PDA

View Full Version : C - CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN (NĂM B) ( Tấn thảm kịch của sự chọn lựa )



Dan Lee
08-18-2009, 09:26 PM
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN

Tấn thảm kịch của sự chọn lựa


Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy có thể được tóm gọn ở nơi những từ ngữ nầy: “Tấn thảm kịch của sự chọn lựa”. Có những chọn lựa mang tính quyết định đối với cá nhân hay dân tộc.

* Gs 24: 1-2a, 15-17, 18b: Bài Đọc I nhắc lại sự chọn lựa mà ông Gio-suê đề nghị cho dân Ít-ra-en định cư ở đất dân ngoại: chọn phụng thờ ngẫu tượng hay phụng thờ Đức Chúa, Đấng đã bảo vệ họ và dẫn đưa họ đến tận miền Đất Hứa.
* Ga 6: 60-69: Tin Mừng trình bày một chọn lựa khác: tin vào Đức Giê-su và lời hứa ban thịt và máu của Ngài, hay từ chối tin tưởng Ngài và không chấp nhận mầu nhiệm. Đây là thời điểm của lòng trung tín hay khước từ.
* Ep 5: 21-32: Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô hôm nay, Thánh Phao-lô thiết lập tình yêu giữa chồng và vợ Ki tô hữu với sự kết hiệp của Đức Giê-su với Hội Thánh của Ngài.

BÀI ĐỌC I (Gs 24: 1-2a, 15-17, 18b)

Sách Gio-suê tiếp liền ngay sau bộ Ngũ Thư; sách kể việc dân Thiên Chúa định cư ở Đất Hứa (thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên), những diễn biến của cuộc chinh phục, đoạn việc phân chia lãnh thổ giữa mười hai chi tộc Ít-ra-en.

Ông Gio-suê, kế nghiệp ông Mô-sê, lãnh đạo dân Do thái; ông là vị anh hùng chính của sách mang tên ông. Vào lúc cuối đời, noi gương ông Mô-sê, ông Gio-suê muốn căn dặn dân Do thái lần cuối, vì thế, ông quyết định triệu tập toàn thể các chi tộc ở Si-khem.

Địa điểm mà ông chọn lựa ở trung tâm Đất Hứa, về phương diện địa lý rất thuận tiện (miền nầy sau nầy được gọi là miền Sa-ma-ri); nhưng ngoài ra, miền nầy chất chứa biết bao kỷ niệm tôn giáo rất ý nghĩa: Si-khem là nơi tổ phụ Áp-ra-ham lưu trú đầu tiên khi đặt chân lên đất Ca-na-an và là nơi vị tổ phụ dựng bàn thờ đầu tiên kính Chúa. Đó cũng là nơi mà tổ phụ Gia-cóp đã tậu một thuở đất và đã chôn dưới gốc cây những thần linh ngoại giáo mà thân nhân của ông còn đem theo với mình, dấu chỉ từ bỏ đa thần giáo của họ trước đó, cử chỉ nầy báo hiệu đặc biệt độc thần giáo. Ông Gio-suê đòi hỏi một sự từ bỏ tương tự ở nơi con cái Ít-ra-en.

1. Tấn thảm kịch của sự chọn lựa:

Đoạn văn hôm nay được trích từ bài diễn từ của ông Gio-suê. Khung cảnh là phụng vụ: ông Gio-suê và tất cả các lãnh tụ dân Ít-ra-en “ra trình diện trước nhan Thiên Chúa”. Đây là biểu thức quen thuộc chỉ ra rằng có một đền thánh ở Si-khem (chắc chắn đền thánh chứa đựng hòm giao ước).

Ông Gio-suê đặt các chi tộc trước một sự chọn lựa cơ bản: phụng thờ đa thần giáo của dân ngoại hay phụng thờ Đức Chúa. Sự quyến rủ của đa thần giáo có thể bắt nguồn từ các vị thần linh mà các tổ tiên của họ đã thờ phượng, hay từ sự thờ thượng của dân Ê-mô-ri nơi họ định cư. Dân Chúa chọn phải chọn lựa. Ông Gio-suê đòi hỏi họ long trọng làm mới lại giao ước. Lập luận cốt yếu mà ông đề xuất là sự trung tín của Đức Chúa, chính Ngài đã hướng dẫn dân Do thái đến tận Đất Hứa nầy bất chấp mọi trở ngại và đã thực hiện lời hứa của Ngài. Dân Ít-ra-en phải đáp trả sự trung tín của Thiên Chúa bằng cách cam kết phụng thờ Ngài “vì Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.

2. Giao ước ở Si-khem:

Trên bình diện lịch sử, một cuộc triệu tập như vậy rất có thể cho thấy là cần thiết để cấu trúc lại sự duy nhất của dân Chúa chọn, vì dân Do thái vào Đất Hứa, đất mà các tổ phụ đã sống và gặp lại những hậu duệ đã không rời quê hương sang Ai-cập cùng với các con của tổ phụ Gia-cóp. Cốt là sáp nhập các thị tộc khác nhau nầy vào lòng các chi tộc Xuất Hành. Cuối cùng sự hiệp nhất thì cần thiết trước khi phân tán khắp sứ sở Ca-na-an. Chỉ cùng một lời tuyên xưng đức tin mới có thể gắn bó những yếu tố rời rạc của dân Thiên Chúa.

Nhưng về phương diện lịch sử, giao ước Si-khem chắc chắn sao chép phụng vụ, được cử hành theo chu kỳ để công bố sự canh tân Giao Ước. Sách Đệ Nhị Luật xem ra làm chứng điều nầy, một bài thuyết giáo về Giao Ước theo sát sơ đồ của bài diễn từ ông Gio-suê; hay đúng là trong sách Đệ Nhị Luật, ông Mô-sê căn dặn hằng năm dân Ít-ra-en phải tưởng niệm lời cam kết của mình đối với Đức Chúa.

Một ngàn năm sau, việc tưởng niệm như vậy cấu thành yếu tố cốt yếu của “lễ Ngũ Tuần”; hằng năm người ta làm mới lại giao ước Xi-nai (thật lạ kỳ, bài diễn từ của ông Gio-suê không được kể đến).

Cuối cùng chúng ta ghi nhận rằng chính trong suốt cuộc triệu tập vĩ đại ở Si-khem, vào năm 931 trước Công Nguyên sự duy nhất của dân Chúa chọn bị thách đố: mười chi tộc thiết lập vương quốc phương Bắc, còn hai chi tộc thiết lập vương quốc phương Nam, hay vương quốc Giu-đa, thủ đô là Giê-ru-sa-lem. Sự phân ly đau đớn hình thành nên phản đề với hành động hiệp nhất của ông Gio-suê.

BÀI ĐỌC II (Ep 5: 21-32)

Chúng ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư thánh Phao-lô gởi các tín hữu Ê-phê-sô, phần luân lý và khuyên bảo.

Sau khi đã nói về đời sống mới của người Ki tô hữu, được phép Rửa khai mạc, thánh nhân đưa ra vài lời căn dặn liên quan đến đời sống gia đình: thánh nhân liên tục gợi lên những mối liên hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, chủ và tớ.

Mối liên hệ giữa chồng và vợ mà đoạn văn chúng ta bàn đến hôm nay.

Chúng ta cần thiết phải nhận ra hai khía cạnh khác nhau trong bản văn nầy: một khía cạnh đã lỗi thời, sự phát triễn của những phong tục tập quán đã khiến cho những lời đề nghị của thánh nhân không còn thích hợp nữa; một khía cạnh khác, luôn luôn có giá trị và luôn luôn hiện thực: sự hiệp nhất của Đức Ki tô với Giáo Hội của Ngài được sánh ví với sự hiệp nhất của chồng với vợ Ki tô giáo.

1. Khía cạnh lỗi thời:

Bản văn của thánh Phao-lô không còn đáp ứng tâm thức hiện nay của chúng ta. Quả thật, trong bối cảnh tôn giáo, văn hóa và xã hội của thánh nhân, cần phải điều chỉnh lại lời khuyên “vợ phải tùng phục chồng” trong thế giới “bình đẳng nam nữ” hôm nay. Mặc dầu viết từ Rô-ma, thánh nhân vẫn đứng trong truyền thống Do thái khi nghĩ đến trước tiên bổn phận của người vợ Do thái. Chúng ta cũng phải khảo sát hậu cảnh tôn giáo của lời đề nghị nầy: Giáo Hội tùng phục Đức Ki tô, chấp nhận Tin Mừng của Ngài và tuân giữ các huấn lệnh của Ngài như thế nào thì người vợ phải phục tùng chồng như vậy. Cuối cùng chúng ta nên nhắc lại rằng, về phương diện pháp lý, việc vợ tùng phục chồng, thậm chí ở Đông Phương, ngay cả ở Việt Nam: “xuất giá tòng phu” của chúng ta, từ lâu đã bị hủy bỏ rồi.

Còn đối với lời khuyên: “còn người chồng phải yêu vợ mình như yêu chính thân thể mình” không phải là không xúc phạm đến người phụ nữ sao? Phải nói thực, linh đạo hôn nhân, sau một lịch sử lâu dài đã vượt qua những cách nói như vậy. Tình nghĩa vợ chồng được sống theo Ki tô giáo là lời mời gọi thường hằng ra khỏi cái tôi của mình, yêu người bạn đời như chính người ấy, quên đi bản thân mình. Thánh Phao-lô đã không tiên cảm điều đó khi nói rằng người chồng phải bắt chước Đức Ki tô, Ngài đã “yêu thương và hiến thân mình vì Hội Thánh” đó sao?

Vì thế, trước tiên phải vượt qua những cách nói nầy và những mâu thuẩn bên ngoài, mà cố gắng thấu hiểu tư tưởng của thánh nhân chủ yếu thuộc loại suy.

2. Truyền thống kinh thánh:

Thánh Phao-lô áp dụng cho Đức Ki tô và Hội Thánh Ngài ngôn ngữ của các ngôn sứ, họ diễn tả tình yêu của Đức Chúa đối với dân Ít-ra-en, dân Ngài, bằng những từ ngữ hôn nhân. Hình ảnh lên đến tận ngôn sứ Hô-sê (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên), vị ngôn sứ nầy đã trình bày hình ảnh nầy một cách thống thiết; hình ảnh nầy trở thành kinh điển; chúng ta gặp lại hình ảnh nầy nhất là tại ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en, I-sai-a đệ nhị, hình ảnh xuất hiện một lần nữa, được thiêng liêng hóa, trong sách Khôn Ngoan (thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên). Chính trong trào lưu nầy mà viễn cảnh của thánh Phao-lô được định vị.

Việc so sánh tình nghĩa vợ chồng phàm nhân với tình nghĩa thần linh thì tuyệt vời, dù rằng không phải mọi yếu tố đều thích đáng. Quả thật, sự so sánh vẫn kiếm khuyết ở nơi mức độ người chồng được đồng hóa với Đức Ki tô, được tô điểm bằng sự hoàn thiện, cao cả, uy quyền; trái lại, người vợ xem ra bị lệ thuộc, nhiều kiếm khuyết, cần được tinh tuyền và thánh thiện “để ra mắt Người”.

Cũng vậy, trong Cựu Ước, Đức Chúa là vị hôn phu rất mực thủy chung, không bao giờ quên những lời thề hứa của mình; trong khi vị hôn thê, dân Do thái, thường bội thề, phản bội Thiên Chúa của mình, vi phạm các huấn lệnh của Ngài, chạy theo các ngẫu tượng.

3. Tôn giáo tình yêu:

Nhưng vì so sánh như vậy, tình yêu của vị hôn phu kèm theo những đòi hỏi đặc thù; vị hôn phu đòi buộc phải yêu thương vị hôn thê của mình “cũng như Đức Ki tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh”.

Lời mời gọi chan chứa tình nghĩa chồng vợ nầy tạo nên một dấu nhấn mới làm xôn xao ở giữa lòng xã hội ở đó chỉ người chồng mới có quyền rẩy vợ và ở đó chỉ người phụ nữ ngoại tình bị trừng phạt (dù rằng tội đồng lõa cũng bị trừng trị [Lv 20: 10; Đnl 22: 22], tuy nhiên chúng ta ghi nhận rằng việc người chồng ngoại tình hiếm khi bị kết án).

Trong mức độ rộng lớn, đây cũng là sự mới mẽ giới thiệu những bổn phận hổ tương giữa “kẻ mạnh” và “người yếu”. Kẻ mạnh phải có bổn phận đối với người yếu: đó cũng là bổn phận của cha mẹ đối với con cái, chủ đối với tôi tớ.

Chính ở nơi sự biến đổi sâu xa của tâm thức nầy mà thánh nhân mời gọi khi đề nghị bắt chước Đức Ki tô như mẫu gương tuyệt vời nhất.

4. Hội Thánh là hôn thê và thân thể của Đức Ki tô.

Đoạn trích thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô nầy, vốn phát triển một trực giác đã xuất hiện kể từ thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô (2Cr 11: 2), đây là cách diễn tả đạo lý rõ ràng nhất của thánh Phao-lô về Hội Thánh là “thân thể của Đức Ki tô”.

Đức Ki tô đã thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh, tức các chi thể, “bằng nước và lời hằng

sống”, theo nguyên ngữ của bản văn Hy lạp “bằng việc tắm rửa kèm theo lời”. Thánh Phao-lô sử dụng từ “tắm rửa” vì phép Thánh Tẩy được thực hiện bởi việc nhận chìm vào bể nước, nhưng cũng ám chỉ đến nghi thức tắm rửa của vị hôn thê theo tập tục Do thái cũng như Hy lạp. Còn việc kể ra “kèm theo lời” rõ ràng là biểu thức phép Thánh Tẩy. Dù xác định thoáng qua nhưng thật quý báu biết bao.

Có thể cũng có một sự quy chiếu đến phép Thánh Thể, khi thánh nhân gợi lên “người chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, không ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi dưỡng và săn sóc thân xác mình”; đó là điều Đức Giê-su làm đối với Hội Thánh của Ngài.

5. Chiều kích cao cả của hôn nhân:

Sự kết hợp của Đức Giê-su với Hội Thánh vừa là sự nâng đỡ vừa là dấu chỉ hiệp nhất của đôi vợ chồng trần thế, đó là ý muốn của Đấng Tạo Hóa, vì “cả hai sẽ trở thành một xương một thịt”, như cách diễn tả của sách Sáng Thế mà thánh nhân nhắc lại.

Như vậy, sự hiệp nhất chồng vợ được tháp nhập vào trong một thực tại thánh, thực tại nầy siêu thăng đời sống hôn nhân. Mầu nhiệm thật là cao cả vì hình ảnh hôn ước giữa Đức Giê-su và Hội Thánh nâng đỡ sự cao cả của tình yêu hôn nhân.

TIN MỪNG (Ga 6: 60-69)

Đây là một trong những trang Tin Mừng thống thiết nhất.

Đức Giê-su đã hoàn tất diễn từ của Ngài về bánh ban sự sống; Ngài đã loan báo quà tặng thịt và máu của Ngài bằng những từ ngữ hiện thực nhất. Như vậy Ngài đặt để các môn đệ của Ngài trước một sự lựa chọn: hoặc tin vào điều không thể nào tin được và tin tưởng vào Ngài, hay nghi ngờ Ngài và từ bỏ Ngài vì “lời nầy chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”. Đức Giê-su đã không một chút đắn đo, dám liều vì sự thật.

1. Nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa:

Các môn đệ, tức là một nhóm đông hơn nhiều Nhóm Mười Hai, đã hiểu lời của Đức Giê-su theo nghĩa thuần túy vật chất: “lời nầy chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”. Đức Giê-su thử làm cho họ hiểu rằng để có thể hiểu những lời của Ngài, có một cách giải thích khác với cách giải thích của họ, không quá duy vật và “xác thể”, nhưng một cách “thần thiêng”.

“Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?”. Từ “chướng” theo nghĩa đầu tiên, có nghĩa sự trở ngại mà người ta vấp phải, như hòn đá trên đường.

“Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” Ngài muốn hướng tâm trí của họ về tương lai và ở bên kia cuộc tử nạn của Ngài, khi Ngài trở về nơi từ đó Ngài đến. Lúc đó ý nghĩa của những lời Ngài hiện ra một cách sáng tỏ.

“Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”. Lời của Đức Giê-su là thần khí và là sự sống, nghĩa là lời Đức Giê-su là Thần Khí làm cho sống, vì chỉ có Thần Khí mới làm cho người tín hữu thấu hiểu được những lời Đức Giê-su nói, những phép lạ Người làm (3: 6) và những thực tại thiêng liêng Người đã biểu lộ qua bản thân của Người (Ga 15: 26a). Trái lại “xác thịt”, tức phàm nhân, chỉ vuông tròn trong ánh sáng của riêng mình, không thể hiểu mầu nhiệm ân ban mà Đức Giê-su hứa. Thật mà nói, lập ngôn như vậy, cộng đoàn Ki tô hữu trung thành với bàn tiệc Thánh Thể dể hiểu hơn các môn đệ chán chường nầy.

2. Nỗi buồn của Đức Giê-su:

“Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người”. Tư tưởng của ông Giu-đa được nối kết rồi với tư tưởng của Tiệc Ly, điều nầy hé cho thấy rằng ông Giu-đa đã vấp ngã trên mầu nhiệm Thánh Thể và đã bắt đầu nghi ngờ Thầy mình khởi đi từ giáo huấn của Ngài về bánh ban sự sống.

“Từ đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa”. Trước việc các môn đệ rút lui không theo Ngài nữa và trước viễn cảnh về một sự phản bội, Đức Giê-su đặt một câu hỏi đượm buồn cho Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ thầy đi sao?”.

Nhan danh các môn đệ, thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại đời sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.

Thánh Phê-rô đặt đức tin trước tiên, rồi mới đến sự hiểu biết. Đức tin, được sinh ra trong ánh sáng của ơn gọi, mở đường đến những ánh sáng còn lớn lao hơn.

Mặc khải phép Thánh Thể đã đặt ra một sự chọn lựa bi thảm. Mặc khải nầy vẫn và sẽ vẫn “mầu nhiệm đức tin” đối với các tín hữu của mọi thời đại.

Lm. Ignatiô Hồ Thông