PDA

View Full Version : THÔNG ĐIỆP KHẨN CÂP:NGÀY TẬN THẾ - HỘI LONG HOA VÀ THỜI ĐẠI HOÀNG KIM



anhminhgod
02-28-2010, 02:04 AM
Vấn Đáp



THÔNG ĐIỆP KHẨN CẤP VỀ NGÀY TẬN THẾ, HỘI LONG HOA VÀ THỜI ĐẠI HOÀNG KIM

Nhóm biên soạn xin được tán dương công đức các vị Thiên Long, Chư thần Hộ Pháp trong công cuộc xây dựng Hội long hoa và thời đại Hoàng Kim.
Thành kính tán dương!






HỘI LONG HOA VÀ THỜI ĐẠI HOÀNG KIM
Lời nói đầu.
Các bạn đạo tâm kính mến!
Trong tập tài liệu nhỏ này, chúng tôi những người tu Pháp Môn Quán Âm, trân trọng gửi đến các bạn những nhận thức cơ bản về Hội long hoa và thời đại Hoàng Kim mà chúng tôi đã lãnh hội được. Hội long hoa và thời đại Hoàng Kim đã được các tôn giáo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Phật giáo Minh Hương… kinh Phật Mẫu Diêu Trì cũng đã nói đến nhưng nội dung thời điểm và tính chất cụ thể thì chưa được nói rõ ràng. Nay chúng tôi xét thấy thời điểm đã chín muồi, thiên cơ khẩn cấp. Vậy để chia sẽ thiên ân này với các bạn đạo tâm, đạo hạnh để cùng nhau trau dồi trí tuệ, niềm tin, cấp tốc tu hành cho kịp kỳ thưởng phạt và dự Hội long hoa. Đây là điều mà chúng tôi vô cùng mong mỏi.
Để các bạn dễ đọc, dễ hiểu và đọc vào bất cứ lúc nào khi các bạn cần một lời giải đáp cho từng vấn đề cụ thể trong quá trình tu hành của mình. Với suy nghĩ đó chúng tôi sắp xếp bố cục theo từng nội dung cụ thể ở mỗi câu hỏi đã được in đậm, và chúng tôi đã cố gắng rất nhiều trong việc hoàn chỉnh tập tài liệu này nhưng chắc sẽ không tránh được sai sót. Kính mong các bạn lượng thứ bỏ qua!
Trân trọng giới thiệu.


PHẦN I

1/ Hai chữ Long Hoa có ý nghĩa như thế nào?
‘’Long Hoa’’ là cách nói ẩn dụ của các bậc Thánh nhân, Bồ tát về một người phụ nữ mang dòng máu ‘’con rồng cháu tiên’’. Người phụ nữ đã đạt được sự đại khai ngộ là sư phụ của các bậc Thánh nhân nhập thế dựng Hội long hoa, khai mở thời Hoàng Kim cho nhân loại. ‘’Long ‘’ là rồng, ‘’ hoa ‘’ là nói đến người phụ nữ đáng bậc làm thầy cho tất cả các Thánh tăng. Chính vì thế mà Ngài được tôn vinh là Vô Thượng Sư.
2/Những ai là người khai mở Hội long hoa?
Hội long hoa được khai mở bởi công đức và trí tuệ của các bậc Thánh nhân, Phật, Bồ tát. Nói đến các bậc Thánh nhân, Phật, Bồ tát là nói đến những con người có trí tuệ, có sứ mệnh, thấu đáo được thiên cơ, hiểu rõ được quy luật tiến hóa của vũ trụ. Họ là những con người có đầu óc cấp tiến, đơn thuần, hiểu biết sâu rộng và không bị mê chấp, ảo tưởng. Vì họ biết đạo thật, tu thật, chứng thật, làm thật. Họ là những con người có tâm, có đức, có tài, nên lẽ tất nhiên họ phải ra giúp đời cứu Trái Đất. Như các bạn đã biết Trái Đất đang có vấn đề nghiêm trọng, quả cầu lửa mà chúng ta đang bay đã đến chu kỳ của sự bùng phát dữ dội mà nền khoa học hiện đại và quyền lực của Liên Hiệp Quốc cũng không làm gì được nhiều cho vấn nạn hâm nóng toàn cầu, khí hậu biến đổi. Do đó mà các bậc thánh tăng không thể ẩn dật được nữa, họ phải ra dẫn dắt hàng tu phước, tu duyên, tu tâm, tu tánh, tu thiền… Bởi hàng tu này cần phải có sự thay đổi về nhận thức, suy nghĩ, cách sống để cải biến hành động trong thực tế cho kịp kỳ thưởng phạt và dự Hội long hoa.
3/Hội long hoa có ý nghĩa lịch sử và xã hội như thế nào đối với nhân loại?
Hội long hoa có ý nghĩa lịch sử và xã hội là khẳng định sự tiến bộ và văn minh của nhân loại. Bởi không có Hội long hoa thì nhân loại đang đối mặt với ngày tận thế điêu tàn, tối tăm, chết chóc mà không có tương lai, không có hy vọng. Hội long hoa còn có ý nghĩa sinh tồn của nhân loại trước sự biến đổi của tự nhiên. Bởi cái bản tính đấu tranh sinh tồn của con người hiện nay không đủ sức chịu đựng mà sinh tồn trước cơn thịnh nộ của tự nhiên. Đây là vấn đề mà các thánh tăng đang khổ tâm lo lắng.
4/Ai là người chủ trì Hội long hoa?
Chủ trì Hội long hoa gồm có đức Thánh Chúa, các vị Phật, Bồ Tát, Thánh nhân và tiên long Hội. Để hiểu được chỗ này chúng tôi xin được nói đến quá trình diễn tiến của Hội long hoa trong tư tưởng của các vị Phật, Thánh, Tiên trên con đường hoằng dương đạo pháp. Có thể nói từ khi tư tưởng Phật giáo truyền bá sang Trung Quốc, do Ngài Đạt Ma truyền thụ tâm pháp, theo phương thức Tổ Sư thọ giáo, pháp mạch tâm truyền, thọ lãnh y bát làm Tổ kế thừa. Nhưng đến đời tổ thứ 6 do Ngài Huệ Năng truyền thụ thì nó đi vào quỹ đạo của Hội long hoa. Tức là y bát kế tổ đã không còn nữa nhưng sự mở rộng và lưu truyền tâm pháp ở đất nước Trung Hoa và Cao Miên ( Campuchia ), đã làm nên tiên long Hội, và giữ mối tâm truyền cho những kẻ hữu duyên xây dựng Hội long hoa đều được truyền thụ pháp mạch chánh truyền. Mà những vị sáng lập Phật giáo Minh Hương, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài tiên ông giáo chủ mới được truyền thụ pháp mạch tâm truyền, để xiển dương tư tưởng Hội long hoa cho người dân Nam Bộ. Đất nước Việt Nam được lựa chọn để khai mở Hội long hoa nên đã diễn ra nhiều sự kiện vô cùng thiêng liêng đó là hồng phúc của dân tộc Việt Nam. Chúng tôi xin nêu ra đây một sự kiện vào khoảng năm 1930 ở phía Bắc của đất nước Việt Nam thì chủ nghĩa Mác – Lê nin do chủ tịch Hồ Chí Minh truyền bá xuống phía Nam; còn ở phía Nam thì sự nở rộ của các tôn giáo bản địa do chính người Việt Nam truyền dạy, truyền bá ra miền Bắc. Chính sự kiện này đã tạo ra sự giao thoa về văn hóa…giữa hai miền Nam Bắc. Vì vậy mà bản chất của con người Việt Nam hiền hòa, nhân ái, hy sinh và kiên cường, anh dũng, thông minh. Đây là những phẩm chất cần phải có để làm nền tảng xây dựng một nền văn hóa tiên tiến cho một nền văn minh mới. Tóm lại Hội long hoa không phải do các vị Phật, Thánh, Tiên dựng lên giữa tầng khí quyển. Hội long hoa là do chính những con người mà chúng ta gọi họ là Phật, Thánh, Tiên đã dầy công xây dựng và sẽ khai mở Hội. Bởi không có Hội long hoa thì nhân loại sẽ không có tương lai khi sự biến đổi của tự nhiên diễn ra. Chính vì thế mà kinh của tôn giáo Cao Đài mới có câu:
“Việt Nam một nước nhỏ nhen trong vạn quốc
Ngày sau làm chủ mới lạ kỳ’’
5/Tư tưởng đạo đức của con người phải như thế nào mới được dự Hội long hoa?
Nói đến Hội long hoa và thời đại Hoàng Kim là nói đến một hiện thực xã hội văn minh đạo đức. Nhưng văn minh phải như thế nào thì mới đúng? Và những tiêu chuẩn, quy phạm đạo đức như thế nào thì mới được? Đây là những vấn đề rộng lớn cơ bản của một nền văn minh mà Hội long hoa mới thảo luận bàn bạc và thống nhất được. Vậy để các bạn có được sự nhận thức cơ bản ở phạm vi của một con người đang tin và tu theo một tôn giáo. Chúng tôi xin được nêu ra đây một vài ý kiến để các bạn tham khảo.
Các bạn đi tu vì các bạn có niềm tin tưởng vào một tôn giáo, hay vào một vị thầy, vào một pháp môn… Tin mà tu nên chưa có trí tuệ để hiểu biết và chứng thực niềm tin của mình trong thực tế. Đây là xuất phát điểm của những con người có tín ngưỡng tôn giáo nói chung, người tu Pháp Môn Quán Âm nói riêng. Do xuất phát điểm như vậy nên dễ bị lạc vào mê chấp, cực đoan, cuồng tín, rồi ngộ nhận rằng đạo mình theo là chánh đạo, đạo người là tà đạo; kẻ ăn chay thì chê trách người ăn mặn, người ăn mặn thì chống đối người ăn chay; thầy tôi theo mới chánh, thầy anh theo là tà; pháp tôi tu mới thật, pháp anh tu là giả; hoặc anh là người vô thần khoa học… Vậy chúng tôi khẳng định rằng người được mời tham dự Hội long hoa không phải là loại người có tư tưởng như đã nói ở trên. Họ là những con người không còn mê chấp vào phương tiện, hình thức, và những gì thuộc về bên ngoài. Họ thật sự không quan tâm đến việc anh đi bằng loại phương tiện gì để đến được Hội long hoa, mà điều quan trọng là anh có trí tuệ và đẳng cấp của anh tới đâu?. Bởi phương tiện thì nó phải được để lại ở ngoài bãi đỗ xe, ở bên ngoài Hội nghị. Cho dù anh có đi bằng loại xe tốt hay xe xấu thì anh cũng không thể mang nó vào bên trong Hội nghị được. Do đó người nào còn mê chấp vào hình tướng và phương tiện tu tập của mình thì người đó chỉ dừng lại ở bãi đỗ xe, bên ngoài Hội long hoa mà thôi.
Đạo đức là do quá trình tổng kết từ thực tiễn cuộc sống mà con người đặt ra những quy phạm đạo đức cho từng giai đoạn lịch sử phát triển của xã hội loài người. Cho nên, có lúc, có nơi, những quy tắc đạo đức còn mang nặng dấu ấn của những tập quán, tục lệ lạc hậu và trái nghịch với những tập quán tục lệ ở địa phương khác. Nhưng đạo đức được đặt ra là để làm cơ sở, chuẩn mực để xem xét, nhìn nhận, hoặc đánh giá bản chất của con người thông qua sự thể hiện ở hành vi. Do đó những quy phạm đạo đức ở thời đại Hoàng Kim sẽ được Hội long hoa thảo luận và thông qua trên cơ sở thực tiễn và kế thừa phát huy những chuẩn mực đạo đức đã được gìn giữ mấy ngàn năm nay.
6/Nội dung và chương trình của Hội long hoa là như thế nào?
Nội dung Hội nghị thì có hai nội dung lớn. Nội dung thứ nhất là thiên phong phẩm vị cho các vị được mời tham dự Hội long hoa (quỷ, thần, người, phật, thánh, tiên). Đã tu hành và chứng quả đắc đạo kể từ thời Phật Thích Ca cho đến ngày khai Hội long hoa. Nội dung thứ hai là bàn bạc, thảo luận thống nhất những vấn đề rộng lớn cơ bản để xây dựng thời đại Hoàng Kim. Trong thời đại Hoàng Kim người tu hành đắc đạo là được thiên phong phẩm vị, được chư thần Hộ pháp hộ trì, được xã hội công nhận sắc phong, được nhân dân thuận hòa yêu mến. Còn thời mạt pháp là thời đại mà người tu hành theo bất cứ tôn giáo nào thì cũng chỉ ở trong phạm vi nhơn phong. Nên phước báu, công đức và quyền lực chỉ giới hạn trong phạm vi của xã hội con người. Đến khi bỏ xác thân này thì linh hồn cũng phải theo sự thưởng phạt chí công của luật nhân quả báo ứng.
7/Thiên phong phẩm vị ở Hội long hoa có giống như thiên phong phẩm vị của tôn giáo Cao Đài hay không?
Hoàn toàn không giống. Vì thiên phong phẩm vị ở tôn giáo Cao Đài là qua cơ bút, không có lễ sắc phong thiên mệnh, và thiên phong cho những vị ở tôn giáo Cao Đài là làm trong cơ mật. Những vị đó đã tu hành chứng quả, hoàn thành được thiên mệnh của mình là xiển dương chân lý, giữ được thế quân bình linh khí của đất nước Việt Nam. Có như vậy mới hội tụ được linh khí mà dựng Hội long hoa tại Việt Nam như phần trước chúng tôi đã nói.
8/Trong thời đại Hoàng Kim có còn tôn giáo hay không?
Trong thời đại Hoàng Kim nhất định là không còn tôn giáo. Vì tôn giáo chỉ xuất hiện và tồn tại trong thời kỳ mạt pháp. Còn ở thời đại Hoàng Kim thì việc tu hành là một ngành khoa học đứng đầu cho các ngành khoa học khác phát triển. Sự xuất hiện của tôn giáo trong xã hội loài người là chỉ làm thỏa mãn cái nhu cầu ảo tưởng của con người về tâm linh. Chính cái nhu cầu ảo tưởng này đã làm nên quyền lực của tôn giáo - tức là nhơn phong phẩm vị. Còn trong thời đại Hoàng Kim người tu hành là tự tu, tự chứng, rồi được thiên phong phẩm vị không còn nhơn phong nên không còn tôn giáo.
9/Khoa học trong thời đại Hoàng Kim phát triển như thế nào?
Thế giới của chúng ta hiện nay ngân sách đầu tư cho sự phát triển Khoa học – Công nghệ là rất thấp. Bởi ngân sách của các quốc gia đều ưu tiên chi cho ngân sách quốc phòng và an ninh. Còn trong thời đại Hoàng Kim không còn chiến tranh thù hận giữa các quốc gia nên không còn quân đội, không còn trộm cướp, buôn lậu, tham nhũng và các tệ nạn khác. Nên ngân sách của các quốc gia đều ưu tiên cho sự nghiệp phát triển Khoa học – Công nghệ và Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Do đó Khoa học – Công nghệ và Giáo dục phát triển vượt bậc trong thời đại Hoàng Kim.
10/Kinh tế trong thời đại Hoàng Kim phát triển như thế nào?
Kinh tế trong thời đại Hoàng Kim phát triển theo một học thuyết kinh tế mới, phục vụ cho việc phát triển tâm linh của con người. Nó không theo qui luật của bất cứ học thuyết kinh tế nào đang có hiện nay. Nó mang lại sự công bằng cho tất cả mọi nguời về nhu cầu được thụ hưởng như ăn, ở, mặc, học tập, y tế, văn hóa… Nó thỏa mãn mọi nhu cầu của con người trong cuộc sống và hết sức bình đẳng về mọi quyền lợi trong xã hội, nên không còn tranh chấp, giành dựt, chém giết như hiện nay.
11/Hội long hoa sẽ khai mở vào năm nào?
Trước khi khai mở Hội long hoa thì nhân loại phải bị khảo đảo theo cơ tiến hóa của vũ trụ. Tức là nhân nào thì quả nấy, đây là cơ tuyển chọn tự nhiên theo luật nhân quả báo ứng do con người đã tạo ra. Do đó, những ai cho rằng người ăn chay tin Phật hoặc tin Chúa thì mới được tuyển chọn qua thời đại Hoàng Kim là một sai lầm nghiêm trọng. Bởi ăn chay, niệm Phật, tin Chúa, mà tâm không mở, trí không sáng suốt, tánh nết cực đoan, cố chấp, ảo tưởng, thì nghiệp lực và nhân quả báo ứng, còn đến nhanh hơn trong cơ khảo đảo này. Đành rằng ăn chay, niệm Phật, ngồi thiền là tốt nhưng người ăn mặn mà tâm tánh đơn thuần, hiểu biết sâu rộng, nhân cách và phẩm hạnh tốt, thì họ vẫn được tuyển chọn qua thời đại Hoàng Kim để tu hành. Vấn đề này là của luật nhân quả báo ứng. Chúng ta chỉ biết giúp người, sửa đời, tạo dựng Hội long hoa, còn không có sự phát xét nào về vấn đề này. Vậy bất cứ ai có sự phán xét về vấn đề này thì chính người đó đã tự loại bỏ mình ra khỏi thời đại Hoàng Kim. Hội long hoa sẽ được khai mở vào năm 2017, sự việc này đã được ấn định từ khi Thượng Đế giáng cơ mở đạo Cao Đài ở xứ Nam Phương.
12/Tu như thế nào để không bị ảo tưởng, để được khai tâm, mở trí, được dự Hội long hoa? Như chúng tôi đã nói ở phần trước là các bạn tin Phật, tin Chúa, tin Thượng Đế nên mới đi tu, các bạn thật sự chưa biết Thượng Đế là như thế nào? Thượng Đế là âm thanh là ánh sáng. Âm thanh là sự chuyển động của một dạng năng lượng bao trùm khắp vũ trụ; ánh sáng là lực lượng của vũ trụ phát ra từ con người của các bạn ( từ vật chất ), được biểu hiện dưới nhiều dạng năng lượng như hào quang, trí tuệ, tình thương. Tu hành là tự nhiên và khoa học, không ảo tưởng và huyễn hoặc, không mê muội và sân si, không cực đoan và cố chấp, không tham vọng và sợ sệt, không oán trách và lẫn trốn đời. Phải biết hy sinh và độ lượng, phải yêu thương và nhường nhịn, phải rõ ràng và cương quyết, phải khiêm nhường và trí tuệ, phải dũng cảm và trung thực, phải nói ít và làm nhiều và phải luôn luôn mong cầu được trí tuệ.
13/Có rất nhiều phương pháp tu tập, vậy có phương pháp nào để tu cấp tốc cho kịp dự Hội long hoa hay không?
Có, đó là phương pháp Quán Âm. Vì chỉ cần bạn được làm Quán Âm là bạn đã trực tiếp nghe và cảm nhận được lực lượng của vũ trụ ở bên trong của bạn. Nhưng bạn muốn chạy cho kịp dự Hội long hoa thì còn phải xem bạn có năng lực đó hay không? Chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ bạn nếu bạn có lòng thành và ý chí kiên định.
14/Sư Phụ bên trong và câu thông với Sư phụ bên trong là như thế nào?
Sư phụ bên trong là trí tuệ của chúng ta và không có trí tuệ tức là không có câu thông với Sư phụ bên trong. Vậy những ai cố ý tạo ra sự thần bí về một Sư phụ bên trong, với sự giao tiếp đặc biệt huyền bí thần thông của họ thì kẻ đó chính là tà ma ngoại đạo.
15/Tình thương của người tu hành là như thế nào để không bị ràng buộc?
Tình thương là cảm xúc của một con người, là tình cảm yêu thương giữa một con người với con người, hay tình yêu thương giữa con người với con vật, con người với thiên nhiên. Loại cảm xúc này là chức năng của não bộ con người mà Phật giáo gọi là tình cảm A-tu-la. Nó hoàn toàn không phải là tình yêu thương của các bậc Thánh nhân hiền triết. Thánh nhân thương người bằng sự yêu thương của trí tuệ, thương mà không ràng buộc, không hệ lụy, không chiếm hữu. Vậy tình thương yêu trọn vẹn đúng nghĩa là không dừng lại ở cảm xúc, lời nói, hành động mà chính ở sự diễn đạt của trí tuệ trong từng lời nói, hành động và hoàn cảnh cụ thể.
16/Trái đất của chúng ta sắp tới sẽ xảy ra những thiên tai gì? Và phải làm gì để giảm bớt thiệt hại về con người và tài sản?
Thiên tai sắp tới là động đất dữ dội liên tiếp xảy ra nên chết chóc tan thương nhiều vô số kể! Vì động đất sắp xảy ra lần này không chỉ giới hạn ở một quốc gia mà động đất ở khắp cả một châu lục! Các bạn không phải làm gì hết cho vấn nạn này ngoài việc phải cố gắng tu hành, ai chưa ăn chay trường thì phải gấp rút ăn chay, ai chưa ngồi thiền được thì phải cố gắng tập ngồi thiền để tập trung tư tưởng. Còn những ai đã ăn chay và ngồi thiền thì phải tập ngồi qua đêm để thanh lọc thân thể, tẩy rửa bớt tư tưởng thấp kém mà vượt qua cơn khảo đảo lần này.
17/Chúng tôi phải làm gì để giúp đỡ những người thân của mình?
Bạn hãy đưa tập tài liệu này cho họ đọc và nói với họ về những gì bạn đã nhận thức được. Họ cần sự giúp đỡ gì bạn hãy dẫn họ đến chỗ của chúng tôi,hoặc có thể trao đổi qua điện thoại cũng được. Chúng tôi luôn luôn sẳn sàng giúp đỡ các bạn vô điều kiện và miễn phí hoàn toàn.
18/Tôi không ăn chay trường được vậy tôi ngồi thiền có được không?
Bạn không ăn chay trường, không bỏ được thuốc lá, rượu, bia mà muốn được ngồi thiền thì nó giống như bạn muốn mua một cái áo mà không muốn trả tiền cho cửa hàng. Và không phải chúng tôi làm khó bạn nhưng tiêu chuẩn khoa học đó đều có lợi cho bạn về sức khỏe và tinh thần. Chúng tôi xin tặng bạn một câu nói nổi tiếng của nhà bác học Albert Einstein: “Không gì ích lợi cho sức khỏe của con người để có cơ hội sống lâu trên quả địa cầu này bằng cách ăn chay”
19/Ngày tận thế là ngày như thế nào?
Ngày tận thế là ngày cuối cùng mà các vị Phật,Thánh,Tiên tận độ cho thế gian trong thời kỳ mạt pháp; ngày cuối cùng của thời kỳ mạt pháp trước khi thời gian chuyển tiếp qua thời đại Hoàng Kim. Nó giống như ngày 30 tết và ngày mồng 1 tết vậy, ngày 30 tết là bạn phải lo quét dọn nhà cửa, bàn thờ, mua sắm bông hoa, bánh trái và còn phải tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc đẹp, lịch sự để tiếp khách và đi chơi… Thì ngày tận thế cũng vậy, tự nhiên cũng phải tẩy rửa hết cái nghiệp lực tội lỗi cho loài người và cũng chọn lựa những gì sạch, đẹp, tốt , hay để chào đón thời đại Hoàng Kim.
20/Ngồi thiền nhập định là như thế nào?
Ngồi thiền nhập định là một trạng thái tập trung cao nhất của não bộ con người – tư duy vũ trụ. Chúng ta gọi là khoa học thực nghiệm về con người. Nó không phải là ảo tưởng, ảo giác, siêu nhiên huyền bí như các tôn giáo đã nói.
21/Hội long hoa được khai mở ở miền nào của đất nước Việt Nam?
Như chúng tôi đã nói ở phần đầu, miền Trung là nơi hội tụ linh khí của hai đầu đất nước. Nên sau này Hội long hoa sẽ được khai mở ở dải đất miền Trung nước Việt Nam. Từ xưa đến nay rất nhiều hiền tài, tuấn kiệt, Phật, Bồ Tát… đã sinh ra ở dải đất gánh chịu rất nhiều thiên tai, bão lũ. Âu đó cũng là thiên mệnh của xứ sở này!
22/Tình yêu và tình dục lúc này phải hiểu biết như thế nào cho đúng để không bị vướng vào tà dâm?
Tình yêu và tình dục là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, nó đi theo một quy luật tự nhiên là yêu thương rồi kết hôn để duy trì nòi giống. Vậy quan hệ tình dục tự nguyện giữa hai vợ chồng là chính đáng không tà dâm. Tà dâm là những quan hệ tình dục chỉ thuần túy tính dục được thỏa mãn trái với quy luật của tự nhiên, không phù hợp với truyền thống đạo đức và pháp luật của Nhà nước.
23/Lúc này có rất nhiều tài liệu nói về ngày tận thế và Hội long hoa cũng như có rất nhiều người xưng danh là đại diện của Thượng Đế tại trần thế này, vậy chúng tôi biết tin ai?
Như chúng tôi đã nói ở phần trước Thượng Đế là âm – thanh – là ánh – sáng là năng lượng bao trùm khắp vũ trụ. Vậy những ai xưng danh Thượng Đế mà bản thân anh ta chưa hiểu biết Thượng Đế rõ ràng và không có thiên mệnh thì kẻ đó chỉ là kẻ giả danh Thượng Đế mà thôi. Còn việc có nhiều tài liệu nói về ngày tận thế thì các bạn còn có nhiều thông tin để tham khảo và nghiên cứu, vấn đề này chỉ có lợi cho bạn mà không có hại.
24/Tôi thành tâm tu hành nhưng suốt thời gian qua tôi bị những người “mượn đạo tạo đời’’ lợi dụng, bây giờ tôi biết phải tin ai?
Bạn đã thành tâm tu hành thì nhất định bạn sẽ không có gì cả để người khác phải lợi dụng. Bởi người thật sự tu hành thì họ có vào hang quỷ họ vẫn tu hành tốt; bởi họ biết rằng những gì đến với họ tốt hay xấu đó cũng chỉ là bài học mà chính họ muốn học để được tiến bộ. Trên cuộc đời này không có vấn đề gì đến với chúng ta một cách vô tình mà tất cả đều do tâm của chúng ta mong cầu mà đến. Vậy muốn trách cứ người khác thì bạn phải nhìn lại mình một cách chân thành khách quan thì bạn sẽ thấy rằng cái giá mà bạn đã trả cho bài học của mình là quá rẻ, nên bạn không thể trách cứ ai ngay cả đến chính mình.
25/Trong thời đại Hoàng Kim không có tôn giáo và kinh điển, vậy người tu hành biết học hỏi ở đâu?
Như chúng tôi đã nói ở phần trước là tôn giáo chỉ xuất hiện trong thời kỳ mạt pháp, thời kỳ nhơn phong. Còn trong thời đại Hoàng Kim thì người tu hành, tự tu, tự chứng rồi được thiên phong phẩm vị. Như các bạn đã biết bên trong mỗi chúng ta đều có một quyển Vô Tự Chân Kinh. Đó là trí tuệ của chúng ta, một quyển kinh mà bất cứ người nào tu hành đắc đạo đều phải có. Mà người không biết chữ như Ngài Lục Tổ Huệ Năng còn để lại cho đời một kiệt tác Pháp Bảo Đàn Kinh.
26/Tôi là người tin Phật, ăn chay, niệm Phật A Di Đà, như vậy tôi có được vào dự Hội long hoa hay không?
Phương tiện không quan trọng, bạn niệm Phật hay niệm Chúa cũng không có vấn đề gì. Nhưng muốn vào dự Hội long hoa thì bạn phải đạt được thiên phẩm của mình. Bạn phải tìm Minh Sư truyền cho pháp mạch rồi tu hành chứng quả đắc đạo thì bạn mới được vào dự Hội long hoa để được thiên phong phẩm vị.
27/Những người đắc đạo và được thiên phong phẩm vị ở Hội long hoa, họ làm gì ở thời đại Hoàng Kim?
Nhất định là họ sẽ tiếp tục tu hành và giúp đỡ người khác. Cũng có người tiếp tục làm công việc xã hội mà hiện nay họ đang làm như chính trị gia, nhà văn, nhà báo, nhà khoa học, nhà nông, nhà giáo, thương nhân, nhà doanh nghiệp, kỹ sư, bác sỹ, công nhân…Bởi vì ở thời đại Hoàng Kim mọi người đều bình đẳng, quan hệ giữa con người với con người bằng sự kính trọng yêu thương và hòa hợp; không có sự phân biệt giai cấp, tôn giáo, giàu nghèo như hiện nay.
28/Hiện nay số người ăn chay tu hành ít hơn nhiều so với số người ăn mặn, vậy xin hỏi có được bao nhiêu người được mời tham dự Hội long hoa?
Người được mời tham dự Hội long hoa là những con người có nhân cách và phẩm hạnh tốt, có trí tuệ, có sự cống hiến xây dựng cho xã hội loài người trên mọi lĩnh vực của đời sống con người. Tiêu chí để được mời tham dự Hội long hoa không phải chỉ có một tiêu chí duy nhất là người ăn chay, tin Phật hay tin Chúa... Thiên phong phẩm vị ở Hội long hoa cũng có những người chưa từng ăn chay, chưa từng niệm Phật như các bạn hiện nay. Nhưng nhân cách, phẩm hạnh, trí tuệ của họ xứng đáng được quả vị thiên phong. Thì không có người nào ở trên địa cầu này có thể nói rằng người đó là không xứng đáng. Bởi nhơn phong thì còn chưa nhìn người thấu suốt tâm linh nên mới sai lầm thiếu sót. Còn thiên phong thì ngoài việc chí công vô tư còn nhìn thấu suốt tâm linh của mỗi con người nên không thể nói là sai sót được.
29/Tôi hiện nay là tín đồ của đạo Cao Đài, tôi phải làm gì để được tham dự Hội long hoa? Nền tôn giáo Cao Đài nói chung, tôn giáo Cao Đài Tây Ninh nói riêng, từ phương thức thờ cúng, lễ nghi, giáo lý, pháp tu đã rất gần với thời đại Hoàng Kim về tư tưởng và phương pháp hành đạo. So sánh với các tôn giáo khác thì tôn giáo Cao Đài về mặt tư tưởng đã không còn tranh chấp, phân biệt về giáo phái, giáo lý, giáo chủ như những tôn giáo khác. Bởi Phật giáo thì không thờ Chúa, Công Giáo thì không thờ Phật. Còn tôn giáo Cao Đài thì thờ cả 3 ngôi Phật, Thánh, Tiên, hình thiên nhãn thờ tự tại tư gia của tôn giáo Cao Đài có để 3 cái ghế gỗ tượng trưng là biểu tượng cho 3 ngôi Phật, Thánh, Tiên, là những con người bằng xương bằng thịt ngồi trên những chiếc ghế gỗ khai Hội long hoa cho nhân loại. Họ là những con người sống ở đời thường, hành đạo trong đời thành đạo trong tâm. Nên bạn không cần phải thay đổi tín ngưỡng của mình mà bạn nên hành đạo theo đúng giáo lý của đạo Cao Đài đã dạy. Chỉ sợ bạn làm sai nên mới “trễ đò phổ độ”, nếu bạn làm đúng thì không có gì phải lo sợ cả. Nền tôn giáo Cao Đài Tây Ninh là nền tôn giáo đã đi được một bước đệm rất quan trọng trong tư tưởng đại đồng của thời đại Hoàng Kim, và trấn giữ ấn phong Hộ pháp cho Hội long hoa. Các bạn là những người rất nhiều phước đức!
30/Tôi là người Phật tử ăn chay, niệm Phật và hay đi cầu siêu, bố thí, phóng sanh như vậy tôi có được vào dự Hội long hoa hay không?
Những việc của bạn đang làm nó không liên quan gì đến các tiêu chí để được mời tham dự Hội long hoa. Vì những người được mời tham dự Hội long hoa họ đã tu hành đắc quả, khai mở trí tuệ, tình thương và lực lượng nội tại. Có thể nói rằng công việc của bạn đang làm là công việc của một Phật tử, nó không có quan hệ gì đến việc khai tâm mở trí, đắc đạo. Nhưng nếu bạn có phẩm hạnh tốt, có tâm đơn thuần hướng thiện thì bạn sẽ được tuyển chọn qua thời đại Hoàng Kim để tiếp tục tu hành. Bạn hãy yên tâm mà chăm lo công việc Phật sự của mình và cầu nguyện ông Phật trong tâm của bạn soi sáng dẫn đường.
31/Tôi là người tin Chúa, đi nhà thờ đọc kinh, tham gia công tác mặt trận tại địa phương, sống hiếu thảo với cha mẹ, chung thủy với vợ, có trách nhiệm với gia đình, tôi có được mời tham dự Hội long hoa hay không?
Chúng tôi xin được chúc mừng và hoan nghênh bạn đã làm tròn phận sự của một con người đối với gia đình và xã hội. Nhưng để được mời tham dự Hội long hoa thì bạn phải có sự tự tin vào đẳng cấp, trí tuệ, tài năng và lòng yêu thương con người như tấm gương của đức Chúa Giêsu hay không? Nếu bạn làm được như vậy thì chúng tôi tin rằng bạn sẽ được mời tham dự Hội long hoa.
32/Tôi là người làm báo, có trách nhiệm với công việc và gia đình, tôi có đọc một số sách nói về tâm linh và thiền định. Tôi biết ăn chay, ngồi thiền là đúng nhưng hiện nay tôi chưa làm được. Những gì tôi biết chỉ là kiến thức sách vở như vậy tôi có được mời dự Hội long hoa hay không ?
Cảm ơn bạn đã thành thật, chúng tôi tin rằng bạn là người có kiến thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực của đời sống con người. Nhưng rất tiếc là bạn chưa ăn chay và ngồi thiền để chứng thực những gì bạn đã hiểu biết từ kinh điển. Bởi chỉ cần bạn chứng thực được trí tuệ của mình là bạn đã nắm chắc tấm danh thiếp trong tay để dự Hội long hoa.
33/Con người phải có những phẩm chất đạo đức gì thì mới được tuyển chọn làm công dân của thời đại Hoàng Kim?
Không phân biệt người ăn chay hay người ăn mặn, người có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng. Chỉ cần bạn không có tà ma nhập xác lên đồng, không phạm vào những tội ác như hiếp dâm, cướp của giết người, nghiện ma túy, nghiện rượu. Tâm phải chính trực công bằng không gian manh xảo trá, thâm hiểm độc ác, buôn thần bán thánh, bất hiếu với ông bà cha mẹ là các bạn sẽ được tuyển chọn. Đạo làm người là một trong những cửa đạo khó làm trọn vẹn để tiến đến các cửa đạo khác như Phật, Thánh, Tiên. Bởi vào được cửa đạo làm người thì bạn sẽ rất dễ dàng tiến đến những phẩm vị cao hơn. Từ cổ chí kim trước khi thành Phật, Thánh, Tiên thì phải thành người. Nếu như chưa thành người bạn có tự phong cho mình là gì cũng vô ích mà thôi.
34/Tôi không tin Phật, cũng không tin Chúa, tôi theo Nho giáo thờ ông bà và tu đạo làm người như vậy có được vào dự Hội long hoa hay không?
Đạo làm người cũng có rất nhiều đẳng cấp, chữ hiếu đối với một con người bình thường là yêu kính cha mẹ, chăm sóc ông bà lúc tuổi già khi đau ốm. Nhưng mấy nghìn năm nay chữ hiếu trong nhân loại thì đứng đầu vẫn là Ngài Mục Kiền Liên, hay Ngài Lục Tổ Huệ Năng gửi mẹ mình lại cho một người bạn mà xuất gia tu hành đắc đạo thành Phật. Vô lẽ như vậy lại không có hiếu hay sao? Cho nên báo hiếu với cha mẹ cũng có nhiều đẳng cấp của sự hiếu thảo. Nếu bạn vừa làm tròn nghĩa vụ đối với cha mẹ của mình mà cũng vừa học đạo tu hành thì chữ hiếu nó mới thật sự trọn vẹn. Kinh phật có câu “nhứt nhân chứng đắc cửu huyền thăng”. Chúc mừng bạn là một con người hiếu thảo lương thiện, bạn xứng đáng làm công dân trong thời đại Hoàng Kim. Còn bạn muốn được vào dự Hội long hoa thì bạn phải tầm Minh Sư học đạo tu hành chứng quả.
35/Có sự khác nhau về lực lượng và đẳng cấp trong việc truyền tâm ấn cho đệ tử giữa các Minh Sư hay không ?
Không có sự khác biệt gì cả, bởi trên Trái Đất này có rất nhiều người tu hành thành Phật và làm Minh Sư là công việc hết sức bình thường tự nhiên đối với quy luật tiến hóa của xã hội loài người. Việc làm Minh Sư của họ, nó giống như chúng ta đã nhận được bằng tiến sĩ thì có thể đứng ra mở trường và nhận thí sinh. Do đó các bạn có thọ pháp với bất cứ vị Minh Sư nào thì các bạn cũng phải tuân theo luật nhân quả, luật tiến hoá vũ trụ. Vì sự tiến bộ trên con đường tu hành của các bạn, vị thầy không phải là người quyết định, mà vấn đề là ở sự nỗ lực và thành tâm của các bạn. Nếu các bạn không luôn cố gắng tu hành một cách thành tâm thì cho dù các bạn có đến thọ pháp với một ngàn vị Minh Sư cũng vậy mà thôi. Minh Sư là lực lượng của Thượng Đế, và vai trò của một vị Minh Sư tại thế chỉ mở cho chúng ta cánh cửa để linh hồn của chúng ta bước ra khỏi đầu óc. Còn việc đi như thế nào là vấn đề của chúng ta.
36/Trong thế giới tâm linh có “luật tâm linh” hay không?
Trong thế giới tâm linh không có luật tâm linh mà chỉ luật nhân quả. Cái mà chúng ta gọi là luật tâm linh thì nó chỉ là nguyên tắc do một vị Minh Sư nào đó đặt ra để giữ gìn đoàn thể và tổ chức tu hành của họ. Tất nhiên nguyên tắc đó phải được sửa đổi theo phong tục tập quán của mỗi địa phương và ở mỗi thời đại. Nó nhất thiết không phải là nguyên tắc cản trở sứ mệnh của những vị Phật, Thánh, Tiên xuống thế khai mở Hội long hoa. Những vị Phật, Thánh, Tiên xuống thế khai mở Hội long hoa họ có thiên mệnh, lực lượng, quyền năng và tài năng, để lột bỏ những nguyên tắc thần bí do các vị thầy của họ đặt ra. Họ luôn cố gắng thúc đẩy quá trình tiến hoá của nhân loại từ chủ nghĩa siêu nhiên thần bí đến gần với tự nhiên và quy luật tiến hoá vũ trụ. Họ rất dũng cảm, thành thật và tràn đầy lực lượng mới có thể hoàn thành được sứ mệnh của mình. Họ mới chính là lực lượng của Thượng Đế gia trì cho Trái Đất này. Họ đến để cứu Trái Đất và dựng Hội long hoa.
37/Trong tập tài liệu “Lịch sử và Pháp mạch Pháp Môn Quán Âm” do những người tu Pháp Môn Quán Âm của dòng tu Sant Mat Ấn Độ tán phát,có nói đến vị Minh Sư ThaKar Singh vị thầy thọ pháp cho Ngài Thanh Hải nói rằng: Ngài Thanh Hải không phải là một vị Minh Sư kế nhiệm của dòng tu Sant Mat, Ngài làm Minh Sư là do ngộ nhận…?
Đây là một câu hỏi rất hay, nó đặt dấu hỏi rất lớn về sự hoài nghi có cơ sở đối với sứ mệnh của Ngài Thanh Hải từ năm 1997 cho đến nay, và vấn đề này được diễn tiến trong ôn hoà yên lặng. Tất nhiên là chúng tôi có xem một số băng ghi hình thuyết pháp của Thánh Thakar Singh và có đọc tập tài liệu Lịch sử và Pháp mạch Pháp Môn Quán Âm… Chúng tôi vô cùng trân trọng và thừa nhận đây là một dòng tu chân chánh, có Minh Sư truyền thọ tâm ấn, từ giáo lý đến pháp môn và lực lượng là chân chính giải thoát… Nhưng việc Ngài Thanh Hải đến làm môn đồ của dòng tu Sant Mat và được Thánh Thakar Singh truyền thọ tâm ấn, việc làm Minh Sư của Ngài nó không liên quan gì đến việc người được kế nhiệm dòng tu là Minh Sư Sant Baljit Singh. Bởi Thánh Sant Baljit Singh Ngài làm Minh Sư kế nhiệm là để giữ gìn Pháp Môn Quán Âm khỏi bị thất truyền. Ngài tiếp tục gia trì, chăm sóc, thương yêu, dẫn dắt những linh hồn của dòng tu Sant Mat về với Thượng Đế kính yêu, đây là sứ mệnh của Ngài. Còn sứ mệnh của Ngài Thanh Hải là làm Minh Sư cho cơ tiến hoá của vũ trụ, làm Minh Sư cho những thánh tăng khai mở Hội long hoa. Nên thiên mệnh, tài năng và lực lượng của Ngài là vô cùng rộng lớn. Vậy phúc thay cho những ai được thọ pháp từ Ngài! Sự việc này đã khá rõ ràng là các vị Thánh kế nhiệm làm Minh Sư của dòng tu Sant Mat, giống như những vị Hiệu trưởng của một trường Đại học danh tiếng và uy tín. Nên những vị kế nhiệm chức vị Hiệu trưởng phải là những người có năng lực, có đẳng cấp, có nhân cách và phẩm hạnh tốt, và họ phải là người Ấn Độ. Còn Ngài Thanh Hải là một môn sinh đã tốt nghiệp ở trường Đại Học Sant Mat nhưng Ngài có trí tuệ, tài năng và lực lượng của một thiên tài. Lẽ tất nhiên là công việc của một vị Hiệu trưởng của một trường Đại học, và công việc của một thiên tài là hoàn toàn khác nhau. Do đó các bạn không thể đem sự việc này ra so sánh ai cao, ai thấp, ai đúng, ai sai. Mà các bạn phải hiểu rằng pháp môn chỉ là phương tiện, còn vị Minh Sư chỉ là người mở cánh cửa để linh hồn của các bạn bước ra khỏi đầu óc. Tất cả sự tranh cãi ở vấn đề này đều là định kiến của đầu óc phàm phu. Bởi thầy Hiệu trưởng của một trường Đại học thì Ngài phải biết gìn giữ những nguyên tắc của trường để tiếp tục nhận và đào tạo những thí sinh mới. Còn thiên tài thì Ngài phải tiếp tục sáng tạo ra những phát minh mới để phục vụ cho sự tiến bộ và văn minh của nhân loại. Công việc của các Ngài đều thiêng liêng cao cả, chúng ta không thể đem sự hiểu biết nông cạn và lòng đầy mê chấp của mình mà phán xét các Ngài là sai lầm nghiêm trọng. Các bạn hãy quay vào linh hồn của mình mà tu hành để được tiến hoá cho kịp kì thưởng phạt sắp tới, đây mới là vấn đề đáng để bàn luận.

PHẦN 2
Để các bạn có thêm tài liệu tham khảo về thiên ân của Thượng Đế đối với đất nước và dân tộc Việt Nam, về ngày tận thế, Hội long hoa và thời đại Hoàng Kim. Chúng tôi trân trọng giới thiệu đến các bạn một bài kinh do Thượng Đế giáng cơ rao giảng ( năm 1935 tại Hà Tiên ) xin trích nguyên văn.

I. THẦY DẠY: Cơ chuyển thế thay củ đổi mới thay Vỏ Địa Cầu. Thay bầu Trái Đất.
Hà Tiên đàn ngày 16 tháng giêng năm Ất Hợi 1935
Tại Bát quái Đồ thiên
Thi:

Cao thượng Chí tôn chốn Ngọc Tòa
Đài tiên giáng đạo cõi Nam Kha
Tiên ông chỉ rõ đời nguyên hạ
Trưởng thiện, Tâm chơn khỏi nạn qua.
Thầy mừng cho các con. Này các con, hôm nay Thầy về để chỉ rõ cuộc đời thế sự cho các con giữ lấy xác thân. Vì ngày hôm nay thiên địa tuần hoàn, dựng lại thượng nguyên thánh đức, thì nhân nào quả nấy. Thiện ác đáo đầu.
Các con có biết đó là chi không ? Thiên địa tuần hoàn là ba ngươn tuần hoàn. Trở lại thượng nguyên, đó là Càn Khôn giáp vòng trở lại, thay mới đổi cũ, thay quả địa cầu thay bầu trời đất, nhân vật cỏ cây đều thay đổi tất cả đó các con!
Này các con:
Thi:
Cơ Trời thay đổi máy càn khôn
Sấm dậy đất bung xác xa hồn
Tam giáo giáng trần qui ngũ phái
Bát môn đồ trận cõi thâu hồn.
Giải thích:
Câu thứ nhất và nhì: Ngày kia quả địa cầu, bầu trái đất rung chuyển kinh thiên động địa, dầu người mình đồng xương sắt cũng khó bảo toàn được tánh mạng. Chỉ có phước đức là vẫn còn.
Câu ba và câu bốn: Ngày kia tại xứ Việt Nam Trời lập bát môn đồ trận có tám cửa: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn Đoài, hào quang sáng chói nữa lừng Trời, bá đạo hoàn cầu thấy hào quang sang phá trận cho tiêu tàn, để dành làm bá chủ. Trận bát môn của Trời lập chính là “Thiên Môn Trận” người tu 1000 năm vào trận khó ra.
Thiên môn trận thu hồi bá đạo vào bảng Phong – Thần, đó là phong thần thắng bảng kỳ ba đó các con. Như vậy, Bá đạo hoàn cầu thấy hào quang kéo sang phá trận đều bị tiêu diệt, hồn lên bảng phong thần hết cả. Bá đạo không phá nổi đồ trận của Thầy, Thầy mới thống nhất, mà Giáo Truyền Đại Đạo khắp cả Thế Giới, Năm Châu vũ trụ.
Nếu đạo thầy chưa thống nhất, triệt giáo chưa hàng phục thì hoàn cầu làm sao truyền đạo thầy cho được.
Thầy khai giáo kỳ ba, thì Phật, Thánh, Tiên tam giáo đều hạ trần, hoát khai huỳnh đạo, lập đời Thánh Đức tân dân chừng đó Huỳnh Đạo thâu hết những kẻ đắc pháp, dùng hiền tài, tuấn kiệt mà dẹp loạn can qua hoàn cầu mới được.
Các con nên hiểu dẹp loạn can qua hoàn cầu, vũ trụ thống nhất bá đạo triệt giáo chẳng phải là dễ, ai cũng làm được đó sao? Phải đủ đạo đức cao siêu, tài năng thao lược, pháp bửu nhiệm mầu, mới đủ quyền năng hàng phục triệt giáo, thống nhất hoàn cầu.
Thầy mở đạo để biểu hiệu Cao Đài ra trước đặng độ các con cho kịp kỳ lập công, đặng giải thoát phần hồn, Cao Đài phổ độ, không có lập đời. Còn lập đời là cơ vô vi, thiên khai huỳnh đạo là Phật, Thánh, Tiên xuống thế, tam giáo hạ trần, làm cho thống nhất hòa bình năm châu cùng vũ trụ.
Các con không thông căn đạo, không tìm hiểu được thiên cơ, tưởng lầm Cao Đài là cơ hữu hình phổ độ sẽ truyền đạo thống nhất hoàn cầu, chưa được đâu. Vì cơ hữu hình đâu có Phật Tiên mà thống nhất, mà lập “Bát Môn Đồ Trận”.
Thầy để biểu hiệu Cao Đài ra trước đặng độ các con cho kịp kỳ Nga Mỹ chống nhau bằng cơ khí tối tân, tận diệt loài người khắp năm châu vũ trụ. Đó là ngày tận thế nghe các con.
Các con hãy tịnh tâm nghe thầy dạy:
Bài
Cơ tạo hóa thiên đình sắp định
Bầu càn khôn xoay chuyển lập đời
Thay bầu trời đất đổi dời
Cỏ cây tiêu sạch loài người còn chi!
Cơ tận diệt huyền linh sắp định
Tạo cơ đồ chấn chỉnh hùng binh.
Mỹ Nga chống chọi thinh thinh
Tài cao phép giỏi chống kình nên không?

Ôi! Nhân loại ngục hình trần khổ
Chịu phép mầu vô số ngửa nghiêng.
Thối hôi chật đất bến miền
Diệt bằng cơ khí của đời tạo ra.
Kẻ hạ ngươn lánh xa đạo đức
Tin tưởng rằng cơ khí là hơn
Rồi đây tiêu diệt chẳng còn
Tạo thành cơ khí diệt người là ai?

Kim – hồng – lĩnh đầu thai nước Mỹ
Hồng – định – Quang sử ký nước Nga
Hai tay đồ đệ của ta
Chế loài nguyên tử diệt tà thế gian.
Nhị thế chiến Hít-le tên đặc
Tam, đó là trận giặc kỳ ba
Những tay đồ đệ của ta
Diệt tiêu thế giới phép tài kinh oai!

Cho những kẻ khinh tài thần thánh
Cho xuống trần tạo lấy hữu hình
Diệt loài vô đạo hãi kinh
Ham mê vật chất xác hồn ra tro.
Thần thánh lập tạo thành cơ khí
Để xem mà có phải hay không
Chết thôi vô số muôn phần
Bởi đời thích nó, thánh thần tùy theo

Diệt cho hết kẻ theo ngụy học
Cho rằng là chẳng có phật tiên
Diệt tà độ kẻ nhân hiền
Đặng cho đời biết thánh thần có không!
Cơ tự diệt muôn phần thảm khổ
Các nhân hiền kiếm chỗ ẩn thân
Súng thần đạn dược đao gươm
Của trời sai khiến diệt phường vô lương.
II.Luật Nhân Quả:
Đây thầy giải nghĩa tiếp: Theo luật nhân nào thì phải hưởng quả nấy. Trước đầu bài cho các con biết rõ và giữ lấy xác thân. Nhân nào quả nấy là luật trời định, tạo thì phải mang, vay thì phải trả, nhân quả kiếp nào, buổi này phải trả sạch, vì ngày hôm nay đời tận thế lập lại thượng nguyên y đời thượng cổ. Đời mới, dân đức hạnh hiền hòa, thông minh sáng suốt, là đời thái bình cộng lạc, không còn nhân quả trả nhau. không còn chiến tranh loạn lạc giết nhau như đời này.
Vì vậy, nên trời định: luật nhân quả kiếp nào buổi này phải trả sạch, rồi đây nạn nhân quả chen nhau mà trả, tận diệt giết nhau máu chảy đầy sông, xương phơi trắng đất, đầy đồng, không ai chôn vùi cho hết đâu các con. Nên Thầy quá lo cho các con mà chỉ rõ luật Trời định vậy. Thầy khuyên các con dù là tín đồ hay chức sắc không nên tạo nghiệp ác kẻo phải trả cấp kỳ hiện tại, không còn để qua kiếp sau như kỳ trước. Các con phải lấy chí trượng phu quân tử mà ăn ở theo thời kỳ. Dầu có giàu sang quyền thế đến đâu cũng đừng theo tánh tiểu nhân vô đạo, đối với kẻ nghèo khổ thấp hèn khinh khi ỷ lại kiêu căng, hay cậy chức phận lớn lối ỷ quyền làm cho người đời oán ghét, thì là diện phục tâm nó bất phục, nó cũng kiếm thế trả thù liền cho các con khổ thân hay bỏ mạng đó các con.
Thầy đã biết trước hành vi của các con hành động hằng ngày tất cả. Luật trời đã định vay một phải trả mười, Thầy giải thích cho các con rõ trước kia kẻ giàu sang bóc lột những kẻ nghèo để làm giàu, lại còn khinh khi ỷ lại, đó là một điều vay, một món hận thù. Lại nữa kẻ ỷ thế cậy quyền đàn áp những kẻ cô thế thấp hèn nghèo khổ, đó là một điều vay, một mối hận thù nữa. Ngày đó những kẻ bần dân vì cô thế nên nhịn thua ráng chịu. Ngày hôm nay Trời khiến kẻ dân dã bị bóc lột đàn áp đó, lại có kẻ cầm đầu xúi giục, chúng nương cậy nơi lực lượng vô sản mà tàn sát tận diệt trở lại những kẻ giàu sang quyền tước. Đó là: trước kia tư bản lấn hiếp vô sản, cậy quyền ỷ thế, ngày nay nó vùng dậy đấu tranh đòi quyền lợi tiêu diệt bọn tư bản. Trả như vậy, có phải trước vay một, nay phải trả lại mười không, các con!
Vì vậy, nên hôm nay thầy căn dặn các con phải giữ lấy xác thân đừng làm cho ai buồn khổ cả. Vì luật trời định vậy, tạo phải mang, không trốn phương nào cho khỏi.
III.Thầy dạy: Đạo thầy có giả, có thật:
Ngặt lắm thầy mới phong chức cho các con có thứ tự đặng thi hành phận sự của Thầy. Mà Thầy phong thì Thầy lại lo sợ cho các con, sợ là sợ các con có chức ỷ quyền, theo luật nhân quả thì các con phải tận diệt. Nhưng Thầy sợ cũng không khỏi nhân quả trả nhau. Vì thầy biết tánh phàm của các con chưa bỏ được nên có chức phận rồi còn tạo quả hơn lúc chưa có.
Từ xưa nay đạo là vô danh, vô hình, vô tình, người chức sắc hành đạo để tâm không mà hành phận sự, không quyền, không lợi, không danh, nay thầy phong chức cho các con có khác nào Thầy xúi các con làm thêm tội lỗi nữa. Nhưng các con phải biết: thầy lấy cái giả mà hành mới thành cái thiệt. Chức sắc quyền danh là giả. Nếu các con không tìm ra để biết đó là giả thì phải tính liệu sao?. Thì các con cứ hành theo cái giả cho thỏa mãn xác thân, ăn trên ngồi trước, ra đi có kẻ bẩm người thưa, kẻ hầu người hạ, ấy là điều thất đức. Bởi vậy, từ xưa đến nay có chân truyền bí pháp nào mà dạy hành đạo như các con hành đó, chỉ thầy nghe thử? Các con nên hiểu thầy nói: có mặt, có trái, thầy nói bề mặt là thầy gạt mà thử các con, đó là giả. Phải tìm thầy nói bề trái mà hành theo đó là cái thiệt của các con hành đạo. Vậy thì các con phải phân ra làm hai:
1- Một bên là xác thịt, phải hành đạo theo hữu hình đặng độ nhân sinh mà lập công trả quả.
2- Một bên là tinh thần phải hành theo luật vô vi.
Hành theo luật vô-vi không phải là hành đạo vô-vi đâu nhé! Hành đạo vô-vi phải hành theo chân truyền bí pháp, tham thiền nhật định. Còn hành luật vô-vi là cái thiệt của các con hành đạo. Hành luật vô-vi là chi? Hành luật vô-vi là tâm của các con phải nhớ tưởng lời thầy chỉ dạy không dám hành chi sai quấy. Kế đến là nhớ hằng ngày có thầy ở trước mặt, ở trong tâm, xem xét tư tưởng, lời nói và hành động của các con, có thế các con mới không giám phóng tâm làm theo ý muốn những điều vô đạo, tham sân si và thất tình lục dục. Như vậy mới thành đạo đó các con!
Nhược bằng các con cho tinh thần cũng là thể xác, hành chung có một đường theo duy vật đời giả, không tưởng nhớ lời thầy, khiến các con không sợ tội lỗi gì cả. Các con hành đạo theo đời, đời còn thì các con còn, đời tàn thì các con phải tận diệt hồn xác. Thầy đâu độ được những đứa sai luật trọng tội với thầy, để sau này các con sẽ thấy rõ.
Các con nên hiểu: đời là giả tạm, sống gởi thác về, chức phận lợi quyền là điều nhân quả. Ngày nay luật trời định chí công thưởng phạt, nhân quả trả nhau, chức cao quyền trọng còn hại thân mau gấp. Cao sang bao nhiêu thì khổ nhục bấy nhiêu đó các con, hễ trèo cao thì té nặng không sai!
Rồi đây các con sẽ thấy luật nhân quả trả nhau trước mắt, nào là chiến tranh súng đạn gươm đao tràn khắp, đâm chém giết nhau, nào là thiên tai địa ách, bệnh chương sát hại, sót lại chỉ còn ba bốn phần người đó các con! Đó là luật trời định tiêu diệt hết những kẻ làm sai luật thiên điều, nghịch thiên bội địa, đặng lập lại đời mới. Vậy các con tự hiểu lấy mà giữ xác thân trong buổi đời hỗn loạn.
Thầy nói trước cho các con biết: không có một thẻo đất nào mà đặng yên để các con trốn khỏi nạn giết người. chớ lầm tưởng chỗ này yên, chỗ kia yên. Kẻ vô đạo không có một thẻo đất nào để sống yên thân đâu! Để đời tới, các con thấy rõ luật trời biến động, lời thầy nói không hề sai nghe các con.
Các con theo thầy học đạo từ năm Bính Dần ( 1926 ) đến ngày hỗn loạn , súng đạn gươm đao tràn khắp, tứ bề bao phủ, các con cũng như các tôn giáo dù đạo hay đời cũng đều ở nơi bãi chiến trường tên đạn. Kẻ nào đạo tâm hành đúng luật thiên điều thì đặng cứu, kẻ làm sai luật, đạo đức ngoài môi, thì thịt nát xương tan mà đền bồi tội lỗi vì chống nghịch luật trời đó các con.
Luật trời định: ngày hôm nay diệt kẻ tà, độ người chánh đặng lập đời thánh đức, diệt tà là diệt kẻ không ngay ( bất trung ) làm điều bất chánh, lòng tham lam lợi quyền, thi hành những điều vô đạo, phạm luật trời, nếu còn sót lại kẻ đó lập đời thì họ sẽ tranh giành vật chất, lợi quyền, chẳng biết thương nhau, thì loạn vẫn còn các con. Không có cơ hỗn loạn đánh giết nhau, làm sao rõ mặt anh tài tuấn kiệt, không có chia phe lập đảng đánh giết nhau tàn khốc, làm sao tiêu diệt hết dã man vô đạo, mà lập đời thánh đức tân dân hỡi các con!
Bởi vậy, đến ngày xiển giáo triệt giáo đấu tranh, chính các con cùng các tôn giáo, năm non, bảy núi xuống thế tranh hùng, đánh giết nhau nguy khốn, nếu các con có đủ đức hạnh tài phép thì còn, thầy ngó lại các con tài phép thì không, còn đức hạnh thì thiếu cũng như rắn nọ không đầu, biết ai dìu dắt trong buổi đời hỗn loạn…
Đến ngày đại hỗn loạn thì đảng phái tương tranh, xiển triệt cùng đánh nhau tàn khốc, lúc đó nhà cửa, sự nghiệp các con điêu tàn thành bình địa; cơ sàn sảy chọn người hiền đức đặng lập lại đời mới, thì khắp cả hoàn cầu, khắp cả xứ Việt Nam, mấy mươi triệu nhân sanh đều ở trong trường hỗn loạn. Hiện giờ thiên cơ chưa tới, các con còn đầm ấm gia đình. Cho rằng đời chắc chắn, an vui, hạnh phúc, gạc bỏ, không tin lời thầy nói đây. Không còn bao lâu nữa, thấy rõ luật trời thưởng phạt loài người tan xương, nát thịt gớm ghê, nhà trống, ruộng hoang, lâu đài sụp đổ, bỏ xứ ly hương, dịch chướng hoành hành, đao binh tràn khắp thì chừng đó các con mới thấy luật trời nghe các con!
IV: Tạo lập thánh thất, thánh tòa:
Khi thầy giảng đạo xứ nào phải mượn chổ đất nơi đó mà bành trướng cơ đạo. Tạo lập tịnh thất hay tòa thánh là để chi? Đó là nhà hội, nhân sanh vào đó là tín ngưỡng, vào đó mà nghe lý đạo, hành theo điều luật của thầy, đó là Thầy mượn nơi chỗ đó đặng tạo lập mà độ các con. Chớ đến ngày tận thế nơi đó cũng phải tiêu tan theo luật định của thiên điều.
Tại sao vậy? Thầy lập cơ phổ độ, lâu dài, dinh thự chùa thất nghinh ngang ở thế gian một thời đặng phổ độ chúng sanh. Nhưng rồi đây đến ngày tận thế phải tiêu tan, hủy diệt theo luật trời biến động, các con đừng lầm tưởng của thầy tạo lập thì còn nghe!
V: Thầy dạy: Đạo thầy có nhiều lớp, từ cơ hữu hình đến cơ vô vi
Thầy lập đạo kỳ này là cơ hữu hình đến với vô vi. Mà vô vi là cơ lập đời, nên còn nhiều lớp, còn dài… Cơ phổ độ của thầy đến ngày hỗn loạn là chấm dứt. Cơ hỗn loạn là cơ sàng sảy của thầy để tiêu diệt dã man vô đạo, hành trái luật thầy. Còn lại những đạo tâm hữu căn, hữu đức, đem qua kỳ ba vô vi, lập đời thượng ngươn trở lại. Nhân loại và các con hiện giờ sống tạm đỡ đó thôi, chờ cơ tận diệt mãn rồi, còn ai, mất ai sẽ biết! Các con sống tạm chờ ngày thưởng phạt, thì hân hoan vui thú làm chi hỡi các con! Các con nên nhớ lời thầy mà tìm hiểu. Thầy nói: Đạo lập đời, các con phải tìm hiểu. Đạo là vô vi, vô vi là Phật, Thánh, Tiên ngày kia sẽ xuống thế lập đời thượng nguyên thánh đức trở lại. Các con chớ lầm tưởng khi nghe thầy nói: Đạo lập đời, các con cho rằng: Các con vào đạo đi thống nhất hoàn cầu lập đời thượng nguyên trở lại mà tung hô inh ỏi, làm cho các tôn giáo chê cười, quá động lòng thầy!
Các con nên nhớ: Cơ tận thế lập đời mới thượng nguyên là cơ tạo thiên lập địa, thay quả địa cầu, thay bầu trời đất, nhân vật cỏ cây đều thay tất cả. Quả địa cầu thay đổi như vậy, thử hỏi các con nào đã đủ tài năng thao lược pháp bửu nhiệm mầu chưa? Các con tạo thời sửa thế thành cõi niết bàn đặng chăng? Các con tự xưng hô mình là thần thánh, thiệt là quá tối!
Chừng nào các con theo thầy học đạo, tu luyện nhiều kiếp, dày công được đắc pháp huyền hư, lục thông phát huệ, tiếp điển với thầy, nghe thầy chỉ đạo, thì chừng đó các con thành đạo. Các con mới đủ tư cách hành đạo, đi thống nhất triệt giáo hoàn cầu, lập lại đời thượng ngươn thánh đức.
Hiện giờ các con vào đạo lo lập công chuộc tội, tu tâm sửa tánh, gìn giữ luật đạo, buông bỏ lợi danh, men chân trên đường giải thoát, nhưng thầy thấy tâm các con còn dời đổi, chưa đủ thiệt tâm như một, tánh còn tự cao, chưa chịu hạ mình là bậc thấp, sửa tâm, sửa tánh chưa xong, chưa phải thần thánh mà khoe khoang inh ỏi!
Các con không ngó ra bên ngoài mà thấy và hiểu: người đắc pháp có phận sự thay mặt Thầy là người có đủ tài năng, thao lược dựng nước khai non, tạo đời sửa thế, ẩn danh với kẻ thường dân, lẫn lộn giúp đời lập đức, không bày lộ khoe danh, các con đừng lầm tưởng không có người như thế, như vậy là quá tối.
Đàn hôm nay “ Tam nhựt đàn ” đàn của Thầy lập để minh chơn lý, là Minh Sư thiệt của đạo, để sau này các con coi biết rõ sự thật, từ cơ phổ độ hữu hình cho tới kỳ ba vô vi lập đời, đó là thầy cho biết rõ nguồn gốc căn cội của đạo trời.
Đạo là huyền vi bí ẩn, đứa nào tìm ra ẩn bí mà biết là hành đạo. Thầy minh chơn lý đây là vì thầy quá thương các con theo thầy hành đạo mấy mươi năm, đến ngày hỗn loạn là cơ phổ độ của thầy đã mãn, thì các con biết đường lối, không biết đạo đi tới đâu nữa. Không biết sự thật của đạo, không biết được nguồn gốc căn cội của đạo tại đâu mà có? Không biết thầy là ai?...
Vì vậy, hôm nay thầy về minh chân lý từ đầu bài đến cuối, các con biết rõ năm bài không hề sai, đời tới các con thấy rõ lời thầy dạy tóm tắt để các con dễ hiểu, đừng xem là bình thường mà không chú ý đến!
PHẦN III
LỜI KẾT!
Các bạn đạo tâm, đạo hạnh kính mến!
Những người theo khoa học thực nghiệm thì bất cứ hiện tượng thiên nhiên hay hiện tượng xã hội mang tính chất dự báo, nghiên cứu đều được hoài nghi xem xét. Họ chỉ tin vào thực nghiệm, tức là khi sự việc đã được diễn ra trong thực tiễn. Còn chúng ta là những con người có linh căn, có huệ nhãn, có niềm tin tưởng vào Thượng Đế, có linh cảm để quan sát các hiện tượng tâm linh, xã hội và thiên nhiên một cách bao quát, xuyên suốt bản chất của các sự việc – tính nhân quả báo ứng. Nhờ đó mà chúng ta mới dấn thân vào con đường tu hành, dám hy sinh cái bản ngã của cá nhân, mặc nhiên cho thiên hạ dèm pha, chê trách khinh khi, xem thường…Nhưng tự chúng ta không xem thường mình, biết đánh giá bản chất, trí tuệ, công đức của chính mình trên con đường tu hành, hoằng dương đạo pháp. Những việc làm của chúng ta hôm nay, cho dù là một việc rất nhỏ như ăn chay, bố thí, phóng sanh thì chúng ta đã tự ý thức chung tay góp sức vào việc gìn giữ môi trường, chống biến đổi khí hậu mang lại niềm hy vọng cho tất cả mọi người.
Xin cầu chúc cho các bạn đạo hạnh kiên cường, đạo tâm sáng suốt, công đức được viên mãn. Nhóm biên soạn chân thành cảm ơn các bạn đã đọc và phổ biến thông điệp khẩn cấp này đến mọi người!

TTBS và phát hành tháng 3 năm 2010

Ba năm không chợ, không gạo, không rau!
Kẻ chê ăn rau xót ruột, ăn trai trường mất máu, sẽ không có cỏ mà ăn!
Phụ nữ, già trẻ phải gấp trường trai, tuyệt dục để khỏi nhục tinh thần, thể xác, sống sót mà gặp Thánh Chúa tại Phật Địa.
Ngày đó sẽ đến khi không có cỏ mà ăn!
(Trích trong quyển Hư Không Đạo xuất bản năm 1965)
Mọi chi tiết xin liên hệ số điện thoại A Minh 01213550958

Nhím Hoàng Kim
03-01-2010, 11:21 PM
Thanh Hải Vô Thượng Sư Tại Hy Mã Lạp Sơn


http://tructiepcauthongthuongde.org/audio/2005/Oct22B.1_ThanhHaiVoThuongSuTaiHyMaLapSon.mp3


Thanh Hải Vô Thượng Sư Tại Hy Mã Lạp Sơn (http://tructiepcauthongthuongde.org/audio/2005/Oct22B.1_ThanhHaiVoThuongSuTaiHyMaLapSon.mp3)

Nhím Hoàng Kim
03-01-2010, 11:53 PM
Thanh Hải Vô Thượng Sư và Pháp Môn Quán Âm


http://tructiepcauthongthuongde.org/audio/2005/Oct22B.2_THVTSvaPhapMonQuanAm.mp3


Thanh Hải Vô Thượng Sư và Pháp Môn Quán Âm (http://tructiepcauthongthuongde.org/audio/2005/Oct22B.2_THVTSvaPhapMonQuanAm.mp3)

anhminhgod
03-02-2010, 02:03 AM
Nhím Hoàng Kim đăng bài trả lời, và có post hình nhưng tôi không xem được. Cảm phiền bạn xem lại đường link với nhé. Thank bạn rất nhiều.

Nhím Hoàng Kim
03-02-2010, 03:27 PM
Nếu bạn không nghe được link của NHK gởi thì bạn cần phải có window media player :

http://www.microsoft.com/windows/windowsmedia/player/10/default.aspx

Bài viết của các bạn gởi lên là do ban biên tập thuộc đoàn thể tôn giáo nào biên soạn vậy ? Có thể cho NHK biết thêm chi tiết được không ? :biggrin:

Chúc bình an và thăng hoa :om:

anhminhgod
03-02-2010, 07:44 PM
Chào bạn anhminhgod ,

Nhím Hoàng Kim xin cám ơn về câu trả lời của bạn nha .

Chúc bạn vạn sự lành và thăng hoa .

Cầu mong Thiên Đàng luôn gia ân cho các bạn .

Nhím Hoàng Kim
03-02-2010, 08:02 PM
Xin chào bạn anhminhgod

NHK đã chuyển các câu hỏi của NHK đến bạn , mong bạn giúp cho NHK được tường tận hơn về quyển sách mới này .

Chúc vạn an và Thượng Đế luôn gia ân cho các bạn .

Nhím Hoàng Kim
03-04-2010, 04:24 PM
http://img4.imageshack.us/img4/1098/hsp24.jpg

Vì lý do có nhiều người không biết thầy thật sự của sư phụ Thanh Hải là ai nên mình xin post bản tin 79 này để mọi người cùng tham khảo

Minh Sư Từ Khung Trời Hy Mã

Ngày xưa,
Có một người khát khao hòa bình du hành khắp cùng càn khôn vũ trụ,
mong tìm ra thật sự an-vui.
Người ấy đi qua khắp các mặt trời,
đi qua khắp các mặt trăng cùng muôn ngàn lục địa.
Sau cùng người ấy khám phá ra:
Sự yên vui lúc nào cũng ẩn tàng trong tâm thức.
Người ấy khởi sự hưởng thụ "thiên đàng."
Cực lạc!
Nhưng một hôm, người bổng nhìn xuống nhân gian:
Thấy muôn vạn chúng sinh đang ngụp lặn trong tối tăm
vì họ tìm hạnh phúc bên ngoài chính họ.
Như người ấy ngày xưa, lúc chưa khai ngộ.
Lúc còn đắm chìm trong ma chướng u-mê.
Bấy giờ lệ người rơi xuống,
Một giọt, hai giọt rồi nhiều như mưa...
Chẳng bao lâu, bầu trời nạm đầy những hạt ngọc long lanh
mà người thế gian gọi là tinh-tú.
Những tinh tú này ban ngày e-thẹn không ra
Ban đêm thao thức
Chúng soi đường cho những kẻ khát vọng hòa bình hậu lai.
Trong cuộc lữ hành tìm hạnh phúc lâu dài.
Và là những biểu tượng đời đời của một thánh nhân vĩ đại.
(Thơ Thanh Hải Vô Thượng Sư trích trong tuyển tập thơ "Giòng Lệ Âm Thầm")

Hành trình tìm kiếm Minh Sư của Thanh Hải Vô Thượng Sư, người mà có thể chỉ cho Ngài con đường trực tiếp nhất tới Thượng Ðế, đưa Ngài qua hơn ba mươi quốc gia, trong suốt bảy năm trời thử thách. Ngài đã thăm viếng một số các nơi tu hành và đạo tràng quan trọng, luôn mong mỏi tìm được vị Thầy, mà có lẽ Ngài đã linh cảm là đang chờ đợi Ngài.

Cuối cùng Ngài đã tới Ấn Ðộ, mảnh đất đã được ân sủng của nhiều bậc đại sư từ nhiều thế kỷ trước. Khi nói về những chuyến đi vào vùng đất huyền bí này, Thanh Hải Vô Thượng Sư cho biết: "Ở Ấn Ðộ có nhiều người tu hành chỉ ăn ngày một bữa. Họ tu nhiều pháp chứ không phải chỉ chọn một pháp. Không có nơi cư ngụ nhất định, họ đi lang thang khắp nơi, tìm Thầy và học đạo. Ngày nào họ cũng thiền, không bao giờ quên, dù một phút trong bữa ăn hay lúc ngủ. Họ không thiền ngắn, trong giây phút. Quý vị có thể tưởng tượng lực lượng bên trong của họ mạnh tới mức nào. Có người có thể đi trên lửa mà không bị phỏng. Nhưng đây chỉ là những thuật nhỏ, không đưa tới đẳng cấp tối cao. Ðạt được trí huệ và sự giải thoát mới là điều quan trọng hơn. Chúng ta có một lực lượng tiềm ẩn phi thường. Nếu tu hành tốt và có niềm tin tuyệt đối vào chính mình thì không có gì vượt quá tầm tay của chúng ta."

Lòng tin của Ngài, sự cống hiến vô ngã và tất cả sự mong muốn phục vụ người khác đã hiện lộ khi Ngài kể lại thời gian còn sống tại một trong những đạo tràng mà Ngài đã viếng. "Khi có thời giờ, tôi làm bất cứ việc gì cần làm. Vì nhiều người không thích làm công việc nhà, như rửa chén, lau nhà. Tôi làm những công việc này mặc dầu nhân viên văn phòng như chúng tôi thường không phải làm công việc lao động. Tôi làm việc rất mau mắn, và sau khi xong công việc văn phòng, nếu thấy đồ đạc bừa bộn, tôi liền dọn dẹp ngay vì không thích sự bề bộn. Tôi biết cách sắp xếp đồ đạc lại cho ngăn nắp, nên làm rất lẹ."

"Càng làm việc nhiều, chúng ta càng khai ngộ thêm. Thật tình mà nói, ở Ấn Ðộ tôi rất vui được lau cầu thang và sàn nhà. Tôi sung sướng tự nói với chính mình: ồ! Tôi rất hân hạnh được lau cầu thang cho những vị thánh này. Chân họ đi lên chỗ này mỗi ngày, giống như tôi đang rửa chân cho các thánh nhân vậy. Tôi thấy vinh dự quá! Ý nghĩ này đến một cách tự nhiên; không ai dạy tôi cả. Chỉ lau cầu thang để các đệ tử dẵm lên thôi cũng đủ khiến cho tôi cảm thấy hân hạnh. Cho nên tôi càng cảm thấy vinh dự hơn, nếu đó là cầu thang để các vị Thầy dùng. Tốt hơn chúng ta nên làm việc một cách vô điều kiện. Phục vụ người khác thì quý vị sẽ được tất cả."

"Trong thời gian còn sống tại những đạo tràng, tôi không bao giờ bám lấy các vị Minh Sư hoặc xin Ngài nhìn tôi khi tôi làm việc. Tôi chỉ phục vụ mà thôi. Tôi lau cầu thang, lau sàn nhà, tưới cây, và làm những việc không ai muốn làm. Tôi rửa chén đĩa vì người khác không muốn rửa. Sau mỗi bữa ăn, nồi niêu chén bát chồng chất như núi. Nhưng tôi vẫn vui vẻ rửa mỗi ngày."

Sau khi làm việc không biết mệt tại các đạo tràng, cuộc tìm kiếm thực sự đáng ghi nhớ của Ngài đã đến hồi cuối tại rặng núi cao nhất và bí ẩn nhất thế giới, rặng Hy Mã Lạp Sơn, nơi mà từ nhiều thế kỷ nay người Ấn Ðộ vẫn tin là chỗ ở của các thánh thần. Vì lý do này mà hàng triệu người hành hương chân thành đã mạo hiểm tới Hy Mã Lạp Sơn mỗi năm, để viếng thăm nhiều chốn linh thiêng và có lẽ để gặp một trong những bậc khai ngộ hi hữu, thường sống ẩn dật trong những hang động hẻo lánh bí mật. Nhưng tiếc thay, nhiều kẻ hành hương đã chết dọc đường vì thời tiết cay nghiệt, đất lở hoặc đường hoặc những vùng tuyết hiểm trở. Tiện nghi rất ít, nên có người đã bị chết đói. Sự sợ hãi đã ngăn cản người hành hương mạo hiểm quá xa. Chỉ những chúng sanh hiếm có, với niềm tin kiên định vào Lực Lượng của Vũ Trụ và sự can đảm phi thường mới có thể không để ý tới những hiểm nguy trước mắt.
Khi kể lại một số hành trình ở Hy Mã đã đưa Ngài mỗi lúc mỗi lên cao và thâm sâu vào những vùng đầy băng tuyết, Thanh Hải Vô Thượng Sư nói: "Khi ở Hy Mã Lạp Sơn, tôi không có đủ tiền để thuê ngựa hay phu khuân vác. Tôi không có gì cả, chỉ đi bộ thôi. Có lẽ nhờ đi bộ liên tục mà người tôi ấm. Nếu không, chắc là đã chết cứng rồi, vì quần áo và giầy đều ướt sũng nước mưa và tuyết. Có những ngọn núi rất cao và nhọn trông rất dễ sợ. Chắc lúc đó tôi điên cuồng như những cặp tình nhân yêu nhau say đắm, quên hết những chuyện khác. Những người yêu nhau không nhìn thấy những rủi ro, gánh nặng của hôn nhân và đời sống gia đình, cũng không nghĩ tới tương lai. Họ say đắm vì tình yêu và chỉ sống cho lúc đó mà thôi."

"Nhưng Thượng Ðế gia trì cho những kẻ ngu dại như tôi. Khi đang tìm Minh Sư, tôi chỉ có hai bộ y phục, nhưng không bao giờ bị cảm lạnh trên đường núi Hy Mã. Ðôi khi, ngay cả củi đốt để phơi quần áo ướt, tôi cũng không đủ tiền mua. Cho nên, tôi tới gần chỗ những người khác đang đốt lửa, dùng tay dơ quần áo lên. Hơi nóng làm quần áo khô nhanh hơn, lại sưởi ấm tôi nữa. Chắc lúc đó tôi mù quáng và điên rồ vì Thượng Ðế. Bây giờ chắc tôi không dám làm vậy nữa."

"Lúc đó trong đầu tôi chỉ có Thượng Ðế; tôi chỉ thấy Thượng Ðế, không còn chỗ cho gia đình hay tiền bạc. Tôi ngu ngốc, không còn điều gì khác có thể vào đầu tôi vì lúc đó tâm tôi chỉ có Thượng Ðế. Giống như khi yêu ai, chúng ta hoàn toàn không thấy những khuyết điểm của người mình yêu và không muốn nghe bất cứ lời nói nào không hay về người đó. Có lẽ vì thế mà Thượng Ðế che chở tôi, nếu không chắc là đã chết từ lâu rồi."

Lòng nhiệt tình của Thanh Hải Vô Thượng Sư đối với Thượng Ðế đã khiến Ngài vượt qua được nhiều khó khăn trong lúc du hành đơn độc một mình và trong khung cảnh rừng núi bất tiện mà Ngài đã trải qua. "Ở Hy Mã Lạp Sơn, có những nơi áp xuất không khí rất thấp, khiến cho việc nấu chín thức ăn rất khó. Tôi chỉ có thể rửa thức ăn bên sông Hằng rồi ăn sống. Nhưng cũng ngon. Rặng Hy Mã là nơi rất đẹp. Tôi có thể sống không nước nóng. Nhúng người vào nước lạnh cũng vui. Lạnh quá tưởng chừng như thân thể tôi co lại. Tôi có thể đếm tới 5 rồi nhảy ra khỏi giòng nước buốt như đá. Nhưng sau đó cơ thể nở rộ như ngàn bông hoa và tôi cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu.
Trên đoạn đường cuối cùng vào thánh địa, Thanh Hải Vô Thượng Sư bắt đầu như những lần khác, với hai bộ y phục, một đôi giầy thể thao, một túi ngủ, bình nước, một hai quyển sách và cây gậy để đi . Khi càng lên cao, cơ thể Ngài lúc nào cũng ướt và lạnh. Lên càng cao, Ngài càng phải bỏ hành trang để giữ sức. Bỏ như vậy, hầu như là gần hết đồ đạc, Ngài đã gửi trọn đời mình vào tay Thượng Ðế.

Tất cả sẽ đến với những ai truy cầu Thượng Ðế và chỉ Thượng Ðế mà thôi. Vì vậy, không khỏi có một ngày ngài tìm được Minh Sư, người mà Ngài luôn luôn mong đợi. Vị Minh Sư đó là đại sư Khuda Ji, sống ẩn dật sâu trong Hy Mã Lạp Sơn. Thầy Khuda Ji được 450 tuổi khi Ngài truyền cho Thanh Hải Vô Thượng Sư vào thuật thiền định cổ xưa, quán Âm Thanh thiên đường và Ánh Sáng thiêng liêng. Ông đã kiên nhẫn ở lại vùng Hy Mã để đợi Ngài. Ngài trở thành đệ tử đầu tiên và duy nhất của Ông. Dù trước đó Ngài đã từng tu pháp thiền này, nhưng Minh Sư Khu da Ji đã truyền cho Ngài pháp cuối cùng, phần cốt yếu của sự truyền Tâm Ấn. Chỉ có vài vị đại sư đã đạt được sự Thượng Thừa, mới có thể truyền Tâm Ấn được.

Thanh Hải Vô Thượng Sư rất ít khi nói về Thầy Khuda Ji. Ông rời thế giới vật chất sau khi hoàn tất sứ mệnh thiêng liêng này. Ngài cảm tạ những người đã dạy dỗ Ngài trong mỗi giai đoạn của hành trình tầm đạo, nhưng dành những sự tri ân sâu đậm nhất cho Thượng Ðế. "Tôi có nhiều thầy, cả hữu hình lẫn vô hình, và mỗi người dạy tôi những điều khác nhau. Nhưng thật ra, Thượng Ðế là vị Minh Sư duy nhất của tôi." Tuy nhiên, khi có một đồng tu hỏi về vị Ðại Sư ở Hy Mã Lạp Sơn này, thì Ngài nói rằng: "Ồ! Tôi theo một vị Minh Sư, một vĩ nhân! Tuy nhiên, Ông đã qua đời. Ông chỉ có một đệ tử, người đó là tôi. Và tôi phải tiếp tục công việc của Ông."

Sau khi học với Thầy Khuda Ji, Thanh Hải Vô Thượng Sư ở lại thêm vài tháng trên rặng Hy Mã để thông thạo thuật thiền định cổ điển này. Dù nhiều nghịch cảnh như vậy, Ngài vẫn cảm thấy gần gũi một cách kỳ lạ với nơi tu hành đặc biệt này. Có lần Ngài nói: "Ở Hy Mã Lạp Sơn, quý vị có thể cảm thấy các thú vật, cây cỏ rất hiền lành và thân thiện. Bầu trời êm đềm và không biên giới; những cây thông rất thân thiện. Tôi sống trên một mực độ rất cao và cảm thấy những đám mây trôi chung quanh tôi. Giống như đang đi trên mây vậy. Tôi không gọi mây tới chở tôi đi; chúng tự tới. Quý vị chắc có thấy những bức tranh vẽ người cỡi mây; đó là những gì tôi muốn diễn tả. Ðó không phải là hiện tượng trên thiên đường, mà là hình ảnh thông thường trên Hy Mã Lạp Sơn."

Khi trở về đồng bằng, Ngài đã tới thăm một trong những đạo tràng mà Ngài đã sống trước kia. Trong khi đang ngồi xổm đọc một tờ báo cũ, thì một trong những đệ tử lâu năm nhất của đạo tràng, đã tu với ba vị Thầy nối tiếp nhau, quỳ sụp xuống lạy Ngài không dè dặt, trước mặt mọi người chung quanh, sờ và hôn chân Ngài. Dĩ nhiên, Thanh Hải Vô Thượng Sư rất ngạc nhiên và bối rối. Sau này Ngài giải thích rằng: "Ðó đâu phải là lần đầu tiên gặp nhau; chúng tôi đã làm việc chung với nhau nhiều tháng trời và cùng uống trà với nhau. Tuy nhiên, sau khi tôi từ Hy Mã trở về, ông ta đã sụp lạy tôi. Tôi sợ cái ngã của mình sẽ cao bằng núi. Cũng như mọi người chung quanh, tôi vô cùng kinh ngạc. Tôi giựt mình tới nỗi không còn nghĩ gì được nữa. Ðầu óc trống rỗng không thể nghĩ thêm được. Tôi chỉ biết là mình nên ra đi." Thế là Ngài ra đi, ngay lập tức.
Trong khi du hành rộng rãi ở Ấn Ðộ, Ngài cố không để ai nhìn thấy. Tuy nhiên, Hào Quang Nội Tại của Ngài không thể nào che dấu được.

Tại đại hội Maha Kumbh Mela, tổ chức mười hai năm một lần tại Hardwar, bên bờ sông Hằng, thành phố Uttar Pradesh, hàng triệu người Ấn Ðộ Giáo từ khắp nơi trong nước đến tụ tập suốt tháng. Ðây là cuộc họp mặt hiếm có của những Minh Sư, có người du hành từ núi Hy Mã xuống chỉ vì cuộc họp mặt này. Vì thế, những người hành hương đến hỏi thăm và cúng dường họ đủ thứ. Có lẽ không mấy ngạc nhiên khi cuộc viếng thăm của Thanh Hải Vô Thượng Sư tại nơi này đã gây ra khá nhiều náo động. "Khi tôi tới Kumbh Mela, nhiều người đã theo tôi. Ở Ấn Ðộ, nếu đàn bà đi ngoài đường một mình sẽ bị người ta ném đá, nghĩ người đó là đàn bà không tốt. Nhưng dù tôi đi một mình, người ta cũng tới lạy và cho tôi gia vị, dừa, bông hoa, và thức ăn. Họ còn cho tôi chiếc lều tốt nhất, thứ lều dành cho những vị Ðại Sư. Họ cho một mình tôi dùng một chiếc lều bự, trong khi những Minh Sư khác chen chúc nhau trong một chiếc lều."

"Tôi không có gì để lôi cuốn sự chú ý của người khác. Tôi không đóng đinh vào người, không có râu dài; mà cũng không dùng tro bôi mặt; cũng không gầy gò như một bộ xương. Quý vị đã nhận ra các vị thánh nhân ngay lúc thấy họ. Họ phơi nắng suốt ngày, nên đa số ai cũng đen. Họ để râu dài vì không có thời giờ cạo. Tóc cũng dài. Quý vị có thể nhận ngay ra họ là Minh Sư hoặc Thánh nhân khai ngộ. Còn tôi thì chẳng giống họ gì cả."

Cuối cùng, Ngài rời Ấn Ðộ, nhưng dù đi đâu người ta cũng linh cảm Ngài là một đại linh căn. Ngài không hề muốn lôi cuốn tín đồ; nhưng bất kể Ngài trốn chạy bao nhiêu lần, người ta vẫn tiếp tục tìm tới. Cuối cùng, tại Formosa, cũng như những lần xảy ra ở Ấn Ðộ, Nữu Ước, và những nơi khác trên thế giới, một nhóm người tầm đạo đã được thiên nhân dẫn tới và kiếm được Ngài. Lúc bấy giờ, Ngài còn đang sống, không tên tuổi, đàng sau một ngôi chùa nhỏ, ít người biết đến. Lòng thành của họ đã khiến Ngài cảm động và nhận thấy mình không thể nào tránh khỏi sứ mệnh của đời Ngài. Những người thành tâm cầu đạo này đã xin thọ pháp và cuối cùng đã được Thanh Hải Vô Thượng Sư ban cho, và vì vậy bắt đầu cuộc đời của một Minh Sư ngoài công chúng.

Dù sứ mệnh ưu tiên của Ngài là về tu hành, Ngài vẫn giúp đỡ những vật chất cần yếu cho những người cần thiết, mỗi khi làm được. Kết quả, trong những năm gần đây, Ngài đã nhận được một số phần thưởng về lòng nhân đạo của Ngài, đã giúp đỡ hàng triệu người trên khắp thế giới đang đương đầu với thiên tai, nghèo khó và bệnh hoạn. Cho đến nay, giải thưởng đáng chú ý nhất là giải Nhà Lãnh Ðạo Tâm Linh Thế Giới 1994, đã được Thống Ðốc của sáu tiểu bang Hoa Hỳ trao tặng (Illinois, Iowa, Wisconsin, Kansas, Missouri và Minnesota) về sự trợ giúp quảng đại của Ngài sau trận lụt sông Mississippi năm 1993. Ða số những trợ giúp khác không được ghi nhận vì khi làm không đi qua các chính phủ.

Lòng từ bi không phân biệt, cũng như sự kiên nhẫn, cương quyết và bền chí mà Ngài đã biểu lộ trong suốt cuộc đời, là những phẩm tính quan trọng cho tất cả những ai khao khát tu hành. Ðây cũng là những phẩm tính mà những bậc Ðại Sư trong quá khứ đã dạy và làm gương, như Chúa Giê Su, Phật Thích Ca, Krishna, Lão Tử, Mohammed, Guru Nanak, v.v... Dù đời sống của mỗi vị Minh Sư có khác, con đường đạo của họ đã và đang luôn luôn là một. Ðây là con đường thiền quán Âm Thanh và Ánh Sáng thiên đàng. Thanh Hải Vô Thượng Sư gọi là Pháp Môn Quán Âm, vì Ngài thuyết pháp đầu tiên tại Formosa. Quán Âm, tiếng Trung Hoa có nghĩa là quan sát Giòng Âm Lưu nội tại.
Giòng Âm Lưu hay Âm Thanh nguyên thủy này có bản tính siêu việt và vì thế mà nghe được trong yên lặng. Ðệ tử của Chúa Giê Su gọi nó là "Thánh Từ" hoặc "Ngôi Lời" (lấy từ tiếng Hy Lạp "Logos", nghĩa là âm thanh). "Khởi đầu là Ngôi Lời, Ngôi Lời cùng với Thượng Ðế và Ngôi Lời là Thượng Ðế." Sau khi Phật Thích Ca đắc đạo, Ngài cũng nói đến Âm Thanh này, gọi nó là "tiếng trống vô tử". Krishna so sánh Ngài với "âm thanh trong không khí". Mohammed nhận biết Âm Thanh này trong hang động tại Gare-Hira, khi Ngài thể nghiệm thấy tổng thiên thần Gabriel; và Lão Tử miêu tả Ðạo là "Tiếng Vĩ Ðại".

Ánh Sáng tâm linh cũng thể hiện một khía cạnh của sự Hiện Hữu Thiêng Liêng. Do đó các vị Ðại Sư truyền cả Ánh Sáng lẫn Âm Thanh siêu việt, như Thanh Hải Vô Thượng Sư giải thích: "Chúng ta giao tiếp với Thánh Linh này, là hiện thân của Ánh Sáng và Chấn Ðộng Lực thiêng liêng, và bằng cách đó, chúng ta biết được Thượng Ðế. Thật ra, nó không hẳn là một phương pháp, mà là lực lượng của Minh Sư. Nếu quý vị có lực này thì có thể truyền nó được. Ðây là một pháp siêu việt, mà ngôn ngữ không thể diễn đạt được. Dù có người tả nó cho quý vị nghe, quý vị cũng không nhận được Ánh Sáng và Chấn Ðộng này, sự hòa bình và trí huệ bên trong. Tất cả đều được truyền trong im lặng, và quý vị sẽ gặp những vị Minh Sư ngày xưa như Chúa Giê Su hoặc Ðức Phật. Quý vị sẽ nhận được tất cả những gì cần thiết để theo bước chân các Ngài, và từ từ, quý vị sẽ trở nên giống như Chúa và đồng một thể với Thượng Ðế."
Trong gần mười năm, thông điệp cổ xưa về môn thiền Quán Âm này đã lan tràn tới nhiều quốc gia trên thế giới. Những bài thuyết pháp và những buổi nói chuyện thân mật của Thanh Hải Vô Thượng Sư đã được ghi lại thành sách, băng thâu âm, thâu hình với nhiều ngôn ngữ, và hàng trăm ngàn người thuộc mọi tín ngưỡng đã được truyền pháp. Thanh Hải Vô Thượng Sư nhận truyền Tâm Ấn cho tất cả những ai thành tâm cầu đạo. Những buổi thuyết pháp ngoài công chúng, cũng như truyền Tâm Ấn, luôn luôn miễn phí. Những người cầu đạo phải đồng ý suốt đời gìn giữ đạo đức căn bản, kể cả việc trường chay có sữa hoặc không sữa. Ngài đài thọ cho sứ mệnh của Ngài với những nguồn lợi từ việc bán tranh ảnh nghệ thuật màu sắc, y phục thời trang thanh nhã và những kiểu nữ trang mỹ miều. Tất cả đã được triển lãm một cách quốc tế và được ca ngợi.

Tốc độ làm việc nhanh chóng của Thanh Hải Vô Thượng Sư trong sứ mệnh hy sinh vô cùng quan trọng này hãy còn tiếp tục tới ngày nay và nhờ hồng ân của Thượng Ðế, sẽ tiếp tục dài lâu trong tương lai. Công việc của Ngài sẽ giúp cho nhiều chúng sinh có cơ hội câu thông với một vị Minh Sư hoàn toàn khai ngộ và cao quý nhất. Ngài thường nói rằng sự câu thông này có lẽ triệu năm mới có một lần, vì vậy đương nhiên, Ngài tiếp nhận tất cả những ai cảm thấy thời điểm của họ cuối cùng đã đến.