PDA

View Full Version : C - Chúa Nhật I Mùa Chay



Dan Lee
02-23-2009, 08:47 PM
CHÚA NHẬT I MÙA CHAY

Vào Chúa Nhật I Mùa Chay năm B, bài đọc I và bài đọc II đều hướng về điển hình học của phép rửa: hình ảnh của sự chết và sự phục sinh.

St 9: 8-15

Đoạn trích từ sách Sáng Thế gợi lên nhân loại mới được cứu khỏi trận Đại Hồng Thủy. Thiên Chúa ký kết giao ước với nhân loại mới nầy đại diện ông Nô-ê và các con của ông.

1Pr 3: 18-22

Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô muốn những người nhận phép rửa hiểu rằng việc vượt qua nước là dấu chỉ của việc họ tham dự vào cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Ki tô và đó cũng là sự dấn thân vào giao ước với Thiên Chúa.

Mc 1: 12-15

Tin Mừng là bài tường thuật rất ngắn của Mác-cô về cuộc thử thách của Đức Giê-su trong hoang địa: Ngài thắng các cơn cám dỗ, thế lực của sự ác.

BÀI ĐỌC I (St 9: 8-15)

Chữ "Ước" ở trong thuật ngữ "Cựu Ước và Tân Ước" được dùng để chỉ bộ Kinh Thánh được dịch từ tiếng la-tin: "Testamentum" từ nguyên ngữ Hy-lạp có nghĩa là "Giao Ước", vì thế, thuật ngữ "Cựu Ước và Tân Ước" phải được hiểu trọn nghĩa là "Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới".

Quả thật, chữ "Giao Ước" tóm gọn tinh thần của bộ Kinh Thánh. Vấn đề những mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người chạy xuyên suốt bộ Sách Thánh. Ấy vậy, có một chỗ đứt quãng giữa công việc của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và thi ân, và cách hành xử của con người, tội nhân, nhưng chỗ đứt quãng nầy về phương diện lịch sử được lòng xót thương của Thiên Chúa đổ đầy: sau vài án phạt điển hình, Thiên Chúa tha thứ và thiết lập lại giao ước với nhân loại.

1. Giao Ước với ông Nô-ê:

Đây là Giao Ước mà Thiên Chúa đã thiết lập sau trận Đại Hồng Thủy như án phạt khắp toàn cõi địa cầu của Thiên Chúa.

Với hai ông bà nguyên tổ, A-đam và E-và, giao ước là hàm ẩn; với ông Nô-ê, giao ước được minh nhiên bày tỏ, và qua ông và hậu duệ của ông, được gởi đến cho toàn thể nhân loại.

Tính cách phổ quát của giao ước với ông Nô-ê nầy càng đáng chú ý hơn những giao ước sau nầy. Giao ước được ban cho cho tổ phụ Áp-ra-ham cũng như giao ước được ký kết với ông Mô-sê bị thu hẹp và chỉ liên quan đến một dân tộc, được tuyển chọn giữa muôn dân (thực ra, dân Chúa chọn nầy có sứ mạng chuẩn bị ơn cứu độ phổ quát).

Mặt khác, sau trận Đại Hồng Thủy, Thiên Chúa cho cuộc sáng tạo một khởi điểm mới, một nhân loại mới lại bắt đầu. Ông Nô-ê là một người công chính, như A-đam trước đây đã là người công chính khi xuất ra từ bàn tay của Đấng Tạo Hóa. Vì thế, đích thật là một khởi nguyên mới.

2. Ơn cứu độ cho mọi người dưới dấu chỉ của nước:

Tác giả soạn thảo chuyện tích trận Đại Hồng Thủy nầy dựa trên những truyền thống xưa và những dữ kiện huyền thoại. Phải nói có hai chuyện tích về trận Đại Hồng Thủy được đan quyện vào nhau. Một chuyện tích xưa thuộc truyền thống Gia-vít không biết đến đề tài giao ước, và một chuyện tích khác muộn thời hơn thuộc truyền thống tư tế, được một tác giả tư tế soạn thảo có thể trong thời kỳ lưu đày hay sau đó một ít lâu. Đoạn văn của chúng ta được trích dẫn từ câu chuyện tư tế nầy. Đề tài giao ước được diễn tả ở đây. Tác giả khoắc một quan điểm thần học cho quá khứ xa xưa nầy. Khi cố gắng phân biệt giáo huấn Thiên Chúa ở đây, ông đã đọc thấy dấu chỉ của ơn cứu độ được dâng hiến cho mọi người và nước sẽ đóng một vai trò. "Nếu toàn thể nhân loại đã bị trừng phạt, cũng chính toàn thể nhân loại sẽ được cứu, lòng xót thương của Thiên Chúa còn lớn hơn cả tội lỗi nữa". Ơn cứu độ sẽ được thực hiện dưới dấu chỉ của nước, biểu tượng của cuộc tái sinh. Thánh Phê-rô, trong thư mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật nầy, gợi lên hình ảnh tiên trưng của phép rửa nầy.

3. Giao ước với tất cả mọi sinh vật:

Giao ước của Thiên Chúa trải dài cho hết mọi sinh vật. "Cử chỉ song đôi với hành vi sáng tạo" trong "các chuyện tích về các nguồn gốc". Nô-ê là A-đam mới, nhưng Thiên Chúa không cần tái tạo nên ông: cũng vậy, những sinh vật đã được cứu; từ nay, chúng được đảm bảo tồn tại. Thiên Chúa không từ chối bất cứ gì của cuộc sáng tạo nguyên thủy.

Chúng ta có thể nhấn mạnh thêm rằng tai họa của trận Đại Hồng Thủy đã chấm hết, nước phía trên đã được phân rẽ khỏi nước phía dưới, và đất trồi lên, như trong cuộc khởi nguyên đầu tiên. Tất cả lại bắt đầu. Như vậy phép rửa sẽ có ý nghĩa của sự chết và sự sống lại.

4. Cầu vồng:

Dân Hy-lạp xem cầu vồng là khăn quàng của nữ thần Iris, sứ giả của các thần linh. Dân Do thái, xoay quanh vấn đề những mối tương quan giữa trời và đất, thấy ở đây một dấu chỉ việc Thiên Chúa giao hảo với nhân loại. Chiếc cầu vồng nối liền trời và đất là hình ảnh về chiều kích phổ quát của Giao Ước, giải thích thi ca về lời hứa của Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC II (1Pr 3: 18-22)

Bài trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô nầy được chọn vì âm vang bài đọc I, gợi lên trận Đại Hồng Thủy và giao ước được thiết lập giữa Thiên Chúa và ông Nô-ê. Thánh nhân nhấn mạnh hình ảnh tiền trưng của phép rửa.

Thư thứ nhất của thánh Phê-rô nầy được viết ở Rô-ma vào những năm 60-64 (cuộc tử đạo của thánh nhân vào năm 64). Thư được gởi đến cho tất cả Ki tô hữu bị phân tán khắp miền Tiểu Á vì bị quấy nhiễu hay bị bách hại. Vị lãnh đạo Giáo Hội quan tâm đến đàn chiên của mình. Bức thư của thánh nhân nhắc nhớ những chân lý cốt yếu của đức tin, và đã thường được văn chương Ki tô giáo đầu tiên trích dẫn.

Bức thư nầy đã được soạn thảo bởi một cộng tác viên của thánh Tông Đồ, ông Sin-va. Ông cũng là người bạn đồng hành thân tín của thánh Phao-lô. Có lẽ vì lý do đó mà những dấu ấn của thánh Phao-lô âm vang nhiều đoạn của bức thư nầy. Trong đoạn trích hôm nay, chúng ta ghi nhận "chết vì tội lỗi chúng ta", sự đối lập "thân xác và thần khí", "phép rửa" đồng nghĩa với việc "tham dự vào cuộc phục sinh của Đức Ki tô".

Những Ki tô hữu mà thánh Phê-rô ngỏ lời phải chịu dân ngoại chế nhạo và vu khống. Thánh Tông Đồ khuyên họ hãy can đảm theo gương Đức Ki tô, Ngài đã chịu đau khổ dù vô tội. Từ đó thánh nhân gợi lên ơn Cứu Chuộc và những ân phúc của nó đối với những người đã qua đời cũng như những người đang sống.

1. Đối với những người đã qua đời: xuống cõi âm ty.

Một đoạn văn, hoàn toàn ngoại lệ trong các bản văn Tân Ước, gợi lên Đức Ki tô xuống ngục tổ tông (đây chính xác là một trong các bản văn mà niềm tin nầy dựa trên).

Việc xuống nơi cư ngụ của những người đã qua đời có nghĩa là ơn cứu chuộc của những tội nhân không chỉ có giá trị đối với những ai đã qua đời sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki tô, nhưng cũng có hiệu quả trở về trước nữa. Đức Ki tô đã đến "loan báo Tin Mừng" cho các vong nhân, và đặc biệt hơn nữa, cho những vong nhân bị lãng quên và bị nguyền rủa, ngay cả vào thời mà ông Nô-ê và con cái của ông là những người công chính duy nhất. Những vong nhân nầy xuất hiện trong truyền thống Do thái (và đặc biệt trong văn chương khải huyền) như những kẻ nổi loạn. Chắc chắn đó là lý do mà thánh Phê-rô trích dẫn họ để ca ngợi quyền năng của ơn Cứu Chuộc và lòng xót thương vô lượng hải hà của Thiên Chúa.

Mặt khác, việc Đức Giê-su xuống cõi âm ty nêu bật giá trị với việc Ngài lên trời trong vinh quang. Đấng xuống cõi âm ty chính là Đấng "ngự bên hữu Chúa Thiên Chúa, bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền Ngài". Vinh quang tuyệt mức đã đáp trả cho sự khiêm hạ tột cùng của Con Thiên Chúa, Đấng đã dự phần vào cõi hư vô của sự chết.

2. Đối với những người đang sống: phép rửa.

Đối với những ai hiện đang sống (và đối với những ai sinh ra sau nầy), biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki tô dâng hiến ơn cứu độ dưới dấu chỉ phép rửa.

Thánh nhân nhấn mạnh rằng không cốt thanh tẩy những vết nhơ thể xác như trong các nghi thức thanh tẩy của lương dân, nhưng cốt là một tâm hồn trong trắng.

Cùng với những bản văn trước đó của thánh Phao-lô, bản văn nầy làm chứng rằng "vào những năm 60, thần học phép rửa đã được bày tỏ và khẳng định rất rõ nét".

TIN MỪNG (Mc 1: 12-15).

Đoạn trích của Tin Mừng Mác-cô hôm nay gồm có hai phần: phần thứ nhất (1: 12-13) tường thuật những chuẩn bị cần thiết của Đức Giê-su cho sứ vụ công khai của Ngài; phần thứ hai (1: 14-15) tường thuật bước khởi đầu sứ vụ công khai của Ngài.

I. Đức Giê-su chuẩn bị cho sứ mạng công khai của Ngài (1: 12-13):

Tin Mừng Mác-cô kể lại cuộc thử thách của Đức Giê-su trong hoang địa quá giản dị đến ngạc nhiên. Tuy nhiên, điều cốt yếu được nói ở đây:

- Thánh Thần thúc đẩy.

- Bốn mươi ngày trong hoang địa.

- Chịu Sa-tan cám dỗ.

- Đức Giê-su chiến thắng Sự Dữ, được gợi ra một cách đơn giản bởi một dấu chỉ, dấu chỉ địa đàng: "sống giữa loài dã thú và có các thiên thần hầu hạ Người".

Trong giai đoạn cuộc đời của Đức Giê-su, phải phân biệt hai khía cạnh: rút vào hoang địa, chịu Sa-tan cám dỗ.

1. Rút vào hoang địa:

Ngay sau khi chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả và trước khi bắt đầu sứ vụ của mình, Đức Giê-su rút vào hoang địa. Ngài chuẩn bị sứ vụ của mình trong chiêm niệm, cầu nguyện và chay tịnh. Trước khi khai mạc công trình cứu độ của chúng ta, trước khi khởi sự cuộc đời phiêu bạt, khiêm hạ và hoàn toàn tuân theo theo mọi hướng dẫn của Chúa Cha, Đức Giê-su sống trong sự mật thiết với Cha Ngài và trang bị cho mình sức mạnh Thần Khí. Về phương diện nhân loại mà nói, Đức Giê-su chắc hẳn đã kinh qua sự e sợ và nỗi xao xuyến: Ngài đã gánh lấy thân phận yếu hèn của chúng ta; Ngài đặt mình liên đới với những âu lo của chúng ta. Ngài tăng cường lời cầu nguyện của mình bằng chay tịnh như sự huấn luyện "làm chủ bản thân mình", đồng thời như một hành vi "phụ thuộc vào Thiên Chúa".

Trước những giây phút quyết định, Đức Giê-su nhiều lần rút vào nơi cô tịch để cầu nguyện; Ngài đã cầu nguyện thâu đêm trước khi chọn các Tông Đồ của mình; Ngài đã cầu nguyện lâu giờ trước khi hỏi thánh Phê-rô lời tuyên xưng đức tin của ông; Ngài cũng đã thức suốt đêm cầu nguyện trước khi nói về Bánh Ban Sự Sống và công bố rằng Ngài ban chính mình làm của ăn của uống để nuôi sống chúng ta.

2. Thử thách:

Nhưng tại sao Ngài chịu ma quỷ cám dỗ? Ba lý do soi sáng vấn đề nầy.

2.1- Thử thách, thân phận con người:

Việc Đức Giê-su chịu ma quỷ cám dỗ nằm trong sự hợp lý ơn gọi của Ngài: Ngài đã đồng hóa mình với nhân loại tội lỗi, Ngài đã chấp nhận phép rửa sám hối; Ngài đã đi cho đến tận cùng của sự đồng hóa nầy khi chịu thử thách như số phận của con cái A-đam và E-và. Ngài chỉ cho chúng ta thấy làm thế nào chiến thắng sự thử thách. Và chính nhờ mẫu gương của Ngài, được Thánh Thần nâng đỡ như Ngài mà chúng ta có thể lập lại lời khẩn cầu mà Ngài đã dạy: "Lạy Cha…xin chớ để chúng con xa chước cám dỗ…".

2.2- Thử thách, nhắc lại những sự thử thách của Dân Chúa:

Nếu Đức Giê-su là một A-đam mới, một A-đam khải hoàn, Ngài cũng là một Mô-sê mới. Đức Giê-su đã muốn đòng hóa mình với dân Ngài, sống lại những thử thách của họ; Ngài đã biết cuộc lưu đày ở Ai-cập khi vừa mới chào đời; Ngài đã kinh qua hoang địa. Bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của Ngài nhắc nhớ không chỉ bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của ông Mô-sê trên núi Xi-nai, trước khi đón nhận những lời Giao Ước, nhưng cũng bốn mươi năm gian truân và thử thách mà dân Do thái đã trải qua trong hoang địa.

2.3- Thử thách, khúc dạo đầu cho cuộc tấn công sau cùng:

Cuộc đời của Đức Giê-su đầy những dấu chỉ. Cuộc thử thách trong hoang địa là một trong những dấu chỉ lớn lao. Nó là khúc dạo đầu cho một cuộc chiến vĩ đại chống lại quyền lực của Sự Dữ. Về phần mình, Sa-tan đã tiên cảm một đối thủ đáng gờm; nó sẽ tăng gấp bội nổ lực của mình, sẽ gây ra những phản bội và bỏ rơi, và bên ngoài có vẽ chiến thắng vào ngày thứ sáu sau thương khó của Ngài…

II. Bước khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su (1: 14-15):

Tiếp đó, thánh Mác-cô gợi lên việc ông Gioan Tẩy giả bị bắt và bước khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê, bản văn mà chúng ta đã nghiên cứu vào Chúa Nhật thứ ba thường niên năm B rồi. Tôi xin trích lại chú giải phần thứ hai nầy.

1. Bối cảnh:

Khi nghe tin Gioan Tẩy bị bắt, Đức Giê-su cho rằng cẩn trọng hơn nên rời bỏ miền Giu-đê trở lại miền Ga-li-lê. Giờ Ngài chưa đến để đón nhận số phận tương tự.

Ấy vậy, vua Hê-rô-đê An-ti-pa, người đã ra lệnh bắt giam Gioan Tẩy giả, đang cai trị xứ Ga-li-lê. Vì thế, xem ra Đức Giê-su muốn lánh xa Giê-ru-sa-lem, lánh xa trung tâm quyền lực Do thái giáo. Quả thật, Tin Mừng Gioan viết: "Nhóm Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp nhiều môn đệ hơn ông Gioan…Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê" (Ga 4: 1-3).

2. Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su.

Vào thời đó, miền Ga-li-lê là "ngã ba quốc tế", vì các đoàn quân ngoại quốc và các thương nhân đều phải qua lại ở nơi nầy; và từ lâu được mệnh danh là "miền đất của dân ngoại" (Is 8: 28) vì ở đây dân Do thái không chỉ sống chung với dân ngoại nhưng còn là nơi tiếp xúc với muôn dân. Vì thế, khi định vị sứ vụ đầu tiên của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê, thánh Mác-cô muốn nhấn mạnh rằng sấm ngôn về ơn cứu độ phổ quát của ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm nơi sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su: "Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi" (Is 9: 1).

Tiếng nói của vị Tiền Hô không còn vang lên nữa. Sứ mạng dọn đường cho Tin Mừng đã đến hồi kết thúc. Từ đây chính Đấng là hiện thân Tin Mừng xuất đầu lộ diện. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su bắt đầu sự vụ của mình ở Ga-li-lê với lời công bố tương tự như lời công bố của Gioan Tẩy giả, nhưng có một điểm khác biệt cốt yếu, sứ điệp không còn hướng đến tương lai, nhưng nhấn mạnh hiện tại: "Thời kỳ đã mãn".

Lm. Ignatiô Hồ Thông