhưng không thấy người đầy tớ ấy đến, cũng chẳng có hề hấn gì. Rốt cuộc, nhờ cội phúc sâu dày mà ông sống rất thọ.

http://www.thuvienhoasen.org/cuuvatphongsinh-04.html#31

gioidinhhue
03-13-2010, 05:46 AM
41. Giết Rắn Hại Đến Con

Ở vùng đất phía Nam thành Giang Sơn có một nông dân, tính ưa sát sinh. Ông đã hơn bốn mươi tuổi mà bên mình chỉ có một mụn con.

Vào một ngày trong tháng năm, năm Đồng Trị thứ sáu, người nông dân ấy vác cày ra ruộng, bỗng thấy một con rắn lớn. Con rắn ấy thấy người nông dân, liền trừng mắt, le lưỡi, trông vừa có vẻ sợ hãi, vừa có vẻ muốᮠ?ầu cứu.

"Thế này thì nhất định phải giết thôi". - Người nông dân ấy tự bảo thế. Rồi trong chớp nhoáng, ông buông cày xuống, dùng cuốc chặt con rắn đứt làm hai đoạn, không một chút xót thương.

Thế là con rắn kia trở thành một thây chết bất động. Anh ta tỏ ra cao hứng a hát vang trên đường trở về nhà.

Năm ấy, đứa con cưng của y khoảng chừng bảy, tám tuổi. Kể từ ngày y giết con rắn, đứa bé ban đêm thường mộng thấy một con rắn lớn đến cắn rất đau đớn. Rồi một buổi sáng sớm, sau khi kinh hoàng tỉnh dậy, nó phát nóng lạnh, lại bị giấc mộng vừa rồi hành hạ, nó kêu la inh ỏi: "Con đau lắm, đau lắm!"

Người nông dân hoảng hốt không biết vì sao, lòng đau như cắt. Chính lúc đang chuẩn bị mời thầy thuốc đến chữa trị thì thấy đứa con cưng độc nhất le lưỡi ra dài chừng hơn một tấc tựa hồ như hình ảnh con rắn hôm trước, rất đáng sợ.

"Con ôi, con của ta ôi!" - Người nông dân đau đớn kêu la thất thanh. Nhưng mà chỉ trong chốc lát thì đứa bé đáng thương ấy hồn lìa khỏi xác.



42. Bầy Lươn Báo Thù

Ở một vùng đất nọ tại tỉnh Quý Châu có một ông họ Lục rất thích ăn thịt lươn; không có bữa cơm nào là không có thịt lươn hầm nơi bàn ăn.

"Phải nói là thịt lươn ngon hết biết". - Hôm nào có bạn bè cùng ngồi ăn thì Lục Mỗ thừơng cao hứng bảo như thế. Năm tháng đưa dần con người đến cõi già, thấm thoát mà Lục Mỗ đã sáu mươi tuổi. Một hôm ông ra chợ định mua một mớ lươn mập.

"Ông muốn mua lươn phải không? Lươn của tôi đều còn sống cả lại rất mập mạp". - Đó là mời khách của người bán lươn.

Lục Mỗ liền xắn tay áo, đưa tay mò vào trong chậu lươn, có ý chọn những con lươn vừa mập, vừa lớn. Theo kinh nghiệm riêng của ông thì chỉ cần rờ vào mình lươn là có thể biết được con nào mập nhất.

Bỗng nhiên nghe tiếng kêu kinh hãi, sắc mặt của Lục Mỗ xanh ngợt, giộng kêu bi thảm như trâu rống. Người bán lươn quày đầu nhìn lại, chợt thấy những con lươn trong chậu nhất loạt bắn mình lên, bám chặt vào cánh tay của Lục Mỗ, tranh nhau rỉa thịt.

Lúc ấy, những người trong chợ vây quanh y đề xem. Trong số đó, có người tốt bụng vội chạy về nhà gọi con ông đến. Rồi họ đêm ông về nhà, ddùng dao bén chặt đứt các con lươn. Nhưng lạ thay, thân chúng tuy bị chặt đứt mà đầu chúng vẫn cắn chặt vào cánh tay Lục Mỗ, không một mảy may nào chịu nhả ra, nên không dễ gì rứt chúng ra được. Rốt cuộc, cánh tay của Lục Mỗ bị rỉa hết thịt, ông kêu vang một lát rồi từ trần.



43. Hãn Độc Bị Cụt Lưỡi

Ở ngoài thành Thường Châu có một người họ Vương, biệt hiệu Hãn Độc, ông vốn là người Hoành Lâm.

Tại đất Hoành Lâm này có một ít đám ruộng lau, chim sẻ thường đến đậu ở đây. Vương Mỗ vốn là một tay giăng lưới rất thiện nghệ, thường bủa lưới trong đám lau lách, lại nuôi một chú chim ưng thả vào rừng lau. Do chim ưng đuổi bắt khiến chim sẻ hoảng loạn, bay tứ tung, sa vào trong lưới. Đoạn Vương Mỗ dùng một hòn đá lớn, đè lên bầy chim sẻ, rồi nhặt những con chết đem ra chợ bán trước. Y rất tự hào về lề lối sinh kế của mình, cho rằng không ai có thể làm được. Chẳng hiểu làm nghề này trải qua bao nhiêu năm.

Do đâu mà người ta gọi y là Hãn Độc? Vì bình nhật, tính tình của y hung hãn, dã man, vô lý. Nếu có ai sơ ý động chạm đến việc bủa lưới bắt chim sẻ của y, thì nhất định y phẫn nộ, thốt ra những lời nguyền rủa độc địa, hạ cấp rất chói tai. Y sẽ lầm bầm suốt cả ngày như vậy. Do đó mà người trong làng, ngoài làng không ai là không ngán y.

Về sau, Vương Mỗ mắc một chứng bệnh kỳ quái, khắp cả thân thể đau đớn không chịu nổi, nằm trăn trở trên giường, kêu la ú ớ. Các thầy thuốc đều bó tay, vô phương cứu chữa. Do dó cho nên cái tên Vương Mỗ hung bạo có biết danh là Hãn Độc này không những mất đi cái oai phong ngày thường, mà hễ gặp ai thì y đều bảo: "Xin thương xót tôi, cứu giúp giùm tôi!" Tiếng nói của y phát ra y hệt như tiếng kêu đau thương của chim sẻ không khác tí nào. Chỉ sau mấy ngày mắc chứng bệnh kỳ quái thì người ta phát hiện ra y đã cắn dần đầu lưỡi của mình gần hết. Thất khiếu xuất huyết, y nằm chết rũ rượi, trong một trạng thái rất đáng kinh sợ.



44 Quét Óc Nhồi Gieo Mầm Phước

Vào năm Đinh mão niên hiệu Long Khánh, Hàn Thế Long ở Trường Châu ban đêm nằm mộng, thấy một vị thần mặc giáp vàng đến bảo: "Ngươi sắp đựơc hưởng vinh lộc của một viên quan nhất phẩm, ta đến chúc mừng ngươi".

Thế Năng chưa dám tin, tỏ ra nghi ngờ, hỏi: "Do nguyên nhân gì vậy?".

Đoạn, vì thần mặc giáp vàng bèn trình bày một sự kiện công đức như sau: Nhân vì ông nội của ngươi là Hàn Vĩnh Thung gia thế tuy bần hàn, nhưng ưa phóng sinh. Mỗi buổi rạng đông, ông cầm chổi quét gom những con ốc nhồi ở 2 bên bờ một dòng suối nhỏ trước nhà, rồi đem thả chúng vào trong nước, để khỏi bị người ta giẫm đạp mà chết uổng mạng. Có hôm, ông nhịn đói, quét hơn mười dặm đường, rồi đem vô số kể những con ốc nhồi đi phóng sinh.

"Ôi! Ngươi that là một đứa ngốc nghếch! Tuổi còn non trẻ mà nhàn rỗi, vô sự đến thế ư?".

Đại khái đó là những lời đùa cợt, đàm tiếu của thế nhân, nhưng ông đều nhẫn nhục cả. Ông chỉ biết mình đang làm việc tốt là được, còn đối với những lời chê bai của thiên hạ thì chẳng màng để ý làm gì. Huống nữa, trong lúc ông đem hàng trăm con ốc nhồi thả vào trong dòng suối thì tự nhiên cảm thấy lòng mình dâng lên một niềm khoái lạc không gì sánh nổi. Niềm khoái lạc này thực sự không có tiền bạc nào có thể mua được.

Ông nội của ngươi vui thú trong việc làm ấy không biết mỏi mệt, trải qua như thế hơn bốn mưoi năm trường. Chính nhờ công đức phóng sinh ấy mà mấy đời đều quý hiển, âm đức này còn đượm nhuần cho đến nhà ngươi".

Vị thần giáp vàng nói xong thì biến mất. Từ sau giấc mộng ấy, Hàn Thế Năng càng gắng sức làm nhiều việc tốt hơn nữa; quả nhiên ngày sau làm quan đến nhất phẩm, có lần được vua cử đi sứ sang Triều Tiên. Về sau, con cháu ông đều hiển đạt cả.



45. Bắt Ếch Bị Quả Báo

Vào năm Đạo Quang thứ 16, quan phủ tại Giang Âm ra cáo thị nghiêm cấm nông dân bắt ếch, vì giống ếch xanh vốn là loài động vật bảo vệ lúa má, đối với ngũ cốc đã không có hại mà còn có ích. Những người có lòng tốt liền đem lời cáo thị kia bảo cho Trương A Hỷ - một anh chàng không biết chữ - biết. Nhưng y đáp một cách vô lễ "Hừ! Tôi cứ việc bắt thì đã sao nào?"

Người bàng quang tốt bụng kia nghe thế hết cả hứng thú. Vì vậy về sau không còn ai muốn đem những lời trung thực bảo cho y nữa. Tên Trương A Hỷ bắt ếch này đã không biết chữ mà tính tình lại quê mùa, thô kệch, nói năng lỗ mãng, lòng dạ ác độc. Mỗi năm, chính tay y bắt rồi đem bán vô số kể những con ếch.

"Bắt ếch thì có gì là không tốt? Hừ! Chẳng phải tôi đã dùng việc này làm kế sinh nhai rất thuận lợi đó là gì?". Đại loại, đó là lời tuyên bố huênh hoang của y.

Từ ngày y bắt ếch đem bán, cứ mỗi lần tu vài xị rượu, có chút hơi men chui vào dạ dày rồi, thì y đắc ý bảo với người khác như thế.

Y bất chấp cả lẽ phải, nói: "Ổ! Làm trái mệnh lệnh của quan phủ chẳng tốt lắm ru? Hừ! Có gì bảo là không tốt nào? Trong năm này, những việc làm trái lệnh của quan phủ xảy ra cũng không nhiều lắm! Vả lại, cũng chẳng phải mỗi mình Trương A Hỷ này vi phạm lệnh quan".

Vào một đêm kia, Trương A Hỷ đột nhiên mất tích. Hôm ấy trời không gió, không mưa, rất nhiều người dân ở hai bên bờ sông đổ xô đi tìm y, than thở: "Kỳ quái nhỉ! Vậy chứ hắn đi đâu?".

Đến khi họ tìm thấy tử thi của A Hỷ dưới dòng sông, thì có vô số ếch xanh vây quanh trên xác của y rỉa thịt. Những người trông thấy cảnh tượng ấy không ai là không tán đởm kinh hồn, bản nhau: "Phải chăng đây là quả báo về sự bắt ếch của hắn?".



46. Kẻ Hung Tàn Bị Ác Báo

Trong quyển sách Quảng Ái Lục của Mãnh Bình Am tiên sinh có kể một câu chuyện như sau:

Chủ nhân của quán "Thiên Ngư Miến" ở vùng Tô Châu chính là Đới Đại Phan. Y vốn là một con người tự tư tự lợi, tàn nhẫn, ưa giết hại. Sự kinh doanh ở hàng quán của y sở dĩ đắc khách hơn so với người khác là vì y có một nghệ thuật nấu nướng rất độc đáo. Y đem lươn bỏ vào một cái nắp bằng sắt rồi đặt cái nắp ấy lên trên nồi, bắc lên bếp chưng, thế rồi y dùng máu đó trộn với mì, hương vị thật thơm ngon.

Đới Đại Phan vừa tính toán vừa cười khanh khách, nói: "Thu nhập càng ngày càng khấm khá nhỉ!"

"Ba ơi, chúng ta đổi nghề khác đi ba. Cái nghề này sao mà tàn nhẫn quá!" Đó là lời nói của Đới Hỷ Tín con trai của y.

"Cái thằng nhỏ u mê kia! Chẳng phải tiền vô nườm nượp là gì? Còn mong thứ gì nữa? Đi đi, đổi nghề gì nào? Đổi nghề khác thì có được nhiều lợi như thế này không? Toàn là ăn nói hồ đồ!" Đới Đại Phan vung tay ra nói với con như vậy.

Thế rồi, năm tháng trôi qua. Một ngày kia, người cha đi đâu không thấy về, Đới Hỷ Tín men theo bờ sông đi tìm kiếm.

"Ôi, cha ôi!". Hỷ Tín đau đớn kêu thất thanh.

Thế là người ta chỉ thấy cái thây của Đới Đại Phan trôi tấp vào bờ, trên thân hàng vạn con lươn đeo bám xung quanh.

Trên bờ sông dần dần vô số người kéo nhau đến xem, không ai là không kinh hãi, cùn nhau bàn tán xôn xao.



47. Dùng Đồng Tiền Oan Nghiệt, Bị Quả Báo

Triệu Dụng là một người chuyên bắt của đem bán để làm kế sinh nhai. Nhưng ông lại là một người con hiếu thảo. Mỗi ngày bắt cua đổi được tiền, ông liền đi mua dầu gạo và các vật dụng cần thiết khác để cung phụng cho cuộc sống của mẹ già.

Bà cụ già đã không biết dạy con hướng về đường thiện mà còn đem tất cả số tiền do con bắt cua kiếm được tiêu phí hết sạch.

Một hôm, vào lúc hoàng hôn, ánh đèn trong nhà leo lét như hạt đậu. Bà cụ bị bệnh nằm trên giường rên hì hì không dứt.

Triệu Dụng vừa về đến nhà, đi thẳng vào phòng, bỗng một sự kiện xảy ra không khỏi làm ông kinh hồn. Nguyên do, mẹ ông tựa hồ như đang bị bệnh thần kinh, lấy cái dây cỏ mà hằng ngày ông dùng để cột cua, nuốt vào trong bụng, thính mệnh sắp dứt. Triệu Dụng thấy thế kinh hoảng, chạy đến ngăn lại, thì bà cụ đưa tay ra cự tuyệt. Trong chốc lát, bà nuốt hết sợi dây cỏ vào bụng, rồi lại kéo ra, kéo ra rồi lại nuốt vào. Cứ như thế trở đi trở lại hoài hoài.

Sự kiện quái dị ấy làm kinh động những người hàng xóm lân cận, khiến họ vây đến xem đông như kiến.

Bỗng có tiếng kêu kinh hãi phát ra từ trong đám người đó: "Ôi, ôi!". Thế rồi, người ta chỉ thấy máu bẩn từ trong gan phổi của bà theo dây cỏ tuôn ra đầy miệng, từng đợt, từng đợt, tanh tưởi, nồng nặc, ác hình, ác trạng, khiến cho ai nấy đều ghê rợn.

"Những đồng tiền oan nghiệt của con ta, ta đã tiêu pha lãng phí, vì thế mà ta phải chịu quả báo này chăng? Nếu không thế thì ta đâu phải chịu cảnh tượng này!". Bà ấy rơi nước mắt kêu than như thế.

Triệu Dụng ảo não đau xót không thể kể xiết, hai mắt đẫm lệ, ngồi bên cạnh mẹ. Tình trạng bi thương ấy kéo dài không được mấy hôm, thì cuối cùng bà ta cũng vĩnh biệt cuộc đời.



48. Tội Lỗi, Chết Cũng Không Che Đậy Được

"Mình ơi, bệnh của mình có bớt không?" - Vợ của Tạ Mỗ sốt ruột hỏi y như thế.

Thế nhưng, người chồng lắc đầu không nói.

Nguyên vì trên lưng Tạ Mỗ bỗng nhiên mọc một mụt nhọt bự, bốn phía có vô số những mụt nhọt nhỏ, đắp bất cứ loại thuốc gì cũng đều không có hiệu quả.

"Đó là chứng bệnh "bách điểu triều vương", (trăm con chim chầu một vì vua), một chứng bệnh ký quái!". - Một vị danh y lắc đầu thở ra, nói.

Lại một thầy lang khác xem bệnh rồi cũng phụ họa: "Thực ra chứng bệnh này dù tốn hao tiền bạc bao nhiêu đi nữa cũng không thể nào cứu chữa được".

Tạ Mỗ vốn là một thợ mộc, tính tình cần mẫn, sinh kế lương thiện, tay trắng mà làm nên sự nghiệp. Chỉ có điều anh ta chuyên môn khảo cứu cvề kỹ thuật ăn uống. Do đó, bất luận là dùng để đãi khách hay tự mình thưởng thức, y đều sắm sửa cực kỳ xa xỉ.

Anh ta khoái nhất là dùng cái thực đơn đặc biệt được gọi là "bách điểu triều vương". Món ăn này dùng nhiều chim sẻ nhồi vào bụng con vịt, khi ăn dùng đũa tách bụng vịt ra, sẽ thấy la liệt những con chim sẻ, hương vị rất thơm ngon. Chính và ngày thường chỉ chăm lo cung phụng cho cái miệng và bụng, giết hại vô số chim sẻ mà ngày nay phát sinh chứng bệnh "bách điểu triều vương" này. Nghĩa là mụt nhọt lớn ví như vì vua, những mụt ghẻ ví như đàn chim.

Thế rồi, mụt nhọt ấy vỡ ra, đau noun, khiến y rên rỉ suốt ngày.

Một tháng, rồi hai tháng trôi qua… cho đến nhiều tháng, khắp mình máu mủ túa ra, hôi thối không thể ngửi nổi. Dù gia tài Tạ Mỗ có hàng vain quan tiền, chung cục cũng đành bó tay, mang quái bệnh đau đớn ấy cho đến khi lìa đời.



49. Sát Sinh Bị Quả Báo Nhãn Tiền

Trần Văn Bảo là một nhân sĩ đất Thái Hồ. Bình sinh ông thích làm việc thiện, cả nhà đều vun bồi công đức, siêng năng bố thí, thường thường phóng sinh.

"Cứ vào buổi trưa đến nhà thợ săn mua được con chim nào đều đem phóng sinh hết cả sao?" - Có người hỏi thế.

"Đúng vậy, lâu nay thường phóng sinh bằng cách ấy". - Bà của y đáp.

"Có làm như thế thì giờ đây bọn chúng mới được tự do, tự tại bay bổng trên bầu trời bao la, hoặc nhởn nhơ nơi rừng sâu núi thẳm được chứ". - Trầm Văn Bảo tỏ ra cao hứng, dương mi chớp mắt, nói một cách tự hào.

Một xóm dân cư ở đất Thái Hồ này phần nhiều làm nghề bủa lưới, cắm câu, chỉ độc nhất nhà họ Trầm không những không ngửi đến mùi thịt cá mà còn thường đến nhà những người kia mua chim về phóng sinh. Vì thế phần lớn người ta đều cho rằng gia đình họ Trầm dùng tiền của vào việc phóng sinh là ngu không thể tưởng tượng được.

"Điều đó có gì là tốt nào?" - Có người cười nhạo bảo như thế.

Thế rồi, vào một đêm tối nọ, Lý Mỗ là người duy nhất rong làng chưa ngủ. Trong lúc mơ màng, ông bỗng thấy hai con quỷ ôn dịch hình trạng rất đáng sợ, mỗi con cầm một lá cờ nhỏ đang đi vào trong xóm; lắng tai nghe thì dường như chúng bảo nhau: "Trừ nhà họ Trầm ra - vì ông ta htường hay phóng sinh - còn các nhà khác thì đều theo thứ tự cắm mỗi nhà một là cờ".

Mấy hôm sau, hơn ba trăm gia đình ở làng Thái Hồ bị bệnh dịch truyền nhiễm, chết hơn phân nửa.

Nói ra thì cũng kỳ, Trầm Văn Bảo và người nhà của ông vẫn khỏe mạnh như thường, bình an vô sự, chẳng hề hấn gì cả.

"Chung cục, hễ ai làm việc tốt sẽ có sự báo ứng tốt". Có người đã tỉnh ngộ bảo như vậy.

Về sau, Trầm Văn Bảo hưởng thọ rất cao, không bệnh mà mất một cách an nhiên.



50. Ếch Đòi Mạng

Tại tỉnh An Huy, huyện Vô Vi có một người làm nghề hớt tóc tên là Lương Gia Thọ. Khi lớn lên, ông có hình dạng đầu cheo, mặt chuột, tướng mạo dị kỳ. Y là người tính toán từng đồng từng cắc, phẩm hạnh không tu dưỡng, và rất thích ăn thịt ếch. Mỗi bữa ăn hằng ngày của y không thể nào thiếu thịt ếch được. Về kỹ thuật bào chế thịt ếch đều do một tay y làm, hoặc ram hồng, hoặc chưng xanh. Đám bạn bè chồn cáo chó lợn của y, khi chứng kiến chính tay y biến chế thịt ếch, không ai là không tấm tắc khen ngợi. Kết quả, được khen ngợi càng nhiều thì y càng giết bạo, tựa hồ loài ếch kia là kẻ thù số một của y. Tập quán ưa ăn thịt ếch được duy trì mãi cho đến năm bốn mươi tuổi mà y vẫn chưa hề chấm dứt.

Mỗi hôm, vào lúc xế chiều, trong lúc y đang ngủ ngon giấc thì bỗng nhiên cảm thấy toàn thân ngứa ngày, mơ màng thấy trên mền, trên chiếu, trên tay áo toàn là ếch. "Thật là kỳ quái xiết bao!" - Y lầm bầm nói. Thế rồi, y bắt tất cả những con ếch đó bỏ vào trong nồi nấu ăn. Xong xuôi, y bèn leo lên giường trở lại, thì lại thấy ếch đầy cả giường. Bị quấy nhiễu như thế suốt cả buổi tối, không thể nào chợp mắt được.

Ngày hôm sau, y mời vài người láng giềng đến nhà, rồi đem chuyện kỳ quái khi hôm kể cho họ nghe. Trong lúc đang đàm đạo cao hứng thì bỗng nhiên y đưa tay rờ sau lưng, nói: "Ếch lại đến nữa rồi!". Trong chốc lát lại kêu: "Ếch nằm trong lông mi của tôi. Ếch ở trên đầu tóc của tôi". Thế rồi, y dùng dao cạo tóc và lông mày sạch nhẵn. Tuy nhiên, mọi người không ai thấy ếch đâu cả. Họ thầm nhủ: "Thằng cha này bị điên mất rồi!".

Từ đó trở đi, ròng rã suốt sáu năm trường không lúc nào là y không bị chứng bệnh kia hành hạ đau khổ. Cuối cùng y phát bệnh điên thật rồi chết. Việc này có người thật, việc thật hẳn hoi, chứ không phải là chuyện bịa đặt.