PDA

View Full Version : T - Tại Sao Lại Là Công Giáo?



Dan Lee
02-25-2010, 11:25 PM
TẠI SAO LẠI LÀ CÔNG GIÁO?


1.MẠC KHẢI

Có rất nhiều lý do để trở thành một tín hữu Công giáo và có bao nhiêu người,thì có bấy nhiêu sự pha trộn các động cơ trở thành người Công giáo.Với tôi,tuy vậy, lý do đầu tiên hiện ra trong tâm trí tôi ấy là Đạo Công giáo là tôn giáo duy nhất trên toàn thế giới có một bước tiếp cận hợp lý và kiên định vấn đề Mạc Khải.
Tôn giáo đích thực,nếu hiện hữu,phải là tự nhiên hoặc được mạc khải. Ngoài các ý tưởng ,lý trí và trực giác con người có thể bổ sung một lượng thông tin nhất định thuộc tôn giáo: sự việc Thiên Chúa hiện hữu; không thể hồ nghi về sự tạo dựng; sự bất toàn và lệ thuộc của con người; bổn phận công bằng phải tôn vinh Đấng Tạo Hoá; và cả ý nghĩa của việc con người ao ước được bất tử và khả năng cảm nhận một cái gì đó lớn lao hơn chính nó. Đó là đạo tự nhiên. Điều nầy gần như trừ phổ quát qua lịch sử,cho dù thường xuyên pha trộn với những ý tưởng đến từ những nguồn khác vốn có thể không ít thì nhiều sai lạc.
Con đường duy nhất để vượt qua tình trạng tôn giáo sơ khai nầy, là Thiên Chúa mạc khải chính Người cho con người. Nếu Thiên Chúa đã làm như vậy (hoặc sẽ làm như vậy trong tương lai), thì điều nầy sẽ đòi hỏi sự nhất trí,do uy quyền của chính Thiên Chúa. Rút cuộc, Thiên Chúa là Đấng duy nhất biết trọn vẹn cả về chính Người hoặc các công trình của Người. Vì thế, đòi buộc đầu tiên để chấp nhận một tôn giáo gọi là được mạc khải, là phải đưa ra được bằng chứng đầy ý nghĩa và có sức thuyết phục rằng thực tế là nó được mạc khải, rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể là tác giả của nó. Như vậy đã đủ chưa? – Một số người sẽ lập luận rằng một tình siêu phàm tín lý nhất định sẽ là một dấu chỉ mạnh mẽ,nhưng một cách rõ ràng lý lẽ mạnh mẽ nhất phải là mạc khải nói tới đây được chứng thực bằng những dấu hiệu và những điều lạ lùng mà chỉ có Thiên Chúa mới làm được.
Trong các tôn giáo được đưa ra suốt nhiều thế kỷ, duy nhất hai tôn giáo có những khẳng định đáng tin rằng mạc khải mà họ dựa trên đó, có đi kèm những dấu hiệu và những điều lạ lùnng như thế : Do Thái giáo và Kitô giáo. Một ít tôn giáo khác cũng tuyên bố tương tự và những tôn giáo chỉ nói đến kinh nghiệm được cho là của một hoặc hai người. Các tôn giáo ngụ ý là được mạc khải, mà không đưa ra một tuyên bố như vậy,thì thất bại ngay cuộc kiểm tra đầu tiên về tính chất xác thực và các tôn giáo thiếu chủ yếu lời tuyên bố nầy – bằng việc hạn chế ‘bằng chứng” về sự dính dự của Thiên Chúa cho một số nhỏ người – thì không thể đưa ra một lý lẽ đáng tin về tính chất xác thực của riêng chúng. Nếu mạc khải, và những dấu chỉ cũng như những điều lạ chứng thực cho nó vừa không rõ ràng lại vừa không công khai, thì những khẳng định của nó không có giá trị.
Hiện nay sự khác biệt giữa một người theo Do Thái giáo đang tin và một Kitô hữu đang tin, là người Kitô hữu nầy chấp nhận một số dấu chỉ về mạc khải công khai,mà người theo đạo Do Thái nầy bác bỏ, chủ yếu ( chứ không phải là duy nhất) là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà các Kitô hữu tin rằng đó cũng là sự hoàn thành tất cả những gì Thiên Chúa đã hứa cho Israel. Ít nhất phải rành mạch rằng bằng chứng về Mạc Khải về sau qua Chúa Giêsu Kitô cũng vững chắc và công khai như bằng chứng về Mạc Khải ban đầu của Thiên Chúa cho người Do Thái. Thiếu xu hướng nầy, sẽ không có căn bản hợp lý để chấp nhận cái có trước [ mạc khải cho người Do Thái.ND] và bác bỏ cái đến sau [ mạc khải qua Chúa Giêsu Kitô.ND]. Vì thế lập trường hợp lý hơn là nhìn Kitô giáo là như vững mạnh hơn – hoặc hoàn hảo trịn vẹn hơn – khẳng định tốt nhất những gì mạc Khải đem đến.
Nhưng ngay trong các Kitô hữu cũng có những khác biệt quan trọng trong vấn đề Mạc Khải. Tất cả các nhóm Kitô giáo đều nhất trí rằng căn nguyên Mạc Khải của họ, Chúa Giêsu Kitô, đã từ lâu về với Chúa Cha, dù đa số các nhóm Kitô giáo không đưa ra được các biện pháp để bảo đảm với các thế hệ tương lai, rằng họ cũng sẽ được đón nhận chính Mạc Khải mà thế hệ đầu tiên đã nhận được. Như ĐHY John Henry Newman đã chỉ rõ, đây là một thiếu sót ghê gớm. ĐHY Newman lưu ý : Thật không thể tưởng tượng được rằng có một sự khác biệt bao la dường ấy giữa thế hệ Kitô hữu đầu tiên và chính chúng ta, vì họ đã có một người hướng đạo sống động không thể sai lầm,trong khi chúng ta lại không có. Điều nầy chẳng khác nào một hệ thống tôn giáo thứ ba,một tôn giáo khác biệt với những gì được mạc khải trng Chúa Kitô,đến nỗi nó chỉ có thể được coi như một phần của Giao ước với Thiên Chúa.
Cuối cùng, chỉ duy nhất Giáo Hội Công giáo đưa ra được một tiếp cận rõ ràng và kiên định cho vấn đề giữ lại trọn vẹn tính chất tinh tuyền và hoàn hảo trọn vẹn Mạc Khải Thiên Chúa sau sự kiện ấy. Bởi vì Mạc Khải lệ thuộc vào quyền bính của Thuên Chúa mạc khải, tín hữu Công giáo hiểu rằng Thiên Chúa, Đấng hoàn tất và thực hiện trọn vẹn Mạc Khải của Người qua Chúa Giêsu Kitô, cũng phải đã xây dựng một nguyên lý quyền bính qua đó sự thật về Mạc Khải ấy có thể được bảo đảm sau khi Chúa Kitô hiàn tất công trình của Người trên thế gian. Như đã lưu ý khi mở đầu, quyền bính Thiên Chúa là nguyên tắc chủ đạo của Mạc khải đích thực. Giáo Hội Công giáo khẳng định rằng một quyền bính như thế riếp tục tồn tại nơi Thánh Phêrô và nơi các Đấng kế vị Ngài – một bảo chứng do chính Chúa Kitô rằng những gì chúng ta thấu hiểu về Mạc Khải,sẽ mãi vẫn có căn cứ và thẩm quyền qua thời gian.
Một ai đó,dĩ nhiên, có thể đưa ra những lý lẽ theo hoặc chống lại chân lý của niềm tin nầy. Ý kiến của tôi ở đây là bất cứ cái gì ít ruồng bỏ khẳng định của Kitô giáo về Mạc Khải đặc biệt, lãng phí nó trong sự lầm lẫn vô tận của con người, làm cho nó nên vô dụng. Ngay sự tin tưởng của Tin Lành vào các Sách Thánh cũng không cung cấp được hướng dẫn giải thích các Sách nầy, như việc đạo Tin Lành không ngừng chia ra thành nhiều mảnh làm chứng. Bởi vì một nguyên lý quyền bính là quan trọng đối với Mạc Khải và vì duy nhất Giáo Hội Công giáo đưa ra một khẳng định sáng tỏ và nhất quán cho một quyền bính như thế, một điều gì đó rất quan trọng tiếp theo sau. Những gì tiếp theo sau không phải là việc Giáo Hội Công giáo phải đúbg, nhưng là Giáo Hội Công giáo là đạo duy nhất đưa ra được một lời khẳng định đáng tin.
Đó là đặc điểm của Giáo Hội như là người giải thích có lý duy nhất về các nguyên lý cần thiết của Mạc Khải đích thực,là nguyên nhân giúp cho nó nỗi bật lên giữa tất cả mọi tôn giáo khác. Kết luận không thể khác được rất đơn giản : Nếu bất cứ tôn giáo đang hiện hữu nào đại diện trọn vẹn Mạc Khải, thì chỉ có thể là Giáo Hội Công giáo. Ngay khi một người nào nhận ra được rằng Mạc Khải Kitô giáo là xác thực, thì con đường tới chân lý không kết thúc cho tới khi đến được Roma.

2. SỰ TỰ DO

Giữa những vấn đề lớn lao được Kitô giáo đề cập đến, hai vấn đề thường đánh động mỗi người chúng ta hơn chỉ là lý thuyết suông. Đó là các vấn đề đau khổ và tự do, vốn đụng chạm đến bản thân chúng ta. Nhiều người còn đặt đau khổ lên hàng đầu. Xét cho cùng, đau khổ là một điều bí ẩn sâu xa, và theo định nghĩa, đó là bí ẩn gây đau khổ buồn phiền cho đời sống con người.Nhưng tôi chuộng xem xét vấn đề tự do trước tiên.
Cũng cần phải báo trước một điều. Tôi không ao ước đề tựa của loạt bài nầy (“Tại sao lại là Công Giáo”) để gây ấn tượng rằng tôi phủ nhận các Kitô hữu ngoài Công giáo sẽ rất hay chia sẻ những cái nhìn sâu sắc đặc trưng cho đức tin Công giáo. Có rất nhiều điều quan trọng cha rẽ các tín hữu Công giáo khỏi các Kitô hữu khác, khởi đầu với việc vận dụng Mạc Khải, như đã thảo luận ở đề tài thứ nhất của loạt bài nầy. Tuy nhiên,trong các lãnh vực trong đó các Kitô hữu khác không ( hoặc chưa) đi trệch thông điệp Kitô giáo nguyên thủy, thì họ chia sẻ chân lý Công giáo. Điều đó rất đúng khi nói về sự tự do.
Với Kitô hữu, tự do không chỉ là vắng bóng sự kiềm chế, dù là bên ngoài hoặc bên trong. Nhiều trường phái tư tưởng nỗi tiếng khác nhau – không có trường phái nào trong đó là Kitô giáo – đồng hoá tư do với không có gò bó ràng buộc bên ngoài,như là những bó buộc chính trị hoặc kinh tế hoặc cả những kìm hãm về văn hoá. Những người khác lại đồng hoá tự do với sự không có những kìm hãm nội tâm,như là những cưỡng bách nhiều loại (một cái nhìn đúng đắn) hoạc sự ngu dốt ( một cái nhìn bán hợp ly hoặc tội lỗi , một cái nhìn không đúng, trừ khi là tội ngoài mong muốn).Nhưng với bất cứ ai đã suy nghĩ đủ thấu đáo về vấn đề nầy, tự do chủ yếu chính là sức mạnh tinh thần để tự hoàn thiện mình.
Đây là một chân lý tự nhiên hoặc có tính triết lý,nhưng đó là một trong những chân lý tự nhiên mà đa số trong chúng ta sẽ không đạt được, nếu không có sự trợ giúp của Mạc Khải. Mặc dù vậy, một khi ai đó nắm bắt được ý tưởng nầy, dường như thật ngốc nghếch khi nhìn loại tự do sâu xa nhất ấy, như một cái gì kém hơn là khả năng hướng chính mình tới cùng đích thật sự của chúng ta. Tới một chừng mức mà chúng ta ở một mức độ nầy nọ không còn khả năng làm như thế, đó là vì chúng ta đã biến thành nô lệ cho một điều gì đó. Tớ một chừng mức mà chúng ta có thể tự hoàn thiện mình trong con đường nầy, chúng ta đang được hưởng tự do. Dĩ nhiên, điều nầy bỏ lững không có câu đáp cho vấn đề những cùng đích thật sự của chúng ta sẽ là gì.
Cắt ngang cả công việc lao động trí tuệ lẫn việc huyện thuyên về triết học, Thánh Phaolô cho chúng ta một khoá học ngắn về tự do dựa trên Mạc Khải Kitô giáo, trong một đoạn mà chúng ta có thể dùng suy niệm cả cuộc đời:
“Anh em không biết sao? Khi đem thân làm nô lệ để vâng phục ai,thì anh em là nô lệ của người mà anh em vâng phục: hoặc làm nô lệ tội lỗi,thì sẽ phải chết; hoặc làm nô lệ phục vụ Thiên Chúa,thì sẽ được nên công chính. Tạ ơn Thiên Chúa! Trước kia anh em làm nô lệ cho tội lỗi,nhưng nay anh em đã hết lòng vâng theo quy luật đạo lý đã đào tạo anh em. Anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi, để trở thành nô lệ sự công chính. Ấy là tôi nói theo kiểu người phàm,hợp với tầm hiểu biết yếu kém của anh em. Trước đây anh em đã dùng chi thể của mình,mà làm những điều ô uế và những sự vô luân,để trở thành vô luân, thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính,để trở nên thánh thiện.
Khi còn là nô lệ cho tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công chính.Bấy giờ anh em thu được kết quả nào,bởi đã làm những việc mà ngày nay anh em xấu hổ? Vì rút cuộc những việc ấy đưa đến chỗ chết. Nhưng giờ đây anh em đã được giải thoát khỏi ách nô lệ,mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa,anh em thu được kết qủa là được trở nên thánh thiện và vì thế sẽ được sống đời đời. Thật vậy,lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta,là cái chết;còn ân huệ của Thiên Chúa ban không,là sự sống đời đời trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 6, 16 – 23)
Sự việc Thánh Phaolô nói về hai loại đời sống nô lệ ở đây không nên làm chúng ta lẫn lộn một giây phút nào. Nô lệ cho tội lỗi dẫn đến sự chết, nhưng việc chúng ta tự nguyện vâng phục Thiên Chúa lại dẫn đến sự sống đời đời qua Chúa Giêsu Kitô. Vi thế Chúa Giêsu đã nói với những người Do Thái bắt đầu tin vào Người :” Nếu các người tiếp tục ở trong lời Ta, thì các ngươi đích thực là môn đệ Ta và các ngươi sẽ biết chân lý và chân lý ấy sẽ giải phóng các ngươi” (Ga 8, 31 – 32)
Một cách tiêu biểu chúng ta sống dưới ảo tưởng rằng chúng ta được tự do nhất,khi chúng ta đã ‘chọn’ lam điều gì đó xấu. Nhưng nói chung,chúng ta nuông chiều các đam mê của chúng ta vốn chúng ta làm nô lệ cho chúng. nếu chúng ta có nghi ngờ nào đó, thì chỉ một trắc nghiệm đơn sơ thử cắt đứt một thói xấu phải cất chúng đi được.
Nhưng khi chúng ta quay về Chúa Kitô, chúng ta được chia sẻ sự sống của Chúa Kitô nhờ đó trí khôn chúng ta được soi sáng và ý chí chúng ta được củng cố. Chính ân sủng nầy – và chỉ ân sủng nầy mà thôi – giúp chúng ta hoàn thiện chính mình, trở nên hoàn thiện như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện ( x. Mt 5,48). Vì cùng đích hoặc mục tiêu của bất cứ thứ gì cũng đơn thuần là sự hoàn thiện riêng của nó, với chúng ta điều đó có nghĩa là sự sống trong Chúa Kitô – sự hoàn thiện trong cuộc sống đời nầy và được chiêm ngắm Thiên Chúa vĩnh viễn đời sau. Hiện nay,chúng ta phải hài lòng với những sự việc về tự do – một lý do mạnh mẽ và cá nhân để trở thành Người Công giáo.

3. CHỊU ĐAU KHỔ

Điều bí ẩn xa xưa nhất và gây đau khổ nhất của cuộc sống con người, là bí ẩn về chịu đau khổ. Ở mọi thời và mọi nơi, con người đi tìm một câu trả lời. Ngoài trừ Mạc Khải Do Thái giáo và Kitô giáo,con người đã không có gì nhiều để nói. Sự chịu đựng dũng cảm của phái khắc kỷ, việc tìm kiếm khoái lạc của phái Epicure (hưởng lạc), sự phủ định của Phật giáo, cách giải qiyết khoái lạc và đau khổ của thuyết thực lợi : Dường như chẳng một ai có được gì hữu ích hay ho để nói về bí ẩn của việc chịu đau khổ, ngoài trừ Thiên Chúa.
Hai bài học được dạy về chịu đau khổ trong Cựu Ước. Bài học thứ nhất là bài học lớn lao trong Sáng Thế Ký liên quan đến các hậu quả của việc Sa Ngã. Ở đây chúng ta học biết rằng đau khổ là kết quả của tội lỗi, nó cắt đứt tạo dựng khỏi Đấng Tạo Hoá và gây nên xáo trộn mọi trật tự. Bài học thứ hai đến qua đỉnh cao của sự khôn ngoan Cựu Ước đạ được trong sách Ông Gióp. Ở đây chúng ta được dạy rằng chúng ta không thể bắt đầu hiểu ý nghĩa của đau khổ trên chính đau khổ của chính chúng ta. Trên thực tế, chúng ta hết mức điên rồ khi, vì cho là mình hiểu đau khổ, chúng ta nghĩ ramột giả thuyết con người nào đó để giải thích đau khổ hoặc, có lẽ chúng ta có ý thử thách sự công bằng trong kế hoạch của Thiên Chúa.
“ Ngươi ở đâu – Thiên Chúa hỏi ông gióp – khi Ta đặt nền móng cho trái đất? Hãy nói cho Ta nghe, nếu người hiểu biết. Ai ấn định các số đo cho nó – hẳn ngươi buết rõ!” (G 38, 4 – 5). Câu trả lời của Chúa cho những kêu ca phàn nàn của ông Gióp trong chương 38 đến chương 41 truyền đạt mọt bài học sống còn mà ông Gióp không chậm trễ nắm bắt được :”Tôi đã không nói ra những gì tôi không hiểu,những điều quá tuyệt diệu đối với tôi, mà tôi đã không biết” (G 42,3).
Sự hiểu biết sóng đôi nầy – rằng đau khổ bén rễ trong tội lỗi và rằng chúng ta không thể từ chính đau khổ riêng mình mà hiểu được giả định nó vận hành thế nào – chuẩn bị cho mạc khải sau nầy của Chúa Kitô về tình yêu của Chúa Cha. Vì trong Chúa Kitô chúng ta thấy chính Thiên Chúa mặc lấy bản thề con người nà chịu đau khổ như một lễ vật dâng đối với tội lỗi. Chịu đau khổ,vì thế, cùng lúc vừa là hậu quả của tội tỗi,vừa là phương tiện Thiên Chúa đã gắn vào công trình Tạo Dựng để chiến thắng tội tỗi và mọi tác động của nó. Sự công bình của Thiên Chúa và lòng nhân ái xót thương của Người luôn chỉ là một. Trong Chúa Kitộ, đau khổ trở thành phương tiện sửa chữa vết rạn nứt giữa thiên chúa và con người, đem con người trở về kết hợp lại với Thiên Chúa. Tóm lại, đau khổ mang tính chất cứu chuộc.
Giáo Hội Công giáo dạy có cả hai khía cạnh tự nhiên và siêu nhiên đối với tính chất cứu chuộc của đau khổ con người. Theo mức độ tự nhiên, đau khổ khá rõ ràng là một ông thầy tốt nhất có thể có về những hạn chế của chúng ta. Qua nó,chúng ta học biết được rằng chúng ta không ở trong sự kiểm soát của những điều quan trọng nhất trong cuộc đời và vì thế, nếu có được khả năng lựa chọn để thất vọng, chúng ta phải lệ thuộc vào Một Người Khác. Về mặt tự nhiên, chúng ta có thể có ý niệm lờ mờ rằng đau khổ có một giá trị tích cực giúp chúng at tăng thêm hiểu biết về những gì chúng ta đang là và những gì chúng ta đang không phải, khắc sâu vào tâm trí một sự khôn ngoan căn bản nhất định.
Về mức độ siêu nhiên, sự hiểu biết căn bản nầy được làm sáng tỏ và nâng lên trong ba cách phân biệt và bổ khuyết cho nhau. Một là, chúng ta học hỏi được qua Mạc Khải căn tính của Người Kia nầy, mà chúng ta phải lệ thuộc vào. Hai là, chúng ta đặc biệt hịc được rằng mín ợ vô tận tội tỗi và các hậu quả của nó trong đau khổ con người, rút cuộc chỉ có thể chiến thắng nhờ vào giá vô tận nhờ chúa Kitổ đã nhận lấy đau khổ vì yêu thương. Ba là, chúng ta học biết rằng đó là một phần trong chương trình của Thiên Chúa mà chúng ta phải hân hoan hoà nhập những đau khổ của riêng chúng ta với Chúa Kitô ,để,như lời Thánh Phaolô, “hoàn tất những gì còn thiếu nơi những nỗi ưu phiền của Chúa Kitô vì nhiệm thể người,tức là Giáo Hội “ (Cl 1,24)
Sự hiểu biết Công giáo nầy về đau khổ không chỉ là một câu trả lời độc nhất. Nó là câu trả lời duy nhất có ý nghĩa hiện nay vì nó làm cho ăn khớp với một khuôn mẫu cố kết của sự sống con người. Tất cả mọi Kitô hữu chưa đánh mất khái niệm về tội lỗi và sự cứu chuộc, thì hiểu được vai trò cứu độ của Chúa Kitô. Nhưng nhiều tổ chức Kitô giáo đã đánh mất sự hiểu biết rằng chúng ta là những người được hưởng đau khổ của Chúa Kitô nhưng còn hơn cả là thụ động. Lần nữa, giáo lý Công giáo về đau khổ bao gồm một yếu tố hết sức tích cực. nhờ thánh ý độ lượng của Chúa Cha, mà chúng ta được dự phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô, bằng cách hoà nhập đau khổ của chúng ta vào đau khổ của Người.
Đó tất nhiên phải nên mẫu gương cho cuộc sống chúng ta, bằng việc không ngừng dâng cuộc sống chúng ta cho Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Nhưng các tín hữu Công giáo có cơ hội để làm điều đó trong một cách đặc biệt trong mỗi Thánh Lễ, khi qua hành động của linh mục, hy lễ trên đồi Can-vê được tái diễn kần nữa trong một cách thức không đổ máu. Vì thế chúng ta dự phần trịn vẹn trong Phụng Vụ Thánh chính là khi chúng ta hoà nhập bản thân chúng ta với Con Chúa trong lễ dâng hy tế của ngungười lên Chúa Cha. Trong Mình Thánh, là sự nếm trước cuục sống vĩnh cửu với Thiên Chúa, chúng ta cùng hưởng lần nữa Mình và máu Thánh Chúa Kitô được trao ban tự do. Trong những thời khắc Công giáo thánh thiện nầy, ý nghĩa của đau khổ trở nên rõ rệt: Đau khổ trở thành một sự dự phần tình yêu trong công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô.
Trong số trước (BTGH 164), tác giả -tiến sĩ Jeff Mirus, đã đưa ra một câu hỏi tưởng chừng quá quen thuộc,nhưng khiến chúng ta giật mình: TẠI SAO LẠI LÀ CÔNG GIÁO! Đa số trong chúng ta coi việc mình là người Công giáo như một sự đương nhiên,khi sinh ra,được rửa tội và lớn lên trong gia đình Công giáo,được hít thở bầu khí đạo đức của gia đình và giáo xứ, được giáo dục đức tin Kitô giáo. Nhưng đức tin Công giáo không phải là một khái niệm, không phải là một giả thuyết hay một chủ nghĩa, mà là những nội dung khiến chúng ta gắn bó ý chí và thực hành, có thể sống chết vì những điều ấy. Tiến sĩ Jeff Mirus đã đưa ra những điều đáng để chúng ta suy nghĩ về lý do tại sao chúng ta là Công giáo. MẠC KHẢI – SỰ TỰ DO – ĐAU KHỔ là những ‘tiêu chuẩn’ đầu tiên tác giả nêu ra.để chúng ta xác định lại đức tin của mình. Trong số nầy, tác giả Jeff Mirus đưa ra tiếp các nội dung giúp chúng ta suy tư và xác định đức tin của mình và có câu trả lồi dứt khoát VÌ SAO LÀ CÔNG GIÁO.

4. PHỤC SINH

Dù bị xếp vào hàng thứ tư trong loạt bài nầy, nhưng chắc chắn Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô cung cấp lý do đầu tiên và rõ ràng nhất cho cả việc chúng ta vừa là một Kitô hữu vưà là một người Công giáo,vì chính sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô, điều làm chứng tối hậu cho chân lý về mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa, mà Người mạc khải và hoàn tất.
Câu hỏi đặt ra : Làm sao chúng ta biết được những giáo huấn của Chúa Kitô là sự thật? Câu trả lời: Bởi vì Chúa đã trỗi dậy từ kẻ chết.
Chính Chúa Kitô đã đưa ra lý lẽ rằng chúng ta phải tin nơi Người,vì những công việc Người đã làm. Những phép lạ Người làm là một bằng chứng rằng Người đến từ Thiên Chúa và vì thế, Lời của Người là sự thật. Quả vậy, khi Người xua đuổi những kẻ cho vay tiền ra khỏi đền thờ, tuyên bố rằng đây là nhà Cha Người, Người đáp lại những kẻ thách thực thẩm quyền của Người bằng việc dẫn họ đến một phép lạ vô cùng to lớn sẽ xảy ra : ”Hãy phá hủy đền thờ nầy và trong 3 ngày Ta sẻ xây nó lại” (Ga 2,19). Trong nhiều chỗ, Kinh Thánh làm sáng tỏ rằng Người đang nói về “đền thờ là thân Thể người” (x.Ga 2,21), nghĩa là chính Sự Phục Sinh từ kẻ chết của Người.
Sự Phục Sinh,vì thế,là đỉnh điểm của tất cả mọi dấu hiệu làm cho quyền bính của Chúa Kitô nên hiệu lực,chân lý của Lời Người giảng dạy, sự đáng tin của thông điệp Người ban bố, thực tế địa vị làm con Thiên Chúa của Người, trong đó Người sẽ hợp nhất tất cả những kẻ theo Người. Nhưng hãy lưu ý rằng có một ý nghĩa kép đối với chứng cứ tuyệt vời nầy. Trước hết, lần nữa, đó là sự bảo đảm của quyền bính Thiên Chúa sau tất cả những lời Chúa Kitô nói và mọi sự Người lập ra. Các tông đồ, các giám mục,các linh mục,các bí tích,Giào Hội : tất cả đều được bảo đảm bằng sự Phục Sinh cho những cơ chế được thiết lập bởi Đấng Duy Nhất, Đấng đã chứng minh là Người đến từ Thiên Chúa. Ý nghĩa vĩ đại đầu tiên nầy,do vậy,là nó bảo đảm trực tiếp hoặc gián tiếp không chỉ cho chân lý những lời của Chúa Kitô,mà còn cả thẩm quyền của Giáo hội, sự được linh ứng của Kinh Thánh và tính chất hiệu quả của toàn bộ trật tự ân sủng.
Nếu các bạn muốn vậy ,thì đó là ý nghĩa vĩ mô của sự Phục Sinh. Nhưng về ý nghĩa vi mô thì sao? Ý nghĩa của sự Phục Sinh trong đó cấu trúc vi mô của mầu nghiệm Kitô giáo,vốn là đời sống cá nhân của riêng tôi, con người của riêng tôi là gì? Thánh phaolô đề cập đến vấn đề nầy một cách đặc trưng khi Ngài khiển trách những ai phủ nhận sự sống lại của kẻ chềt:
“Vì nếu kẻ chết không trỗi dậy,thì Đức Kitô cũng đã không trỗi dậy.Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy,thì lóng tin của anh em thật hảo huyền và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em.Hơn nữa,cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời nầy mà thôi,thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết,mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Adam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô,cũng được Thiên Chúa cho sống” (I Cor 15, 16 – 22)
Nói cách khác, sự Phục Sinh của Chúa Kitô là bảo chứng cho sự sống lại của chính chúng ta, cho chính sự bất tử của mỗi cá nhân chúng ta, không phải như các linh hồn tách rời khỏi xác, mà như những con người trọn vẹn, thân xác và linh hồn kết hợp với Chúa. Một ý niệm mơ hồ về những gì điều đó muốn nói lên,có thể có được bằng việc suy tư về tiến trình lão hoá. Khi chúng ta thêm tuổi, thỉnh thoảng chúng ta nhìn vào gương soi và lấy làm ngạc nhiên. Chúng ta không nghĩ mình lại ‘già’như vậy. Chúng ta cho rằng mình vẫn là mình,như ngày nào vậy,cũng không hẳn là nghĩ mình trẻ trung, song cũng như chính mình. Chúng ta thấy điều đó gây choáng váng lạ lùng, thậm chí hơi làm ta bối rối, rằng thân thể nầy có thể phản bội qua thay đổi,trưởng thành và phân hủy, cái bản thân,cái tôi nầy mà tôi thường xuyên hiểu mình phải trở nên.
Trong sự phục sinh của Chúa Kitô,’ cái tôi cố định nầy” được bảo đảm hưởng sự tròn đầy của cuộc sống mãi mãi. Được nâng lên,được thanh luyện khỏi tội lỗi,được làm cho hoàn thiện, được sống trong tình yêu vô biên – nhưng về bản chất vẫn luôn là chính tôi . Không một triết lý hoặc tôn giáo nào khác có thể cung cấp cho nhiều như thế hoặc, để diễn đạt cách khác, không có triết lý hay tôn giáo nào khác nắm giữ một cách hoàn hảo những gì chúng ta hiểu theo bản năng về chính chúng ta, về việc chúng ta khác với phần còn lại của thiên nhiên, về tính chất cố định, về bản chất và vinh quang, về tiềm năng của con người chúng ta. Lý do thật đơn sơ, vì không có triết gia hoặc nhà thần học nào khác luôn nói về sự sống lại và khi trở thành Kitô hữu hoặc tín hữu Công giáo, thì mọi sự khác biệt phát xuất từ sự việc lịch sử duy nhất,một mình,cụ thể và kỳ diệu.

5. SỰ TRỌN LÀNH

Bất cứ ai có khát vọng nên người trọn lành,phải nghiên cứu tỉ mỉ đạo Công giáo một cách nghiêm túc. Trong một số cách thức nào đó, thì đó là một sự mở rộng con số thứ hai trong loạt nói về tự do cá nhân, vì tự do xét về bản chất là khả năng theo đuổi đến cùng cùng đích của riêng mỗi người, vốn cũng chính là con đường trọn lành. Nhưng ở đây chúng ta tiếp cận với những điều từ quan điểm của chính sự trọn lành và chúng ta khám phá ra rằng không có tôn giáo hay hệ thống triết học nào khác giới thiệu một sự hiểu biết về bản chất con người và các phương tiện nhờ đó bản chất con người có thể được nên trọn lành,hoàn thiện đến vậy . Tín hữu Công giáo gọi sự hoàn thiện nầy là ‘sự thánh thiện”,nhưng dù là tên gì đi nữa,thì nó đáp ứng một nhu cầu sâu xa của con người, là được chiếm hữu trọn vẹn chính bản thân,sao cho nó có thể hướng bản thân về Thiên Chúa. Bản chất của Sự Lành là một vấn đề muôn thuở của con người, chiếm trọn sự chú tâm của mọi truyền thống triết lý và tôn giáo. Kitô giáo có được sự hiểu biết đặc biệt vững chắc về Sự Lành liên hệ với toàn con người, không chỉ vì Kitô giáo do Thiên Chúa mạc khải, mà là vì nó dựa vào và làm cho phong phú cả sự khôn ngoan tinh thần của đạo Do Thái,lẫn sự khôn ngoan tự nhiên đáng kể của triết học kinh điển. Tất cả ba truyền thống hiểu rằng, rút cuộc, đó là sự hội nhập thích đáng của mọi khả năng con người, cho phép một con người theo đuổi đến cùng Sự Lành. Nghĩa là Sự Lành đối với con người phải nhất thiết được bén rễ trong sự toàn vẹn. Kitô giáo cũng cung cấp sự hiễu biết toàn diện nhất về mục đích mà hướng về nó con người phải hết sức cố gắng phấn đấu, cụ thể là chính Thiên Chúa.
Phấn đấu nên trọn lành là một bản năng tự nhiên của con người. Tất cả chúng ta đều không chịu được sự hèn kém và những hạn chế của chúng ta. Hình thức hạnh phúc sâu xa nhất xuất phát từ sự hội nhập thành công các khả năng và tài năng riêng của chúng ta, để hướng chúng vào trong một con đường thống nhất hướng về các mục đích riêng của chúng ta. Sự hài lòng khi làm điều đó vượt xa những thú vui vật chất đơn thuần, như hầu hết mọi triết gia và nhà lãnh đạo tin thần đã quả quyết, bất kể nhiều sai lầm khác,mà các hệ thống [triết lý và hướng dẫn tinh thần] của họ có thể tiêu biểu như thế nào. Đạo Công giáo cũng công nhận khẳng định nầy, sau đó nhìn nhận rằng con người là một hữu thể hỗn hợp giữa thân xác và linh hồn.
Truyền thống Do Thái giáo – Kitô giáo gần như là độc nhất trong các tôn giáo trên thế giới, nhắc đi nhắc lại rằng chúng ta phục vụ Thiên Chúa bằng cách sống chính trực, rằng cố gắng làm điều thiện là chìa khoá để vừa bắt chước Thiên Chúa,vừa làm cho Thiên Chúa vui lòng. Điều đó tóm tắt trong giới răn yêu thương Kitô giáo.Vì vậy mà trong Kitô giáo, cả những gì thuộc tâm linh lẫn những gì thuộc đạo đức được nối kết nên một. Chúng càng được hợp nhất trọn vẹn hơn trong Công giáo, khi Giáo Hội nhắc đi nhắc lại rằng chúng ta nên thánh không phải bằng ân sủng mà thôi, mà còn bằng sự hợp tác liên tục với ân sủng trong nỗ lực hiểu biết và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Mặc dù thánh ý Thiên Chúa thường chỉ được học biết dần dà, nhưng sẽ thích hợp nhất ở đây khi nắm bắt được bản chất của thánh ý Chúa trong tương quan với sự thôi thúc của con người chủ yếu đối với thảo luận nầy, bằng việc sử dụng một công thức mà chúng ta đã thầy trước đây :” Các người phải nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).
Nay toàn bộ hoạt động cứu độ Công giáo đều được hướng về mục tiêu nầy. Qua Kinh Thánh và Thành Truyền, qua sự cai quản và các bí tích, một mình Giáo Hội Công Giáo giảng dạy, điều khiển và thánh hoá để làm cho con người nên hoàn thiện qua sự kết hợp với Thiên Chúa. Sự cao cả của giáo lý Giáo Hội và những công việc bác ái lớn lao của Giáo Hội chứng thực giống như nhau sức mạnh làm cho hoàn thiện của Giáo Hội trên tinh thần và tâm hồn

Mỗi bí tích cung cấp một ơn hoàn thiện đặc biệt: Bí tích rửa tội,khai tâm chúng ta vào đời sống Chúa Kitô và sát nhập chúng ta vào trong Hội Thánh Người; Bí tích Thống Hối phục hồi chúng ta khi chúng ta sa ngã; Bí Tích Thêm Sức truyền cho chúng ta những ơng của Chúa Thánh Linh; Bí tích Thánh Thể biến đổi chúng ta trong chính Chúa Kitô; Bí tích Hôn Nhân thánh hoá gia đình, bảo đảm các thế hệ tương lai; Bí Tích Truyền Chức Thánh nuôi dưỡng mọi dân của Chúa về mặt thiêng liêng và Bí tích xức dầu bệnh nhân làm tăng sức mạnh của chúng ta cho giai đoạn cuốu cuộc hành trình vế với Chúa.
Cũng tương tự, mỗi giáo lý và lời khuyên bảo thiêng liêng được cấu trúc để soi sáng tâm hồn và tinh thần chúng ta, giúp chúng ta chiến đấu với những khuyết điểm của mình, tin cậy nơi Chúa,ngày lại ngày học hỏi cách yêu thương. Dù chúng ta sa ngã bao lần, thì Giáo Hội nâng chúng ta dậy cao hơn một chút, vì Giáo Hội hiểu biết bản chất con người, Giáo Hội tha thứ và có khả năng chăm sóc, dẫn dắt và chỉ đường. Vì vậy mà tín hữu Công giáo có thể đạt đến trọn lành dễ dàng hơn những người khác, sự trọn lành ngay lập tức ghi dấu sự toàn vẹn độc nhất của con người và bảo đảm cho nó được hạnh phúc lớn lao nhất.
Bất cứ ai nghi ngờ Giáo Hội Công giáo có sự hiểu biết lớn lao nhất về sự hoàn thiện và khả năng lớn lao nhất để hoàn thành sự hoàn thiện ấy trong con cái mình, thì chỉ cần nghiên cứu cuộc đời các vị thánh. Trong bất cứ thời nào,những người nam và nữ phi thường nầy chứng minh cho thấy các đỉnh cao cả về sự thành toàn con người lẫn hạnh phúc con người. Qiuả thật, sự thánh thiện của nhiều thành viên Giáo hội là một lý do to lớn cho sự đáng tin đối với Giáo hội. Cuối cùng, chỉ duy nhất Đạo Công giáo có thể thoả mãn đầy đủ sự khát khao hoàn thiện bẩm sinh qua đó Chúa Kitô,nay được nâng lên, sẽ kéo mọi người lên với Người (x.Ga 12,32)

6. THÁNH TRUYỀN

Đây không phải chủ yếu là một luận văn về Thánh Truyền,vốn là đề tài biện giáo xứng đáng khác. Thay vì thế, tôi ghi nhớ ở đây quan điểm độc nhất về bản tính con người của Giáo Hội Công Giáo, một cái nhìn sâu sắc đến nỗi một chiều kích đặc biệt của nó nay bắt đầu được nắm bắt trong thế kỷ 21. Chiều kích ấy là vai trò của truyền thống trong việc định nghĩa việc làm người có nghĩa là gì. Nói theo cách tích cực, cái nhìn thấu suốt cốt lỏi chính là truyền thống cần thiết để là con người. Nói theo cách tiêu cực, chúng ta có thể nói rằng, không có truyền thống, lý trí con người về bản chất là vô dụng.
Cách thức hay nhất tôi đã tìm ra được để nêu rõ vấn đề nầy,chính là trích dẫn một đoạn quan trọng từ Các Nguyên Lý Thần Học Công giáo của ĐHY Joseph Ratzinger, nay là Giáo Hoàng Biển-Đức XVI :
Tính con người và tính lịch sử, tri tuệ và lịch sử, có liên quan chặt chẽ với nhau. Tinh thần con người tạo ra lịch sử; những điều kiện lịch sử tạo nên cuộc sống con người…Nên nhớ rằng trí tuệ tự chứng minh nó với tư cách là trí tuệ; trí nhớ sinh ra truyền thống; truyền thống thể hiện mình trong lịch sử…vì nếu không có mối tương quan nhất thiết vượt thời gian nầy giữa người với người , thì nhân loại không thể nhận thức rõ về mình,không thể diễn đạt mình…Đặc điểm dễ phân biệt nhất của truyền thống trên thực tế, là khả năng nhận biết cái hôm nay của tôi cũng ý nghĩa cho cái ngày mai của những người sẽ đến sau tôi và vì thế, truyền cho họ cho ngày mai những gì đã được khám phá ra hôm nay. Mặt khác,một khả năng nữa đối với truyền thống, là bảo tồn hôm nay những gì đã được khám phá ra hôm qua, theo cách nầy mà hình thành một bối cảnh của một con đường qua thời gian, làm thành lịch sử. Điều nầy có nghĩa là truyền thống được hiểu đúng đắn,quả thực là tính siêu việt của hôm nay trong cả hai hướng…Truyền thống,như là yếu tố cấu thành lịch sử, là yếu tố cấu thành của một tính con người thật sự là con người,của nhân tính con người [humanitas hominis] (87).
Nay điều nầy diễn tả một ý tưởng thoạt nhìn bề ngoài có vẻ phức tạp, nhưng một khi đã nắm bắt được,thì trở thành vừa rõ ràng vừa đơn giản. Truyền thống,quả thực,là đất của tư duy và còn là một thành phần cấu thành chủ chốt của một nhân cách con người được thống nhất. Sự không hiểu biết bất cứ thực tại nào, – gồm lý thuyết triết học trừu tượng nhất hoặc lý thuyết khoa học đòi hỏi chuyên môn nhất,- có thể xảy ra mà không bén rễ trong truyền thống, vốn đến phiên nó cung cấp một cách nhìn căn bản mọi sự trong thực tế. Con người không thể tự tách mình khỏi truyền thống và, bao lâu con người còn tìm cách làm điều đó – như thế giới phương Tây thường cố tìm cách làm trong hai thế kỷ qua hoặc gần như thế – , thì con người sẽ rơi nhanh vào sự vô nghĩa. Khi chúng ta dần dần đi đến chỗ phát hiện ra thân phận hậu hiện đại của chúng ta, các triết gia bắt đầu đánh giá đầy đủ việc truyền thống cho biết tính chất lý luận ra sao và cuộc điều tra để tách rời hai điều đó sẽ gây phá sản như thế nào.
Quả thật có hai lựa chọn được mở ra cho con người : truyền thống hoặc thuyết hư vô [nihilism]. Truyền thống hướng tới sự trọn vẹn và hy vọng; chủ nghĩa hư vô hướng về xáo trộn và thất vọng. Giáo Hội Công giáo luôn thừa nhận rằng truyền thống là một phần chủ yếu của những gì Giáo Hội muốn nó trở nên thuộc về con người và ngoài ra, truyền thống trên thực tế rõ ràng là thuộc con người. Vì thế truyền thống là một cái phân biệt triệt để nhất con người với thú vật hơn bất kỳ định nghĩa nào của lý trí. Sự khác biệt rõ rệt nhất giữa chúng ta và thú vật là một sự việc to lớn rằng chỉ duy nhất chúng ta – con người – là có truyền thống. Chỉ có chúng ta – con người – là có khả năng dự phóng hiện tại của chúng ta tới lui đúng lúc. Không chỉ khả năng tinh thần độc nhất vô nhị nầy nằm ở tâm Đức Tin Công giáo chung chung, mà truyền thống con người còn được xác nhận và củng cố một cách vô song từ sự hiểu biết Công giáo về Thánh Truyền. Thánh Truyền nầy, vốn là một trong hai nguồn Mạc Khải Thiên Chúa, tự bản chất là Mạc Khải được lưu truyền qua đời sống thường nhật của cộng đồng Công giáo.
Điều có ý nghĩa quan trọng là với xác tín rằng ân sủng kiện toàn bản thể đúng hơn là phá hủy nó, Giáo Hội Công giáo đã luôn đi theo lý trí, nhìn nhận rằng một phân tích có suy nghĩ về truyền thống con người, phải được sử dụng để thanh luyện truyền thống ấy bất cứ nơi nào nó không phản ảnh được thực tại, và vì thế không dẫn được tới việc trình bày chân lý một cách có hệ thống thích hợp. Nhưng cùng lúc, Giáo Hội hiểu rằng lý trí không thể bị tách ra khỏi truyền thống, rằng nó không thể khái niệm hoá bất cứ điều gì hữu ích,mà không dựa trên những gì nó đã nhận được như là mảnh đất để nó triển khai các hoạt động. Tác động hỗ tương nầy giữa truyền thống và lý trí cấu thành một chiều kích không thể lờ đi được của sự sống con người,mà không có nó cuộc sống trở không thể hiểu được. Chỉ duy nhất Giáo Hội mới bảo tồn và giải thích đúng đắn Thánh Truyền, vốn kích thích một sự thanh luyện liên tục lý trí trong khi cùng lúc khuyến khích lý trì, để đến lượt nó thanh luyện truyền thống con người.
Tôi xác tín rằng không có cơ chế hay hệ thống tín ngưỡng nào khác nắm giữ chắc chắn hơn sự hiểu biết căn bản về con người như một hữu thể,vừa mang dấu ấn do truyền thống,lại vừa có khả năng tinh lọc truyền thống với sự trợ giúp của Thiên Chúa – với sự trợ giúp của Chúa là Đấng thông truyền chính Người như là Logos trong Thánh Truyền,như Lời hoạt động qua thời gian. Điều nầy có quá trừu tượng chăng? Có thể là vậy, nhưng nó chỉ trừu tượng trong sự ăn khớp của nó, vì đó là cái mà tất cả chúng ta sống theo bản năng. Đặc điểm truyền thống của con người xét về cơ bản bị loại bỏ và làm suy yếu, để lại tổn hại rất lớn, bởi những người xét về mặt ý thức muốn tách con người ra khỏi chính cái nền căn tính của nó. Giáo Hội,bấy giờ, sẽ có được truyền thống đúng. Con người tự quản tự giải phóng mình khỏi truyền thống chỉ vì hổ thẹn. Vinh quang của nó là trở thành người mang một truyền thống được liên tục thanh luyện, và cuối cùng là người mang chính Thánh Truyền. Đó là một lý do nữa để là người Công giáo

Dr Jeff Mirus,CatholicCulture.org
Giuse Nguyễn Thế Bài chuyển ngữ