PDA

View Full Version : M - Mùa Vọng



Dan Lee
12-03-2008, 07:48 AM
Mùa Vọng

Hai đặc tính mùa Vọng nhấn mạnh tới hai điều cơ bản: Dọn mình đón nhận Chúa Giáng Sinh và đón chờ ngày Chúa Quang Lâm. Với hai điều cơ bản này đều nhắc tới một thái độ sống duy nhất tỉnh thức và cầu nguyện. Vọng chờ với thái độ sống như trên, chúng ta thấy có sự khác biệt và tương đồng với chữ Vọng trong Phật Giáo được trình bày như sau:

Chữ Vọng:

Vọng được định nghĩa là: Chỗ nơi đặt vị trí quan sát. Hướng tới, nhìn về, tưởng nhớ, trông đợi. (Âm thanh): Từ xa đưa lại. Với ba ý nghĩa trên cũng tạm cho thấy từ ngữ diễn tả những đặc điểm quan trọng và cần thiết dần dà suy gẫm.

Vọng trong Phật Giáo phân thanh hai loại: Vọng ngã và vọng chấp.

Vọng ngã là cái vọng tự nhiên của con người sống kỳ vọng về chính mình: Ước muốn sống lâu hơn, dồi dào hơn về vật chất hay tinh thần hoặc sức khỏe, vọng tới tương lai vọng tới quá khứ. Vọng ngã dẫn tới hệ lụy buốn phiền, sầu não vì cuộc đời không được như ý, tiếc nuối những gì đã qua, đôi khi còn dẫn tới trí trá, lừa dối, ghen tỵ… Vọng ngã gây phiền muộn có khi vì mơ ước có sức khỏe tốt hơn nhưng thân này cứ mang bệnh tật, ước mong khá giả hơn nhưng cứ nghèo túng, có được tiếng tốt hơn nhưng cứ bị người đời cười chê…Kỳ vọng mà không được thì sinh ra phiền muộn, đau khổ.

Vọng chấp là cái vọng so sánh mình với người khác: Không được như người hoặc tự khoe khoang hơn người, cả hai thái độ so sánh đều khập khiễng vì mang những hệ lụy khổ đau phiền muộn. Thái độ so sánh thua kém mang tính mặc cảm tự ty, một đau khổ âm thầm day dứt con người thấp bé, một thái độ khác mang sắc thái tự tôn khiến cản trở không tiếp nhận gì được nơi người khác khiến chính mình tự làm nghèo đi trong cuộc sống.

Lối thoát: Không còn vọng chấp cũng chẳng còn vọng ngã, an nhiên tự tại sẽ xuất hiện. Không còn vọng nên sẽ không còn phải mang những cái đau khổ không đáng có, con đường ra khỏi vọng là con đường quẳng gánh lo âu đi mà vui sống. ví như người đang cầm chén cơm ăn, dù là đang ăn với rau luộc chấm nước mắm, biết mình đang co ăn là cái hạnh phúc của thực tại nhân sinh, nhưng vừa ăn vừa trông vào cái nghèo của mình sẽ dẫn đến đau khổ. Lý thuyết xem ra dễ dàng nhưng khó thực hiện bởi cuộc sống vẫn cứ phải âu lo về cái ăn, cái mặc, đặc biệt hơn vào những giai đoạn khó khăn về kinh tế, làm sao có thể có an nhiên tự tại?

Vọng theo hướng nhìn của Kitô giáo:

Vọng biểu hiện trong hai chiều kích: Tỉnh thức và cầu nguyện.

Tỉnh thức: Hình ảnh biểu trưng cho người tỉnh thức là hình ảnh của người mục tử. Người mục tử không hiểu đơn giản như nhiều người thường nghĩ ngay đến các chú nhỏ mục đồng chăn trâu vài ba con. Người mục tử chăn chiên trong văn hóa du mục là người chăm sóc cả bầy cỡ vài trăm đến vài ngàn con chiên. Tài sản càng lớn thì người chịu trách nhiệm càng cao, vì thế người mục tử là người mang tính chất của người mạnh mẽ, khôn ngoan, cương nghị. Người mục tử có tầm nhìn xa, dự đoán được tương lai, biết xem xét nhiều khía cạnh để có những quyết định tối ưu trong hiện tại. Người mục tử thứ thiệt là người biết chăm sóc cho đoàn chiên của mình, vừa bảo đảm tương lai vừa bảo vệ trong hiện tại. Người mục tử còn được gọi là người canh gác, nhìn đâu là sói, đâu là thỏ, đâu là hiểm nguy thật và đâu chỉ là chướng ngại không đáng. Theo nghĩa người canh gác, người mục tử là người nhận thức rõ ràng, đòi hỏi những con số minh bạch, nói theo ngôn ngữ những nhà đầu tư hôm nay. Chỉ số minh bạch trong kinh tế ngày nay cũng giống như đòi hỏi của người mục tử năm xưa, không dẫn đoàn chiên mình vào những đồng cỏ xen lẫn nhiều bụi rậm, ẩn khuất nhiều bóng tối, đồng cỏ đòi hỏi phải quang đãng, nhìn thấy rõ những gì từ xa đến, bởi vậy người mục tử năm xưa mới chọn cho mình cách thức hướng dẫn là người đi trước, người dẫn đường, chỉ lối, là người chịu trách nhiệm về đàn chiên của mình.

Cầu nguyện: Người tỉnh thức song đồng thời cũng là người sống đời cầu nguyện, bởi vậy tính cách biểu trưng của người mục tử năm xưa còn biểu hiện là cầu nối giữa trời và đất, người liên thông được với trời, người hiểu biết ý trời. Theo Jean Chevalier, người mục tử còn là người đại diện cho các linh hồn con người trên cõi đời này, luôn luôn chuyển dịch, nên người mục tử bao gồm hai sứ vụ bảo vệ và am hiểu, người chuyển cầu và người chịu trách nhiệm.

Chúa Giêsu nhận mình là Người Mục Tử nhân lành (Ga 10, 16), Người Mục Tử mà tất cả các tiên tri đều giới thiệu trước, sẽ đến chăn dắt dân của Người, là Hoàng Tử Bình An Vua Thái Bình.

Con đường của mùa vọng giống như người Phật tử là phát quang đi cái vọng gây phiền muộn, đau khổ, người Kitô hữu được Gioan Tẩy Giả mời gọi: Bạt đi núi cao, lấp lại những hố sâu, sửa ngay những con đường cong queo. Và điểm khác biệt giữa người Kitô hữu và Phật tử là: Người Phật tử phát quang cái vọng để lòng trống trải, an nhiên tự tại xuất hiện, người Kitô hữu sửa lại lối đi để đón nhận chính chúa Giêsu sinh hạ trong tâm hồn và đón nhận Chúa đến trong ngày quang lâm.

Lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả là lời mời gọi thức tỉnh và cầu nguyện theo đúng như hình ảnh “Người Mục Tử Nhân Lành” của mình, với “tay sạch lòng thanh” hội đủ khả năng dẫn hướng đời mình và chịu trách nhiệm về thế giới mình đang sống. Thế giới cần có nhiều người chăn dắt theo gương lành của Chúa Giêsu, để xây dựng thế giới an bình và thịnh trị.

Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ cần thiết cho con người của chúng ta hôm nay, xin cho thế giới chúng ta có thêm nhiều mục tử như lòng Chúa mong muốn.

L.m Giuse Hoàng Kim Toan