PDA

View Full Version : C - Cơn Khát Núi Sọ (tiếp Theo #3)



Dan Lee
08-19-2008, 10:18 AM
Biệt Tặng Các Hồn Nhỏ

của Tình Yêu Nhân Hậu Chúa Giêsu
http://www.thoidiemmaria.net/THANHTHE/Con%20Khat%20Nui%20So/main_files/image002.jpg

CƠN KHÁT NÚI SỌ



Chỉ khi nào con người cảm nghiệm được

Lòng Thương Xót Chúa,

bấy giờ họ mới có thể thực sự hiệp thông với nhau.

Thánh nhân và tội nhân đều gặp nhau nơi

Lòng Thương Xót Chúa.

MỤC LỤC
Thánh Tâm Chúa Giêsu - Ân Tình Thánh Tuyệt Vời
Xa Cha Phung Phá - Gần Cha Hoang Đàng……
Chúa Giêsu đã Viết Những Gì Trên Đất?
Giakêu, Người Thu Thuế lên Đền Thờ Cầu Nguyện
Satan và Ngụy Thần cũng Tin Có Thiên Chúa
Hai Lời Tuyên Tín với Đấng Tử Nạn Phục Sinh
Cho Đến Tận Cùng Yêu Thương…….
Cốt Lõi Yêu Thương - Tột Đỉnh Trọn Lành
Thiên Chúa Trừng Phạt là Người Cha Tội Nghiệp
Bàn Tay Kẻ Thù - Cỏ Lùng Trong Ruộng
Hỏa Ngục Chỉ Lượm Được Cặn Bã Thế Gian
Ánh Mắt Giêsu – Con Tim Maria
Đụn Cát Lún của Một Bãi Bùn Lầy
Ngươi Đang Ở Đâu?
Khiết Tâm Maria: Nơi Nương Náu - Đường Đến ChúaĐaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chương 5



Satan và Ngụy Thần

Cũng Tin Có Thiên Chúa





Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (18:1-8)

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngă ḷng mà rằng: “Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà góa đến thưa ông ấy rằng: “Xin ông minh oan cho tôi khoœi tay kẻ thù”. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng v́ bà góa này cứ quấy rầy ta măi, nên ta sẽ xưœ cho bà ấy, kẻo bà ấy đến măi làm ta nhức óc”. Rồi Chúa phán: “Các con hăy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó? Vậy Thiên Chúa lại không minh xưœ cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày mà khoan giăn với họ măi sao? Thầy bảo các con: Chúa sẽ kíp giải oan cho họ! Nhưng khi Con Người đến liệu sẽ c̣n gặp được ḷng tin trên mặt đất nữa chăng?”.







Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật XXIX Mùa Thường Niên Năm C trên đây cho chúng ta thấy đức tin phải được tỏ ra bằng một tấm ḷng kiên tŕ chịu đựng v́ Chúa khi bị oan ức.



Bài Phúc Âm theo Thánh Luca này đă thuật lại dụ ngôn Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người về trường hợp của một bà góa bị oan ức, nên bà đă tha thiết kêu nài vị quan ṭa xét xử cho ḿnh, cho đến khi bà được ông minh oan cho mới thôi. Vấn đề được đặt ra ở đây là có phải việc Thiên Chúa ban ơn cho con người nói chung, đặc biệt là việc Ngài giải oan cho họ, chỉ v́ Ngài bị gây phiền toái bởi con người công chính, như trường hợp của vị quan ṭa bị bà góa làm phiền trong dụ ngôn được bài Phúc Âm Chúa Nhật trên đây nhắc đến hay chăng?



Phải chăng đặt vấn đề như thế, vấn đề Chúa ban ơn cho con người chỉ v́ bị con người làm phiền, là căn cứ vào chính lời Chúa Giêsu tóm dụ ngôn này bằng vấn đề Người đặt ra với các môn đệ rằng: “Các con hăy nghe những ǵ vị quan ṭa hư hỏng này nói. Bởi vậy Thiên Chúa chẳng lẽ lại không minh oan cho kẻ Ngài tuyển chọn ngày đêm kêu lên Ngài hay sao?” Đúng thế, những ǵ ông quan ṭa dụ ngôn này nói cũng đă Chúa Giêsu tỏ cho các vị biết ngay trước đó thế này: “Ta chẳng quan tâm mấy đến Thiên Chúa hay đến người ta, thế nhưng cái bà góa này cứ làm ta bị rầy rà phiền phức hoài. Ta sẽ giải quyết theo ư bà ta cho xong kẻo bà ta cứ thôi thúc ta hoài”.



Thế nhưng, vai chính hay chủ yếu của bài Phúc Âm trên đây, th́ không phải là Thiên Chúa, mà là con người, hay là việc con người cầu nguyện, là thái độ con người cần phải tỏ ra khi cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đúng hơn là ḷng kiên tŕ tin tưởng của con người được tỏ ra qua lời cầu nguyện, như Thánh Kư Luca đă đề cập đến ở ngay câu mở đầu bài Phúc Âm Chúa Nhật trên đây: “Chúa Giêsu đă nói với các môn đệ dụ ngôn về sự cần thiết của việc luôn luôn cầu nguyện chứ đừng nản ḷng”.



Nếu cầu nguyện, như trường hợp Moisen cố gắng giang tay cầu nguyện trên núi để giành phần thắng cho quân Yến Duyên đang ngang ngửa chiến đấu với quân Amaléch, đến nỗi đă có sức khiến Thiên Chúa phải ra tay can thiệp theo ḷng mong ước của kẻ kêu xin Ngài (x Ex 17:11-12), th́ Thiên Chúa thực sự không phải chỉ v́ bị “rầy rà phiền phức” mà minh oan cho người công chính, theo nghĩa tiêu cực như ở trường hợp của vị quan ṭa hư hỏng trong dụ ngôn. Vậy ư nghĩa của việc con người làm “rầy rà phiền phức” đến Thiên Chúa đây, cũng như ư nghĩa của việc Thiên Chúa giải oan cho người công chính đây là ǵ, và phải hiểu như thế nào?



Vấn đề vừa được đặt ra đây là cốt lơi của bài Phúc Âm được trích dẫn. Đó là vấn đề gặp gỡ giữa “đức tin tuân phục” (Rm 1:6) và Mạc Khải Thần Linh, hay vấn đề Thiên Chúa làm cho chân lư được sáng tỏ nơi con người công chính, tức cho đến khi Thiên Chúa được hoàn toàn tỏ ḿnh ra qua đức tin của con người, chẳng những cho chính bản thân của họ là nạn nhân thấy để tin vào Ngài hơn, mà c̣n cho cả đối phương hà hiếp phạm đến họ thấy nữa, để cả thành phần “lầm không biết việc ḿnh làm” (Lk 23:34) cũng nhận biết chân lư trở về với Ngài.



Thật vậy, ư nghĩa sâu xa chính yếu của bài dụ ngôn về bà góa được quan ṭa giải oan trong bài Phúc Âm trên đây đă được chứng thực rơ ràng nơi ba trường hợp điển h́nh trong Thánh Kinh sau đây. Thứ nhất là trường hợp của Tôbia bố và đứa con dâu tương lai của ông; thứ hai là trường hợp của Mẹ Maria và Thánh Giuse; và thứ ba là của chính Chúa Giêsu Kitô.



Trước hết, về trường hợp ông Tôbia bố và đứa con dâu tương lai của ông đă bị oan ức thế nào và đă được Thiên Chúa giải oan ra sao, Sách Tôbia đă cho chúng ta biết rằng: Cả hai đều hướng ḷng về Thiên Chúa, bằng cách cầu nguyện với Ngài với tất cả tâm hồn ḿnh, hoàn toàn đặt hết ḷng tin tưởng nơi một ḿnh Ngài, chứ không vào một ai khác, kể cả những người thân tín nhất với ḿnh. Chẳng hạn, cả hai đều có thể giải buồn và giải quyết bằng việc t́m kiếm an ủi trần gian. Như Tôbia cha có thể than thở với Tôbia con ḿnh, về những lời vợ ông đay nghiến ông, bởi trong cảnh mù ḷa ông đă theo ḷng công minh chính trực của ḿnh lầm trách bà khi ông nghe thấy có tiếng con vật lạ trong nhà; hay như đứa con dâu tương lai của ông cũng có thể than thở với cha mẹ của nàng, và xin các vị đuổi đứa tớ gái đi, v́ nó đă dám xỉ nhục cảnh góa chồng bất đắc dĩ của ḿnh, cảnh cả 7 người chồng đều chết trước khi động pḥng với nàng.



Lọ̀ng tin tưởng được tỏ ra qua lời cầu nguyện tận đáy ḷng của hai người này quả thực đă làm Thiên Chúa phải động ḷng, đến nỗi, Ngài đă ra tay giải oan cho họ, như những người làm khốn họ cũng chứng kiến thấy, đó là Ngài đă sai tổng thần Raphaen đến, chẳng những để kết duyên người con gái góa chồng c̣n trinh này với Tôbia con là người trong chính gịng tộc của nàng, (ở đây chúng ta thấy có sự trùng hợp về cảnh góa bụa của bà góa trong dụ ngôn của Phúc Âm hôm nay với cảnh góa bụa của nàng dâu trong truyện Tôbia này), mà c̣n giúp cho cả Tôbia cha, nhờ thứ thuốc Tôbia con mang về theo lời mách bảo và chỉ dẫn của vị tổng thần Raphaen, được sáng mắt để thấy lại cả vợ con rất yêu dấu của ḿnh.



Về trường hợp của Mẹ Maria và Thánh Giuse trong Mầu Nhiệm Thiên Chúa Làm Người, cả hai đă bị oan ức và đă được Thiên Chúa ra tay giải oan cho như thế nào, chúng ta đă quá quen biết, như Phúc Âm theo Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 1, từ câu 18 đến 25. Tuy nhiên, trong trường hợp này, không phải chỉ có một ḿnh Mẹ Maria bị oan ức, mà cả Thánh Giuse cũng bị oan ức nữa. Bởi v́, Thiên Chúa đă để xẩy ra một sự việc ngoài suy đoán hạn hẹp của con người tự nhiên, dù đó là một con người được Phúc Âm gọi là công chính như Thánh Giuse, một người chồng vừa mới đính hôn chẳng được bao lâu đă thấy người vợ đính hôn vốn trinh trong thánh đức của ḿnh mang bầu trước khi về chung sống với ḿnh.



Thế nhưng, ở đây, Phúc Âm không thuật lại việc cả hai vị cảm thấy hết sức buồn sầu và cầu nguyện cùng Thiên Chúa, như trong trường hợp của Tôbia cha và đứa con dâu tương lai của ông. Thế mà, Thiên Chúa vẫn ra tay can thiệp, bằng cách, Ngài cũng đă sai một thiên thần đến. Vị thiên thần này không như tổng thần Raphaen đă lấy h́nh người hiện ra với Tôbia con, mà chỉ xuất hiện trong giấc ngủ của Thánh Giuse, để tiết lộ cho thánh nhân biết cách thức Thiên Chúa Nhập Thể trong ḷng vị hôn thê đính hôn của thánh nhân. Việc Thánh Giuse, như Phúc Âm kể lại: “khi tỉnh giấc, Giuse đă làm như lời thiên thần Chúa chỉ dẫn là nhận Maria đem về làm vợ”, đă chứng tỏ thánh nhân lúc nào cũng hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, dù Ngài chỉ tỏ ḿnh ra cho thánh nhân trong giấc ngủ chứ không phải nhăn tiền.



Nếu Thánh Giuse có một đức tin chân t́nh dễ thương, đến nỗi đă làm Thiên Chúa phải động ḷng giải oan cho như thế, th́ Mẹ Maria đầy ơn phúc, người đă được bà chị họ Isave khen rằng “em có phúc v́ đă tin tưởng” (Lk 1:45), lại không tin tưởng hơn thánh nhân gấp bội hay sao, bởi trường hợp của Mẹ là trường hợp bị oan ức v́ Chúa và cho Chúa, ở chỗ, trước khi thưa “này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng”, Mẹ đă nhắm mắt tin tưởng và liều ḿnh chấp nhận những ǵ sẽ xẩy ra cho Mẹ rồi. Đó là lư do chúng ta thấy sở dĩ Mẹ Maria được bà chị họ của ḿnh là Isave bấy giờ được đầy Thánh Thần chúc tụng là “có phúc” v́ Mẹ đă “tin tưởng” (trust) chứ không phải chỉ “tin” (believe).



Trường hợp thứ ba, trường hợp của Chúa Giêsu, như những ǵ được Thánh Phaolô, trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái ở đoạn 5, từ câu 7 đến 10, đă viết về Người là: “Trong những ngày c̣n ở trong xác thể, Người đă lớn tiếng dâng những lời kinh nguyện và cầu xin lên Thiên Chúa là Đấng có thể cứu Người khỏi chết, và v́ ḷng thành kính Người đă được nhận lời”?



Qua bài Phúc Âm Thánh Luca ở đầu chương này, chúng ta thấy rằng, muốn lấy ḷng Thiên Chúa, hay muốn thắng được Thiên Chúa, con người cần phải kiên gan tin tưởng. Hay nói ngược lại, Thiên Chúa chắc chắn sẽ phải chịu thua, phải đầu hàng trước ḷng kiên tŕ của con người, nghĩa là chắc chắn Ngài sẽ bị xiêu ḷng trước niềm tin tưởng vững vàng của họ. Thế nhưng, có phải lúc nào thành phần sống công chính, một thành phần luôn bị kẻ gian ác chống đối và bách hại trên thế gian này, như bóng tối bao giờ cũng có khuynh hướng muốn lấn át và bao trùm ánh sáng, sẽ thấy được tỏ tường chẳng những việc Thiên Chúa trực tiếp nhúng tay vào giải oan cho họ, mà c̣n thấy được cả thành quả họ được minh oan cho hay chăng? Nếu có th́ tại sao bao kẻ lành đă bị chết đi hết sức oan ức và thảm thương rồi mà thế gian vẫn tràn đầy bất công và sự dữ, đến nỗi, đối với một số người, cả hữu thần lẫn vô thần, lấy cớ đó mà cho rằng Thiên Chúa đă chết mất rồi, hay cho dù có Ngài đi nữa th́ Ngài cũng chỉ là một “ông trời không có mắt” mà thôi?



Tóm lại, trong bài Phúc Âm đầu chương, Chúa Giêsu muốn khuyên dạy cho chúng ta, trước hết, phải liên lỉ nguyện cầu và nguyện cầu một cách kiên tŕ nhẫn nại, đến nỗi bao giờ được mọi sự như ḷng mong ước hay được thỏa đáng nhu cầu của ḿnh mới thôi. Bởi v́, một quan án phàm nhân, coi trời bằng vung và nh́n đời bằng đuôi con mắt, mà c̣n biết giải quyết những ǵ phiền nhiễu đến ḿnh, th́ Thiên Chúa là Đấng muốn thi ân hơn ai hết, muốn bị làm phiền hơn ai hết, chắc chắn sẽ đáp ứng những kẻ cứ thích làm phiền Ngài. Thành phần làm phiền Đấng hằng muốn ban ơn và thích được làm phiền đây chính là thành phần được Ngài yêu thích nhất, v́ họ tỏ ra tin tưởng Ngài hơn ai hết, hiểu Ngài hơn ai hết, bởi thế mới đánh động Ngài hơn ai hết, khiến Ngài không thể không làm theo ư họ muốn.



Thế nhưng, vấn đề ở đây là, đối với một vị Thiên Chúa thích được làm phiền như thế, liệu con người có thể nhẫn nại để cứ làm phiền Ngài, cứ nhất định phá Ngài hay chăng, hoặc chính con người lại cảm thấy nản chí đến độ trở thành hồ nghi không biết có Thiên Chúa hay chăng, giả dụ có đi nữa tại sao Trời không có mắt? Nếu lời Chúa vô cùng chân thật, như lời Ngài đă khẳng định “ai xin sẽ được, ai t́m sẽ thấy, ai gơ sẽ mở” (Lk 11:10), một lời chắc chắn phải xẩy ra, phải hiện thực, th́ sở dĩ không xẩy ra, hay sở dĩ chúng ta xin không được, t́m không thấy, gơ không mở là chỉ v́ chính chúng ta thiếu ḷng tin tưởng mà thôi.



Đó là lư do chúng ta thấy bài Phúc Âm được trích dẫn trên đây đă đi sâu vào chính cốt lơi của đức tin (belief/faith), đó là chính ḷng tin tưởng (trust), ḷng cậy trông (hope) vào Đấng được con người tin (believe). Satan và đồng bọn ngụy thần của hắn là tạo vật linh thiêng cũng tin có Thiên Chúa và tin rằng Ngài là Đấng Tối Cao, Đấng Toàn Thiện, vô cùng khôn ngoan thượng trí, c̣n hơn ai hết, thế nhưng thực tế cho thấy hắn và đồng bọn vẫn không tin tưởng và cậy trông Ngài, đến nỗi đă tỏ ra chống lại dự án cứu độ của Ngài ngay từ ban đầu (x Rev 12:4).



Đúng thế, chính ḷng tin tưởng mới là yếu tố thiết thực nhất làm cho đức tin nơi con người tăng triển, tức mới làm cho con người tin được hoàn toàn hiệp thông với Đấng họ tin tưởng, v́ nhờ ḷng tin tưởng, ḷng cậy trông, được tỏ ra rơ ràng nhất và sống động nhất qua những cơn gian nan khốn khó và thử thách đến nỗi có thể khiến con người yếu đuối ngă ḷng tin, không c̣n hy vọng ǵ được nữa (x Rm 4:18), con người có đức tin mới đi sâu vào được chính bản tính thần linh của Thiên Chúa, và Thiên Chúa mới hoàn toàn tỏ ḿnh ra cho họ, như đă thực sự xẩy ra cho Người Nữ Tỳ Đầy Ơn Phúc Maria Xin Vâng trong trường hợp Truyền Tin Lời Nhập Thể. Đó là lư do chúng ta thấy sở dĩ Mẹ Maria được bà chị họ của ḿnh là Isave bấy giờ được đầy Thánh Thần chúc tụng là “có phúc” v́ Mẹ đă “tin tưởng” (trust) chứ không phải chỉ “tin” (believe).



Thật ra tin tưởng đây không phải là những ǵ khác với đức tin, song là một tác động đức tin, song là một tác động cao cả nhất, một hành động của đức cậy trông phó thác. Như t́nh thương không phải là những ǵ khác với t́nh yêu mà là tột đỉnh của t́nh yêu và là chân dung của t́nh yêu thế nào, tin tưởng đối với đức tin cũng thế. Nếu yêu mến mà chưa biết thương cảm hay không biết thương cảm th́ t́nh yêu c̣n hời hợt và mong manh thế nào, th́ đức tin mà thiếu những thái độ tin tưởng cậy trông phó thác một cách tuyệt đối vào Vị Thần Linh được tin là chân thật duy nhất, toàn năng và toàn thiện trong những lúc gian nan khốn khó, tối tăm thử thách, th́ đức tin của con người c̣n non yếu. Đức tin tự bản chất và theo thần học th́ không phát triển, nhưng theo tu đức th́ vẫn có thể lớn mạnh hay tăng trưởng ở ḷng tin tưởng này vậy.



Chính bản thân người viết đây đă cảm nghiệm được cái khác biệt giữa đức tin (khả năng thần linh hay một trong ba thần đức được Thiên Chúa ban cho con người hay phú bẩm nơi con người khi họ lănh nhận phép rửa) và ḷng tin tưởng (việc con người đáp ứng mạc khải thần linh, đáp ứng mọi tác động thần linh trong cuộc đời họ, nhất là những lúc họ gặp gian nan khốn khó thử thách), cũng như sự khẩn thiết của ḷng tin tưởng, nơi vai tṛ làm cha của ḿnh.



Trường hợp xẩy ra là, vào mùa hè năm 1999, trong chuyến du ngoạn hơn 6 ngàn dặm bằng xe hơi từ Trung Nam đến Tây Bắc Mỹ, gia đ́nh tôi đă ghé đến một ḥn đảo ở Salk Lake City để tắm biển, nơi chúng tôi đă nghe là dù không biết bơi song cứ xuống nước là sẽ nổi. Thật ra ở biển hồ Salk Lake City này không phải như ở Dead Sea bên Thánh Địa, nơi gia đ́nh tôi cũng đă được diễm phúc hành hương vào mùa hè trong Đại Năm Thánh 2000, nơi mà chỉ cần gieo ḿnh xuống nước như ngả ḿnh trên ghế bố hay trên giường là thân ḿnh tự nhiên nổi lềnh bềnh, không thể ch́m được, dù có muốn tự tử đi nữa. Tuy nhiên, ở biển hồ Salk Lake City, chỉ cần người ta cứ nhào xuống bơi là sẽ nổi, không ch́m. Tôi đă cảm nghiệm được điều này, hai đứa con trai lớn của tôi bấy giờ chưa biết bơi cũng vậy. Thế nhưng, đứa con gái 8 tuổi rưỡi của tôi bấy giờ lại nhát sợ đến nỗi, dù rất ham muốn biết bơi, nhất định không dám bơi, không dám thử, dù có bố ở ngay bên cạnh và bố hết sức cố gắng muốn giúp cho để nó có thể bơi như ḷng mong muốn, để nó có cùng một cảm nghiệm trôi nổi như bố.



Trong trường hợp này, đứa con gái của tôi hoàn toàn nhận biết và chấp nhận tôi là bố của cháu, nhưng lại cương quyết tỏ ra không tin tưởng vào bố của ḿnh, bởi đó cháu đă không được những ǵ bố muốn cho cháu hay bố có, cũng chính là những ǵ cháu ước muốn và mong đạt được. Cuộc sống đạo của Kitô hữu chúng ta cũng thế, cần phải có những lúc tối tăm không c̣n biết bám víu vào đâu ngoại trừ tin tưởng phó thác, bấy giờ chúng ta mới thấy phép lạ xẩy ra, mới thấy bàn tay Chúa ở với ḿnh, mới thấy ḿnh quyền năng và ḷng thương xót của Đấng Quan Pḥng Thần Linh là Cha trên trời của chúng ta.



Thế nhưng, ḷng tin tưởng phó thác này không thể nào có nơi thành phần người lớn, tự cho ḿnh là khôn ngoan, và sống theo lư lẽ tự nhiên, mà chỉ có ở nơi những ai biết “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3) mà thôi. Chính ḷng tin tưởng của con người có đức tin đến quên ḿnh, đến không c̣n là ḿnh nữa (x Jn 12:24-25), một ḷng tin tưởng được biểu hiệu như là một hạt cải nhỏ bé nhất trong các hạt giống (x Mt 13:32), đức tin nơi con người mới phát triển thành một cây vĩ đại đến trở thành nơi trú ẩn của chim trời (x Mt 13:32), như ảnh hưởng của các thánh nhân qua gịng lịch sử, điển h́nh nhất là của Mẹ Chân Phước Têrêsa Calcutta.













Chén Đắng Vườn Nhiệt

(tiếp trang 4, 27-28, 44)





“Cha sẽ biến đổi hết mọi thú vui tội lỗi thành đắng cay và hết mọi buồn khổ thành hoan lạc. Những giọt nước mắt của con vang vọng sâu xa trong Trái Tim của Cha. Thế nhưng, hỡi các con khổ đau nhỏ bé đáng thưông của Cha ôi, Cha dành cho các con thật nhiều hoan lạc ở trên Trời. Các con được dựng nên theo h́nh ảnh Ngôi Con Yêu Dấu. Các con có là để mến yêu.



“Song đáng tiếc thay cách thức các con yêu mến. Các con vô ư tứ phí phạm tặng ân của t́nh yêu Cha, khi mong muốn quá nhiều điều phàm tục. Trái tim của các con lạc hướng trong việc t́m kiếm Sự Thật và t́m không thấy nó đâu cả. Nó ở kề cận các con mà các con không nh́n thấy nó.



“Hăy nh́n vào Cha và yêu mến Cha. CHA LÀ T̀NH YÊU, Đấng duy nhất có thể làm cho các con thỏa măn. Mọi sự c̣n lại chẳng là ǵ ngoài việc gây ra thất vọng và những tiếc xót”.



Chương 6



Hai Lời Tuyên Tín

với Đấng Tử Nạn Phục Sinh



Tin Mừng Chúa Giêsu theo Thánh Gioan (20:19-31)

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cưœa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, v́ sợ người Do Thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “B́nh an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng v́ xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “B́nh an cho các con. Như Cha đă sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hăy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, th́ tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, th́ tội người ấy bị cầm lại”.

Bấy giờ trong Mười Hai Tông Đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đă nói với ông rằng: “Chúng tôi đă xem thấy Chúa”. Nhưng ông đă nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nh́n thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, th́ tôi không tin”.

Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cưœa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “B́nh an cho các con”. Đoạn người nói với Tôma: “Hăy xoœ ngón tay con vào đây, và hăy xem tay Thầy; hăy đưa bàn tay con ra và xoœ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng ḷng, nhưng hăy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, v́ con đă xem thấy Thầy, nên con đă tin. Phúc cho những ai đă không thấy mà tin”.

Chúa Giêsu c̣n làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách nầy. Nhưng các điều nầy đă được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

“Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi!”


Theo Phụng Vụ, Chúa Nhật thứ hai Mùa Phục Sinh, dù thuộc chu kỳ Năm A, B hay C, bao giờ đọc bài Phúc Âm của Thánh Gioan. Tại sao? Tại v́, thời điểm của Chúa Nhật II Phục Sinh này rơi vào đúng 8 ngày sau Chúa Nhật Phục Sinh tuần trước, mà chỉ duy nhất có bài Phúc Âm của Thánh Gioan được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật Thứ Hai hôm nay đây mới nói đến sự kiện “tám ngày sau” ấøy, tức là sự kiện Chúa Kitô hiện ra với các tông đồ, trong đó có cả tông đồ Tôma, vị đă vắng mặt trong lần Người hiện ra trong chính ngày Người sống lại từ trong cơi chết.



Để thấy được sự liên tục giữa hai lần hiện ra này, Giáo Hội đă cho đọc lại cả việc Chúa Kitô hiện ra lần trước, lần mà Chúa Kitô khi hiện ra đă cho các tông đồ “xem tay và cạnh sườn của Người”, cũng là lần tông đồ Tôma vắng mặt song khi được mọi người cho biết Thày đă sống lại th́ tuyên bố không tin, trừ phi vị tông đồ Tôma này “được thọc ngón tay vào lỗ tay và thọc bàn tay vào cạnh sườn của Người”, Đấng thực sự đă đáp lại thách đố của Tôma vào lần hiện ra tám ngày sau, như Phúc Âm thuật lại cho chúng ta thấy hôm nay đây, để làm cho Tôma phải nghẹn ngào thốt lên những lời tuyên xưng ngắn gọn song vô cùng quan trọng và tuyệt vời này: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi!”.



Câu tuyên xưng này nghĩa là ǵ? Tại sao tông đồ Tôma lại không đ̣i một dấu chứng nào khác để tin mà chỉ muốn chạm đến dấu vết tử nạn của Thày? Tại sao ngài lại có thể cứng ḷng tin đến nỗi dám phủ nhận tất cả mọi điều được hết mọi tông đồ khác chứng thực về những ǵ các ngài đă tận mắt chứng kiến, nghĩa là, một cách gián tiếp, vị tông đồ cứng ḷng tin này chẳng những cho tất cả các tông đồ khác là nói dối, là làm chứng dối, là đánh lừa ḿnh, mà c̣n cho cả chính Chúa Kitô Thày ḿnh, Vị đă hiện ra với các vị tông đồ kia chỉ là Kitô giả, là trá h́nh mà thôi? Vị tông đồ cứng ḷng này quả thực, cho dù là vô thức, đă phạm một trọng tội, chẳng những trọng phạm đến các đồng bạn của ḿnh mà c̣n đến cả Vị Thày của ḿnh nữa!



Trước hết, câu tuyên xưng của tông đồ Tôma “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi” nghĩa là ǵ? Và tại sao tông đồ Tôma lại không đ̣i một dấu chứng nào khác để tin mà chỉ muốn chạm đến dấu vết tử nạn của Thày?



Thật ra, hai vấn nạn này hoàn toàn liên hệ mất thiết với nhau, chỉ cần hiểu được một trong hai là mọi sự sẽ được sáng tỏ. Đúng vậy, chính v́ tông đồ Tôma không thể nào tin được Thày ḿnh đă thực sự bị đóng đanh trên thập giá, đă hoàn toàn chết đi và bị chôn táng trong mồ, lại có thể tự ḿnh cải tử hoàn sinh, một chuyện chưa hề xẩy ra trên thế gian này từ tạo thiên lập địa cho tới tận thế. Cho dù khi c̣n ở với Thày, tông đồ Tôma cùng với các vị tông đồ khác đă được Thày tiên báo cho biết trước ba lần về việc Người bị tử nạn rồi sau ba ngày sẽ phục sinh, tất cả mọi tông đồ, nhất là vị tông đồ Tôma vốn có tâm trạng lúc nào cũng tỏ ra thắc mắc này vẫn không hiểu ǵ. Thế nhưng, cho đến khi có dịp để hiểu được sự thật trước mắt, đó là lúc Thày sống lại từ trong cơi chết và hiện ra cho các vị thấy Người, bằng cách tỏ cho các vị thấy “dấu tay và cạnh sườn Người”, th́ rất tiếc tông đồ Tôma này lại không có mặt.



Quả thế, các dấu vết tử giá của Chúa Kitô, đối với các tông đồ, thành phần đă bỏ Thày khi Người bị bắt, thậm chí người làm đầu trong các vị c̣n chối Thày khi Thày đang bị tra vấn tại dinh Thượng Tế, là chứng cớ hùng hồn và hiển nhiên nhất đối với các vị, cho thấy Thày thực sự đă tử nạn và phục sinh đúng như lời Người đă tiên báo. Hai tên tử tội cùng bị đóng đanh với Chúa Kitô có hiện về, hay ma quỉ có mặc lấy h́nh thù của họ để hiện ra với các vị, th́ h́nh thù của họ cũng chỉ có dấu đinh ở chân và tay thôi, chứ không thể nào có dấu đanh ở cạnh sườn của họ!



V́ dấu tay và cạnh sườn của Chúa Kitô là dấu chứng phục sinh duy nhất như thế mà tông đồ Tôma đ̣i phải chạm tới mới tin, chứ không cần một dấu chứng nào khác. Và khi được Thày tỏ cho thấy những dấu chứng ấy, vị tông đồ này mới há hốc miệng ra mà thốt lên: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi!”. Thế nhưng, tại sao tông đồ Tôma không tuyên xưng: “Lạy Thày, con tin Thày đă phục sinh như Thày đă tiên phán”, mà lại tuyên xưng như vậy? Bởi v́, không phải chúng ta tin vào biến cố phục sinh cho bằng tin vào chính Đấng Phục Sinh. V́ phục sinh là biến cố Chúa Kitô, Vị Thiên Chúa Nhập Thể, thực hiện để chứng tỏ Người là Thiên Chúa thật, không ǵ có thể làm ǵ được Người, kể cả tội lỗi và sự chết là những ǵ thuộc về thân phận của con người đă bị hư đi theo nguyên tội, những ǵ Người đă chiến thắng bằng “quyền toàn năng trên trời dưới đất” của Người, như Người phán với các tông đồ trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 28, câu 18.



Như thế, khi tuyên xưng “lạy Chúa tôi”, tông đồ Tôma muốn nói đến quyền toàn năng của Thày ḿnh, của Vị Thày bị tử nạn song đă phục sinh, đă chiến thắng sự chết, đă được “toàn quyền (làm chủ mọi sự) trên trời dưới đất”; và khi tuyên xưng “lạy Thiên Chúa tôi” liền ngay sau đó người tông đồ ấy chân nhận Vị Chúa này, về bản tính, chính là Thiên Chúa, v́ nếu chỉ thuần túy là một con người, chứ không phải là Thiên Chúa, Ngài không thể nào sống lại. Vậy, Đấng khi c̣n sống được tông đồ Phêrô tuyên xưng “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, th́ sau khi sống lại, Người chứng tỏ Người chính là “Chúa”, là “Thiên Chúa”, Vị Thiên Chúa Nhập Thể đă hóa thân làm người thấp hèn như chúng ta, để nhân tính của chúng ta được hiển linh cao trọng khi Người sống lại từ trong cơi chết, một nhân tính với thân xác tử nạn song phục sinh, như bụi gai bốc lửa song không bị thiêu rụi vậy. Ôi thân phận loài người. Ôi Tin Mừng Phục Sinh! Alleluia, hăy vui lên!



“Ôi Chúa Giêsu, con tin nơi Chúa”

Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Phục Sinh cũng là Lễ Kính Chúa T́nh Thương, một lễ được Giáo Hội chính thức thiết lập từ năm Năm Thánh 2000, sau khi ĐTC Gioan Phaolô phong hiển thánh cho nữ tu Faustina người Balan này, vị thánh đầu tiên của tân thiên kỷ thứ ba. Trong bài giảng phong thánh cho chị ngày 30/4/2000, ĐTC đă nhận định thế này:



·
“Thật vậy, Chúa Kitô đă gửi gấm sứ điệp t́nh thương cho chị vào ngay giữa Thế Chiến Thứ Nhất và Thứ Hai” (L’Osservatore Romano ấn bản Anh Ngữ, 3/5/2000).




Và liền ngay sau đó, ĐTC đă nhắc lại một trong những điều quan trọng Chúa Giêsu đă tỏ cho chị liên quan đến điều kiện ḥa b́nh như thế:



·
“Nhân loại sẽ không thể nào t́m thấy b́nh an cho đến khi họ tin tưởng quay về với t́nh thương thần linh”.



Đó là lư do, Chúa Giêsu đă xin chị Faustina thực hiện 4 điều đặc biệt liên quan đến Chúa T́nh Thương:



1. Phổ biến bức ảnh Chúa T́nh Thương, bức ảnh Cạnh Sườn Chúa chiếu xuống hai tia sáng đỏ và trắng, ám chỉ, như Chúa cho chị biết, “máu và nước” chảy ra từ cạnh sườn Người trên cây thập giá, bức ảnh có hàng chữ phía cuối: “Ôi Giêsu, con tin nơi Chúa”;

2. Lần chuỗi Thương Xót;

3. Kính giờ tử nạn của Chúa hằng ngày vào lúc ba giờ chiều;

4. Xin Giáo Quyền thiết lập lễ kính Chúa T́nh Thương vào Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Phục Sinh.


Giáo Hội thực sự đă thiết lập lễ Chúa T́nh Thương này vào ngày 5/5/2000, qua sắc lệnh của Thánh Bộ Phượng Tự, với những lời đặc biệt như sau:



·
“Trong thời đại của chúng ta đây, Kitô hữu ở nhiều phần đất trên thế giới muốn chúc tụng t́nh thương Chúa bằng việc phụng tự thần linh, nhất là bằng việc cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua, một cử hành thể hiện ḷng nhân ái của Thiên Chúa. Để đáp ứng ước muốn này, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă ân cần ấn định rằng, ‘Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Phục Sinh’ trong Sách Lễ Rôma sẽ có phụ đề là Chúa Nhật Chúa T́nh Thương” (L’Osservatore Romano ấn bản Anh Ngữ, 31/5/2000).



C̣n lư do tại sao Chúa chọn Ngày Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Phục Sinh, tôi đă đọc kỹ cuốn Nhật Kư của chị, song không thấy chỗ nào Chúa chính thức và hiển nhiên nói đến vấn đề này cả. Tuy nhiên, theo thiển ư của tôi, sở dĩ Chúa chọn ngày Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Phục Sinh này làm Lễ Chúa T́nh Thương là v́ ư nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay có ba chi tiết hợp với những ǵ Chúa đă tỏ ra cho chị Thánh Faustina về Ḷng Thương Xót Chúa như sau.


Chi tiết thứ nhất ở ngay phần đầu của bài Phúc Âm được trích dẫn ở đầu chương, về việc Chúa Giêsu thở hơi trên các tông đồ để các vị nhận lấy Thánh Linh, nhờ đó các vị có quyền năng tha tội lỗi cho con người yếu đuối, vị Thánh Linh được ĐTC nhắc đến trong bài giảng phong thánh cho chị Faustina như sau:


·
“Chúa Kitô đă tuôn đổ t́nh thương này xuống trên nhân loại qua việc sai Thần Linh, Đấng trong Ba Ngôi Thiên Chúa, là Ngôi T́nh Yêu. Nhân loại phải được Thần Linh do Chúa Kitô Phục Sinh ban cho chạm tới và thấm nhập. Chính Thần Linh là Đấng chữa lành các thương tích của con tim, phá đổ các chướng ngại làm chúng ta tách khỏi Thiên Chúa và với nhau, đồng thời cũng phục hồi cho chúng ta niềm vui hoan hưởng t́nh yêu của Chúa Cha và của mối hiệp nhất huynh đệ”.



Chi tiết thứ hai cũng ở ngay phần đầu của cùng Bài Phúc Âm, về việc Chúa Kitô tỏ cạnh sườn của Người ra cho các tông đồ, một việc được tái họa nơi Bức Ảnh Chúa T́nh Thương là bức ảnh có hai luồng sáng đỏ và trắng chiếu xuống.



Và chi tiết thứ ba ở phần thứ hai cũng của bài Phúc Âm trên đây, phần Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ tám ngày sau, phần về việc tông đồ Tôma tuyên xưng ḷng tin tưởng vào Chúa, một niềm tin Chúa cần thấy nơi loài người chúng ta để cứu độ chúng ta, một niềm tin Người muốn viết ở dưới cuối Bức Ảnh Chúa T́nh Thương: “Ôi Giêsu, con tin nơi Chúa”.



Đó là lư do có thể cho thấy thích hợp tại sao Chúa Giêsu đă chọn Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Phục Sinh làm Lễ Chúa T́nh Thương, một lư do trực tiếp liên quan đến chung Bức Ảnh Chúa T́nh Thương. Chính v́ sự kiện Chúa Kitô Phục Sinh tỏ cạnh sườn của Người ra cho các tông đồ thấy, như được Phúc Âm hôm nay thuật lại, một sự kiện được tái họa trong Bức Ảnh Chúa T́nh Thương với hai tia sáng tỏa ra từ cạnh sườn Chúa tỏa xuống, đă làm người ta, những ai đă đọc Nhật Kư của chị Thánh Faustina, nghĩ đến những ǵ Chúa Giêsu cũng đă tỏ cho chị, trong cùng câu Người nói với chị về việc nhân loại chỉ t́m thấy b́nh an nếu quay về với t́nh thương của Người, câu nói đă được ĐTC trích lại trong bài giảng phong thánh cho chị như vừa được trích lại trên đây.



Thật vậy, câu nói đó là câu liên quan đến các dấu thánh ở chân tay Người, nhưng lại là câu cũng liên quan đến ngày cùng tháng tận của nhân loại và của vũ trụ này, như sau:




· “Trước khi Cha đến như một Quan Án công minh, th́ Cha đến như Đức Vua của T́nh Thương. Trước ngày công thẳng, dân chúng sẽ được thấy một dấu hiệu trên các tầng trời như thế này, đó là, bấy giờ tất cả ánh sáng trên các tầng trời sẽ bị tắt hết, và bóng tối khủng khiếp sẽ bao trùm toàn thể mặt đất. Đoạn trên bầu trời sẽ xuất hiện h́nh bóng một cây thánh giá, và từ những kẽ hở của các bàn tay chân bị đóng đanh của Chúa Cứu Thế sẽ phát ra những ánh sáng cả thể chiếu soi mặt đất trong một khoảng một thời gian. Điều này sẽ xẩy ra không lâu trước ngày cùng tận”.


Chén Đắng Vườn Nhiệt

(tiếp trang 4, 27-28, 44, 56)



“Các con có là ǵ đi nữa, đừng bao giờ nghĩ rằng các con hoàn toàn biết ḿnh, v́ trong mỗi người có một nôi thâm u vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Nên ai không canh chừng ḿnh th́ bất ngờ nôi thâm u này mà bị chạm đến, nó sẽ trở thành căn nguyên gây ra những sa ngă nặng nề”.




Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu của Chúa Giêsu

gửi Các Hồn Nhỏ

qua nữ sứ giả giáo dân người Bỉ biệt danh Magarita ngày 30-1-1967