PDA

View Full Version : Văn Hóa ?ông Sơn



VietLang
04-04-2005, 04:17 PM
Cung ?ình Thanh

Tập san Tư Tưởng

Văn hóa ?ông Sơn lấy tên làng, lần đầu tiên vào năm 1924, ngư?i ta đã đào được những di chỉ v? một n?n văn hóa đồng rất rực rỡ: đó là làng ?ông Sơn thuộc huyện Th? Hàng, phủ ?ông Sơn, ở phía bắc tỉnh Thanh Hóa. Làng này, ở kinh tuyến đông 114 và ở vĩ tuyến bắc 9,22 , ở b? tả ngạn sông Mã. Ngư?i nói đến danh từ Văn hóa ?ông Sơn đầu tiên là h?c giả R. Heine-Geldern. Năm đó là năm 1934. (Bản đồ 1)

Tuy nhiên, không như nữ h?c giả Madelène Colani là ngư?i đầu tiên dùng danh từ Văn hóa Hòa Bình, đã định hướng đúng nên sau này những nhà khảo cổ Việt Nam đã đi theo con đư?ng đó một cách thuận lợi, do đó tên tuổi của Madelène Colani đã được nêu danh trong khảo cổ h?c nói riêng và sử h?c nói chung của Việt Nam. Ngược lại, Heine-Geldern đã định nghĩa sai v? n?n Văn hóa ?ông Sơn, coi như đó là một n?n văn hóa ph?ng theo văn hóa từ Hán và xa nữa từ Tây phương, thư?ng được g?i là n?n văn minh Hallstatt hay là n?n văn minh La Tène của Châu Âu. Sự định hướng sai này cũng như việc không nhìn thấy sự liên hệ giữa Văn hóa ?ông Sơn và việc các vua Hùng dựng nước Văn Lang đã gây ra những ngộ nhận rất quan tr?ng trong việc tìm hiểu cổ sử Việt Nam mà ảnh hưởng còn lưu lại đến ngày nay. Những h?c giả kế tiếp h?c giả Geldern, khi nghiên cứu v? Văn hóa ?ông Sơn cũng có một cáí nhìn tương tự giống Geldern, như V. Goloubew, E. Karlgren và nhất là O. Jansé. Những h?c giả này đ?u có những tác phẩm lớn; vì vậy không những có ảnh hưởng đến h?c giới quốc tế, mà còn ảnh hưởng đến những h?c giả Việt Nam. Cho đến gần dây, không kể đến những sách của Trần Tr?ng Kim, ?ào Duy Anh mà ngay cả đến quyển Lịch Sử Tư Tưởng của Giáo Sư Nguyễn ?ăng Thục (ấn hành năm 1967 tại Saigon) cũng đã trích những đoạn trong sách của O. Jansé, coi như là tiêu chuẩn định hướng trong việc suy nghĩ v? sự phát tích ra nguồn gốc của dân tộc.

Từ khi thành lập Viện Khảo Cổ năm 1968, các nhà khảo cứu Việt Nam đã hướng sự khảo cổ của mình trong mục đích dựng lại th?i đại Hùng Vương, vì vậy đã dần dần chứng minh được Văn hóa ?ông Sơn là văn hóa hoàn toàn có tính cách bản địa, phát sinh trong nước trong một th?i gian dài từ Phùng Nguyên, qua các giai đoạn ?ồng ?ậu, Gò Mun và ?ư?ng Cổ để đi đến Văn hóa ?ông Sơn là đỉnh cao nhất. Suốt trên 30 năm đó, các nhà khảo cổ Việt Nam đã phát hiện được hàng trăm di chỉ, hàng chục ngàn các di vật đủ m?i hình loại, đủ để làm tài liệu căn bản vững chắc cho bốn hội nghị liên tiếp, chứng minh th?i kỳ lịch sử Hùng Vương là có thực, là th?i kỳ mở đầu dựng nước của dân tộc Việt Nam. Những h?c giả Việt Nam này cũng đã viết hàng trăm bài khảo luận, xuất bản nhi?u sách báo với những lập luận vững chắc, với lượng thông tin phong phú. Tuy nhiên, trên bình diện quốc tế, thành quả này vẫn chưa xóa nhòa được những ngộ nhận v? th?i đại Văn hóa ?ông Sơn do các h?c giả ngoại quốc đã viết từ năm 1929 đến 1948. Một phần vì tài liệu viết bằng tiếng Việt ít có ảnh hưởng lớn trên trư?ng quốc tế, phần khác vì uy tín của những h?c giả quốc tế như ta vừa nói ở trên rất lớn. Cần phải có những uy tín lớn trong ngành khảo cổ cũng như những tác phẩm lớn bằng ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh thì lâu dần mới có thể sửa đổi được những sai sót của các h?c giả ngoại quốc mà thủ phạm cũng chính là ngư?i có công khám phá ra Văn hóa ?ông Sơn: h?c giả R. Heine Geldern như ta vừa kể ở trên.
Nói đến nội dung của Văn hóa ?ông Sơn, có ba điểm chính phải nhấn mạnh:

1. Kỹ thuật đồng thau mà đỉnh cao là các trống đồng ?ông Sơn.

2. Kỹ thuật v? quân sự mà đỉnh cao là thành Cổ Loa.

3. Sự tổ chức cộng đồng hoàn chỉnh theo phương thức xã thôn tự trị mà đỉnh cao là sự thành lập nhà nước Văn Lang.

Ba điểm này sẽ được khai triển và trình bày trong ba bài riêng biệt sau. Nhưng trong bài này, ngư?i viết muốn nhấn mạnh đến đặc tính của Văn hóa ?ông Sơn, coi như bài mở đầu gồm hai điểm căn bản là:

- Thứ nhất: ý nghĩa của sự khác biệt v? xương cốt giữa ngư?i thuộc Văn hóa Hòa Bình và Văn hóa ?ông Sơn.


- Thứ hai: ý nghĩa kỹ thuật đồ đồng tại Việt Nam so sánh với các nước lân cận.

? NGHĨA CỦA SỰ KH?C BIỆT VỀ XƯƠNG C?T GIỮA NGƯỜI THUỘC VĂN HÓA HÒA BÌNH VÀ NGƯỜI THUỘC VĂN HÓA ?ÔNG SƠN

?em so sánh các loại hình s? cổ trong hai th?i đại đồ đá và đồ đồng, chúng ta thấy có những nét đặc biệt như sau: Trước hết v? tổng số s? còn có thể dùng làm đối tượng nghiên cứu cho cổ nhân chủng h?c ở Việt Nam trong hai th?i kể trên là 70 cái gồm 38 s? th?i đá mới và 32 s? th?i đồng thau. Trong những s? th?i đồ đá có 29 chiếc do những h?c giả ngư?i ngoại quốc tìm được trước năm 1945 và 9 chiếc do ngư?i Việt tìm được sau này. Trong th?i đồng thau và sắt sớm, có 27 chiếc do các h?c giả ngư?i Việt mới tìm thấy, so với trước 1945 chỉ có 5 chiếc mà thôi.

Phải nói ngay rằng phương pháp dùng để định rõ chủng loại của các loại s? này vẫn còn là phương pháp tương đối cổ, nghĩa là dựa thuần túy trên sự so sánh hình thái. Vì vậy kết luận những s? này thuộc chủng nào cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất của các nhà khảo cổ. Nhưng nhìn chung, ngư?i ta có thể tạm kết luận: 'V? th?i đại đá mới, cư dân trên lãnh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid cùng với các loại hình hỗn chủng với chúng cộng cư với nhau, trong đó Indonésien và Malanésien là hai thành phần chủ yếu'. Khi nghiên cứu 32 s? thuộc th?i đồng thau và sắt mới, kết luận lại khác hẳn: 'Như vậy so với th?i đại đồ đá mới, ngư?i Mongoloid sang th?i đại đồ đồng sắt đã là thành phần chủ thể trong khối cư dân ở Việt Nam, ngư?i Australoid mất dần đi trên đất nước này, hoặc do thiên cư, hoặc do đồng hóa'. (Nhân chủng h?c ?ông Nam ? 1983, Nguyễn ?ình Khoa). Phải giải thích hiện tượng này như thế nào? ?ó cũng là đi?u mà hình như chưa có sự trả l?i thống nhất của các h?c giả, kể cả những h?c giả ngư?i Việt. Lấy thí dụ, v? điểm này, Giáo Sư Phạm Huy Thông đã viết: 'Quá trình biến diễn của dân cư từ ngư?i Australoid, Malanésien (th?i Văn hóa Hòa Bình) đến ngư?i Indonésien Nam ? (từ th?i đại kim khí đến ngày nay) là do đâu?' Câu trả l?i đơn giản nhất là do lai giống da vàng. Nhưng từ những tác giả của Lĩnh Nam Trích Quái đến LỖAurousseau và ?ào Duy Anh, những dòng ngư?i nói là từ phương Bắc đến không nhất thiết được hiểu là ngư?i Hán'. Rõ ràng ông cũng đã linh cảm thấy vấn đ? Hán hóa không phải là có thể giải quyết được th?a đáng câu h?i v? nguồn gốc dân tộc Việt Nam, nên ông đã tìm một cách giải thích khác: 'Do đó, yếu tố da vàng đã chuyển hóa dần dần ngư?i da đen Thái Bình Dương lúc xưa cũ nơi đây chính là ngư?i Tầy Thái, mà đại diện trên đất nước ta gồm một phần là số ngư?i Tầy Cổ đã hòa với ngư?i Môn Khmer Cổ thành ngư?i Việt Mư?ng, một phần khác chính là ngư?i Tầy Cổ ở biệt lập vùng Cao Bằng để lại con cháu từ trước tới nay'. (Phạm Huy Thông - KCH 1984, 1&2, trg 156). Giáo sư Viện Trưởng Viện Khảo Cổ đương kim trong một bài tham luận đ?c tại Trư?ng ?ại h?c Sorbonne ở Paris năm 1979 có một kết luận khác: Cho đến nay nguồn gốc của Văn hóa Phùng Nguyên (Ti?n ?ông Sơn) hãy còn là đi?u bí ẩn. Sự xuất hiện của văn hóa này ở châu thổ sông Hồng hơi bất ng? mà chúng ta hãy còn chưa tìm được những di chỉ ti?n thân của nó. ?ể rồi ông kết luận: Những ngư?i Phùng Nguyên từ đâu tới cho đến nay chúng ta còn chưa biết. Ông giả thiết rằng cư dân Phùng Nguyên đã xuất hiện ở châu thổ sông Hồng là do những đợt di dân từ phương Nam lên. Giả thiết này có thể coi là chưa khẳng định vì hãy còn có nhi?u điểm chưa được sáng t?, nhưng dù sao những dữ kiện khảo cổ cũng đã bắt đầu có thể lấy làm căn cứ cho luận điểm này. Thí dụ như đồ gốm của Phùng Nguyên, theo sự khám phá của h?c giả E. Saurin (1940) đã tìm thấy ở phía Tây tỉnh Thanh Hoá và ở Nghệ An có hoa văn giống với những hoa văn tìm thấy ở những đồ vật trong các di chỉ ở Phùng Nguyên (ph?ng dịch theo bài tham luận của Hà Văn Tấn, 16/5/1979, BEFEO T.L.X.VIII 1980).

Sự thực muốn có câu trả l?i cho vấn đ? này không phải đơn giản. Những năm gần đây, khoa h?c nói chung và khoa khảo cổ nói riêng đã tiến những bước khổng lồ, nhưng những đi?u con ngư?i biết v? nguồn gốc của con ngư?i nói chung so với những đi?u chưa biết hãy còn quá ít. Bởi vậy, càng đi sâu vào những chi tiết của vấn đ?, chúng ta lại càng thấy có nhi?u đi?u rối rắm. ?ể có thể có một cái nhìn tổng quát, tưởng cũng không phải là đi?u vô ích nếu chúng ta lược lại một cách hết sức tóm tắt giả thiết v? các giai đoạn tiến hóa của ngư?i cổ: Khuynh hướng hiện nay của đa số các nhà nhân chủng h?c là thiên v? thuyết tiến hoá, cho con ngư?i th?i nay đã tiến triển từ loài linh trưởng được g?i nôm là loài Ngư?i Vượn đi thẳng bằng hai chân (tên khoa h?c g?i là Homo-Erectus). Không kể Ngư?i Hiện-đại (Neo-Anthropus) là mẫu hình của nhân loại hiện nay, xuất hiện trên trái đất chỉ trên dưới 40.000 năm cách ngày nay, thì những ngư?i g?i là Homo-Erectus đó từ trước đến nay đã xuất hiện có thể chia ra làm ba loại chính:

* Loại thứ nhất g?i là ngư?i Thượng Cổ (Paleo-Anthropus), là những ngư?i như ngư?i Neanderthensis, phát hiện thấy lần đầu tiên ở Tây Âu, nước ?ức năm 1856 và tại ?ông Nam ? cũng tìm thấy năm 1931 tại vùng Quảng ?ông, làng Mã Bá. Ngư?i này được giả thiết là đã xuất hiện vào khoảng 40.000 năm cho đến 100.000 năm cách ngày nay.


* Kế đến là loại ngư?i Thái Cổ (Arche-Anthropus), phát hiện lần đầu tiên tại Java, Indonesia, giả thiết đã xuất hiện trên 100.000 cách ngày nay.


* Và thứ ba, thư?ng được g?i là ngư?i Viễn Cổ (Proteo-Anthropus), tìm thấy đầu tiên tại ?ông Phi Châu, giả thiết đã xuất hiện trên 1.000.000 năm cách ngày nay. (do gia đình Leakey mới phát hiện 1945?).

VietLang
04-04-2005, 04:17 PM
Những ngư?i g?i là Ngư?i Vượn hay là Linh-trưởng này khác với Ngư?i Hiện-đại ở các điểm sau: Thứ nhất, thân thể h? càng cổ thì càng lớn hơn so với ngư?i hiện đại. Thứ hai, bộ óc của h? càng cổ lại càng nh?, thí dụ ngư?i Viễn Cổ bộ óc chỉ khoảng 900cm3, ngư?i Thái Cổ bộ óc khoảng trên 1000cm3, và ngư?i Thượng cổ, bộ óc khoảng 1450cm3 mà thôi. Việc Ngư?i Hiện-đại (Homo-Sapiens) có phải do những Ngư?i Vượn kể trên biến chuyển dần mà thành ra không, vẫn còn là tranh cãi của các nhà khoa h?c. Cho đến nay chưa có câu trả l?i dứt khoát. Những ngư?i không đồng ý với thuyết cho Ngư?i Vượn không thể biến thành Ngư?i Hiện-đại chủ trương Ngư?i Vượn đã mất đi vì tuyệt chủng như rất nhi?u loại động vật khác đã từng tuyệt chủng (loại khủng long, loại chim có cánh lớn, loại voi khổng lồ ...). Hai loài Ngư?i Vượn và Ngư?i Hiện-?ại có những nhiễm sắc thể khác nhau. Theo h?, phái chủ trương cho có sự biến chuyển dần từ Ngư?i Vượn sang Ngư?i Hiện-đại đã lập luận trên hai điểm g?i là bước nhẩy biện chứng và đột biến di truy?n là hai điểm chỉ có trên lý thuyết chứ chưa được chứng minh trong thực tế. Vì vậy, khi nào chưa được khoa h?c chứng minh v? hai điểm căn bản kể trên thì thuyết Ngư?i Vượn (Homo-Erectus) biến chuyển dần dần thành Ngư?i Hiện-đại (Homo-Sapiens) chỉ có giá trị thuần lý thuyết.

Mặt khác, các h?c giả v? nhân chủng h?c chưa có sự đồng ý với nhau v? nơi phát sinh ra loài ngư?i. ?ại khái có hai thuyết: thuyết nhi?u trung tâm và thuyết một trung tâm. Thuyết nhi?u trung tâm, đại diện bởi nhà nhân chủng h?c Weidenreich F. 1950, nhà nhân chủng h?c C. S. Coon 1963, A. Thomas 1962, và thuyết một trung tâm, đại diện bởi Raghieski.

Nay tạm không bàn đến lý thuyết.

Thực tế cho thấy nếu chỉ kể con ngư?i hiện đại được khoa h?c xác minh một cách chắc chắn như ta thấy ngày nay thì đã xuất hiện ở nhi?u nơi cùng một lúc và cách ngày nay khoảng 40.000 năm mà thôi. ?ó là: ở Châu Âu, tại Pháp, ở mi?n Combe Capelle, có niên đại C14 là 34.000 năm cùng với n?n văn hóa Satenperon; ở Tiểu ? Tế ? tìm thấy s? một trẻ em có niên đại là 28.840 năm; ở Phi Luật Tân có một s? ngư?i trong hang Tabon có niên đại C14 là 30.500 năm; ở Úc Châu tìm thấy s? ngư?i ở hồ Menin, ?ông Nam Úc Châu có niên đại C14 là 26.300 năm. Cho đến nay s? ngư?i có niên đại C14 cổ nhất tìm thấy ở hang Nia v? phía bắc đảo Kalimantan ở Indonesia thuộc ?ông Nam ? là s? một thiếu niên 15 tuổi có niên đại C14 là 39.600 năm cách ngày nay. V? điểm này, h?c giả Howells W. 1973 đã lý giải rằng trong khi Tây Âu, Tây ? có những dạng ngư?i cổ đang chuyển biến để trở thành ngư?i hiện đại thì ở ?ông Nam ?, ngư?i Homo-Sapiens đã thành hình. Vì vậy, ?ông Nam ? có thể là cái nôi đầu tiên của nhân loại.

Ngư?i ta thấy cùng một lúc có ba loại ?ại chủng khác nhau: loại da vàng ở ? Châu tức Mongoloid. ?ại chủng này lại chia làm hai: Nam Mongoloid ở từ ?ông Nam ? đến Trung Hoa, ?ại Hàn, Nhật Bản và Bắc Mongoloid ở vùng từ hồ Balkan trở lên Sibérie. Loại da trắng ở Âu Châu tức Europoid. Và loại da đen chủ yếu ở Phi Châu g?i là Netroid. Riêng nhánh ngư?i da đen ở các hải đảo Thái Bình Dương g?i là Australoid; nay được đ? nghị hợp với Negroid g?i chung là Negro-Australoid. Vô hình chung trong thực tế, thuyết nhi?u trung tâm có vẻ có ưu thế. Ngư?i viết bài này cũng thiên v? thuyết nhi?u trung tâm và cũng thiên v? chủ trương cho rằng loài ngư?i không phải từ loài vượn ngư?i mà ra, nhưng đã được sinh ra như muôn loài động vật khác từ khởi thủy của nó. Bằng vào ni?m tin đó, ngư?i viết đã biện giải lý do tại sao trong th?i đại đồ đá đã tìm thấy một số những s? ở phần đất nay là b? biển mi?n Bắc Việt Nam đa số là hắc chủng và tại sao sau này ở th?i đại đồng thau, đa số những s? đó lại là những s? ngư?i da vàng thuộc ?ại chủng Nam Mongoloid (NGUỒN G?C DÂN TỘC VIỆT NAM - TƯ TƯỞNG S? 2). Lý do là vì trong th?i đồ đá tức là vào khoảng hơn 17.000 năm đến gần 30.000 năm cách ngày nay, nước biển thấp hơn ngày nay khoảng 100m, do đó đã có những cầu nổi giữa các hải đảo Thái Bình Dương, vốn là quê hương của ngư?i hắc chủng, với đất li?n mà b? biển Việt Nam ngày nay là phần địa đầu. Ngư?i Hắc Chủng đã di vào đất li?n đã để lại di cốt ở b? biển đó. Từ 17.000 năm đến khoảng 7.000 năm trước, nước biển bắt đầu dâng lên mỗi năm 10mm và đã làm những cầu nổi chìm dưới làn nước biển, làm cho ngư?i vùng hải đảo khó vào đất li?n được. Do đó nguồn tiếp tế ngư?i đại dương vào đất li?n bị đứt quãng. Những ngư?i hải đảo nếu chưa kịp v? quê hương cũ của h? đã dần dần lai giống đi và mang tên là Malanésien, Indonésien hay Nam ?, rồi hoặc là h? mất hẳn hoặc là, h? nếu còn sót lại cũng trở thành những nhóm thiểu số, xa lạ với đại chủng Mongoloid, nên h? đã di dần lên những mi?n núi non hiểm trở sinh sống. ?ây là tổ tiên của những tộc thiểu số hiện vẫn còn sống rải rác ở các cao nguyên từ Kontum, Nam Mê Thuật đến Darlac, mang tên những tộc như Rhadé, Gia Rai, Ê-?ê, Sê-?ăng, Mơ-Nông ... Do đó, th?i đồng thau tức khoảng gần 5.000 năm đến 2.000 năm cách ngày nay, 32 s? còn có được đem nghiên cứu, đa số đã thuộc ?ại chủng Nam Mongoloid da vàng, chỉ còn thiểu số thuộc Hắc chủng. ?ành rằng đây cũng chỉ là giả thuyết, tuy nhiên giả thuyết này có lẽ gần với sự thực hơn là giả thuyết ngư?i gốc ở mi?n Bắc Việt Nam vốn là hắc chủng rồi bị da vàng hóa đi mà trở thành ngư?i Việt Nam ngày nay. Chúng ta đã có chứng cớ rõ rệt là ngư?i hiện đại cổ nhất tìm thấy là ở đảo Kalimantan mà đảo đó với đất nay là Việt Nam, th?i đó 39.600 năm v? trước là một giải đất li?n không bị ngăn cách bằng biển cả. Cũng đừng quên rằng những ngư?i gần với Ngư?i Hiện-đại nhất cũng tìm thấy ở ngay vùng gần biên cương mi?n Bắc nước Việt hiện nay là làng Mã Bá thuộc tỉnh Quảng ?ông, đất xưa kia cũng thuộc cùng một văn hóa, Văn hóa Hòa Bình hay Văn hóa ?ông Sơn, như phần đất nay là mi?n Bắc Việt Nam vậy. Việt Nam ngày nay là một giải đất nối li?n hai trung tâm cho đến nay đã tìm thấy Ngư?i Hiện ?ại sớm nhất được khoa h?c chứng minh có thực.


VĂN HÓA ?ÔNG SƠN TỨC VĂN HÓA ?ỒNG THAU

Kể từ khi được phát hiện năm 1924 do h?c giả R. H. Geldern đặt tên, Văn hóa ?ông Sơn đã nhanh chóng lôi cuốn được sự nghiên cứu của nhi?u h?c giả khác. Nhi?u tác phẩm lớn viết v? văn hóa này đã gây được tiếng vang rộng lớn trên trư?ng quốc tế. Nhưng không may, bốn h?c giả nổi danh nhất, viết những tác phẩm lớn v? ?ông Sơn là V. Goloubew, R. H. Geldern, E. Karlgren, O. Jansé, đ?u có khuynh hướng cho rằng n?n văn hóa này có nguồn gốc ngoại lai, có thể bắt nguồn từ Trung Hoa, và qua Trung Hoa là từ phương Tây; chủ yếu là từ nguồn văn hóa Hallstatt ở Châu Âu truy?n qua vùng thảo nguyên Âu ? đến Trung Hoa, rồi từ Trung Hoa truy?n vào Việt Nam. Có tác giả lại dựng lên cả một hành trình rất xa xôi là văn hóa này bắt nguồn từ văn hóa Mycèle Hi Lạp, qua trung gian các văn hóa Trung Âu truy?n qua Trung ? rồi chia hai ngả, một theo ngả Tứ Xuyên, Vân Nam xuống Việt Nam và sinh ra Văn hóa ?ông Sơn, còn một ngả vào lưu vực sông Hoài sinh ra văn hóa đồng thau của Trung Hoa. Ảnh hưởng của những tác phẩm này đã tạo ra những ngộ nhận đáng tiếc cho việc tìm hiểu n?n Văn hóa ?ông Sơn nói riêng và cả th?i kỳ dựng nước của vua Hùng nói chung. Cho đến tận ngày nay, ảnh hưởng đó hãy còn khá sâu đậm, dù rằng sau hơn ba thập niên, từ năm 1960, các h?c giả Việt Nam, nh? nỗ lực muốn chứng minh th?i kỳ dựng nước của vua Hùng là có thực trong lịch sử, đã tìm ra được rất nhi?u di chỉ và chứng minh được rằng văn hóa ?ông Sơn là n?n văn hóa bản địa, bắt nguồn từ văn hóa Phùng Nguyên, khoảng 2850 năm trước Kỷ Nguyên và kéo dài đến những năm sau Kỷ Nguyên, cách đây khoảng 1700 năm. V? th?i gian, văn hóa này đã tồn tại trên 3.000 năm. V? không gian, địa bàn hoạt động trong tầm Văn hóa ?ông Sơn bao gồm chủ yếu là lưu vực sông Hồng. Nhưng v? phía Bắc, có giả thuyết cho văn hóa ?ông Sơn đã lan ra đến tận b? sông Dương Tử gồm Quảng ?ông, Quảng Tây, Vân Nam mà di tích xa nhất có lẽ là chiếc trống đồng đã tìm được ở Triết Giang trong những năm gần đây. V? phương Nam có thể đã lấn đến Sa Huỳnh, Óc Eo và một phần Thái Lan. Tuy nhiên, trung tâm điểm vẫn là đồng bằng sông Hồng, sông Mã và sông Lam ở Việt Nam. Nghiên cứu những di tích còn để lại, càng ngày ngư?i ta càng thấy rõ tính thống nhất và đa dạng của n?n văn hóa này. Việc ngộ nhận của các h?c giả phương Tây đã có lúc được hiểu là do quan điểm thực dân và do lý thuyết trung tâm Châu Âu, cho rằng m?i hình thức văn minh của nhân loại đ?u khởi phát từ Châu Âu. (Bản đồ 4)

Tuy nhiên, ý kiến nghiêm chỉnh nhất có lẽ là ý kiến cho rằng trước th?i Thế Chiến II, việc khám phá ra Văn hóa ?ông Sơn chỉ mới thu g?n lại ở năm bẩy di chỉ. Những vật dụng được tìm thấy bằng đồng thau ở những di chỉ này lại rất sắc sảo, rất tiến bộ mà trước đó không thấy có ở các di vật ti?n thân của nó tại các di chỉ khảo cổ trong vùng. (Bản đồ 5)

Lại nữa, từ Văn hóa ?ông Sơn đến Văn hóa Hòa Bình có một khoảng cách rất xa. Giữa hai văn hóa này không có dấu ấn chứng t? có sự liên hệ nhân quả nên những h?c giả kể trên cũng khó có giải thích nào khác hơn kết luận ?ông Sơn không phải là một văn hóa bản địa. Ngay cả các h?c giả Việt Nam ngày nay, sau khi đã chứng minh được Văn hóa ?ông Sơn đã trải dài đến 3.000 năm, phát triển từ th?i Phùng Nguyên qua ?ồng ?ậu, Gò Mun, trước khi đi đến ?ông Sơn, và đã chứng minh được sự liên hệ khắng khít của những n?n văn hóa kế tiếp nhau này, vậy mà cũng còn có ngư?i đặt nghi vấn rằng ngư?i Phùng Nguyên không biết từ đâu lại. Do đó, cũng khó có thể hoàn toàn phủ nhận thiện chí của những h?c giả đã có công phát minh ra Văn hóa ?ông Sơn và giới thiệu nó trên trư?ng quốc tế. Tưởng cần nói thêm nhận xét của các h?c giả này có vẻ không đúng trong trư?ng hợp Văn hóa ?ông Sơn của Việt Nam, nhưng lại có vẻ khá đúng trong trư?ng hợp văn hóa Ngưỡng Thi?u và Long Sơn của Trung Hoa như chính các h?c giả Trung Hoa đã công nhận phần nào. Nét mạnh của Văn hóa Ngưỡng Thi?u so với Văn hóa ?ông Sơn có lẽ là ở chỗ Ngưỡng Thi?u đã tiếp thu được cả hai n?n văn hóa: của ?ông Sơn và của phương Tây.

?ể vấn đ? được sáng t?, trước hết phải tìm hiểu niên đại v? đồng thau và sắt sớm tại Việt Nam, đồng th?i biết niên đại của đồng thau ở các phần đất khác tại ? Châu nữa. ?ộc giả đ?c bảng so sánh niên đại đồng ở Việt Nam và Trung Hoa ở cuối Tập San này chắc cũng có ý niệm v? sự phát triển kỹ thuật đồng ở mi?n đất nay là Việt Nam và mi?n đất nay là Trung Hoa, đặc biệt là phía Nam Trung Hoa. Chúng ta thấy rằng niên đại tìm được đồng sớm nhất ở Phùng Nguyên là vào năm 1850 trong khi niên đại tìm được ở vùng Hải Môn Khẩu, Vân Nam là vào năm 1130 trước Kỷ Nguyên, ở có thể niên đại ở Phùng Nguyên đã có sớm hơn Hải Môn Khẩu một chút.

V? hình thức, đồ đồng ?ông Sơn rất giống với những đồ bằng đá, bằng gốm của Phùng Nguyên, cả v? kiểu dáng lẫn v? hoa văn. So sánh với đồ đá, đồ gốm của Văn hóa Phùng Nguyên, chúng ta sẽ thấy có những điểm rất giống nhau. Thí dụ cái rìu hình chữ nhật bằng đá của Văn hóa Phùng Nguyên không khác bao nhiêu với những rìu bằng đồng thau của Văn hóa Ti?n ?ông Sơn và ?ông Sơn. (Hình 1)

Những mũi tên hình bút hay hình tam giác nh?n đầu ba cạnh, có chuôi chụm thư?ng được mệnh danh là tên đồng Cổ Loa cũng có dạng thức như những mũi tên có trước nó bằng đá th?i Văn hóa Phùng Nguyên. (Hình 2a, 2b,2c)

Nổi tiếng thứ nhì sau trống đồng của Văn hóa ?ông Sơn (sẽ được trình bày trong một bài riêng) là những thạp đồng như thạp đồng ?ào Thịnh tìm thấy năm 1960 và thạp đồng Hợp Minh năm 1995 đ?u ở vùng đất xưa là Phong Châu, cố đô của các vua Hùng. Tuy cách cấu kết và hoa văn có vẻ tinh tế hơn, nhưng cũng cùng một kiểu dáng, cũng một lối vẽ như các thạp gốm trong th?i kỳ Phùng Nguyên (Xem hinh trang bia sau).

VietLang
04-04-2005, 04:20 PM
Nay nếu cần phải tìm mối liên hệ giữa đồ đồng ?ông Sơn với đồ đồng ở phần đất nay là Trung Hoa, ta có thể ch?n một số những vật dụng tiêu biểu như dao găm, kiếm, mũi tên đồng hay một số các loại bình để có một nhận xét sơ lược v? kỹ thuật đồ đồng và ảnh hưởng hổ tương của nó giữa các phần đất chúng ta vừa kể ở trên. Và hi v?ng rằng từ những quan sát những vật cụ thể này, chúng ta có thể có một nhận xét v? nguồn gốc các dân tộc, v? những chặng đư?ng hình thành, những giao lưu văn hóa của các tộc láng gi?ng rồi từ đó tìm biết được phần nào tư duy của ngư?i Việt Cổ, tổ tiên của chúng ta.

Trước hết, xin hãy cùng nhau quan sát những hình chụp và bản vẽ được liệt kê ở những trang sau v? các vật dụng bằng đồng thau và bằng sắt tại những phần đất nay là Việt Nam và Trung Hoa để có một khái niệm đại cương v? hai n?n văn minh đã từng có những mối liên hệ gần gũi. (Xin xem hình ở các trang cuối Tập San này).

Sự so sánh kiểu dáng của những dụng cụ kể trên cho ta một khái niệm là vật dụng ở hai n?n văn minh khác nhau này lại có những nét tương đồng lạ kỳ. Tất nhiên, điểm đó cũng chưa nói được gì nhi?u ngoại trừ hai n?n văn hóa này có thể có cùng một nguồn gốc hay ít ra cũng chịu ảnh hưởng của cùng một nguồn gốc. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết thêm được các chi tiết khác, thí dụ v? kỹ thuật chế tác các vật dụng này, v? niên đại sản xuất ra chúng, v? thành phần của hợp kim ..., có thể ta sẽ có những kết luận chính xác hơn, rõ rệt hơn v? mối liên hệ hỗ tương giữa hai n?n văn hóa.


THÀNH PHẦN HỢP KIM, NGUỒN G?C KIM LOẠI VÀ KỸ THUẬT CHẾ T?C

Bằng phương pháp phân tích hóa h?c, và cả phương pháp phân tích hóa h?c kết hợp với phương pháp phân tích quang phổ, những h?c giả ngư?i Việt đã tương đối thành công trong việc tìm hiểu thành phần hợp kim của những dụng cụ bằng đồng trong th?i đại Văn hóa ?ông Sơn.

Nhận xét đầu tiên mà ta sẽ có dịp nhắc lại nhi?u lần trong các phần dưới đây là có một sự giống nhau lạ lùng của các thành phần hợp kim cũng như kỹ thuật chế tác các đồ đồng tại các phần đất nay là Việt Nam và mi?n đất phía nam Trung Hoa ngày nay, thư?ng được g?i dưới tên Hoa Nam hay xưa kia g?i là Giang Nam (phía nam sông Giang Tây) hay Lĩnh Nam (phía nam núi Ngũ Lĩnh) nghĩa là phần đất bao gồm các tỉnh Quảng ?ông, Quảng Tây và Vân Nam ngày nay, có thể có một phần tỉnh Quý Châu và lên đến cả Phước Kiến, Triết Giang.

?ồ đồng cổ nhất ở Việt Nam thuộc Văn hóa Phùng Nguyên, tìm thấy ở di chỉ Gò Bông có niên đại C14 = 1850 +/- 60BC (Bln-3081) đã là đồng thau nghĩa là đồng có pha thiếc. Chúng ta không thấy đồng nguyên chất tức đồng đ? tại Việt Nam. ?iểm này ở vùng Hoa Nam cũng có hiện tượng tương tự. ?ồ đồng tìm thấy lần đầu tiên ở vùng này thuộc văn hóa Vân Nam, tại di chỉ Hải Môn Khẩu có niên đại C14 = 1130 +/- 90BC mà khi tính niên đại này, các h?c giả Trung Hoa đã tính theo năm 1985 g?i là C14 = 3115 +/- 90BP tính ra vào khoảng cuối đ?i Thương, đầu đ?i Chu ở Trung Quốc. Tại sao ngư?i Việt cổ không chế tác những dụng cụ bằng đồng nguyên chất g?i là đồng đ? mà lại tiến thẳng lên giai đoạn hợp kim đồng thau? ?ó là câu h?i mà nhi?u h?c giả Việt Nam đã đặt ra, nhưng đến nay chưa có câu trả l?i th?a đáng (Hà Văn Tấn, Nguyễn Duy Hinh - Khảo Cổ H?c 1974:155). Cho đến giai đoạn Vư?n Chuối thuộc Văn hóa ?ồng ?ậu, có niên đại C14 = 1120 +/- 120BC (Bln-894) thì kỹ thuật đồng đã tiến thêm một bước là ngoài thiếc, hợp kim đồng có thể pha thêm với antimoine. Trong 33 vật dụng được đem thí nghiệm để phân chất, có 27 loại cho biết hợp kim có antimoine (Trịnh Sinh 1990:49-58). Tuy nhiên, trong giai đoạn này, hợp kim vẫn chỉ giới hạn vào hai thành phần mà thôi.

Cuối th?i ?ồng ?ậu, bắt đầu bước sang Văn hóa Gò Mun, ngư?i ta tìm thấy hợp kim đồng không phải chỉ có hai mà lác đác đã tìm thấy dụng cụ có đến ba thành phần ở di chỉ Vinh Quang, thuộc tỉnh Hà Sơn Bình, có niên đại C14 = 1095 +/- 120BC (Bln-829). Trong giai đoạn này, 9 loại dụng cụ đem phân tích thì tuyệt đại đa số là đồng thiếc, chỉ có 1 là thuộc đồng antimoine và 1 thuộc đồng thiếc antimoine. Mẫu hợp kim duy nhất mà ngư?i ta cho rằng có cả thiếc và chì là một chiếc giáo đang để ở bảo tàng Vĩnh Phú, hiện chưa được các nhà khảo cổ Việt Nam đồng nhất v? ý kiến là thuộc giai đoạn ?ồng ?ậu vì chiếc giáo này khác với các loại giáo có hình búp đa tìm thấy trước kia ở Gò Mun, mà lại có hình dáng như những chiếc giáo sau này tìm thấy ở Văn hóa ?ông Sơn. Vì vậy, ngư?i ta ng? rằng đây là một dụng cụ của Văn hóa ?ông Sơn sau này đã lẫn vào Văn hóa Gò Mun. Nói cách khác, hợp kim đồng, thiếc, chì, theo đa số các nhà khảo cổ, là một phát minh đặc biệt độc đáo chỉ có từ th?i Văn hóa ?ông Sơn trở v? sau mà thôi.


Vậy thì văn hóa đồng thau đến giai đoạn ?ông Sơn mới, cực kỳ phát triển và sản xuất ra những dụng cụ vô cùng tinh tế, đẹp đẽ. Thí dụ như loại trống đồng mà cho đến ngày nay, với kỹ thuật đúc kim tiến bộ hiện đại, ngư?i ta cố gắng phục chế lại nhưng chưa bao gi? đạt được mức tinh xảo như trống đồng th?i ?ông Sơn. Trong 556 mẫu đồ đồng của th?i kỳ ?ông Sơn được đem phân chất, ngư?i ta thấy rằng có đến 66% các kiểu loại trong có chì và 62,4% có đồng, chì và thiếc (Trịnh Sinh - Khảo Cổ H?c 92-55). Văn hóa ?ông Sơn ở giai đoạn cực thịnh này có những di chỉ rất nổi tiếng như tại Chùa Thông, Việt Khê, Chi?n Vậy (xim xem bảng so sánh niên đại đồ đồng ở trang cuối Tập San này). ?ặc biệt trong giai đoạn này, kỹ thuật sắt đã phát triển và nhanh chóng chiếm địa vị quan tr?ng trong việc chế tác các dụng cụ, nhất là các dụng cụ dùng trong nông nghiệp và binh nghiệp.


Tóm tắt sự tiến bộ của văn hóa đồng thau từ Phùng Nguyên đến ?ông Sơn, ta có thể phân chia làm ba giai đoạn:

- Giai đoạn 1: Văn hóa Phùng Nguyên có vật dụng làm bằng đồng thiếc khoảng thế kỷ 15 trước Kỷ Nguyên.

VietLang
04-04-2005, 04:21 PM
- Giai đoạn 2: Văn hóa ?ồng ?ậu và Gò Mun có những vật dụng làm bằng đồng thiếc hoặc đồng-arsenic hay antimoine thuộc các thế kỷ 12, 13, 14 trước Kỷ Nguyên. Nhưng hợp kim vẫn chỉ có hai thành phần.


- Giai đoạn 3: Văn hóa ?ông Sơn đã kế thừa được những đặc điểm của hai giai đoạn trên, nhưng trong giai đoạn này, đặc biệt hợp kim đã có đến ba bốn thành phần và quan tr?ng nhất là có chì trong hợp kim. Văn hóa này lên đến đỉnh cao vào khoảng thế kỷ thứ 6, 7 trước Kỷ Nguyên.

So sánh thành phần hợp kim của đồ đồng ?ông Sơn với đồ đồng của các vùng kế cận Việt Nam, chúng ta thấy có những sự tương đồng rất đặc biệt:

Thí dụ đồ đồng ở Thái Lan có hàm lượng thiếc rất cao nhưng không có chì:

- ?ồ đồng tìm thấy ở di chỉ rất nổi tiếng Non Nok Tha có hàm lượng thiếc lên đến 19,1% (I.R. Solinkanop 1979:37).


- Tại Bản Chi?ng, một địa danh khác tại Thái Lan, hàm lượng thiếc còn cao hơn nữa, lên đến 20% (V.C. Pigott 19 2).

Tại Nam Dương, hợp chất đồng tương đối giống ?ông Sơn và Hoa Nam nhi?u hơn, nghĩa là trong thành phần hợp kim đã có chì ngoài đồng và thiếc ra và cũng có những kim loại phụ khác nữa (Conel GMC 1990-33; Glover 1).

?iểm này chúng ta cũng thấy tương tự ở đồ đồng tại Kampuchia, thành phần hợp kim không khác với thành phần hợp kim của ?ông Sơn là bao nhiêu (R.E. 1998:3).

Nhưng đặc biệt nhất phải kể đến đồ đồng ở Hoa Nam mà địa danh nổi tiếng nhất có lẽ là Vạn Gia Bá tại Vân Nam có niên đại C14 = 760 ổ 130BC (Wangdadao 1985:118). Tại Vạn Gia Bá, trong 17 mẫu được đem thí nghiệm thì 7 mẫu có đồng thiếc, 9 mẫu là đồng đ? (đây là một điểm đặc biệt ngư?i ta còn đang nghiên cứu) và có một mẫu duy nhất có hợp kim đồng, thiếc và chì. Vậy chì đã tìm thấy trong hợp kim đồ đồng tại Hoa Nam, lần đầu tiên ở di chỉ Vạn Gia Bá, so với Văn hóa ?ông Sơn thì chậm hơn khoảng 100 năm. Sở dĩ văn hóa đồng thau đã phát triển rực rỡ tại vùng đất nay là Việt Nam và Hoa Nam rất sớm bởi nơi đây là quê hương của những m? đồng, chì, thiếc (nơi có m? chì quan tr?ng nhất thế giới là Mã Lai). Tại phần đất nay là Việt Nam, m? đồng nhi?u nhất tại các vùng Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lào Cai, Bắc Giang, Sơn La, Cao Bằng và vào tận Thanh Hóa nữa. M? thiếc có ở Thái Nguyên, Tuyên Quang. M? thiếc lớn nhất ở Cao Bằng. V? chì, các m? tập trung nhi?u nhất ở vùng Thái Nguyên, đến nay hãy còn m? nổi tiếng ở vùng Lang Hít (Chợ ?i?n). ?ể có thể tạm hình dung v? sự quan tr?ng của quặng đồng tại nước ta, ta có thể lấy một thí dụ đã được sử gia Lê Quý ?ôn mô tả. ?ó là m? đồng ở Tụ Long có tên là Na Ng?. Riêng m? này có đến 26 cửa hầm, mỗi năm sản xuất khoảng 225 tấn. Th?i xưa Tụ Long thuộc châu Vị Xuyên, tỉnh Tuyên Quang. Nay thuộc phủ Khai Hóa, tỉnh Vân Nam. Lý do vì Pháp đã nhượng phần đất ở biên giới Việt Nam này cho Trung Hoa vào cuối thế kỷ trước để đánh đổi lại việc tri?u đại Mãn Thanh của Trung Hoa không can thiệp vào việc Pháp xâm chiếm nước ta nữa. Nhìn sang Trung Hoa, chúng ta thấy rằng những m? quan tr?ng nhất thuộc những tỉnh như Quảng ?ông, Quảng Tây và Vân Nam, nhất là những vùng giáp ranh với biên giới nước ta. Những cổ thư của Trung Hoa từ đ?i Tấn như Hoa Dương Quốc Chí, đ?i ?ư?ng như Man Thư hay đ?i Minh như Thiên Công Khai Quốc đ?u có ghi rõ vấn đ? này và nhấn mạnh các m? kim loại v? đồng, thiếc, chì thư?ng thấy có ở phía Tây Nam, Trung Hoa chứ mi?n ?ông Bắc không có hay ít có. (Sách Thiên Công Khai Quốc còn ghi rõ những m? này ở phía tây nam thuộc ?ại Việt).

Trái với những cổ thư vừa kể, ngày nay một số h?c giả đã cho rằng mi?n bắc Trung Hoa, vùng tỉnh Hồ Nam có m? đồng và thiếc (h?c giả Nhật Amano-Motonosukae và Shih Chang-gu trong tác phẩm Tahogakuhò 1953, hay 1931-58). ?ây là điểm mà h?c giả Trương Quang Trực của Trung Quốc đã lấy làm luận cứ để phản bác thuyết cho rằng Trung Quốc th?i cổ đại không có kỹ thuật đồng sớm.

Xem như vậy, văn hóa đồng thau đã phát triển gần như đồng bộ ở mi?n đất nay là phía bắc Việt Nam và phía nam Trung Hoa vùng Hoa Nam, dù rằng ở phía bắc Việt Nam có thể phát triển sớm hơn đôi chút. Sự kiện này khiến ta có thể ph?ng đoán sự liên hệ rất mật thiết giữa hai phần đất kể trên v? văn hóa cũng như v? phương diện, xã hội, kinh tế, tổ chức nhà nước và cả vấn đ? chủng tộc nữa. Văn hóa, kỹ thuật đồng thau ở vùng Hoa Bắc thuộc Trung Quốc là nơi phát tích ra nước Trung Hoa ngày nay có những điểm hơi khác chứ không giống như hai mi?n Việt Nam và Hoa Nam bây gi?. ?ó là điểm sẽ được trình bày chi tiết hơn ở phần sau.

Cũng như tại Việt Nam và hầu hết các nước khác, văn hóa đồ đồng tại Trung Hoa tương ứng với th?i gian Trung Hoa lập quốc nên rất được các nhà khảo cổ hiện đại nghiên cứu. Tuy nhiên, Trung Hoa là một nước lớn, có n?n văn hóa rực rỡ nhưng rất phức tạp. Bởi vậy, tìm hiểu th?i đại đồ đồng ở Trung Hoa không phải là đi?u đơn giản. Muốn hiểu nét đại cương v? th?i này, tưởng phải chia Trung Hoa ra làm nhi?u mi?n: mi?n Hoa Nam, mi?n Trung và ?ông Trung Hoa thuộc khu vực của các nước Sở, Ngô, Việt, mi?n Tứ Xuyên, Tây Trung Hoa thuộc nước Thục và mi?n Bắc, nhất là trung tâm Anyang, Thiểm Tây, Sơn Tây coi như cái nôi của nước Trung Hoa. Nhìn theo lối cổ sử, Trung Hoa khởi đầu bằng th?i đại Tam Hoàng, Ngũ ?ế và Tam ?ại. Không nói, Tam Hoàng, Ngũ ?ế có tính cách huy?n sử, ngay Tam ?ại là Hạ, Thương, Chu (Hạ khoảng 2850 năm trước Kỷ Nguyên, Thương khoảng 1618 năm trước Kỷ Nguyên và Chu khoảng 1122 năm trước Kỷ Nguyên) thì sử h?c và khảo cổ h?c ngày nay chỉ công nhận lịch sử Trung Hoa bắt đầu từ đ?i nhà Thương. Trước đó coi như huy?n sử cả.

V? th?i đại đồ đồng của Trung Hoa nghĩa là th?i đại Trung Hoa lập quốc, có thể xét theo ba giai đoạn như sau:

* Giai đoạn một, từ đầu thế kỷ này trở v? trước, hầu hết những nhà khảo cổ khai quật các di chỉ ở Trung Hoa đ?u là những ngư?i Tây phương. Cũng không lấy làm lạ nếu những h?c giả này nhìn lịch sử Trung Hoa nói chung và khảo cổ h?c Trung Hoa nói riêng theo con mắt Tây phương hồi đó. Theo h? phương Tây là trung tâm điểm của văn minh nhân loại. Hầu hết m?i hoạt động văn minh ở các mi?n đất khác đ?u có nguồn gốc từ phương Tây. Khảo cổ h?c không ra kh?i thông lệ đó. G. Anderson, trong quyển An Early Chinese Culture năm 1921 đã phát biểu đồ gốm có hoa văn ở Trung Hoa phát xuất từ mi?n Anaoy phía nam Turknenia, còn những cái đỉnh ba chân (tripod) có nguồn gốc từ vùng Ukraine ở ?ông Bắc Âu. Những tác giả nổi tiếng đã từng nghiên cứu và có tác phẩm v? đồ đồng ở Việt Nam như G. Goloubew, E. Karlgren, O. Jansé và R. Heger-Geldern cũng đã từng phát biểu đồ đồng ở Trung Hoa gốc từ phương Tây. V? niên đại phát sinh ra văn hóa đồ đồng, Anderson đã đ? nghị đó là năm 1300 với n?n văn hóa Hsin Tien (Anderson - Préhistory of Chinese).


NIÊN ?ẠI 2 (TRUNG HOA)


* Giai đoạn hai có thể bắt đầu với nhà khảo cổ ti?n phong của Trung Hoa là Lichi. Trong quyển The Beginnings of Chinese Civilisation, ông đã đặt vấn đ? một cách rất tế nhị: Th?i đại đồ đồng ở Trung Hoa như được biết đến ngày nay là vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Kỷ Nguyên đến giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Kỷ Nguyên nghĩa là kéo dài khoảng 1000 năm. Nhưng khó mà định được niên đại khởi thủy cũng như niên đại kết thúc của th?i kỳ này một cách chính xác. Ông đ? nghị một bản niên đại đồ đồng không khác với bản niên đại do Anderson đ? nghị là bao nhiêu, lấy năm 1384 trước Kỷ Nguyên là khởi đầu của th?i đại này.

NIÊN ?ẠI 3 (TRUNG HOA)

* Giai đoạn ba là giai đoạn có nhi?u nhà khảo cổ Trung Hoa đã viết v? th?i đại đồ đồng của nước mình. Những tác phẩm viết bằng ngoại ngữ và có ảnh hưởng lớn trên trư?ng quốc tế phải kể đến quyển The Archaeology of Ancient China của Kwang-Chih-Chang (Trương Quang Trực), quyển The Cradle of The East của Ping-Ti-Ho hay quyển Archaeologied Studies in Szechwan (1957) của Chêng Tê Kun (Trịnh ?ức Khôn - Nghiên cứu v? văn hóa vùng Tứ Xuyên). Gần đây nhất là hai bản tham luận rất có giá trị tại buổi hội thảo chuyên đ? v? Trung Hoa ở Bexley năm 1978 của Noel Barnard và của Orsola Martius Franklin. Cả hai đã nói đến nguồn gốc bản địa của văn hóa đồ đồng ở Trung Hoa. Nhưng nguồn gốc bản địa này là bản địa nào? Như chúng ta vừa nói ở trên, Trung Hoa là nước lớn, có nhi?u vùng khác biệt v? m?i phương diện. Ở đây, riêng v? văn hóa đồ đồng, chúng ta cần phải xét sự khác biệt đó ít ra là ở bốn vùng khác nhau. Vùng Hoa Nam, vùng ?ông Nam thuộc các nước Sở, Ngô, Việt, vùng Tứ Xuyên thuộc phía Tây và vùng phía Bắc là cái nôi sinh ra nước Trung Hoa ngày nay.

Chúng ta sẽ không nói nhi?u v? vùng Hoa Nam vì như trên đã nói, Hoa Nam và Bắc Việt Nam có nhi?u điểm tương đồng. Có thể nói mà không sợ sai lầm lắm là hai mi?n đó cùng thuộc một n?n văn hóa.

Vùng thứ nhì là vùng bao gồm trung tâm của nước Trung Hoa ngày nay ra đến b? biển phía ?ông tức vùng nay thuộc các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, phía Tây tỉnh Tứ Xuyên ra đến Giang Tây, Phúc Kiến, Triết Giang tức là vùng thuộc các nước Việt, Ngô và Sở ngày xưa có thể g?i là vùng văn minh lúa nước. Tiêu biểu cho n?n văn hóa này có thể tìm thấy ở nước Sở là một nước lớn vào th?i đại Xuân Thu, Chiến Quốc. Theo Trương Quang Trực (sđd, trg 382), Sở đã không công nhận nhà Chu, tự phong vương và vào th?i thịnh trị nhất có cương vực rất lớn, chiếm tr?n khoảng trung tâm Trung Hoa ngày nay: phía Tây ăn vào tỉnh Tứ Xuyên, phía bắc lấn phần lớn tỉnh Hồ Bắc, phía nam chiếm tr?n tỉnh Hồ Nam. Ảnh hưởng của Sở còn lan sang phía đông đến tận Giang ?ông, Triết Giang, phía tây và tây nam đến Tứ Xuyên và Vân Nam nữa. Chính nước Sở đã khởi đầu việc chiếm các nước thuộc tộc Bách Việt nh? ở phương nam. Vì vậy, khi bị nước Tần dứt năm 223 trước Kỷ Nguyên, các nước thuộc Sở đ?u bị nhập vào Tần. Vô hình chung, Sở đã mở đư?ng cho nhà Tần chiếm gần tr?n đất đai thuộc đại tộc Bách Việt. Trong th?i thịnh trị, đã nhi?u lần Sở đánh lên phương bắc, có ý định thống nhất toàn cõi Trung Nguyên. Lần tranh giành với Hán tộc cuối cùng đã được tiểu thuyết hóa thành bộ truyện Hán Sở Tranh Hùng, mà kết cục Sở Bá Vương đã để nước Sở bị mất v? tay Lưu Bang. Do đó, nhà Hán đã thống nhất Trung Nguyên. Văn hóa đồ đồng ở Sở vô cùng rực rỡ. Tiêu biểu ngư?i ta đã tìm thấy một đỉnh ba chân bằng đồng nặng đến 400 ký, chứng t? kỹ thuật đúc đồng ở đây rất tiến bộ. Vào năm 1963, ngư?i ta đào được rất nhi?u di chỉ đồ đồng thuộc Hồ Bắc. Cũng năm đó, tại phía nam và phía đông nam ?ộng ?ình Hồ thuộc Hồ Nam, cũng tìm thấy rất nhi?u di chỉ đồ đồng mà ngư?i ta g?i là đồ đồng đ?i Thương. ?úng ra, văn hóa đồ đồng vùng này th?i ấy thuộc nước Sở, tộc Bách Việt. Một trong những dụng cụ đào được ở Trư?ng Sa thuộc Hồ Nam trong lòng ngôi mộ Thụ Mộc Lĩnh năm 1974, là một dao găm hình tượng ngư?i, tay chống nạnh, đeo vòng, đầu đội mũ. Các nhà khảo cổ quốc tế thư?ng g?i dụng cụ đó là dao găm ?ông Sơn. Các nhà khảo cổ Trung Quốc cũng thừa nhận như vậy (Trịnh Sinh và Nguyễn Thị Trích 1969, Trịnh Sinh - Khảo Cổ H?c 1997). (Hình 3)

Cũng thuộc n?n văn hóa đồng tại vùng này, nhưng nhích sang phía đông một chút, tại tỉnh Triết Giang, xưa thuộc nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn, tộc Bách Việt, ngư?i ta đã tìm được những rìu xéo cũng mang phong cách hoàn toàn ?ông Sơn, loại rìu có đôi giao long quấn vào nhau, trên cán có bốn ngư?i đang ở trong tư thế chèo thuy?n, tìm thấy ở Huyện Cẩn, Triết Giang. (Hình 4a, 4b)

Viết v? những di tích này, một h?c giả ngư?i Pháp trong quyển sách giá trị Le Vietnam là ông L. Bezacier cho là nh? sự khám phá của những đoản kiếm tại TSin-ning và những dao găm ở Hồ Nam, ngư?i ta bây gi? có thể khẳng định mà không sợ sai lầm lắm là những đoản kiếm đã thấy ở Pékin, cũng như những dao găm ở Hồ Nam có cùng một nguồn gốc văn hóa với những dao đã đào được ở Sơn Tây, Việt Nam. (Hình 5a, 5b)

Có thể n?n văn hóa này đã phát xuất từ một nơi nào đó ở phía Nam hay ?ông Nam Trung Hoa hay tại phía Bắc Việt Nam. Tất cả những nơi này đ?u cùng thuộc một văn hóa chung vậy. Nếu cần tìm thêm những chứng cớ v? một khung văn hóa chung cho cả mi?n này, chúng ta có thể kể đến chiếc trống đồng, công bố năm 1996 ở khu mộ cổ Thượng Mã Sơn, thuộc huyện An Cát, tỉnh Triết Giang tức thuộc khu vực nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn xưa. Chiếc trống này giống y hệt trống Lãng Ngâm được khai quật năm 1972-1973 tại di chỉ Lãng Ngâm thuộc huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc. Cùng dạng với hai trống này, ngư?i ta còn thấy nhi?u trống khác nh? hơn tìm được ở Gia Lâm, ở các địa điểm đồng bằng sông Hồng và sông Mã. ?iểm này sẽ được nói rõ hơn trong bài trống đồng. (Hình 6a, 6b)

V? văn hóa đồng thau ở vùng thuộc Sở, Ngô, Việt còn rất nhi?u đi?u đáng nói, nhưng tưởng có thể tạm kết thúc để đi đến vùng thứ ba ở Trung Hoa cũng có rất nhi?u sự liên hệ đến lịch sử Việt Nam. ?ó là vùng Tứ Xuyên. G?i là Tứ Xuyên vì nơi đây là bắt nguồn bốn con sông lớn tại Trung Hoa. Th?i Tam Quốc g?i là ?ch Châu, Ba Thục. Th?i kháng Nhật là vùng Trùng Khánh. Ngày xưa có tên g?i là nước Thục mà đã có một th?i các nhà viết sử Việt thư?ng cho đó là gốc tích của Thục Phán, đã dứt vua Hùng của nước Văn Lang để lập nên nước Âu Lạc. Sự thực hư v? vấn đ? này như thế nào sẽ được trình bày ở bài sau. Ở đây ta chỉ cần lưu ý rằng nước Thục với đất cổ Việt quả có những liên hệ khá đặc biệt. Bởi theo nhi?u nhà khảo cổ, Thục là địa đầu của con đư?ng, một mặt nối với mi?n bắc Trung Hoa, một mặt đi sang phía tây để tiếp xúc với thế giới văn minh phương Tây, một mặt có đư?ng đi v? phương nam, nối li?n với n?n Văn hóa Hòa Bình. Chính con đư?ng này, ngư?i Hòa Bình đã di lên phương bắc trong th?i kỳ biển tiến ở châu thổ sông Hồng, rồi vượt núi Ngũ Lĩnh để vào lưu vực sông Hoài, góp phần lập nên n?n văn hóa Ngưỡng Thi?u. Theo h?c giả Trịnh ?ức Khôn (Chêng Tê-Kun) thì nước Thục đã được thành lập vào năm 1122 trước Công Nguyên và bị nhà Tần dứt vào năm 122 trước Kỷ Nguyên. Th?i Thượng Cổ, Thục có thể đã được những ngư?i từ mi?n đông Trung Quốc di đến bằng thuy?n lập nên. Văn hóa cổ của Thục được Tần di vào từ phương bắc và có ảnh hưởng của n?n văn hóa du mục từ tây bắc. Tuy nhiên, mặt khác, Thục đã được tiếp xúc với n?n văn hóa đồ đồng của ?ông Sơn, bằng cớ là những trống đồng tìm thấy ở đất Thục không có tính cách Trung Quốc. Theo h?c giả này thì không có một n?n văn hóa thuần túy đồ đồng tại Tứ xuyên mà ta đã thấy đồ đồng và đồ sắt cùng song hành tồn tại tại đây. Tưởng cũng không phải là vô ích khi nói thêm rằng có nhi?u tác giả, kể cả ông Trịnh ?ức Khôn đã từng xác minh rằng văn hóa đồ đồng và đồ đá ở Tứ Xuyên đã chứng t? chủ nhân là dân cư nông nghiệp, dùng cuốc, đánh cá, ở nhà sàn, đã sử dụng những rìu có vai là loại rìu không có ở văn hóa Ngưỡng Thi?u mà là một đặc điểm của văn hóa Hòa Bình, văn hóa cổ Việt. Vùng g?i là Tứ Xuyên đó có n?n văn hóa không phải là đơn giản. Trước khi bị Tần thôn tính, vùng này đã do ít ra tám nước h?p thành. ?ó là các nước: Jung, Sho, Chan, Mow, Wei, Lo,Peng và Pu (Trịnh ?ức Khôn - sđd). Xem như vậy, danh từ Bách Việt cũng có thể hiểu là Trăm nước Việt. (Bản đồ 6)

VietLang
04-04-2005, 04:22 PM
Bây gi? chúng ta xét đến phần căn bản của văn hóa đồ đồng đích thực là văn hóa đồ đồng Trung Quốc. ?ó là vùng gốc là Anyang và các tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây. ?ồ đồng ở vùng này, như trên đã nói, theo Anderson có niên đại là 1300 năm trước Kỷ Nguyên và theo Lichi là 1384 năm. Niên đại này so với niên đại đồ đồng th?i Phùng Nguyên có sau đồ đồng tìm được ở Tràng Kênh [có niên dại C14 = 1425 +/- 100BC (Bln-891)] độ gần 100 năm nghĩa là bằng với đồ đồng tìm được ở Gò Bông. So với đồ đồng sớm nhất tìm được ở mi?n nam Trung Hoa, tại Hải Môn Khẩu có niên đại C14 = 1130 +/- 90BC thì sớm hơn đồ đồng ở Vân Nam hơn 200 năm. (Bản đồ 7)

V? thành phần hợp kim của các dụng cụ này, các nhà khảo cổ Trung Hoa đã phân tích từng loại dụng cụ một và thấy rằng thành phần hợp kim của mỗi loại dụng cụ lại không giống nhau. ?ại để như mũi tên thì đồng nhi?u nhất, rồi đến dao găm, cái ko rồi đến các chậu và đoản kiếm. Chì đã có ngay từ những dụng cụ tìm thấy ở văn hóa Hsiao Tun.

Xét đến thành phần hợp kim của một loại chiến cụ đặc biệt nhất trong th?i Thượng cổ là cái ko (hình 7a, 7b, 7c) mà chúng ta sẽ có dịp phân tích và chứng minh đây là khí giới làm chủ chiến trư?ng. Nh? đó nhà Tần đã thống nhất được Trung Quốc, cũng nh? đó nhà Hán đã bành trướng được v? phương Nam (Lichi - The Beginnings of china, Trương Quang Trực - The Archaeology of Ancient china). Thành phần hợp kim cái ko này đã được nghiên cứu trong 5 cái ở các địa điểm khác nhau từ Anyang cho đến Chun Hsien và Chi Hsien và trong các th?i đại khác nhau từ đ?i Thương cho đến cuối đ?i Chu. Ngư?i ta thấy rằng ở đ?i Thương, thành phần đồng của cái ko là 88,98% mà chì có 2,59%. ?ột nhiên chì giảm xuống rồi đến cuối đ?i Chu tăng lên đến 13,55% trong khi đồng chỉ còn có 66,27%. (xin xem bảng 17). Ta nhấn mạnh đến tỷ lệ giữa đồng và chì vì như đã nói ở trên, chì khi nhập vào hợp kim này đã đem đến cho hợp kim những tác dụng đặc biệt lạ lùng mà không hiểu sao ngư?i xưa đã tìm biết được, đến nay những nhà hợp kim hiện đại cũng phải ngạc nhiên.

Có đi?u cần phải nhấn mạnh là tuy đồ đồng ở Việt Nam có thể phát triển rất sớm, có thể sớm hơn Trung Quốc một chút, nhưng đồ sắt lại phát triển chậm hơn. Dụng cụ bằng sắt đầu tiên đã thấy ở di chỉ Vư?n Chuối có niên đại C14 = 1120 +/- 120 BP nhưng đồ sắt chỉ phát triển từ khoảng 500 năm trước Kỷ Nguyên và cho mãi đến cuối th?i ?ông Sơn, hiện vật bằng sắt mới chiếm khoảng 34,5% (di chỉ ?ư?ng Mây). V? điểm này, nếu th?i đại đồng thau (500 BC v? trước) giữa mi?n Bắc Việt Nam và Vân Nam có những liên hệ gần gũi hơn là Bắc Việt Nam với Quảng ?ông, Quảng Tây thì ngược lại v? th?i kỳ đồ sắt (500 BC v? sau), sự liên hệ giữa Việt Nam với Quảng ?ông, Quảng Tây lại khắng khít hơn. Những cuốc sắt tìm được ở Chi?n Vậy (Hà Tây) khoảng 350 năm trước Kỷ Nguyên, cũng cùng một loại với những cuốc sắt tìm được ở Thiệu Hưng (Quảng ?ông) cũng hình chữ U khoảng 475 năm trước Kỷ Nguyên hay ở Ngân Sơn Lĩnh (Quảng Tây) cùng th?i gian đó. Hầu hết những dụng cụ này đ?u dùng cho ngh? nông. (Bản đồ 8)

Chúng ta không lấy làm lạ, năm 43 sau Kỷ Nguyên, Hai Bà Trưng dựng c? nghĩa, hô hào chống nhà Hán, nhân dân gồm từ phía Bắc Trung Việt ngày nay đến vùng Quảng ?ông, Quảng Tây, đảo Hải Nam đ?u nhất t? khởi nghĩa trong khi vùng Vân Nam lúc đó vẫn giữ nguyên tính cách độc lập. Phải chăng đó là kết quả sự hợp nhất từ th?i nước Nam Việt của Triệu ?à, mà một số các sử gia thư?ng coi đó là th?i kỳ Việt Nam bị lệ thuộc nhà Triệu. ?ứng v? phương diện công pháp quốc tế ngày nay, tuy Triệu ?à gốc ngư?i Hán, nhưng đã cai trị Nam Việt tức là từ vùng Quảng ?ông, Quảng Tây cho đến phía Bắc Trung Việt, dưới danh nghĩa là nước Việt của ngư?i Nam như tên quốc hiễu Nam Việt: cai trị bằng tập tục, bằng luật pháp Việt, hoàn toàn độc lập với Bắc phương, như vậy không thể coi là bị lệ thuộc. Nhất là chính Triệu ?à đã lấy vợ ngư?i Việt, đã lập tri?u đình, dùng quan lại là ngư?i Việt, đã sống theo tập tục Việt (tiếp sứ giả của vua Hán gửi đến bằng cách ngồi xổm). Ta sẽ còn quay lại điểm này để thảo luận thêm, nhưng tưởng có thể ghi nhận ở đây là: đ?c sử Âu Châu th?i Trung cổ, nhi?u khi ta thấy quân vương một nước do một ngư?i ngoại quốc đảm nhiệm vì một lý do nào đó, nhưng không vì vậy mà nước đó bị đổi tên theo tên nước của ngư?i quân vương bao gi?.

* * *

Bức tranh chúng ta vừa vẽ trên v? văn hóa đồ đồng mới chỉ là một bức tranh chấm phá. Còn cần rất nhi?u dữ kiện để có thể có những kết luận chính xác. Tuy nhiên, có thể tạm kết luận mà không sợ sai lầm lắm là: văn hóa đồ đồng tại Việt Nam là văn hóa bản địa, khởi xuất tại mi?n Bắc Việt Nam hay một nơi nào đó ở phía Nam hay ?ông Nam Trung Hoa ngày nay, th?i ấy, trước khi nhà Tần thống nhất Trung Hoa khoảng 223 năm trước Kỷ Nguyên, thuộc giòng giống đại tộc Bách Việt. Văn hóa đồ đồng đó có những kỹ thuật riêng lấy nguyên liệu từ nội địa của mình và có thể có sự trao đổi giao lưu với kỹ thuật ở những nơi khác, nhưng nhất định không phải là một văn hóa, một kỹ thuật du nhập từ ngoại quốc đến. V? đồ đồng được chế tạo tại Trung Hoa, các h?c giả trước kia cho là đã du nhập từ nơi khác đến nhưng hoàn hảo không kém đồ đồng ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Nghệ nhân th?i Thương đã góp phần hoàn chỉnh kỹ thuật mà h? đã h?c được từ các bậc sư phụ của h?. Nơi khác đó, trước kia theo một số các h?c giả phương Tây thì h?c từ Tây phương đem lại (Creel H.G. - The Birth of China 1936). Nhưng gần đây ngư?i ta đa đổi hướng và đã có những lý luận cho rằng những kỹ thuật ở Trung Hoa gần những kỹ thuật ở mi?n ?ông Nam ? hơn là kỹ thuật của Tây phương.(Noel Barnard, 1978).

***

Không ai phủ nhận văn hóa Trung Hoa là một n?n văn hóa lớn, và như bất cứ một n?n văn hóa lớn nào khác, nó phải đã thâu nhập những tinh hoa của nhi?u n?n văn hóa hợp lại. Ông Trương Quang Trực, một trong những sử gia hàng đầu của Trung Hoa ngày nay chắc hiểu rõ đi?u đó hơn ai hết nên không h? phủ nhận sự thực lịch sử này. Ông đã tóm lược một cách hết sức thông minh sự thâu hóa này qua hai nhận xét sau:

V? nguồn gốc chủng tộc: Nguồn gốc thực sự Hoa Hán chỉ là phần nh?, nhưng sau khi nhà Tần thống nhất thì dân tộc cả nước thống nhất ấy là dân tộc Trung Hoa.


V? văn hóa: Những n?n văn hóa địa phương th?i ti?n sử, sau khi thống nhất, đã trở thành một bộ phận của văn hóa Trung Hoa. (The Archaeology of Ancient China 1977:640).

Muốn tìm một câu định nghĩa khác v? văn hóa Trung Hoa, tưởng không có câu nào làm chúng ta phải bận tâm suy nghĩ hơn định nghĩa của h?c giả ngư?i Nga: Trước nhà Thương, văn hóa Trung Hoa được hình thành với sự bảo trợ ?, (tác giả dùng chữ Patronage) của văn hóa phương Nam, và sau Thương, là do văn hóa phương Tây. (Chesnov, 1977: 133). Câu h?i được đặt ra là: Văn hóa phương Nam, Chesnov nói ở đây thuộc văn hóa nào? Từ đâu lại? Hình như câu trả l?i nào khẳng định vào lúc này cũng có thể là câu trả l?i vội vã. Tuy nhiên, ngư?i viết thấy không thể không nhắc đến ở đây một nhận xét vô cùng độc đáo dưới con mắt vô tư của một h?c giả ngoại quốc (H.Loof Wissowa 1982) khi ông cho trống đồng không phải là loại phẩm vật trao đổi trong các cuộc buôn bán, mà nó tương tự như một `Quy?n Trượng` hay một `Vương Miện` của các vị Quân Vương ban cho các vua chư hầu hay một hình thức thần phục nào khác mà nhân loại đ?i sau không biết đến hay không nhắc đến trong các sử sách còn để lại. (Phạm ?ức Mạnh, KCH 1997/3, trg 50...). ?i?u này sẽ được nói đến chi tiết hơn trong bài trống đồng. Ở đây, ngưới viết chỉ muốn nhấn mạnh rằng bài này cũng như những bài v? Văn hóa Hòa Bình ngư?i viết trình bày trước đây, cho thấy sự đóng góp của văn hóa ?ông Sơn và văn hóa Hòa Bình vào sự hình thành văn hóa Trung Hoa là rất có ý nghĩa. Phải chăng muốn tìm hiểu văn hóa ?ông Sơn cho đến nơi đến chốn thì ngoài phần đất nay là Việt Nam, ta có thể tìm thấy vết tích của nó trong sách sử, trong văn chương, trong triết h?c, hay trong lòng đất (nhất là phần thuộc Hoa Nam) của Trung Hoa ngày nay.

Văn hóa ?ông Sơn quả là văn hóa đã lên đến đỉnh cao của nó trong th?i đại đồng thau, khi nhân loại bắt đầu th?i kỳ dựng nước. Tại vùng đất nay là Việt Nam, văn hóa ?ông Sơn đã tạo thành cái n?n vô cùng vững chắc, từ đó các vua Hùng đã dựng lên nhà nước Văn Lang vậy.

CUNG ?ÌNH THANH

VietLang
04-04-2005, 04:23 PM
http://www.hawaii.edu/cseas/pubs/vietnam/vn_map6.jpg


Tài liệu:

VietCyber.Com