PDA

View Full Version : Trịnh Công Sơn - TCS



delta
01-25-2008, 10:23 AM
Trịnh Công Sơn

http://i214.photobucket.com/albums/cc72/delta38_1/TCS1.jpg
Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn
(1939 - 2001)

I. Tiểu Sử

Trịnh Công Sơn sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939 tại Lạc Giao (cao nguyên miền Trung Việt Nam).
Ông lớn lên ở Huế, tốt nghiệp tú tài ban Triết tại Chasseloup Laubat, Sài Gòn.
Trịnh Công Sơn tự học nhạc, bắt đầu sáng tác năm 1958 với tác phẩm đầu tay Ướt Mi (NXB An Phú in năm 1959). Cho đến nay, nhạc sĩ đã sáng tác hơn 600 tác phẩm, có thể được phân loại dưới 3 đề mục lớn: Tình Yêu -- Quê Hương -- Thân Phận.

Quan niệm sáng tác: "Tôi chỉ là 1 tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo..."
Nhận xét của nhạc sĩ Văn Cao: "Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra. Nói như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, người bạn già của tôi, "Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra". Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn có lẽ là ở chính ở chỗ đó, ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả ngoài biên giới nữa..."

Nhạc sĩ đã qua đời lúc 12g45 ngày 1 tháng 4 năm 2001 tại SàiGòn.

Tác phẩm:

01 - Ca khúc Trịnh Công Sơn
An tiêm, 1967, in lần thứ 2, 18x18 cm, giá 80 đồng.

02 - (Những) Tình khúc Trịnh Công Sơn
Nhân Bản, 1967, tác giả chép tay, 18x18cm.

03 - Ca khúc da vàng
Nhân Bản, 1967, tác giả chép tay, 18x18cm.

04 - Kinh Việt Nam
Nhân Bản, 1968, 18x18 cm, in 7 500 cuốn.

05 - Ca khúc da vàng 2
Nhân Bản, 1969, 18x18 cm, tái bản lần thứ 5, in 10 000 cuốn

06 - Ta phải thấy mặt trời
Nhân Bản, 1969 , 18x18 cm, in 7 000 cuốn

07 - Như cánh vạc bay
Nhân Bản, 1972, 18x18 cm

08 - Cỏ xót xa đưa
Nhân Bản, 1972, 18x18cm

09 - Khói trời mênh mông
Nhân Bản, 1972, 18x18cm

10 - Tự tình khúc
Nhân Bản, 1972, 18x18cm, ấn hành lần thứ nhất, 10 000 cuốn.

11 - Phụ khúc da vàng
Nhân Bản, 1972, 18x18 cm

12 - Lời đất đá cũ
Nhân Bản, 1973, 18x18cm

13 - Nhân danh Việt nam
Không biết có xuất bản không ?

14 - Một cõi đi về
Nxb Hội âm nhạc TP.HCM, 1989, 19x19cm, chỉ in lụa 100 bản.

15 - Em còn nhớ hay em đã quên
Nxb Trẻ, 1991, in 3000 cuốn, 19x19cm, lời nhạc chép tay.

16 - Cho con
Nxb Sóng Nhạc, 1991, chép tay lời và nhạc, 10x19cm.

17 - Lời của dòng sông
Nxb Trẻ, 1992, in 5000 cuốn, lời chép tay, 19x19cm

18 - Khói trời mênh mông 2
Nxb Văn nghệ, TP HCM, 1992, in 3000 cuốn, 19x19cm.

19 - Bên đời hiu quạnh
Nhân Bản, 1993, 25x25cm, in 3000 cuốn

20 - Trong nỗi đau tình cờ
Nhân Bản, 1993, 25x25cm, in 3000 cuốn

21 - Thuở ấy mưa hồng
Nhân Bản, 1993, 25x25 cm, in 3 000 cuốn

22 - Những bài ca không năm tháng
Nxb Âm Nhạc, 1995, 25x25cm, in 3000 cuốn

23 - Những bài ca không năm tháng
Nxb Âm Nhạc, 1998, 25x25cm, in lần thứ tư, 3000 cuốn

24 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn, tập 1


25 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn, tập 2


26 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn, tập 3
Văn nghệ tp HCM, 1999, 14,5x20,5cm, in 1000 cuốn, giá bán 6500 VNĐ

27 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn, tập 4
Văn nghệ tp HCM, 1999, 14,5x20,5cm, in 1000 cuốn, giá bán 6500 VNĐ

28 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn, tập 5
Văn nghệ tp HCM, 1999, 14,5x20,5cm, in 1000 cuốn, giá bán 6500 VNĐ

29 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn, tập 6
Văn nghệ tp HCM, 1999, 14,5x20,5cm, in 1000 cuốn, giá bán 6500 VNĐ

:idea:

delta
01-25-2008, 10:25 AM
Bài Hát Cuối Cùng

Tôi bước chân vào đất đai của nghệ thuật tương đối sớm. Từ tuổi mười ba, mười bốn, tôi đã làm những lưỡi sóng liếm láp mạn thuyền văn nghệ. Trong huyết quản tôi có thể thời ấy đã luân lưu những lượng máu bất bình thường.

Sau một vài biến cố lớn của gia đình, tôi bắt đầu một cuộc sống riêng tư không phẳng lặng. Và từ đó tôi rơi vào một cơn mộng mị triền miên.

Có một vài câu hỏi, với tôi, đã trở thành nỗi ám ảnh: Bài hát đầu tiên của anh là bài gì?

Câu hỏi buộc tôi phải trở về những năm tháng xa xôi. Nhưng khi về đến nơi ấy, trong thời điểm ấy, thì vô tình tôi lạc mình về một quá khứ khác xa xăm hơn nữa. Và rồi tự hỏi: Cái đầu tiên ở nơi nào mà có và điều gì đã sinh ra cái đầu tiên kia?

Bài hát Ướt mi được nhà xuất bản An Phú ấn hành tại Sài Gòn năm 1959, Thanh Thúy hát ở những phòng trà và nổi tiếng, trở thành giọng hát liêu trai.

Phải có một nỗi tuyệt vọng nào đó khởi đầu để tôi không ngừng dan díu với những giọt nước mắt của đời làm của cải riêng tư. Eva ăn trái cấm và sự sống thành hình. Tôi e cũng từng nuốt những giọt nước mắt để biết tận tình nói về những giọt nước mắt kia.

Rất nhiều bài hát đã được viết trước Ướt mi nhưng ca khúc này tồn tại như số phận của nó và của tôi. Hình như người Nhật rất thích nó vì dàn nhạc giao hưởng Nhật đã thu bài hát này. Riêng tôi không thích lắm.

Người ta có nhiều lý do để thích một bài hát đầu tiên của một tác giả rồi không quên thắc mắc: Thế thì bài hát cuối cùng của anh là bài gì? Sẽ như thế nào?...

Kết thúc của mọi câu chuyện đời đều không giống nhau. Tôi vẫn thường muốn trầm mình trong cái lẽ vô thủy vô chung nhưng người đời cứ thích níu kéo tôi về trong cái lề thói hữu hạn.

Trên đường băng chạy có cái đích để mình đến. Trong nghệ thuật thì khác. Cái cuối cùng có thể là cái vô hạn và biết đâu, nó từng có trước thời hạn mà mình không ngờ. Sự bất tử không có trước có sau mà thường nó nằm ở điểm mà mọi cơ duyên cùng hội tụ.

Tôi không hề có ý định viết bài hát cuối cùng bởi tôi nghĩ rằng thời điểm đó mình không thể nào bắt gặp được. Nếu vì một lý do tôi buộc mình phải lên đường để viết những ý nghĩ cuối cùng trong một ca khúc thì tôi tin rằng, vào lúc đó tôi sẽ cố gắng cởi trói mình thoát khỏi mọi hệ lụy của đời để sống chứ không cần phải nói thêm một điều gì nữa.

Bài hát cuối cùng có lẽ sẽ chỉ mãi mãi là một giấc mơ. Một giấc mơ buồn thảm mà chúng ta cần phải quên đi để mọi thứ biên giới trong cuộc đời trở thành vô nghĩa và nó sẽ không còn tồn tại như một lời thách thức kiêu hãnh nữa.

Bài hát đầu tiên và bài hát cuối cùng, ngẫm ra cũng chỉ là những bọt bèo vô hình vô tướng. Chúng ta vui chơi với nó và chúng ta quên đi. Có kẻ gieo cầu cho người nhặt được. Kẻ nhặt được không chắc là vui mãi. Kẻ không được cũng chẳng nên lấy nó làm điều.

Hơn ba mươi năm trước có một bài hát đầu tiên, như một trái cầu gieo, có chắc gì hạnh phúc? Không chắc gì hạnh phúc thì sao lại cần phải có bài hát cuối cùng.

Trịnh Công Sơn



:idea:

delta
01-25-2008, 10:29 AM
Trịnh Công Sơn

Bùi Bảo Trúc


1

Lặng lẽ nơi này

Trịnh Công Sơn người nhạc sĩ của hơn hai thế hệ người Việt vừa tạ thế tại Sài Gòn hưởng thọ 62 tuổi, một người rất gần gũi mà cũng rất xa chúng ta. Ông là người mà ai cũng biết nhưng cũng không ai biết ông bao nhiêu ngoài gia đình và một vài người bạn rất thân.

Sinh ngày 28 tháng Hai năm 1939, qua đời ngày 1 tháng Tư, năm 2001 tại Sài Gòn. Trịnh Công Sơn quê ở Huế nhưng ra đời ở Đắc Lắc. Tiểu sử, ông chỉ ghi như thế.

Lặng lẽ nơi này, như tựa của một bài hát ông viết, có lẽ là một tóm gọn khá đúng về cách sống của ông:

Trời cao đất rộng, một mình tôi đi
Đời như vô tận, một mình tôi về
một mình tôi về với tôi...

Từ căn nhà cũ ở Phú Cam, Huế, Trịnh Công Sơn lớn lên, bỏ vào Sài Gòn, theo bạn bè, âm nhạc. ông không ồn ào những bước đưa nhạc của mình vào với người nghe.

Năm 1965, ở trụ sở sinh viên đại học góc đường Duy Tân Hồng Thập Tự, người thanh niên có cái vẻ rất thư sinh, gầy gò ấy cầm chiếc Tây Ban Cầm bước lên bục, sau đôi lời giới thiệu rất ngắn và giản dị của một người trong ban tổ chức, cất lên tiếng hát chưa mấy ai biết ở Sài Gòn thời ấy, và từ đó, nhạc Việt Nam không bao giờ còn như cũ nữa.

Trong số những ca khúc ông hát hôm ấy, có bài Gọi Tên Bốn Mùa. Sài Gòn hôm ấy vừa xong một cơn mưa. Cơn mưa vào hạ, những giọt thì thầm, cành khô bơ vơ, buổi chiều xao xác, tuổi thơ, tin buồn... Không khí ấy, cứ nghe lại vài ba đoạn trong ca khúc Gọi Tên Bốn Mùa, lại trở về, như mùa thu cũ, một thời, một đời...

Trịnh Công Sơn tới với người thưởng ngoạn bằng nhạc, nhưng căn bản, ông là một thi sĩ.

Ông như người nhạc sĩ mù trong một bức vẽ của Picasso, thời kỳ xanh. Người nhạc sĩ cầm cây đàn, cây đàn không có dây, dạo lên những âm thanh mà chỉ ông nghe thấy, vì nó đi ra thẳng từ quả tim của ông.

Trịnh Công Sơn cũng thế. ông viết rất dễ dàng. Trong trí, trên một mảnh giấy lau tay trong một tiệm nước, bất cứ chỗ nào. Như một thi sĩ, vì ông chính là một thi sĩ.

Có những bản nhạc của ông, phần lời ca đúng là những bài thơ. ông dùng nhạc để nâng đỡ những đoạn thơ đó. Và ông cũng dùng thơ để dẫn những đoạn nhạc đi. Nhạc của ông không khúc mắc là vì thế.

Ngôn ngữ thơ trong phần lời ca của ông đưa người nghe vào một thế giới với những hình ảnh hoàn toàn mới. Hình ảnh lãng mạn mà ông tạo ra không còn dấu tích của dòng nhạc bước đi từ thời tiền chiến. Nó đưa tới sự chấm dứt những ảnh hưởng cũ đã ở trong nhạc Việt từ hơn ba mươi năm. Đến Trịnh Công Sơn, nhạc Việt mới đi hẳn về một chiều mới.

Ngôn ngữ tình yêu của ông không là những ngôn ngữ của thi ca lãng mạn Việt Nam trước đó. Đó là một thứ ngôn ngữ để nói về tình yêu trong một nỗi bất an, một không gian bất ổn, của chung quanh đầy xao động.

Có thể nói Trịnh Công Sơn làm thơ bằng âm nhạc. Âm nhạc chỉ là một phương tiện để chuyên chở thơ của ông. Trong những chuỗi âm thanh mà nhạc dẫn dắt chúng ta đi theo ông, người nghe, vẫn thấy lấp ló đâu đó con người thi sĩ của ông. Chữ nghĩa thi ca của ông không cầu kỳ, cũng không khuôn sáo. Những chữ đã rất cũ, qua tay ông, được mặc cho những bộ áo mới. Thì đây, chữ nghĩa đã cũ, nhưng nghe qua Trịnh Công Sơn thì lại rất mới:

Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa đông
Em ra ngoài ruộng đồng
Hỏi thăm cành lúa mới
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa thu
Em đi trong sương mù
Gọi cây lá vào mùa...

Trịnh Công Sơn là một tài hoa hết sức đa dạng. Ông viết về nhiều thứ nhạc khác nhau. Từ những tình ca xót xa, nghe tê dại, đau đớn, những tình khúc bất hạnh đến những bài ngợi ca quê hương đất nước, một ước mơ hòa bình hiền lành của dân tộc. ông nói hộ cho một hai thế hệ những điều đó. Nhưng nhạc tình của ông, bằng những hình ảnh rất mới, của thơ, đã trở thành dấu ấn của Trịnh Công Sơn.

Ông quan niệm như thế này về nhạc tình: "Khi bạn hát một bản tình ca là bạn đang muốn hát về cuộc tình của mình. Hãy hát đi, đừng e ngại, dù hạnh phúc hay dở dang thì cuộc tình ấy cũng là một phần máu thịt của bạn rồi."

Và bởi thế, những tình khúc mà ông viết, đã trở thành những tình ca chung của tất cả. Tính chất riêng tư không còn nữa.

Diễm trở thành không thực. Chỉ còn nhớ mãi trong cơn đau vùi, buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua như trong ca khúc Diễm Xưa, nghe một lần rồi mãi mãi không bao giờ quên được

Trịnh Công Sơn ra đi là một mất mát vô cùng lớn của những người yêu nhạc Việt. ông để lại một thế giới đẹp hơn.

Và nói như Kiều Chinh sáng hôm nghe tin ông mất, được sống cùng thời với Trịnh Công Sơn, là một vinh hạnh.


2

trịnh công sơn, nhạc tình

Ở trang 11 của tuyển tập Những Bài Ca Không Năm Tháng, Trịnh Công Sơn viết về hai nỗi ám ảnh trong đời ông như thế này: Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời.

Ông viết những dòng trên có thể trong cuối thập niên 90, khi 127 ca khúc được thu thập in lại thành tuyển tập. Nhưng nhìn lại những nhạc phẩm mà người ta được nghe của ông, thì tình yêu là ám ảnh lớn hơn tất cả các đề tài khác của Trịnh Công Sơn.

Có thể khẳng định rằng nếu sống vào một thời điểm khác, hòa bình hơn, hạnh phúc hơn, Trịnh Công Sơn đã chỉ viết một loại ca khúc: nhạc tình. Nhưng chiến tranh bầy ra cho ông một bất hạnh lớn. Bất hạnh đó kéo ông về những đau đớn triền miên của dân tộc. Những đau đớn bất hạnh đó không cho ông được phép thản nhiên để ca ngợi tình yêu, và vì thế mà trong tình ca của ông, vẫn thấy bóng dáng của khổ đau, bất hạnh. Trong bài Tình Sầu, với ông, tình yêu, ngay cả những lúc dịu dàng nhất, cũng vẫn như những khổ đau của trái phá, con tim mù lòa, vết cháy trên da thịt, cơn bão qua địa cầu...

Trịnh Công Sơn cứ bị kéo trở lại với những bất hạnh như thế, nên những tình ca ông viết cũng không là những bài ngợi ca hạnh phúc. Nó là những bất hạnh của chia xa, của những thương tích khổ đau, tuyệt vọng. Chính Trịnh Công Sơn cũng nói rõ điều ấy : "Mỗi bài hát của tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín về nhưng nỗi niềm tuyệt vọng, và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối với buổi chia lìa (một ngày nào đó) cùng mặt đất mà tôi đã một thời chia xẻ những buồn vui cùng mọi người."

Nên ông mong có được tin vui từ gạch đá dẫu mai nơi này người có xa người, hãy hát tình ca, hãy yêu nhau dẫu đang chênh vênh bên bờ của nguy khốn, hạnh phúc và thương đau cứ hãy trao cho nhau...

Trịnh Công Sơn, thủy chung vẫn chỉ ở với nhạc tình. Bài ca đầu tiên và cuối cùng của ông đều là những tình ca. Trong một chiều dài một nửa thế kỷ sáng tác, từ những năm 1950 đến cuối thập niên 90, Trịnh Công Sơn viết nhiều nhất vẫn là nhạc tình. Bản tình ca đầu tiên không phải là bài Ướt Mi như nhiều người vẫn nghĩ. ông cho biết ca khúc viết cho tình yêu đầu tiên của ông là bài Sương Đêm mà nay ông chỉ còn nhớ được cái tựa. Không một ai biết bài hát này. ông cho biết nó đã thất lạc với những biển dâu trùng trùng của đời sống. Ướt Mi lần đầu tiên được hát trước công chúng là tại phòng trà Văn Cảnh bởi tiếng hát của Thanh Thúy. Ca khúc này biến Trịnh Công Sơn thành một tên tuổi nổi tiếng lập tức.

Tình khúc Ướt Mi là khởi đầu cho chuyến đi rất dài, trên đó, ông để lại cho người thưởng ngoạn nhiều tình ca khác. Nhưng Ướt Mi, tuy thế, không phải là ca khúc viết về tình yêu hay nhất của ông. Nó vẫn còn những nét sơ phác cả về nhạc lẫn lời ca. Phải đợi đến Diễm Xưa, và Nắng Thủy Tinh, mức độ trưởng thành về nhạc và sự chín tới của lời ca mới thấy rõ nơi nhạc Trịnh Công Sơn.

Mầu nắng và mầu mắt, chiếc bóng nghiêng, bàn tay xôn xao, gió mây ngàn, hàng cây thắp nến... với Nắng Thủy Tinh, tình ca Việt Nam đi sang một hướng mới. Ngôn ngữ dùng làm lời ca là ngôn ngữ của thi ca, mới từ âm thanh đến ý nghĩa. Trước và sau Trịnh Công Sơn không ai viết thứ lời ca như thế...

Trong chiều dài sáng tác của Trịnh Công Sơn, ông cứ tiếp tục làm mới ông mãi mãi. So với Nắng Thủy Tinh, thì Như Cánh Vạc Bay lại hoàn toàn đi sang một lối khác. Cái đau đớn, chết chóc không còn nữa, nhưng niềm tuyệt vọng thì còn nguyên. Câu cuối của bài hát này, cứ như những vòng sóng trên mặt hồ, chạm vào bờ, rồi lại chạy ra giữa hồ hoài hoài mãi mãi. Những sợi tóc từ đó mãi mãi là nhăc nhở về mặt hồ sóng. Nắng thì hờn ghen, mưa thì làm buồn đôi mắt. Đặc tính thơ hiện ra rất rõ trong Như Cánh Vạc Bay, làm khía cạnh thơ lấn hẳn phần nhạc.

Quỳnh Hương mà ông viết trong thập niên 70 lại đưa nhạc của ông đi xa khỏi cái bờ bến đầu tiên của Ướt Mi thêm một đoạn đường dài khác. ông nhẹ nhàng như những bước nhún nhẩy của nhịp 2/4 như một lời tỏ tình hân hoan...

Bông hoa quỳnh ông đem tặng người yêu dấu cũng là món quà người nhạc sĩ viết tình ca để lại cho chúng ta, cho đời sống, đời sống rất đẹp mà ông chỉ cho chúng ta tìm lại được trong thế giới nắng hạn đã có lúc bốc cháy tan nát này.


3

phản chiến?

ở Việt Nam, thế hệ ra đời từ khoảng cuối thập niên 30 đến những năm đầu của thập niên 50 là thế hệ bất hạnh nhất.

Trong lịch sử Việt Nam, chắc chắn họ là những người tử trận nhiều nhất, góa bụa nhiều nhất và mồ côi nhiều nhất. Họ vừa lớn lên, là đã đụng mặt với một trong những cuộc chiến kinh hoàng, ghê khiếp nhất lịch sử nhân loại.

Trịnh Công Sơn mới bước vào tuổi biết nghĩ, là lúc chiến tranh cũng đang sửa soạn đi vào giai đoạn khốc liệt nhất. Trong những cái ốc đảo nhỏ của những thành phố ông đã ở đó, âm thanh của cuộc chiến vẫn vọng về, tiếng nổ của đại bác đã thay cho tiếng ru hằng đêm, những đứa bé côi cút lõa lồ, những người già trong công viên, đàn bò ngu ngơ... nhắc nhở cho ông không khí đầy súng đạn, chết chóc chung quanh. Chỉ là gỗ, là đá mới không cảm thấy được những khổ đau, bất hạnh của đất nước, của dân tộc.

Mà làm sao người ta có thể biết chắc được rằng gỗ, rằng đá không đau? Bia đá cũng còn biết đau như ông đã viết trong một ca khúc. Đá còn vậy huống chi con người trước những tang tóc, đau thương của đồng loại.

Từ một người chỉ muốn được một đời viết và hát nhạc tình, ngợi ca tình yêu, thì cuộc chém giết hàng ngày chung quanh ông đã bắt ông phải nói lên những khát vọng hòa bình, của chúng ta, của cả dân tộc Việt. Không phải chỉ bên này, hay chỉ bên kia mới được quyền nói, kêu gọi, đòi hỏi hòa bình, mà chính bạn, tôi, chúng ta, như trong ca khúc nhan đề Chính Chúng Ta Phải Nói, ca khúc một thời trên môi tuổi trẻ Việt Nam ở các sân trường học.

Năm 1968, khi chiến tranh ở giai đoạn khốc liệt nhất, thì đó cũng là năm nhạc của Trịnh Công Sơn đi sang một hướng đi khác. Vẫn viết tiếp những ca khúc lãng mạn ngợi ca những mối tình đến rồi lại đi, nhưng ngay trong các tình khúc ấy, tiếng đạn bom, trái phá, cũng đã trùng khắp, con phố xưa đầy dấu đạn, tên em cũng là vết thương khô.

Trịnh Công Sơn bắt đầu viết những ca khúc được nhiều người gọi là nhạc phản chiến.

Không một người có trái tim mà không biết nhỏ lệ, mà không biết khóc cho cả một dân tộc, cho anh, cũng như cho em đang quằn quại trong niềm thù hận mà ông gọi là "giả tạo" đó.

Trịnh Công Sơn viết về giọt nước mắt của người mẹ thương đứa con, thương sông, thương rừng, thương đất, thương mây, thương chim, thương đêm, giọt nước mắt không tên, bài hát cảm động nghe muốn khóc. Nguyễn Đình Toàn, một lần, khi giới thiệu giọng hát Khánh Ly, đã gọi đó là giọng hát đi rao giảng những bất hạnh của dân tộc, giọng hát để tang cho đất nước.

Khánh Ly chỉ là người đem những điều Trịnh Công Sơn viết xuống và chuyển đúng được những điều ông gửi gấm.

Tập nhạc ông đặt tên là Kinh Việt Nam, xuất bản năm 1968, theo chính lời ông viết ở trang đầu, là tiếng kêu thương thống thiết, khởi từ một thực trạng máu xương, là lòng mơ ước về một rạng đông cho đêm tối dài lâu này. Đó là những bài hát được viết từ nhưng hân hoan lắng nghe được trong lòng người, là nỗi hân hoan của đam đông chờ mong ngày hồi sinh.

Nếu đó là nhạc phản chiến, thì tất cả chúng ta đều có đầy đủ lý do và chính nghĩa để chống lại chiến tranh. Phản chiến, như thế, không là một taboo, một cấm kỵ nữa, mà là một ước ao tốt đẹp nhất của con người.

Trịnh Công Sơn chống lại chiến tranh, giết chóc một cách hiền lành. ông không đòi xương máu, ông không đòi trả thù, ông không đòi tiêu diệt bên này, chôn sống bên kia. ông bất lực không làm gì được để chặn những viên đạn bay, để nâng dậy hòa bình khốn khổ cho dân tộc đầy đọa triền miên bao nhiêu năm. Ước mơ tội nghiệp đó nghe được trong tất cả những ca khúc phản chiến của ông.

Trịnh Công Sơn, trong thế đứng khó khăn, thế đứng dựa vào nhân bản và dân tộc đó, ông đã giữ được cho đến lúc qua đời mặc dù trong đời sống, đã có lúc ông bị buộc phải đi trên sợi dây cheo leo, dưới chân là bờ vực hiểm nghèo. Nhưng lòng yêu quê hương, lòng thương người của ông, những giọt nước mắt cho người mẹ ngồi chờ, cho người lính ngồi chờ trên đồi, cho chúng ta, là những điều sẽ còn mãi trong lòng cả một xứ sở, một dân tộc trong nhiều năm nữa, chừng nào còn có người hát nhạc Việt.


4

trịnh công sơn và tôn giáo

Nhạc tôn giáo ít khi tiến được ra ngoài những bức tường của thánh đường hay sân chùa để được trình tấu và thưởng thức cùng với các loại nhạc phổ thông và thời trang khác. Lý do là vì cấu trúc của loại nhạc này quá cổ điển, và ngôn ngữ quá tôn nghiêm. Tính chất tôn nghiêm đó khiến cho khó có thể nói về tình yêu, thứ tình cảm thuần khiết và giản dị nhất của con người. Vì thế, nhạc tôn giáo vẫn tiếp tục ở mãi trong những bức tường thâm nghiêm của giáo đường và chùa chiền.

Đầu thập niên 60, The Singing Nun, một nữ tu người Bỉ cũng có biệt hiệu khác là Soeur Sourire, với cây Tây Ban cầm, đã rất thành công trong thế giới nhạc Pop với hai bài Entre Les étoiles và Dominique, hai bài hát mang rất nhiều hình ảnh tôn giáo, nhưng lại được những người trẻ tuổi nghe nhạc Pop ưa thích ngay. Hai nhạc phẩm lời ca viết bằng tiếng Pháp cũng được ưa chuộng ở các nước nói tiếng Anh. Những rào cản cũ bị dẹp bỏ.

Cùng lúc, Trịnh Công Sơn cũng đem dùng một số những từ ngữ mà trước đó được giữ trong một nơi chốn khác hơn là ngôn ngữ âm nhạc thời trang.

Những chữ phúc âm, lời buồn thánh... dẫu chuỗi hình ảnh đi kèm vẫn là của tình yêu lãng mạn, nhưng đó là lần đầu tiên những loại từ ngữ này được dùng trong những bản nhạc không mang không khí của giáo đường. Trịnh Công Sơn đem thứ ngôn từ đó ra ngoài, biến chúng trở thành thân quen, tình tứ. Chiều chủ nhật, thiên thần, ăn năn... những từ ngữ vang vọng tiếng chuông, tiếng phong cầm ấy được nối tiếp sau đó không bao lâu bằng nhạc phẩm mang tựa đề Phúc Âm Buồn, cũng lại là một thứ từ ngữ nghe là thấy không khí của tôn giáo. Nhưng Trịnh Công Sơn chỉ dùng những từ ngữ đó như một cái cớ để giàn trải những tình cảm lãng mạn của ông. Không khí mà chữ nghĩa lấy từ trong tân ước được lồng vào hai bản tình ca của Trịnh Công Sơn. ông biến những chữ trước đó luôn luôn gây những ấn tượng trang nghiêm lạnh buốt thành những ngôn từ gần gũi hơn, thân mật hơn. Đã có lúc người ta tưởng đạo Cơ Đốc là tôn giáo của ông.

Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, Trịnh Công Sơn cho biết đạo Phật đã ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của ông. Nhưng lớn lên, càng lớn, và càng nhìn ra những khổ hạnh trong đời sống, những bất công, những đau đớn cuộc chiến mang lại, Trịnh Công Sơn càng thấy ra những lời gọi của tôn giáo. ông tìm được an ủi, trong tuyệt vọng, ông tìm được vỗ về trong hạnh phúc mong manh, phù du.

Bài Đóa Hoa Vô Thường, một ca khúc đẫm hương thiền lại là một ca khúc hạnh phúc nhất của ông. Trong đó, sự cứu rỗi đón lấy ông giữa những trang kinh thơm mùi sen cao quí. Đời sống phù du bỗng bình an vô thường.

Trịnh Công Sơn dùng hình ảnh từ những trang kinh ra để nói về tình yêu. Nhưng rồi ông cũng lại dùng những lời ca tầm thường nhất để tạo một không gian đầy tôn giáo. Bài Nguyệt Ca là một ca khúc như thế.

Điều đó cho thấy là bao giờ, thủy chung, Trịnh Công Sơn cũng vẫn là một nhạc sĩ viết tình ca, loại nhạc sẽ ở mãi với con người cho dẫu thời gian, không gian có đổi thay.


5

những ru khúc

Trịnh Công Sơn, năm 1995, khi thân mẫu qua đời, đã viết đầy kín một trang giấy những suy nghĩ của ông về cái ngày đau buồn đó. Với ông, chuyện mất mẹ là một chuyện không thể thỏa hiệp, không thể giàn xếp được, dẫu cho người con có bao nhiêu tuổi đi chăng nữa. ông sống rất lâu với mẹ, từ khi mất cha. ông bị ảnh hưởng rất nhiều nơi mẹ. Thế nên sự ra đi của người mẹ, mới là điều không thể thỏa hiệp được với ông như ông nói ở trên. Chính những bài hát ông nghe được của mẹ đã tiếp tục theo ông mãi trên những đoạn đường dài nhất. Những bài hát mẹ hát để ru những người em đã trở thành những hạt mầm mọc lên những ca khúc ông viết sau này. Trong bài Tình Yêu Tìm Thấy, người ta nghe được câu này về những bài hát ru ấy: Tiếng ru mẹ hát những năm xưa, mãi là lời ca dao bốn mùa, tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá, góc phố nào cũng thấy quê nhà...

Ông rời nhà đi học ở một thành phố lạ, hình ảnh mang theo của bà mẹ là những bài hát ru. Và ông nhắc đến những bài hát ru ấy rất nhiều trong các ca khúc của ông.

Những bài hát ru của Việt Nam là những vỗ về, là những dỗ dành, là những an ủi, là những vuốt ve đầu tiên của những đứa bé. Vòng tay thơm, giọng hát ấm áp của người mẹ đem lại cảm giác an toàn cuối cùng cho người ta trước khi bị đẩy ra thế giới có khi rất hung bạo ở ngoài cửa. Trịnh Công Sơn tìm thấy trong những bài hát ru ấy một chỗ trú ẩn rất bình yên. Đời sống của người thanh niên trẻ lần đầu tiên sống xa những bức tường an toàn của ngôi nhà cũ ở Huế khiến ông cứ tìm cách để trở về với nó mãi. Và đó là lý do Trịnh Công Sơn viết rất nhiều ru khúc trong chu trình sáng tác của ông. ông viết để trở về với đoạn đời hạnh phúc, an toàn ấy trong khi đi qua những con đường đầy những gập ghềnh của thế giới ông vừa tiến vào.

Ru Ta Ngậm Ngùi là những an ủi, vuốt ve cho chính mình trong niềm cô đơn tội nghiệp. ông muốn được trở lại ngủ trong vòng nôi, trong tiếng ru ấy.

Những bài hát ru đem lại cho người nghe cảm giác an toàn hạnh phúc. Và cuộc đời càng đưa tới những bão táp nghiệt ngã, thì người ta càng muốn tìm trở lại nơi trú ẩn cũ. Những bài hát ru của thời thơ ấu cho ông nơi trú ẩn đó. Chiến tranh càng khốc liệt, thì ngừơi ta càng cần đến nhiều hơn những nơi trú ẩn, những nơi trú ẩn an toàn nhất của thời thơ ấu, đó là những bài hát ru trong lòng người mẹ. Trịnh Công Sơn nhìn thấy,một cách kinh hoàng khi những tiếng đại bác thay thế cho tiếng ru hàng đêm: đại bác ru đêm vọng về thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe.

Ông thấy phải thay những tiếng nổ đó bằng những ru khúc. Những bài hát để ru những anh và những em, những người già, và những em bé, ru đất nước và dân tộc, ru cho những đau thương, những bất hạnh ngủ yên.

Trịnh Công Sơn, trong khi đi tìm sự bình yên cho ông bằng những du khúc ông viết, thì cũng đem lại những an ủi, vỗ về cho nguyên một thế hệ của ông. Có thể nói không một nhạc sĩ nào viết nhiều ru khúc như Trịnh Công Sơn. ít ra cũng phải trên hai chục bài. ông ngậm ngùi ru chính ông. ông ru tình, ông ru đời. ông ru đời đã mất. ông ru người yêu ngủ trong buổi sớm mùa đông, rồi lại một sớm mùa xuân. ông ru mãi, ru hoài. ông ru những tháng âm u, ru những chia xa, những phụ rẫy, ngọt bùi. Những lời tỏ tình cũng được lồng vào một điệu ru như trong ca khúc Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng.

Còn một cách tỏ tình nào hơn bài hát ru đó?


6

thân phận con người

Tuyển tập Những Bài Ca Không Năm Tháng xuất bản cuối năm 1998 là một tập nhạc đồ sộ ở con số bản nhạc được chọn để in. Đó là lần đầu tiên một tập nhạc có con số ca khúc lớn như thế của Trịnh Công Sơn: 127 bản.

Nhưng đó không phải là tất cả những bản nhạc ông đã viết, đã cho phổ biến và đã được hát lên, được nghe trong cuộc đời sáng tác của ông. Thông thường thì tác giả nào chẳng muốn in toàn bộ sáng tác của mình, hay ít ra, thì cũng là tất cả những tác phẩm ưng ý nhất, vào một tập. Trịnh Công Sơn cho biết, trong cuộc đời sáng tác của ông, đã viết trên 500 nhạc phẩm, con số mà những người biết ông đều nghĩ là một con số quá khiêm tốn. Nhưng trong số ấy, ông cũng chỉ chọn 127 bài để in trong tập nhạc này.

Tuy được sắp xếp theo thứ tự của tự mẫu La Tinh, nhưng tình cờ, ca khúc đầu tiên lại là Bên Đời Hiu Quạnh và bản nhạc cuối của tập nhạc là bản Yêu Dấu Tan Theo, và chính tựa của hai ca khúc in ở đầu và cuối tập nhạc cho thấy những suy nghĩ cuối đời của ông về tác phẩm ông muốn để lại.

Những bản nhạc trong tuyển tập đều không ghi ngày viết và không được xếp theo thứ tự tháng năm sáng tác. Mở tập Những Bài Ca Không Năm Tháng, người ta thấy ngay một điều: đó là sự thiếu vắng của những ca khúc vẫn thường được gắn liền với tên tuổi của ông. Những bản tin của báo chí hay các hãng thông tấn ngoại quốc như The New York Times, The Washington Post, Reuters, AFP, AP... đều nhắc đến ông như một nhạc sĩ phản chiến. Nhưng trong tập nhạc cuối cùng này, người đọc không thấy có bất cứ một bản nhạc gọi là nhạc phản chiến nào. Những ca khúc như Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói, Ngày Mai Đây Bình Yên, Ta Đã Thấy Gì Trong Đêm Nay, Sao Mắt Mẹ Chưa Vui, Nước Mắt Cho Quê Hương, Ca Dao Mẹ, Người Già Em Bé, Du Mục... đều không có mặt.

Mà những ca khúc đó, đều là những bài hát không thể không có trong những sinh hoạt của tuổi trẻ Việt Nam trong những năm 60 và 70, những bài hát đóng góp lớn trong việc làm thành tên tuổi ông. Và luôn cả bài Nối Vòng Tay Lớn, bài hát từ nhiều năm nay luôn luôn đi liền với tên ông. Bài hát được hát lên rất nhiều như ước vọng nối lại sơn hà, nối thành phố với nông thôn, nối người chết linh thiêng vào đời, nối Bắc với Nam nối biển xanh với sông gấm, nối rừng núi với biển xa... Và chính tựa đề của bài hát này, Nối Vòng Tay Lớn, đã được dùng để đặt tên cho chương trình đưa các sinh viên du học về nước thăm nhà hồi trước năm 1975, rồi cũng chính bài hát này, sau khi được hát lên trên làn sóng điện đài phát thanh Sài Gòn trong ngày đầu tiên khi Cộng sản tiến vào Sài Gòn, đã tạo ra không biết bao nhiêu ngộ nhận cho ông cho đến bây giờ vì rất ít người biết rõ hoàn cảnh đưa tới việc có tiếng hát của ông trong ngày hôm đó.

Trịnh Công Sơn không đưa những bài hát này vào tập Những Bài Ca Không Năm Tháng.

Trong một câu ông viết ở đầu tập nhạc, ông khẳng định : Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Và những bài ca ông cho in trong tuyển tập chỉ còn là những bài hát về tình yêu và thân phận.

Trịnh Công Sơn viết những ca khúc về thân phận hết sức buồn bã. Ngay cả trong những bài hát ông viết về tình yêu, ông cũng bầy ra một nỗi buồn chán, tuyệt vọng. Trong suốt những năm trưởng thành của ông, những gì xẩy ra trên quê hương mà ông chứng kiến, chỉ là những điều buồn phiền như ông đã kể: "Trên quê hương còn lại, ta đi qua nửa đời chưa thấy được ngày vui..." (Những Đôi Mắt Trần Gian).

Những bạn bè rời xa, những cuộc tình bỏ đi, ngày qua đi mỗi ngày một xót xa... "ở cuối chân trời Việt Nam, những tia nắng nghèo nàn và bệnh hoạn từ một mặt trời hết sinh khí sắp đi vào hôn mê."

Ông đã viết như thế năm 1968 ở đầu tập nhạc Kinh Việt Nam. Trịnh Công Sơn đã sống những ngày vô cùng tuyệt vọng như thế, như trong ca khúc Như Chim Ưu Phiền mà nhịp đi buồn bã của thơ năm chữ còn rất rõ trong bản nhạc:

Tôi như con chim nhỏ
Bay về rất ngẩn ngơ
Trên nhân gian chia lìa
Lòng đầy những oán thù

Tôi như chim xa lạ
Đứng nhìn những ngày qua
Trong tim tôi bất ngờ
Một lời than rất nhỏ

Tôi như con chim buồn
Bay về lúc chiều hôm
Thôi quên đi thiên đường
Một đời tôi mãi tìm

Tôi như con chim bệnh
Thiếu hạnh phúc trần gian
Có những tháng mùa đông
Ngồi khóc rất âm thầm

Tôi như chim ưu phiền
Bay về cuối dòng sông
Con sông mang tin buồn
Nằm chờ những đóa hồng

Tôi như chim vô vọng
Linh hồn rất mong manh
Trong tim tôi có lần
Một mùa ôi rất lạnh...

Trịnh Công Sơn lớn lên, nhìn chung quanh chỉ thấy những tin buồn, những tin buồn như ông có lần viết là đã mang "từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người" trong ca khúc Gọi Tên Bốn Mùa.

Võ Phiến trong Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhận xét Trịnh Công Sơn vừa mới lớn lên cũng thốt lời siêu thoát như một đạo sĩ đầu râu tóc bạc chống gậy trúc dưới một chân núi nào.

Nhưng thân phận ấy cũng không phải chỉ là của riêng ông, mà là của cả dân tộc và đất nước đau khổ ông đang sống với những lìa xa, chết chóc, vong thân, tù ngục, đầy đọa triền miên. Đứa bé ra đồng đạp trái mìn nổ chậm chết không toàn thây, bờ môi như vẫn còn thầm hỏi có thiên đường hay không... Trong đời sống như vậy, thế hệ mất tuổi trẻ, không hạnh phúc của ông bỗng tìm thấy một phát ngôn nhân, một tiếng nói nói lên, thay mặt họ, về những bất hạnh của cuộc sống, những hoài nghi ngay cả về những bàn tay cứu rỗi của cả Phật lẫn Chúa như trong bài Này Em Có Nhớ.

Cùng thời với ông, Thanh Tâm Tuyền kêu lên thảng thốt:

Sao tuổi trẻ quá buồn,
Như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
Như bàn ghế không bầy...

Thân phận buồn bã của tuổi trẻ trong cuộc chiến trở thành một ám ảnh không bao giờ rời Trịnh Công Sơn. ông khóc cho họ, đau cho họ, rồi lại quay về an ủi, vỗ về họ.

Nhưng còn khúc hát nào buồn hơn trong vỗ về an ủi, bảo cho mọi người vui lên mà đau đớn như bài Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngày? " Dù ta như con đường dài vắng người... Hãy cứ vui chơi cuộc đời..."


7

tiếng réo gọi về với ca dao

Năm 1967, chiến tranh Việt Nam leo thang lên gần đến điểm cao nhất, số người chết ở cả hai phía đều lên đến những con số làm kinh động lương tri của nhân loại. Việt Nam là một quốc gia đang trên đường tan rã. Tất cả mọi giá trị, mọi truyền thống đều bị đem ra thử thách, để rồi bị gạt sang một bên. Thành thị, nông thôn bốc cháy trong lửa của chiến tranh nồi da xáo thịt khốc liệt. Một thế hệ lớn lên không có được một ngày thanh bình, những nét tốt đẹp nhất của dân tộc bị thay thế bằng thù hận, bom đạn, tuyên truyền xảo trá, chiêu bài giả dối. Thế hệ đó như sắp đánh mất quá khứ và căn cước của họ sau bao nhiêu đổi thay, đổ vỡ, quê hương chỉ còn là những đống gạch vụn tan nát không thể trở về. Một nền văn minh khác đang đe dọa tiến vào, xóa đi những truyền thống cũ.

Thì đúng vào thời gian đó, bài Người Con Gái Việt Nam Da Vàng được hát lên lần đầu tiên ở một hội quán nhỏ ở Sài Gòn của sinh viên.

Người nghe, cái thế hệ thiệt thòi và tội nghiệp đó, thế hệ không được biết hòa bình bỗng được chỉ cho thấy cái họ sắp đánh mất. Cuộc sống tốt đẹp cũ trong có một thời gian ngắn, đã trở thành quá xa lạ, như chỉ còn lại trong những trang giấy cũ của bộ Quốc Văn Giáo Khoa Thư.

Trịnh Công Sơn có thể dùng một thể nhạc chậm hơn, không cần phải đầy nét hối hả để viết bài Người Con Gái Việt Nam Da Vàng, nhưng ông chọn một nhịp nhanh hơn để viết ca khúc này. Kết quả là bài ca mang nhiều hối thúc, giục giã hơn. Và có lẽ ít có một ca khúc nào tạo được nhiều xúc động như một câu trong bài, câu: "... Em chưa hát ca dao một lần, em chỉ có con tim căm hờn..."

Nguyên một thế hệ xa lạ hẳn với ca dao vì chiến tranh, bom đạn. Dòng nước ngọt với những lục bát vỗ về tình tứ, những an ủi, những tỏ tình, những lẳng lơ tuyệt đẹp thế hệ này không biết. Nhiều tiếng nói cất lên để báo động: dân tộc sắp đi tới một hành động phá sản tự sát văn hóa.

Trịnh Công Sơn, bằng ca khúc Người Con Gái Việt Nam Da Vàng, đã lên tiếng nhắc thế hệ của ông, cái thế hệ đi trong đêm vang ầm tiếng súng, mang trong tim những căm hờn, yêu quê hương nay đã không còn, rằng họ chưa được hát ca dao một lần, họ cũng quên mất xưa kia Việt Nam không như Việt Nam mà họ đang phải sống từng ngày.

Tiếng réo gọi của bài hát thật là khủng khiếp. ông kéo người nghe lại gần, rồi chỉ cho thấy quê hương khốn khổ ấy, nơi những địa danh, những tên thành phố chỉ còn là nhắc nhở về những cái chết, là nỗi bất hạnh, là những khổ đau của cả một dân tộc.

Những hình ảnh quê hương đất nước thanh bình mà các nhạc sĩ lớp trước vừa vẽ ra được như trong các ca khúc của Nguyễn Văn Khánh, Phạm Đình Chương, Phạm Duy, Lam Phương, Văn Phụng... qua đến Trịnh Công Sơn thì không còn nữa. Những hình ảnh của một thời thanh bình ấy được thay bằng những cái chết không manh áo, ngoài đồng, trên sông, lòng đèo, ở Ba Gia, ở Chu Prong, ở Huế, Sài Gòn, Hà Nội... trong Tình Ca Của Người Mất Trí.

Trịnh Công Sơn viết về đất nước như một hành động đòi lấy quyền để nói, để nhắc nhở cho thế hệ của ông, trước ông và sau ông về một quê hương Việt Nam đang bốc cháy, để báo động trận hỏa hoạn, để hét lên lời cầu cứu... "Hố thẳm đã mở ra dưới chân dân tộc này. Lương tâm con người đang trên đà bị phát mãi." ông viết ở đầu cuốn Kinh Việt Nam như thế.

Ca khúc tiếp theo, Lại Gần Với Nhau là những lời gọi thảm thiết, gọi anh, gọi chị, gọi em, gọi mọi người ngồi lại, ngồi gần lại nhau.

Trịnh Công Sơn nói với một người bạn rằng ông không thể sống ở ngoài Việt Nam, bất kể đó là một Việt Nam thế nào đi chăng nữa. ông ôm lấy quê hương tơi tả rách nát chờ một ngày đất nước đứng dậy, vực lại quá khứ huy hoàng cũ. Cũng ở tập nhạc in năm 1968, ông viết: "Xin đừng bao giờ làm kẻ phản bội một quá khư hiển linh."

Trịnh Công Sơn không viết về quê hương thanh bình: "Em không biết quê hương thanh bình, em chưa thấy xưa kia Việt Nam..." ông viết về quê hương của những ngày sắp tới, khi ba thành phố nắm tay nhau, ba dòng sông góp thành hội trùng dương. Huế Sài Gòn Hà Nội nói lên ước mơ của những trái tim đau sắp kiệt lực, những chờ đợi cho những con đường nở hoa, cho lá trầu, miếng cau cổ tích trùng phùng. Ước mong đó không thể là của một người, mà của cả một dân tộc bị đầy đọa khốn cùng. Trịnh Công Sơn đã nói lên tất cả những điều đó cho những người anh em của ông, chúng ta.


8

nỗi cô đơn giữa đám đông

Trịnh Công Sơn trong suốt nhiều năm, lúc nào cũng có đông bạn bè ở chung quanh nhưng ông lại là người hết sức cô đơn ở giữa đám đông ấy. ông cứ loay hoay với những mệt mỏi của cuộc chiến tranh mãi không tìm ra được lối thoát, trong khi những tiếng động của cuộc chiến vẫn vọng về cắt ngang những đời sống, những tương lai, những cuộc tình, những bạn bè, tuổi trẻ của thế hệ cùng thời với ông. Càng nghĩ tới những chuyện đó, ông càng thấy rất nhiều suy nghĩ của ông không được chia xẻ. Nhịp quay của đời sống cuốn theo, nuốt trôi mọi thứ. ông vừa thấy bất lực trước chung quanh nghiệt ngã, vừa cảm thấy lúc nào ông cũng một mình. Chỉ những khi bóng tối che ngang, lúc có những tiếng gọi thì thầm của trăm năm, như đoạn mở đầu của bài Còn Có Bao Ngày, ông mới tìm thấy được ở ban đêm, ở bóng tối chỗ ẩn náu, nơi trở về an toàn, tịch lặng nhất với những vỗ về an ủi cho mình. ông nhắc rất nhiều đến những đêm tối, những hoàng hôn, những đêm khuya trong nhạc.

Đó là những lúc để ông nhìn ngắm lại cuộc đời mình. Đó cũng là lúc ông "đau đớn nhận ra rằng cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh." ông viết như thế ở trang 275 của tuyển tập Những Bài Ca Không Năm Tháng.

Những suy nghĩ về cuộc đời, về thân phận một người đang đi qua một cuộc chiến thảm khốc với những tư tưởng không ở giữa dòng nước càng ngày càng đẩy ông ra ngoài đám đông mặc dù ông vẫn đang ở giữa quê hương đau khổ. Sự mỏi mệt hiện rõ trong thái độ chán ca những chuyến đi tưởng để thoát khỏi cái quanh quẩn của cái đường vòng kín không lối ra.

Ông không đồng ý và chấp nhận một đời sống tự hủy đang diễn ra chung quanh.

Ông là người đi lạc trong một thành phố tưởng là quen thân lắm. Nhưng thực ra, Trịnh Công Sơn không thuộc vào một nơi nào hết. ông cứ đứng ở bên ngoài, tự chọn cho thế đứng không nhập cuộc, hai vai hai vầng nhật nguyệt, thư thái trên con đường chỉ một mình đi.

Trong Một Cõi Đi Về, câu: "... Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ. Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà..." chỉ một câu này, cũng đủ để bầy ra tất cả sự cô đơn khủng khiếp ông phải đối mặt mỗi ngày trong đời sống rất nhiều tiếng động.

Thái độ cô đơn đứng ngoài một mình không tham dự và nhập cuộc của Trịnh Công Sơn còn được thấy rõ hơn trong bài Tự Tình Khúc. ông thấy mình là đứa bé ngồi nhìn thế kỷ qua đi, vẫn không thấy được nơi nương tựa, vẫn cứ chỉ là ngọn đèn nhỏ thắp lên cho riêng mình. Bài ballad viết về sự cô đơn ấy đầy những hình ảnh xót xa hết sức bi thảm và cảm động. Trên cái vực thẳm ngó xuống lòng sâu của cô đơn, ông ngồi một mình.

Căn bản, các sáng tác của Trịnh Công Sơn là nhạc tình. Bài Tình Xa là một ca khúc ông viết cùng thời gian với Tình Nhớ và Tình Sầu để thành một trilogy trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của ông. Và trong Tình Xa, sóng được cho dội vào đời buốt giá, gió cát phù du bay về để nói về nỗi cô đơn của ông. ông dùng hơn một tình khúc để nói về sự cô đơn đó. Và tình yêu, tưởng là điều đem lại những vỗ về an ủi cho ông, thì cũng lại phản bội, lọc lừa. Những dòng sông trở thành biểu tượng của chuyến bỏ đi, cơn mưa thành lời hẹn thề, thành phố hoang vu khi cuộc tình đi qua, tình cúi đầu trong tiếng buồn rơi đều.

Sự cô đơn đã là một cơn đau suốt đời của Trịnh Công Sơn. Nhưng chính ông đã lựa chọn để sống với nó.

Cũng như Socrates, ông thà sống khốn khổ còn hơn.


9

những để lại

Nhiều so sánh đã được đưa ra để tạo ấn tượng về một sự việc ít ai biết với một sự việc đã quen thuộc với nhiều người. Thí dụ khi nói nhà văn X là một Solzhenitsyn của văn chương Pháp, họa sĩ Y là một Cezanne của hội họa ý, nhà thơ Z là Đỗ Phủ của thi ca Đại Hàn... thì người nghe có ngay một số khái niệm về các ông XYZ ngay. Nhưng cũng rất nhiều khi những so sánh này lại là những bất công đáng kể với những tiêu chuẩn được đem ra dùng để so sánh. Các ông Solzhenitsyn, Cezanne, Đỗ Phủ lớn hơn các ông XYZ chẳng hạn.

Và cũng có những trường hợp ngược lại.

Joan Baez, một nữ ca sĩ nhạc dân ca – folk singer – của nhạc Mỹ, khi được giới thiệu với Trịnh Công Sơn, đã đưa ra một so sánh lập tức: Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam.

Việc Joan Baez làm cũng dễ hiểu: cô tạo được sự nghiệp ca hát phần lớn là nhờ nhạc của Bob Dylan, những ca khúc chống chiến tranh của người nhạc sĩ này. Nhưng cô chưa biết được đủ về Trịnh Công Sơn. Nguyên số lượng ca khúc mà Trịnh Công Sơn viết đã nhiều hơn số ca khúc của Bob Dylan. Mà đó mới chỉ nói về số lượng sáng tác.

Như vậy sự so sánh có bất công cho Trịnh Công Sơn. Bob Dylan viết một số nhạc phản chiến – anti war songs – và phản kháng – protest songs – cùng một số đề tài khác. Trịnh Công Sơn viết nhạc phản chiến, phản kháng, nhưng chủ yếu là tình ca, những đề tài khác là quê hương, thân phận con người, trong đó, triết lý và tôn giáo là những nét nổi bật. Bài nổi tiếng nhất của Bob Dylan là ca khúc Blowin' In The Wind, bài hát nói về chiến tranh, bom đạn, chết chóc, ước mơ hòa bình được coi như bài hát đầu môi của các phong trào phản chiến hồi thập niên 60. Nhưng Blowin' In The Wind vẫn chưa tới được mức bi thảm của các ca khúc Chính Chúng Ta Phải Nói, Người Già Em Bé, Nước Mắt Cho Quê Hương hay Đại Bác Ru Đêm.

Pete Seeger là một nhạc sĩ dân ca hàng đầu của Mỹ. ông cũng viết nhiều ca khúc chống chiến tranh, và một trong những bài nổi tiếng của ông được hát rất nhiều trong những sinh hoạt chống chiến tranh của thập niên 60 là bài Where Have All The Flowers Gone. Pete Seeger lớn tuổi hơn Trịnh Công Sơn và Bob Dylan nên không được đem ra so sánh. Nhưng cùng những ý tưởng và hình ảnh thì Where Have All The Flowers Gone chưa bi thảm bằng Người Con Gái Việt Nam Da Vàng hay Tình Ca Người Mất Trí.

Pete Seeger cũng viết về nước Mỹ, This Land Is Your Land, nhưng lòng yêu thương đất nước: Đất này là đất của anh, đất này là đất của tôi, từ rừng hồng mộc miền tây đến biển đầy bọt trắng miền đông, đất này được tạo ra cho chúng ta... không thể cảm động như Huế Sài Gòn Hà Nội của Trịnh Công Sơn. Huế Sài Gòn Hà Nội có tiếng hối thúc, réo gọi, hừng hực...

Trịnh Công Sơn viết tình ca nhiều hơn Burt Bucharach mặc dù số lượng mà tác giả của í'll Never Fall In Love Again, của Raindrops Keep Falling On My Head, Alfie, Anyone Who Had A Heart cũng đã nhiều. Nhiều nhưng chưa thể vượt quá con số 127 bài mà Trịnh Công Sơn chọn để in trong tuyển tập Những Ca Khúc Không Ngày Tháng sau khi đã bỏ ra ngoài một số rất lớn những ca khúc viết về các đề tài khác của ông.

Một đóa quỳnh không bao nhiêu người biết, qua những khuông nhạc của Trịnh Công Sơn, nó biến thành một lời tỏ tình. Những bước chân trở về của người phụ nữ không may mắn, làm công việc rất bất hạnh của xã hội đã thành một tình khúc bi thảm, bài Nghe Những Tàn Phai.

Những chi tiết vừa kể cho thấy đem những tên tuổi khác để so sánh với Trịnh Công Sơn là một việc vừa sai lầm vừa bất công.

Có một chi tiết nhỏ về những ca khúc của Trịnh Công Sơn, đó là với một số lượng sáng tác lớn như thế và được phổ biến rộng rãi như thế, chỉ có một hay hai bài, có phần chắc là không quá hai bài, bị đem ra đặt cho những lời ca khác nhảm nhí.

Đó có phải là một thái độ yêu mến trong khi vẫn còn dành cho tác giả rất nhiều tôn trọng của những người yêu nhạc, sống cùng thời với ông không?

Chúng tôi nghĩ là có.


10

như một lời chia tay

ở tuổi hai mươi mấy, ít người viết những lời ca như trong bài Cát Bụi. Và cũng không nhiều người viết di chúc hay những chữ khắc trên mộ bia cho mình ở cái tuổi ấy. ít người nghĩ đến cái chết, đến sự trở về với những hạt cát, những hạt bụi của nguyên thủy.

Trịnh Công Sơn đã làm công việc ấy một cách quá sớm. ông viết Cát Bụi năm ông chưa tới 30 tuổi, như thể ông nhìn thấy sự ra đi ngay trong sự sống qua những hạt bụi. ... Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi... ôi cát bụi phận này, vết mực nào xóa bỏ không hay...

Rồi vài chục năm sau, ông lại viết: "... trong xuân thì thấy bóng trăm năm..." ông luôn luôn nhìn thấy cái chết ở sự sống, trong hạnh phúc có bất hạnh, trong hôm nay có ngày mai, "dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ, dưới chân ngày cỏ xót xa đưa. "

Có lẽ những năm chiến tranh, sự ra đi quá sớm của người cha, những bất trắc của đời sống làm ông luôn luôn được ồ và cũng như bị ồ nhắc nhở và ám ảnh về cái chết.

Cuối năm 1992, trong những dòng viết ở cuối tập nhạc Những Bài Ca Không Năm Tháng Trịnh Công Sơn viết: "mỗi ngày sống tới, mỗi ngày tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm... Đời sống thật sự không tiềm ẩn điều gì mới lạ. Có lẽ vì thế, sự quen mặt mỗi lúc mỗi gần gũi, thắm thiết hơn, nên tôi càng thấy yêu mến cuộc đời."

Đó lại là những điều viết xuống của một người nói rất nhiều đến cái chết. Thực sự, ông là người rất yêu đời sống như lời ca của bài Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngày. Thí dụ:

...Hãy cứ vui như mọi ngày
Bên trời còn nắng
Lá trời còn xanh
phố còn người đông...

Rồi ông lại viết Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người trong Để Gió Cuốn Đi, một bài hát đọc thấy tấm lòng của ông với đời sống bằng nhịp 3/4 thư thả mà thiết tha.

Có lúc ông quay ra đùa cợt với cuộc đời, mà ông coi chỉ là nơi ông ở trọ. Mượn chút hơi dân ca, ông nhờ không khí lục bát trong ca dao để viết bài ở Trọ bằng nhịp 2/4 vừa lẳng lơ vừa lý lắc những bước nhún nhẩy. Coi mọi thứ tình yêu, cuộc sống chỉ là vô thường, lúc có lúc không. Toàn bài nghe như những công án Thiền. Bài ca lời lẽ giản dị, có lúc tươi tắn lạ thường, lại là những tư tưởng rất Phật giáo, được kéo xuống gần gũi hơn nhờ những í a của dân ca miền Bắc.

Trịnh Công Sơn viết nhạc cho người khác hát. ông ít khi hát nhạc của mình trước đám đông mặc dù ông có giọng tốt. Thêm nữa, là người viết những ca khúc ấy, ông hát chắc phải rất chính xác. Bài Như Một Lời Chia Tay đã được thu thanh bởi ít nhất là hai giọng hát mà ông rất tin cậy. Nhưng ca khúc này, hát lên bằng giọng của ông, lại mang một nét khác nữa. ông hát mà như gửi lại những điều đã đi qua đời ông cho người nghe, như đóng lại trang cuối cùng của cuốn sách. Lời ca của bài Như Một Lời Chia Tay đọc lên, không cần phải nghe ông hát cũng đủ tạo xúc động. ông xếp lại đời sống, ông cám ơn cuộc đời, ông nhìn lại những cuộc tình, ông nhớ lại bông hoa mỏng manh cuối trời, coi đó như một lời giã biệt. ý của lời ca thì bi đát, nhưng nghe qua giọng của ông, người nghe thấy đươc sự bình thản của ông khi từ biệt cuộc sống.

Trịnh Công Sơn đã về với cát bụi, giã từ nơi ông ở trọ. ông biết trước chuyến đi về nơi vĩnh hằng. Nhưng ông cũng sẽ còn ở lại với chúng ta mãi mãi. Chúng ta mãi mãi nhớ ông, biết ơn ông, biết ơn ông đã nói hộ chúng ta những điều khó nói nhất, biết ơn ông đã vỗ về an ủi cuộc đời chúng ta trong những lúc hân hoan hạnh phúc cũng như những lúc sầu thảm bất hạnh.

Ba trăm năm nữa sẽ còn người hát và nghe những gì ông để lại.

Đó là món quà âm nhạc ông để lại. Đó là một món quà mà thỉnh thoảng lắm, có khi là vài trăm năm Việt Nam mới được một món quà quí giá như thế.

Cám ơn Trịnh Công Sơn.

BÙI BẢO TRÚC

1 tháng Tư - 12 tháng Tư, năm 2001
:alert:

delta
01-25-2008, 10:31 AM
Bi Kịch Trịnh Công Sơn


Trịnh Cung

Tôi gặp Trịnh Công Sơn vào năm 1958 tại Huế; lúc đó Sơn khoảng 17 tuổi và tôi 18 tuổi. Chúng tôi chơi với nhau vì cùng tâm hồn thi ca, và bởi vì lúc đó tôi chưa hề là họa sĩ. Sơn thích thơ của tôi và đã phổ bài "Cuối cùng cho một tình yêu" năm đó. Trước đó, Trịnh Công Sơn đã viết "Ướt Mi", "Thương một người" và "Nhìn những mùa Thu đi". Ngôn ngữ của "Ướt Mi", "Thương một người" và "Nhìn những mùa Thu đi" còn nhẹ nhàng, và còn có gì đó ảnh hưởng của Đặng Thế Phong trong "Giọt Mưa Thu" hoặc "Buồn Tàn Thu" của Văn Cao – nhưng đến khi Sơn phổ nhạc bài thơ của tôi, nhạc của Sơn bắt đầu một chương khác, do ngôn ngữ của bài thơ lúc đó rất là mới. Tôi đã dùng những chữ "đói", "mỏi" trong thơ, mà lúc này Sơn lại thích bài thơ đó. Tuy nhiên theo tôi, bài Diễm Xưa của Sơn mới là mở đầu của một TCS hoàn toàn mới lạ và cực kỳ hấp dẫn trong nhạc trẻ, giới trẻ hồi đó.
Cuộc đời của Sơn là một bi kịch. Ba của Sơn mt lúc anh đang học ở Chasseloup Laubat - một trường dạy chương trình Pháp - và đang chuẩn bị thi Bac thì Sơn phải bỏ học để về chịu tang ba.
Sơn rất giỏi thể thao. Anh tập 10 môn phối hợp rất được chú ý ở trường học. Sơn cũng giỏi về Nhu Đạo và Boxing. Trong một buổi dợt với người em là Trịnh Quang Hà - anh đã bị một cú choàng vai, và bị tổn thương phổi rất nặng, nên phải bỏ cuộc, và nằm dưỡng bệnh hai năm. Nếu Sơn không bị những sự kiện đó, tôi nghĩ là Sơn sẽ đi học ở Paris và sẽ trở thành một tiến sĩ, một bác sĩ, một kỹ sư ... chớ không phải là một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Tôi cho biến cố đó đã đặt Trịnh Công Sơn vào tình trạng cô đơn, tuyệt vọng. Sơn tập chơi guitare, tự học guitare với một người bạn, rồi sau đó viết ca khúc "Ướt Mi", "Nhìn Những Mùa Thu Đi".
Khi tôi gặp Sơn, thì anh đã bình phục - Sơn không có điều kiện trở lại Sài Gòn để học tiếp ở Chasseloup Laubat vì gia đình anh bị phá sản,
Sau đó - để tránh cho Sơn khỏi phải đi quân dịch, một số bạn như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha đã giúp Sơn thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn.
Ca khúc Biển Nhớ đã ra đời tại trường sư phạm Quy Nhơn – trong thời gian này. Và nhân vật để Sơn viết bài Biển Nhớ là một người bạn gái có tên là Khê, nên có cái câu "Ngày mai nối bước Sơn Khê."
Sau đó Sơn lên B'Lao nhận chức trưởng giáo của một trường Thượng có hai lớp, cách nhà trọ khoảng năm bảy cây số. Sơn phải đạp xe vào làng để dạy. Tôi lên thăm Sơn, và đưa Sơn ra Đà Lạt để chơi cuối tuần - một căn phòng trọ với bốn bức vách đầy chim và bao thuốc lá Bastos - ở đó Sơn đã bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của anh với những bài như Đàn Bò Vào Thành Phố, như Khi Mặt Trời Ngủ Yên, như Tiếng Hát Dạ Lan. Và đó cũng là thời gian anh viết những ca khúc về thân phận, và những tình khúc. Đó chính là thời điểm tôi và Sơn gặp Khánh Ly tại một phòng trà ca nhạc nhỏ ở Đà Lạt.

Thật ra, người hát đầu tiên nhạc Trịnh Công Sơn và làm cho công chúng yêu nhạc Sài Gòn biết đến Sơn không phải là Khánh Ly mà là Thanh Thúy. Sau đó Trịnh Công Sơn viết bài Thương Một Người để tặng cho chị với câu: "thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi vai..."

Tuy nhiên, theo tôi, người giữ lái con đò âm nhạc của TCS trên dòng sông của đất nước chính là Khánh Ly kể từ khi Diễm Xưa ra đời. Cuộc gặp gỡ một cô ca sĩ bé nhỏ trông rất là nhút nhác ở Đà Lạt lại là một định mệnh. Sơn đi tìm một người ca sĩ trẻ - hoàn toàn vô danh và Sơn bắt đầu từ giọng hát của Khánh Ly với sự tập luyện của chính anh, bởi vì lúc đó Sơn không quen biết những ca sĩ nổi tiếng của Sài Gòn. Và anh nghĩ dễ hơn là đi tìm một ca sĩ vô danh như Khánh Ly lúc đó. Ánh sáng của định mệnh đã chỉ cho Sơn đến với Khánh Ly - và từ đó Khánh Ly đ tìm được nơi nương tựa và nơi phát triển tiếng hát của mình lên đỉnh cao.
Chúng tôi khuyến khích Sơn về Sài Gòn, bỏ dạy học - một cái nghề không thích hợp và không xứng đáng với Sơn. Tôi có căn phòng rất nhỏ ở đường Trương Minh Giảng. Sơn từ Đà Lạt về và đã ở lại với tôi trong nhiều năm. Căn phòng đó ở gần chợ Trương Minh Giảng, bên kia đường là nhà của Bùi Giáng - cũng trong một cái xóm nghèo. Nhà tôi là nơi tạm trú đầu tiên của TCS khi anh về Sài Gòn. Chính họa sĩ Đinh Cường một trong những người bạn rất thân với Sơn - cũng thường ghé đến đó. Đôi khi ba chúng tôi ngủ chung trong một chiếc chiếu, và đã sống với nhau bằng đồng tiền dạy học của tôi.
Từ đó Sơn gặp anh em văn nghệ sĩ ở Sài Gòn. Anh bắt đầu xuất hiện tại sân trường Đại Học Văn Khoa ở đường Lê Thánh Tôn nơi có trụ sở của Hội Họa Sĩ Trẻ và sau lưng đó là trụ sở của CPS nơi mà Đỗ Ngọc Yến, Trần Đại Lộc, Hà Tường Cát... đã hoạt động chương trình mùa hè ở đó.
Tại sân cỏ này, Sơn đã giới thiệu Khánh Ly và chị đã đi chân trần và hát cho Sinh Viên nghe. Rất nhanh họ trở thành thần tượng của tuổi trẻ Sàigòn, do tính chất mới mẻ và trẻ trung của nó. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành một hiện tượng âm nhạc ngay lúc đó.
Phong trào du ca, của anh Nguyễn Đức Quang,... đã ra đời cùng thời điểm đó. Tôi cho đó là một thời điểm lịch sử - thật sự bùng nổ về văn nghệ của giới trẻ trong đó có chúng tôi - hội họa sĩ trẻ Việt Nam.
Chính thời đại đã sản sinh ra những hiện tượng như vậy và TCS và Khánh Ly đã là những khuôn mặt nổi bật trong giới trẻ bấy giờ.
Trịnh Công Sơn - nối tiếp cao trào đo ù- đơn thân thêm nhiều bước trong lãnh vực âm nhạc của mình gần gũi với xã hội, và thời cuộc đất nước hơn. Những Ca Khúc Da Vàng, rồi đến Kinh Việt Nam ra đời trong giai đoạn này.
Người ta gọi nhạc Trịnh Công Sơn - ở một số ca khúc - là nhạc phản chiến . Tôi đồng ý với anh Phạm Duy, chữ "phản chiến" không đầy đủ ý nghĩa của nó, bởi vì chữ phản chiến nghe ra có vẻ kết án, có vẻ phải gánh chịu cái hậu quả của sự thất bại của Miền Nam . Tôi cho là chữ "thân phận" của người Việt thì khŸi quŸt hơn.
Một thanh niên Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào, vẫn đầy sự hồn nhiên, và vẫn đầy lòng lương thiện để có một lý tưởng cho dân tộc, cho sự công bằng, cho sự không đổ máu , cho sự đoàn kết, cho sự thương yêu ... và cái chất đó có hầu hết ở chúng ta, và có hầu hết ở cŸc lứa tuổi đang bước vào Đại Học ... nhưng tuổi trẻ không bao giờ lường trước được những âm mưu của chính trị - cho nên sự hồn nhiên đó phải trả giá.
Trịnh Công Sơn viết những bài Nối vòng tay lớn, Huế-Sài Gòn-Hà Nội 20 năm xa vẫn còn xa ... Để làm gì? Để ước mơ đất nước hòa bình thống nhất - để ước mơ anh em bắt tay nhau khi mà người di cư đ viết về "Hà Nội ơi ta nhớ...", thì rõ ràng không ai lại không nhớ Hà Nội nếu bỏ quê hương ra đi, không ai không muốn gặp lại người thân ... thì Trịnh Công Sơn đã đứng làm kẻ chịu vŸc cŸi thŸnh giŸ đó với bao nhiêu bi kịch sau đó.

Tôi và Sơn là hai người bạn, khác nhau hai hoàn cảnh. Tôi là sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Tôi chấp nhận đi Thủ Đức bởi vì tôi không muốn sự bất hợp pháp. Tôi là một công dân tôi phải làm việc của người công dân, cho dù là chính quyền đó có thối nát, có gì đi nữa - tôi không chấp nhận sự bất hợp pháp cho nên tôi đi lính. Tôi thi hành nghĩa vụ của mình. Còn Sơn thì khác, anh không chấp nhận chuyện đó, Sơn chỉ đi vì lý tưởng của mình.

Bởi vì chúng ta là những con người chọn dân chủ, chọn tự do thì phải tôn trọng tự do của kẻ khác; vì vậy cho nên chúng tôi vẫn chơi với nhau trong tình người, còn việc làm của ai thì người đó đeo đuổi riêng của họ.

Đến ngày 30 tháng Tư thì Sơn ở lại. Tôi nhớ buổi chiều đó, Đỗ Ngọc Yến đến đón Sơn với một nhà báo Mỹ đề nghị Sơn đi, có máy bay đưa gia đình Sơn đi Hoa Kỳ. Tôi rất muốn đi Hoa Kỳ nhưng mà Đỗ Ngọc Yến lại không hỏi tôi. Sơn ở lại thì tôi cũng đành ở lại. Tôi thì đành thôi và sau đó thì tôi đi học tập ba năm.

Còn Sơn cũng không hơn tôi đâu. Khi các bạn đã rời khỏi đất nước ngày 30 tháng Tư, có lẽ các bạn không biết chuyện gì đã xảy ra cho Sơn. Sơn phải trốn ra Huế sau khi được đánh tiếng là sẽ bị thủ tiêu bởi vì tính chất hai mặt của Sơn trong âm nhạc và tính chất hai mặt của Sơn trong cuộc đời. Bởi vì Sơn là bạn của những nhân vật cao cấp của chính quyền Sài Gòn. Sơn đã từng viết Cho Một Người Nằm Xuống về cái chết của Lưu Kim Cương và đồng thời với Hai Mươi Năm Nội Chiến từng ngày, thì điều đó người cộng sản không chấp nhận. Tôi nghe kể lại cuộc họp ở trong khu người ta lên án Trịnh Công Sơn.

Chúng ta không biết bi kịch đó cho nên chúng ta có những ngộ nhận đáng tiếc. Sau đó Sơn phải về Huế để tìm một nơi nương tựa bởi vì ở đó Sơn có nhiều anh em. Anh hy vọng là họ sẽ giúp đỡ mình; nhưng, tránh võ dưa gặp võ dừa, ở đây Sơn còn bị nặng hơn nữa là bị tố cáo tại các trường học, các biểu ngữ giăng lên. Sơn phải lên đài truyền hình Huế nhận lỗi của mình - mà người ta gọi là bài thu hoạch. Sơn rất khéo léo trong bài nhận lỗi đó. Chính Sơn kể cho tôi nghe - Hoàng Phủ Ngọc Tường không đồng ý bài đó, nói phải viết lại vì chưa thành thật. Bạn thấy chưa?
Người ta quyết liệt ghê gớm lắm trong sự kiểm soát. Sơn đã đóng cửa nhà mình, không tiếp Hoàng Phủ Ngọc Tường trong nhiều năm. Sau đó, Sơn phải đi thực tế, tức là đi để biết người nông dân cày bừa cực khổ như thế nào. Sơn đi trên những cánh đồng còn rải rác những chông mìn. Sơn đã thoát chết trong một lần; một con trâu đã cứu Sơn khi nó đạp quả mìn mà đáng lẽ Sơn sẽ đạp.
Bởi vì tài năng âm nhạc của Sơn quá lớn, cho nên trong số những người lãnh đạo đất nước đó, cũng có người khôn ngoan hơn, biết cách thức hơn để giữ Sơn lại bằng cách bao bọc cho Sơn khỏi những tình huống hiểm nghèo như vậy. Họ đã tìm cách đưa Sơn về Sài Gòn, trả lại hộ khẩu cho Sơn, tạo điều kiện để cho Sơn yên tâm sống ở Sài Gòn.
Rất nhiều người nghe nhạc Sơn thầm lén nhất là từ miền Bắc, trong đó có nhiều đảng viên cộng sản, nhưng không ai dám công khai thừa nhận nhạc của Sơn là tài sản của đất nước và Sơn không được phổ biến âm nhạc lúc đó - hiển nhiên âm nhạc hải ngoại là phản động. Ngay cả Sơn còn không được phổ biến, mà phải đợi một thời gian đổi mới và cải tổ. Vì vậy cho nên, Sơn là một bi kịch thu nhỏ của bi kịch đất nước. Và Sơn đã nghe được những luận điệu chống mình ở tại hải ngoại, nên Sơn rất sợ mặc dù có nhiều lời mời ở các đại học. Sơn đều không dám đi. Sơn từ chối, vì Sơn sợ cộng đồng ở đây sẽ đả đảo sẽ gây ra những nguy hiểm cho Sơn. Cho đến ngày Sơn mất. Có người đã đề nghị đưa Sơn sang đây để thay gan cho Sơn miễn phí nhưng Sơn cũng từ chối.
Trong thời gian 25 năm sau ngày mất Sài Gòn, tôi cũng kẹt ở lại - tôi đã chơi với Sơn, và tôi đã không làm gì được cho Sơn - để Sơn bị một căn bịnh đã dẫn tới hậu quả tàn khốc, tức là nghiện rượu. Bởi vì buồn, bởi vì cô đơn, bởi vì không biết sử dụng thời gian để làm gì ... vì những ca khúc viết ra đều bị phê bình nặng nề - như bài "Em ra đi nơi này vẫn thế ..." ở bên này cũng kết án bài đó - ở bên kia lại kết án là "Tại sao đất nước đã thay da đổi thịt mà anh lại viết là em ra đi nơi này vẫn thế? Sài Gòn vẫn còn nguyên à?" Người nghệ sĩ luôn đi giữa hai lằn đạn! Có ai hiểu được là Sơn cô đơn như thế nào!
Và trong nhiều sáng tác của anh, nếu chúng ta tinh ý, thì chúng ta sẽ thấy tư tưởng của TCS sau ngày mất nước. Sơn đã viết "Đường chúng ta đi, đi không bao giờ tới ..." Những ca khúc nói lên sự quạnh quẽ, sự tuyệt vọng, sự bất an của mình. Đó là một dòng nhạc đặc biệt mà có người không hiểu chê là thua những ca khúc anh viết trước 75 để chỉ chấp nhận tình khúc của anh mà thôi. Chúng ta không biết đến một dòng nhạc triết lý và đầy đau thương đã ra đời một cách lặng lẽ âm thầm.
Ngay cả bài Nhớ mùa thu Hà Nội cũng đã bị cấm hai năm - chỉ vì câu - chỉ vì câu gì các bạn biết không? Mùa Thu - chữ Mùa Thu Hà Nội đ trở thành thuật ngữ Cách Mạng Mùa Thu - thì TCS đ viết "Từng con đường nhỏ sẽ trả lời cho ta ... đi giữa mùa Thu Hà Nội để nhớ một người và nhớ mọi Người ..."
Người ta đặt câu hỏi: Nhớ một người là nhớ ai? Và từng con đường nhỏ tại sao lại phải trả lời? Hà Nội, những con đường của Hà Nội tại sao lại phải trả lời? Trả lời cho ai? Trả lời cái gì? Đó là nhớ Khánh Ly và Khánh Ly sẽ đem phục quốc về ... Với sự suy diễn như vậy , méo mó như vậy, bài hát đó đ bị cấm hai năm. Các bạn có biết cái nỗi đau của người sinh ra đứa con tinh thần như thế nào?
Và chúng ta sai hay đúng, hãy tự soi ly mình - khoan kết án người khác sai hay đúng - bởi vì trong chúng ta cũng đều bị lừa dối ! Chúng ta đ trưởng thành chưa sau nhiều lần bị lừa dối về chính trị - thì chúng ta đừng trách Trịnh Công Sơn và đừng trách những người nghệ sĩ nhạy cảm và chân thật với cuộc đời với con người.

Tôi xin kết thúc ở đây - để dành thời gian cho các bạn khác - tôi là một người bạn - là một nhân chứng sống trong nhiêu năm với TCS. Những ngày tháng cuối cùng của anh, tôi đã ở bên anh mỗi lần tôi có mặt ở Việt Nam. Buổi sáng, tôi ngồi với anh dưới bóng cây để uống trà, để nhìn nhau cho đỡ nhớ, để nói với nhau một vài thông tin về bạn bè - rồi đi về. Sơn ngồi ở cái vườn trên góc nhà anh, có một cây hoa sứ già 28 năm, một giàn hoa giấy ... nó đã trở thành một cánh rừng nhỏ của Sơn và tôi đà nhìn Sơn tàn phai theo nắng chiều qua những tia nắng hoặc cuối mùa, cuối ngày qua những chiếc lá của cánh rừng bông giấy. Và thỉnh thoảng có vài tiếng chim hót như chia sẻ cái nỗi cô đơn của Sơn. Buổi chiều, tôi và Sơn đi ra ngoài một cái nhà hàng mà các bạn chắc còn nhớ, đó là Givral để nhìn qua bên kia khách sạn Continental để nhìn cuộc đời đi qua, để nhìn những nguời Việt Nam đang hấp tấp vội vã trên đường phố, để nhìn một chút trời xám , để nhìn vài cánh én ... Rồi đi Về.

Sơn thèm đi ra phố - Sơn thèm hơi của thành phố. Bởi vì chúng tôi là những con người đã gắn bó với Sài Gòn từ lúc trẻ cho nên "Chiều một mình qua phố ..." hay "Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu ..." Đó là đời sống của chúng tôi, và nó theo chúng tôi mi mi. Và Trịnh Công Sơn - hôm nay tôi được dịp để nói về anh, về cái sự tuyệt vời chịu đựng một bi kịch kéo dài cho tới ngày mà căn bịnh quái ác đã đục khoét tinh thần sức khỏe của anh cho đến hơi thở cuối cùng. Bởi vì sự cô đơn thật không có điểm tựa để làm việc. Và anh đà chết vì cơn bịnh này.

Trịnh Cung
4.4.2001
Little Saigon, California.
* Transcript được Văn biên tập lại từ băng ghi hình buổi sinh hoạt tưởng niệm Trịnh Công Sơn, tổ chức ngày 4 thŸng Tư, 2001, tại phòng sinh hoạt Người Việt, Little Saigon, nam California.
:idea:

delta
01-25-2008, 10:32 AM
Chuyện Trịnh Công Sơn chấm thi hoa hậu

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người rất có duyên với người đẹp. Ông yêu cái đẹp và đã nhiều lần được ban tổ chức các cuộc thi hoa hậu mời làm giám khảo. Nhà thơ Dương Kỳ Anh đã kể lại những kỷ niệm cùng chấm thi với nhạc sĩ tài hoa này:

Cuộc thi Hoa hậu toàn quốc năm 1990, Á hậu Trần Vân Anh là người mà Sơn "mê" luôn từ cái nhìn đầu tiên. Nghe nói về sau, nhạc sĩ có một thời gian rất "mật thiết" với người đẹp họ Trần.
Đến cuộc thi Hoa hậu toàn quốc năm 1992, suốt thời gian ngồi ghế giám khảo, tôi luôn "bám sát" nhạc sĩ họ Trịnh. Mạc Lê Đan Thanh, cô gái xứ Quảng vừa xuất hiện, Trịnh Công Sơn cũng "mê" luôn. Đan Thanh có thân hình mảnh mai, giọng nói nhẹ và êm, đôi mắt xa xăm. Cô đi lại trên sân khấu, chân như không bén sàn diễn. Thanh thoát, trả lời rất thông minh, cô gái họ Mạc quả thật có sức quyến rũ lạ lùng, đẹp như một bài thơ. Tuy nhiên, cô khó có thể được chọn làm hoa hậu bởi điểm nhân trắc học của cô kém xa Hà Kiều Anh. Tôi lo Trịnh Công Sơn vì quá "mê" mà cho điểm cao chăng? Nhưng thật bất ngờ khi nhìn sang phiếu chấm thấy anh cho điểm thật khách quan. Tôi chợt nhận ra một điều: Những tài năng lớn bao giờ cũng công bằng, khách quan và nghiêm túc trong công việc. Sơn cân nhắc rất thận trọng và chi li, tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn mà ban tổ chức đưa ra.

Nhưng điều đặc biệt nơi Sơn khiến tôi trân trọng là sự cầu thị. Ông luôn biết phải làm gì vào những lúc cần thiết. Ở cuộc thi Người đẹp miền Đông Nam Bộ và TP HCM, Trịnh Công Sơn đã uống rượu cùng Giáo sư Hoàng Thiệu Khang. Sau khi uống xong, Sơn coi như không có chuyện gì xảy ra. Chừng ấy chất men đối với ông chưa có nghĩa lý gì. Riêng Giáo sư Khang có vẻ ngà ngà. Khi ban thư ký cộng điểm, trưởng ban mới hốt hoảng: "Chết rồi, phiếu của Giáo sư Hoàng Thiệu Khang chưa có điểm". Chắc hẳn trong thời gian chấm, ông đã ngồi lơ mơ.

Công việc của tổ thư ký vì thế mà rối lên như canh hẹ vì đã đến lúc họ phải công bố kết quả vào vòng trong. Tình huống này chưa bao giờ xảy ra nên ban tổ chức rất lúng túng. 10 phút, 15, rồi 20 phút trôi qua, khán giả đã bắt đầu ồn ào sốt ruột. Và lúc ấy, Trịnh Công Sơn đã thể hiện tài năng của mình. Ông lấy cây đàn guitar bước lên sân khấu, hát say sưa, hết bài này đến bài khác, khán giả vỗ tay rào rào. Ông tự tung tự tác phải đến 20 phút, rồi các phiếu điểm cũng hoàn thành, các cô gái cũng được lựa chọn cho vòng sau. Không ai trong số khán giả biết rằng Trịnh Công Sơn đã "chữa cháy" cho một sự cố làm toát mồ hôi hột của ban giám khảo.
(Theo Người Đẹp)

:idea:

delta
01-25-2008, 10:35 AM
Cõi Nhạc Trịnh Công Sơn



Cõi Nhạc Trịnh Công Sơn,
những cánh cửa mở
từ một trái tim Việt Nam rất lớn
(Du Tử Lê)

Tôi vẫn nghĩ, chia ly và bất hạnh là, phần đất mầu mỡ nhất cho những hạt giống hiếm quý nẩy sinh, tươi tốt.
Tôi vẫn nghĩ, đọa đầy và vĩnh biệt là, những thửa ruộng đầu tiên, mang lại cho nhân loại, những mùa gặt nhân phẩm cao quý và những hạt mầm trí tuệ vạm vỡ mai sau.
Tôi vẫn nghĩ, sự xuất hiện của mỗi thiên tài, trong từng lãnh vực, chính là sự khai mở một cánh cửa khác cho tâm hồn hay no bộ. Nó, tựa những tia sáng hồng ngọc, có khả năng cắt bỏ xích xiềng vong thân, giải phóng tâm thức đọa lạc. Nó, tựa những bông hoa cảm thông, mọc lên từ những phần thịt xương đã lấp.
Nhìn tự lăng kính này, nhạc Trịnh Công Sơn, đã mở ra không chỉ một mà, rất nhiều chân trời, rất nhiều cửa khác.
Sự định hình của cõi âm nhạc mang tên Trịnh Công Sơn là một định hình rõ, dứt. Như một định tinh, cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã gửi đi những tín hiệu thương yêu, phát ra những nguồn ánh sáng đùm bọc.
Cùng với vận nước, cõi nhạc Trịnh Công Sơn nổi trôi theo từng mái đầu Việt Nam, cúi xuống. Cùng với tổ quốc, cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã đứng hẳn về phía mái đầu Việt Nam, ngẩng cao.
Sự ở được và ở với chiều dài của năm tháng, vực sâu của lịch sử, cõi nhạc Trịnh Công Sơn tự nó, đã nói lên sự hòa nhập, thấm tan trong từng tế bào, lẫn trong từng huyết quản nòi giống.
Người ta từng cáo buộc nhạc Trịnh Công Sơn là, những lượng bạch phiến, không thừa cũng đủ độ làm tê liệt sức đề khŸng hay khả năng miễn nhiễm tiềm tàng trong cơ thể...
Người ta từng cáo buộc cõi nhạc Trịnh Công Sơn là, những khối chất nổ không dư, cũng đủ đưa tới giựt sập một thể chế...
Người ta cũng từng có những âm mưu thô bỉ dùng cõi nhạc Trịnh Công Sơn, như một vũ khí cân no xâm thực ý chí đu tranh hoặc niềm tin nơi một lý tưởng...
Trước sau, mọi cáo buộc, mọi khai thác, lợi dụng, chỉ cho thấy, cõi nhạc Trịnh Công Sơn là những hạt kim cương bất hoại.
Trước sau, mọi cáo buộc, mọi lợi dụng, khai thác, đều không làm mờ được những lượng sáng thủy tinh nguyên chất, chiếu ra từ cõi nhạc này.
Tín hiệu phát đi từ những âm vực Trịnh Công Sơn, đã là những tín hiệu của nắng mưa, đời kiếp.
Ánh sáng phát đi từ những giòng nhạc Trịnh Công Sơn, đã là những ánh sáng của lầm than sẽ mất, đời sau sẽ còn.
Cuộc chiến giữa các ý thức hệ, hay giữa những đối lực đã dứt, hai mươi lăm năm đã lùi xa, người ta đã kiểm điểm những thương vong, kết toán những đổ nát..., cùng lúc với nỗ lực thiết kế những rào cản, từ nhiều phía, đã không tắt dập được cõi nhạc Trịnh Công Sơn. Nó vẫn bay bổng, vẫn thẩm thu trong những nhịp đập Việt Nam lưu lạc.
Từ những đốm lửa bp bênh trại đảo, từ những bục gỗ chói lòa điện tử hôm nay, từ những miếng đất trời trắng tuyết... ở đâu, cõi nhạc Trịnh Công Sơn, cũng vẫn như một có mặt thân ái, một an ủi, xẻ chia tận cùng.
Mười sáu năm hết rồi bom đạn mà, Việt Nam cuối đất cùng trời, vẫn tiếp tục nâng niu cõi nhạc Trịnh Công Sơn qua hàng trăm ngàn thước băng nhựa, như tìm lại chính mình.
Những VN nạn không ngừng cất lên. Những du hỏi tiếp tục được đánh xuống.
Tại sao? Tại sao? ôi! Tại sao?
Phải chăng cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã mở ra những cánh cửa mới cho âm nhạc Việt với tính chất tiên tri, qua những cảm nhận siêu hình? Như "bao nhiêu năm làm kiếp con người - chợt một chiều tóc trắng như vôi - lá úa trên cây rụng đầy - cho trăm năm và chết một ngày.
Phải chăng cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã mở ra những chân trời khác cho âm nhạc Việt Nam, với minh chứng thi, ca là một? Qua những hình ảnh thơ, mang ẩn dụ nhân sinh. Hay Trịnh Công Sơn đã thi ca hóa những phi lý, ngây ngô của ngôn ngữ để bẩy bật lên cái khía cạnh bất toại của kiếp người? Họa diệt vong của một nòi giống? Như: vết lăn trầm. Như tuổi đá buồn. Như tình yêu như trái phá. Như một đàn bò không nhai cỏ. Như chưa một nhạc sĩ nào lựa chọn những như như thế.
Tất cả mọi phải chăng chỉ là hệ quả của thói quen duy lý thấp tè trên mặt đất.
Chẳng bao giờ ta có được một giải thích minh bạch trước một thiên tài. Cũng như chẳng bao giờ ta có một soi rọi thu đŸo trước một trái tim vốn lớn. Mỗi chúng ta, chỉ nắm được một phần sự thật. Mỗi chúng ta, trong hữu hạn buồn thảm của mình, với một đôi chân, chỉ có thể chọn lựa bước về, một phía trời thích ứng.
Điều duy nhất ta có thể quả quyết, đó là cõi nhạc Trịnh Công Sơn, khởi đi từ một trái tim Việt Nam tha thiết.
Tôi chưa được đọc chữ viết của nhạc sĩ Văn Cao về cõi nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi cũng chưa được xem sắc màu của họa sĩ Thái Tuấn về chân dung Trịnh Công Sơn. Nhưng tôi tin, hai tài năng hiếm quý này, qua từng loại ngôn ngữ, đã thấy trái tim Việt Nam trong lồng ngực Trịnh Công Sơn là một trái tim rất lớn.
ở đây, tôi chấp nhận bất trắc, nếu có, để được nói rằng, tôi muốn cảm ơn Trịnh Công Sơn, người đã cho tôi cùng lúc vực sâu và núi cả.



Du Tử Lê
:alert:

delta
01-25-2008, 10:37 AM
Cuộc Hội Ngộ Sau Gần 30 Năm Giữa Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn và Ca Sĩ Khánh Ly

Không như mọi bận, lần này tới tư thất của Trịnh Công Sơn tôi đã không phải làm động tác nhấn chuông: cánh cửa của căn biệt thự xinh xắn nằm bên đường Phạm Ngọc Thạch đang rộng mở. Chả là từ mấy hôm rồi, “ông hoàng của những ca khúc tình yêu” đang có chuyện để bận rộn khác bình thường: sau gần ba chục năm trời , “Người Tình” lớn nhất trong nghệ thuật của ông mới trở về quê hương trong những ngày khá vội vàng cuối năm. “Người Tình” đó không ai khác: ca sĩ nổi tiếng Khánh Ly – cũng dường như suốt đời chỉ hát nhạc Trịnh Công Sơn.

“Cuộc tình” của họ đã nổi tiếng lâu lắm rồi mới tới ngày giải phóng 1975. Hồi đó Trịnh Công Sơn đã viết nhạc nhưng chưa phải tới thời kỳ vàng của sáng tạo, cho đến khi một hôm ông phát hiện ra Khánh Ly trong sân khấu của một phòng trà… Còn Khánh Ly, lúc đó cũng vừa mới chân ướt chân ráo tới Saigon từ thành phố sương sa Đà Lạt. Mọi diễn tiếp theo kéo dài cả mấy chục năm trời, cho tới tận ngày hôm nay, đều cho thấy: dường như đêm hôm ấy, chính là đêm gặp gỡ được sắp xếp của… định mệnh. Sau những ca khúc ban đầu được hưởng ứng nhiệt liệt từ phía người nghe, Trịnh Công Sơn luôn có xu hướng sáng tác ca khúc của mình chỉ cho giọng ca của Khánh Ly. Và cũng thật lạ lùng, dường như ca khúc nào đó của “ông hoàng” vừa mới chào đời qua giọng ca Khánh Ly, lập tức được định hình trong lòng người nghe và thế là một “tượng đài” vừa mới ra đời để rồi sau đó rất nhiều ca sĩ thu hát các ca khúc của người nghệ sĩ họ Trịnh nhưng không thể thay thế và cũng không vượt qua sự cộng hưởng huyền diệu xen lẫn đôi chút huyền bí của hai “Người Tình” nghệ sĩ - Trịnh Công Sơn Khánh Ly.

Với Trịnh Công Sơn, Khánh Ly thật đơn giản: “Cô ấy có giọng an-tô” . Chỉ thế thôi. “Thế còn bao nhiêu ca sĩ nổi tiếng vẫn giọng an-tô đó thôi ? “Mình không biết”, “ông hoàng” trả lời câu “cà khịa” của tôi mà mắt vẫn nhìn tận đâu đó trong bức tranh sơn dầu anh vẽ chân dung một thiếu nữ theo lối trừu tượng, người ta thường không nhận ra ngay được tên của cô gái. “Ở mình thì lạ , song ở nhiều nước, việc nhạc sĩ sáng tác nhạc phẩm chỉ riêng cho một ban nhạc, một ca sĩ là chuyện phổ biến. Và thế là thường xảy ra việc yêu đương và hôn nhân với nhau. Mình và Khánh Ly thì không, vì khi quen nhau, Khánh Ly đã có gia đình…!”

Với tôi, Khánh Ly là một ca sĩ đặc biệt, dù đến nay đang ở tuổi ngũ tuần. Khánh Ly không lạm dụng kỹ thuật, không dùng kỹ xảo, hát tự đáy lòng và tự chất giọng với sự cộng hưởng trời cho khi phát âm, chẳng ai bắt chước được. Có lẽ chị là ca sĩ duy nhất hát thật tự nhiên những điều thiên phú. Những ngày gặp lại “Người Tình” Khánh Ly, “ông hoàng” như già đi, già đi hơn tuổi chưa chẵn sáu chục của mình. Phần như ông tự bộc bạch: “Mấy hôm vừa rồi uống hơi nhiều. Bình thường ly rượu pha sô- đa của ông phải lạt, màu phải trắng gần như chỉ có màu trắng của sô- đa, song do vui mà cũng vì buồn, hôm qua ông đã uống đến 5 ly rượu “xếch”.

Khánh Ly về ít ngày mà cũng không muốn cho ai hay. Lần nay Khánh Ly đi trước tết và hẹn tháng 5 sẽ về …

Gần ba chục năm qua, nhưng ca sĩ Khánh Ly vẫn hát nhạc Trịnh Công Sơn. Chủ yếu hát nhạc của anh, trong đó thật nhiều ca khúc anh sáng tác gần đây, một trong những bài được yêu mến không chỉ bởi người nghe trong nước “Em Đi Bỏ Lại Con Đường.”

Tháng 2/97
Ngọc Thành
:idea:

delta
01-25-2008, 10:39 AM
Đôi Dòng Về Trịnh Công Sơn

Cổ Ngư

Cho đến nay, trước sau có ba nhạc sĩ Việt Nam tự nhận mình là người hát rong: Phạm Duy, Trịnh Công Sơn và Trần Tiến. Phạm Duy rong ruổi trên con đường cái quan, suốt từ Bắc vào Nam, rồi ra ngoài đất nước, đi khắp vòng thế giới để cuối cùng, trở về điểm mốc ban đầu: quê nhà. Trần Tiến muốn nói lên sự thật về một đất nước thừa nghèo đói nhưng cũng không thiếu điều nhố nhăng trên những nơi ông đi qua. Còn Trịnh Công Sơn, người nhạc sĩ của hơn tám trăm ca khúc, đã cùng âm nhạc của mình lang thang mãi giữa những lằn ranh của nắng-mưa, yêu-ghét, cảm thông-chối bỏ, sống-chết, đi-về, nhớ-quên, buồn-vui, chiến tranh-hoà bình, hận thù-ăn năn...

Năm 1991, trong lời bạt của tập bài hát Em còn nhớ hay em đã quên, nhạc sĩ Văn Cao viết: “Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người ca thơ (chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào chính, cái nào là phụ. Và bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng cuả một đưá con biết vui tận cùng những niềm vui và đau tận cùng những nỗi đau của Tổ quốc mẹ hiền... Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn là ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà cả ở bên ngoài biên giới nưã”. Như vậy, nhạc sĩ Văn Cao, cũng như nhạc sĩ Phạm Duy trong tập Hồi ký cuả mình, đã nhắc về Trịnh Công Sơn với những lời lẽ đơn sơ nhưng trân trọng. Rất nhiều người khác trong giới văn nghệ sĩ đã đồng ý gọi Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ cuả Tình Yêu-Quê Hương-Thân Phận. Thật vậy, trong sự nghiệp sáng tác của ông, bên cạnh những tình khúc lãng mạn, những ca khúc phản chiến, kêu gọi xây dựng đất nước trong hoà bình, còn có những bài hát, như những dấu chấm hỏi và dấu chấm than về thân phận con người.

Tình khúc của Trịnh Công Sơn, với những cái tựa rất ấn tượng và siêu thực như Nắng thuỷ tinh, Rồi như đá ngây ngô, Biển nhớ, Hạ trắng, Lời buồn thánh, Hoa vàng mấy độ... một lần được nghe, sẽ ở lại mãi trong lòng người thưởng thức. Ca khúc về thân phận cuả ông, đôi bài rất gần với thánh ca, đạo ca, thiền ca, dân ca, được không ít người suy gẫm: Lời mẹ ru, ở trọ, Xin mặt trời ngủ yên, Tự tình khúc, Gần như niềm tuyệt vọng, Một cõi đi về, Biết đâu nguồn cội, Bay đi thầm lặng... Chỉ có những ca khúc phản đối chiến tranh, kêu gọi hoà bình của ông thời 1968-1973 và một số bài hát viết sau năm 1975 là tạo nhiều “vấn đề”, biến ông thành người hát rong giữa những lằn ranh cuả định kiến ý thức hệ. Trong thời gian sáng tác các ca khúc cuả hai tập Ca khúc da vàng và Kinh Việt Nam, Trịnh Công Sơn đã phát biểu: “Tôi phản đối chiến tranh, dù đó là chiến tranh chính nghiã hay phi nghiã”. Hình ảnh và tiếng nói cuả ông xuất hiện khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng đồng thời, trong nước, một số ca khúc cuả ông bị cấm phổ biến. Chính quyền miền Bắc, với khẩu hiệu “Chống Mỹ cưú nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, ra lệnh bỏ tù những ai dám nghe và hát nhạc Trịnh Công Sơn vì không ít những cán bộ, bộ đội đã vì thế mà bỏ ngũ, quay lưng quay súng trong các chiến dịch “chiêu hồi”. Chính quyền miền Nam, dưới chiêu bài “Bảo vệ Tự Do, chống sự xâm lăng cuả cộng sản phương bắc”, cấm hàng loạt ca khúc cuả Trịnh Công Sơn vì cho rằng những bài hát này làm băng hoại tinh thần chiến đấu cuả quân dân miền Nam, khiến binh lính đào ngũ, người dân biểu tình, bãi thị, bãi khoá... Thế nhưng, ngay giưã Hà Nội, chính nhạc sĩ Văn Cao đã được nghe những người thanh niên trẻ say mê hát nhạc phản chiến đến đứt cả dây đàn guitare. Tại Sài Gòn và các thành thị phiá nam, bên cạnh những bài hát day dứt, nói lên nỗi thống khổ, tủi nhục, mất mát trong chiến tranh như Đi tìm quê hương, Em đi trong chiều, Giọt nước mắt cho quê hương, Gia tài cuả mẹ, những bài hát hừng hực khí thế tuổi trẻ đã được sinh viên, học sinh và hướng đạo sinh say mê vỗ tay mà hát. Họ mong muốn những gì? Được Nối vòng tay lớn, Dựng lại người dựng lại nhà và Chờ nhìn quê hương sáng chói. Cũng cùng một ý hướng như các nhạc sĩ Phạm Duy và Phạm Đình Chương khi sáng tác hai trường ca Con đường cái quan và Hội Trùng Dương, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mong muốn được nhìn thấy một đất nước Việt Nam thống nhất trong hoà bình và giàu mạnh khi ông viết các ca khúc rất lạc quan: Huế-Sài Gòn-Hà Nội quê hương ta, Tôi sẽ đi thăm, Đồng dao hoà bình, những ca khúc được viết khi ông vưà hát vưà bị rượt đuổi và đang sống lê la trốn lính với các bạn bè giang hồ.

Sinh ở Đắc Lắc, nổi tiếng ở Sài Gòn, nhưng trong hai thời điểm đau thương cuả miền Nam, 1968 và 1975, Trịnh Công Sơn lại có mặt ở Huế. Những hình ảnh hãi hùng cuả Tết Mậu Thân đã để lại nhiều dấu vết trong một số ca khúc cuả ông. Điạ danh Bãi Dâu, hình ảnh người mẹ hoá điên khi nhìn ra thi thể con mình trong hầm chôn tập thể, thay vì gào khóc lại vỗ tay reo mừng, hay câu hát Xác nào là em tôi giưã hố hầm này?, như những đoạn phim thời sự, vạch trần tội ác chiến tranh và sự tàn bạo cuả những người chung một nòi giống. Sau năm 1975, Trịnh Công Sơn lại ra sống ở Huế và cứ một năm vài tháng, lại tham gia vào những chuyến lao động trồng khoai sắn trên những cánh đồng còn gài đầy mìn tại Cồn Thiện, gần vĩ tuyến 17. Mãi đến năm 1979, ông mới được phép vào sống cùng gia đình tại Sài Gòn, lúc này đã mang tên thành phố Hồ Chí Minh. Ca khúc đầu tiên sau biến động 30.04.1975 được ông vưà đàn vưà tự trình bày trên truyền hình mang tưạ đề Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui. Bài hát lập tức bị đả kích ở trong cũng như ngoài nước. Báo chí trong nước lên án bài hát đậm đặc tính chất tiểu tư sản, những hình ảnh “Tôi nhặt gió trời, mời em giữ lấy, để mắt em cười tưạ lá bay... Tôi đợi em về, bàn chân quen quá, thảm lá me vàng lại bước qua...” không thể nào chấp nhận được trong khi cả nước sôi sục khí thế lao động và chiến đấu chống Khơ-me đỏ và “bọn bành trướng Bắc Kinh”. Báo chí cuả người Việt hải ngoại đặt câu hỏi: niềm vui ở đâu ra lắm thế trong khi quê hương lầm than, nhiều triệu người ly tán, bị tù đày trong các trại cải tạo hoặc vượt mọi hiểm nguy tìm đường vượt biển. Cũng thế, bài hát Em còn nhớ hay em đã quên ra đời sau đó cũng không thoát khỏi buá riù dư luận. Trong khi chuyện vượt biên còn là điều cấm kÿ, những người bỏ nước ra đi cách này hay cách khác đều bị khép tội phản quốc, Trịnh Công Sơn viết: “Em ra đi, nơi này vẫn thế, vẫn có em trong tim cuả mẹ”. Sau khi được Khánh Ly trình bày trên đài VOA (Voice Of America) trong chương trình phát thanh về Việt Nam, bài hát liền lập tức bị cấm phổ biến tại quốc nội. ở hải ngoại, bài hát bị lên án là uỷ mị, làm mủi lòng người lưu vong, trong khi nhạc phẩm Khi xa Sài Gòn (phổ thơ Kim Tuấn) cuả Lê Uyên-Phương, khi ấy đã định cư tại Hoa Kỳ, lại không bị chỉ trích, dù nội dung và nhạc điệu buồn bã cuả hai ca khúc tương tự như nhau. Chỉ có người Sài Gòn vẫn tiếp tục lén lút phổ biến bài hát, bởi vì nó gợi lại một thời xưa cũ, bởi vì đó là bài hát đầu tiên ở trong nước, từ sau ngày 30.04.1975, nhắc đến cái tên Sài Gòn, cái tên mà chính quyền mới đã tìm đủ mọi cách để làm cho mọi người quên đi. Có lẽ, vào thời điểm đó, chính người Sài Gòn cũng cảm thấy mình đang sống lưu vong ngay giữa Sài Gòn!

Không chọn con đường quay lưng chống đối, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn quyết định ở lại với đất nước, dù bạn bè và các em cuả ông lần lượt ra đi. Sau nhiều năm tháng lao động cải tạo trên những mảnh đất gài đầy mìn, ông viết: “Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát, để thấy tiếng cười rộn rã bay”. Nhưng như vậy, không có nghiã là ông tự phản, ông chấp nhận sống chung để cùng thay đổi, đồng thời, vẫn đi được con đường riêng cuả mình. Nhìn lại những ca khúc cuả Trịnh Công Sơn được phổ biến trong nước khoảng thập niên 80, người ta thấy, ngoài những ca khúc viết cho phim truyện và phim tài liệu: Đời gọi em biết bao lần, Cánh chim cô đơn, Vẫn có em bên đời, Bốn muà thay lá..., ông còn một số bài hát viết về quê hương, về mẹ, về tuổi mới lớn và tuổi thơ như các bài Huyền thoại Mẹ, Chiều trên quê hương tôi, Em đến từ nghìn xưa, Tuổi đời mênh mông, Em là hoa hồng nhỏ... Vắng bóng những tình ca, nhưng không hề có một lời xưng tụng chế độ, đảng cầm quyền cũng như những người lãnh đạo. Trong khi giới truyền thông trong nước kêu gào, thổi phồng tin một số nữ thanh niên xung phong bị hãm hiếp và giết hại dã man ở biên giới tây nam, Trịnh Công Sơn sáng tác một ca khúc vui tươi, với những lời lẽ nhẹ nhàng: “Lên nông trường, ra biên giới, có đôi chân đi không trở lại...”. Viết cho thiếu nhi, khi ấy vẫn còn bị nhồi nhét lòng căm thù trong các bài học, ông có những câu rất đẹp: “Trang sách hồng nằm mơ màng ngủ, em gối đầu trên những vần thơ...”. Và, rất lâu trước khi các ca khúc lãng mạn về Hà Nội cuả thập niên 90 ra đời, khi người ta còn bị bắt buộc phải nghĩ đến Hà Nội như nghĩ đến một “thành trì cách mạng”, với quảng trường Ba Đình và lăng Hồ chủ tịch, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mở đầu ca khúc Nhớ muà thu Hà Nội bằng một hình ảnh tương tự như tranh Bùi Xuân Phái:

Hà Nội muà thu,
Cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ
Nằm kề bên nhau,
Phố xưa, nhà cổ, mái ngói thâm nâu...

Hình như mọi người không ngạc nhiên khi biết, từ đầu năm 1975, Trịnh Công Sơn bắt đầu tìm đến với hội hoạ, và tranh cuả ông có một đường hướng riêng, một chỗ đứng riêng. Bởi vì, trong các ca khúc, ông đã “vẽ” rất nhiều bằng lời hát đầy chất thơ cuả mình. Những hình ảnh ngàn cây thắp nến lên hai hàng, chiều tím loang viả hè, trời ươm nắng cho mây hồng, lòng ta trăm con hạc gầy vút bay, bàn im hơi bên ghế ngồi... kết hợp cùng âm thanh du dương, tạo nên nét độc đáo trong âm nhạc Trịnh Công Sơn. Người nữ, hao hao giống những modèle cuả Đinh Cường, ẩn hiện trong hàng trăm ca khúc: vai em gầy guộc nhỏ, dài tay em mấy thuở mắt xanh xao, đôi môi lưả cháy, mi cong cỏ mượt, da thơm quả ngọt, áo xưa lồng lộng... Tình yêu, cũng vì thế, thường yểu mệnh trong các bài hát cuả Trịnh Công Sơn, tình vui rất hiếm, tình buồn, Tình xót xa vưà, Tình xa, Tình nhớ, Tình sầu, nhiều hơn...

Một người nữ khác, người mẹ, cũng xuất hiện khá nhiều trong các nhạc phẩm cuả Trịnh Công Sơn. Từ hình ảnh thanh bình: Lời mẹ ru đêm vắng, ngón tay hồng, người mẹ đi qua chiến tranh, tủi phận trong Ca dao Mẹ, hoặc nghẹn ngào thốt lên: Con ngủ tuổi hai mươi. Có khi đó là bà mẹ quê, ngơ ngác giưã đoàn người di tản, với gia tài chỉ vỏn vẹn có mỗi trái bí trên vai. Có khi đó là người mẹ gan dạ đứng dưới mưa để chờ xoá sạch dấu con về. Sau chiến tranh, tưởng đâu những người mẹ ấy sẽ yên tâm lên núi tìm xương con mình, hoặc dâng miếng cau rồi dâng ngọn trầu, nhưng cuộc “nội chiến” vẫn tiếp diễn dưới một hình thức khác, mẹ vẫn trăn trở giọt ngắn giọt dài, mong lũ con cùng cha quên hận thù... Hình ảnh mẹ, cuối cùng trở nên huyền ảo: Sương mù, tóc mẹ trôi, Mẹ chìm dưới cơn mưa, trước khi biến mất hoàn toàn trong tiếng kêu than thống thiết của đàn con: Mẹ bỏ con đi, đường xa hoạn nạn...

Hình ảnh người mẹ thường gắn liền với lời ru. Nhưng lời ru trong âm nhạc Trịnh Công Sơn đã chuyển sang thành tiếng những tình nhân thổn thức ru nhau, hoặc tự ru mình. Nếu tình khúc Tôi ru em ngủ bắt đầu với nhạc điệu êm ả và lời hát gợi cảnh yên bình: “Tôi ru em ngủ một sớm mùa đông, em ra ngoài ruộng đồng, hỏi thăm cành luá mới...”, trong những ca khúc khác, như Ru em, Ru em từng ngón xuân nồng, Ru tình, Rơi lệ ru người, Ru đời đi nhé!, Ru đời đã mất, Ru ta ngậm ngùi..., lời ru lãng đãng giưã bâng khuâng, nhớ nhung, hoang mang, ưu phiền, ăn năn cuả tình yêu và sự khắc khoải cuả thân phận trước giấc ngủ sau cùng, cái chết: “Ta ru ta ngậm ngùi, xin ngủ dưới vòm cây”. Cái chết, một chủ đề ám ảnh thường trực hành trình âm nhạc cuả Trịnh Công Sơn. Trong chiến tranh, cái chết đến với mọi người, ở mọi nơi. Người con gái Việt Nam da vàng chết trong đêm lạc đạn. Đưá bé ra đồng chết vì mìn gài một buổi sáng muà xuân. Người phi công gẫy cánh. Đám tang đi qua trái mìn nổ chậm, người chết, chết hai lần. Những cụm từ xác người, người yêu chết trận xuất hiện đậm đặc trong các ca khúc bài ca dành cho những xác người, Hát trên những xác người, Tình ca người mất trí như sự lập đi lập lại cuả những hồi kinh cầu hồn. Những người chết, người dân, người lính, cuả “phiá bên này” hay “phiá bên kia”, đôi khi chết mà không hiểu vì sao mình phải chết. Với bản thân người nhạc sĩ, cái chết dường như ít khốc liệt hơn, hình như chỉ là nằm chết như mơ, hình như chỉ đơn giản một hôm lên núi nằm xuống, hay: “Thí dụ, bây giờ tôi phải đi, tay chia ly cùng đời sống này...”. Trong các sáng tác có tính chất đạo ca cuả Trịnh Công Sơn, cái chết còn đến rất gần với thuyết luân hồi cuả nhà Phật:

Không có đâu em này,
Không có cái chết đầu tiên,
Và có đâu bao giờ,
Đâu có cái chết sau cùng...

Có thể nói không một cách không quá đáng rằng Trịnh Công Sơn là một nhà cách tân ngôn ngữ Việt Nam đương đại. Qua vô số hình ảnh tuyệt vời ông đưa vào lời hát rất nhiều so sánh, hoán dụ, ẩn dụ đắc giá: tóc trắng như vôi, chập chờn lau trắng trong tay, biển rộng hai vai, đá lăn vết lăn trầm, tình treo trên chiếc đinh không, đôi môi rồ dại, giọt máu cuồng điên, nắng khuya, mắt đêm đèn vàng, tình yêu như trái phá - con tim mù loà, đời sao im vắng như đồng luá gặt xong, đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối, thuyền nào chở mất thuyền quyên?... Ông sử dụng tài tình sự tương phản và đôi khi dùng những vế câu thật đơn giản để đẩy cao hơn điều muốn nói:

người vinh quang mơ ước điạ đàng /
người gian nan mơ ước bình thường
=> làm sao đến gần hy vọng cuộc vui chung?

hay:

Dù muà xuân đã đến đây / Vẫn còn tiếng khóc thầm,
Triệu nụ hoa đang thoát thai / Viên đạn vẫn trên nòng...

Tự học nhạc và bắt đầu sáng tác từ khi chưa đến hai mươi tuổi, âm nhạc cuả Trịnh Công Sơn đi thẳng từ trái tim người sáng tác đến trái tim người nghe, không bị lệ thuộc vào ảnh hưởng cuả âm nhạc kinh viện, âm nhạc thương mại hay âm nhạc trình diễn, do đó, chỉ nằm trong các thể điệu slow, slow-rock, blues, boston, valse hoặc surf, swing, soul chậm và hành khúc mà thôi. Ngoại trừ nhạc phẩm phổ thơ Trịnh Cung Cuối cùng cho một tình yêu, liên-tiểu-khúc Đoá hoa vô thường và một số ca khúc sáng tác chung với nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu, các ca khúc khác cuả ông có giai điệu đơn giản, đôi khi đơn điệu, nhưng luôn thăng hoa theo lời hát. Đó chính là đặc điểm và cũng chính là giới hạn cuả âm nhạc Trịnh Công Sơn.

Khởi đầu bằng các ca khúc Ướt mi, Thương một người và kết thúc với Sóng về đâu?, Đồng dao 2000, suốt hơn bốn mươi năm qua, âm nhạc Trịnh Công Sơn đã đến với thính giả qua tiếng hát và cách trình bày cuả nhiều thế hệ ca sĩ. Từ Thái Thanh đến Ý Lan, Quỳnh Hương, Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo, Thiên Phượng, Mai Linh. Từ Thanh Thuý, Giao Linh, Lệ Thu, Lê Uyên đến Thanh Lan, Nguyễn Chánh Tín, Carol Kim, Thuý-Hà-Tú, Tuấn Ngọc, Đức Huy, Hoạ Mi. Từ Vũ Khanh, Ngọc Lan, Kiều Nga, Hương Lan, ái Vân, Như Mai, Don Hồ, Dalena đến Thanh Hà, Thuỳ Dương, Huy Tâm, Mỹ Huyền, Lâm Nhật Tiến, Hoàng Nam. Từ Duy Trác, Quỳnh Giao đến Nguyễn Thành Vân, Trần Thái Hoà. Từ Lê Dung, Cẩm Vân, Bảo Yến, Lan Ngọc, Thanh Hải đến Khắc Dũng, Thu Hà, Thanh Lam, Tam ca áo trắng, Mỹ Linh, Bảo Phúc, Trần Thu Hà... Nhưng có lẽ chỉ có Khánh Ly và Hồng Nhung là hai tiếng hát đã để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng người nhạc sĩ cũng như người thưởng thức. Ca sĩ Khánh Ly nghĩ rằng bài hát Yêu dấu tan theo có lẽ được viết riêng cho cô. Bài hát có những câu: “Em theo đời cơm áo, Mai ra cùng phố xôn xao, bao nhiêu ngày yêu dấu tan theo...”. Ngoài ra, trong một ca khúc viết lúc cuối đời, “Em đi bỏ mặc con đường”, hình như cũng thấp thoáng đâu đó đôi lời trách cứ: Bỏ xa xôi yêu và gần gũi, bỏ mặc tôi buồn giưã cuộc vui... Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé, bỏ mặc tôi ngồi giưã đời tôi”.. Đối với cô bé Bống Hồng Nhung, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã riêng tặng một tam khúc: Bống bồng ơi, Bống không là Bống và Thuở Bống là người. Theo Trịnh Công Sơn, Khánh Ly là người hát hay nhất những sáng tác cuả ông, nhưng nếu Khánh Ly hát cho một thời vưà lãng mạn vưà đau thương trong chiến tranh đã qua, thì Hồng Nhung làm mới lại những ca khúc, với cách biểu hiện mới, phù hợp với tiết tấu cuả thời hiện đại. Ông cũng thường nhắc đến tên ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh, chính là em gái út cuả ông.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, với đôi mắt kính gọng đồi mồi, với cây đàn guitare và giọng hát khàn âm hưởng Huế, với cả những điếu thuốc lá và những ly rượu mạnh, đã đi-qua-cuộc-đời và giã từ chúng ta ở tuổi sáu mươi hai. Bị bệnh tiểu đường nặng, những ngày cuối cùng, ông phải di chuyển bằng xe lăn, đúng như câu hát đã viết trước đó hơn hai mươi lăm năm:

Mệt quá đôi chân này,
Tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi,
Mệt quá thân ta này,
Nằm xuống với đất muôn đời...

Xác thân ông đã nằm xuống với đất, về làm cát bụi, nhưng thần trí ông, vưà giã từ cõi tạm, có lẽ đang bay lượn đâu đó giưã chốn vô cùng, và tất cả, hình như, chỉ là một lời chia tay mà thôi:

Những hẹn hò từ nay khép lại,
Thân nhẹ nhàng như mây...
Đoá hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay...

Cổ Ngư

Paris 04.2001
:idea:

delta
01-25-2008, 10:41 AM
Đời và Nhạc Trịnh Công Sơn


Đặng Tiến
Trịnh Công Sơn chánh quán Huế, làng Minh Hương, tổ tiên gốc Trung Hoa. Làng Minh Hương nay sát nhập vào Bao Vinh thành xã Hương Vinh. Bao Vinh là thương cảng của Huế ngày xưa.

Anh sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939, tại Lạc Giao, tỉnh Đắc Lắc, lớn lên trong một gia đình buôn bán giữa trung tâm thành phố Huế. Nhà đông anh chị em, ba trai năm gái, mà anh là con trưởng. Tuy có thăng trầm, nhưng nói chung là khá giả.

Trịnh Công Sơn theo học chương trình Pháp, tại Trung học Pháp tại Huế, đến hết cấp 2. Năm ấy, 1955, cùng lớp có ca sĩ Kim Tước (Giáo sư Decoux, dạy khoa học, thỉnh thoảng mang đàn vĩ cầm vào lớp, đàn đệm cho học sinh hát). Lúc này Trịnh Công Sơn chơi guitare đã hay. Trường giải thể, dời vào Đà Nẵng, Trịnh Công Sơn có lúc theo học trường Thiên Hựu, Providence ở Huế. Rồi chuyển vào Sài Gòn, học tại trường Jean Jacques Rousseau. Sau đó vào học trường Sư Phạm Quy Nhơn, rồi đi dạy học vài năm tại Lâm Đồng.

Anh tự học nhạc một mình, và đã kể lại:

Thưở ấy, tôi là một đứa bé thích ca hát. Mười tuổi biết solfège, chép lại những bài hát yêu thích đóng thành tập, chơi đàn mandolin và sáo trúc. Mười hai tuổi có cây đàn guitare đầu tiên trong đời và từ đó sử dụng guitar như một phương tiện quen thuộc để đệm cho chính mình hát.

Tôi không đến với âm nhạc như một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc bên trong... Đó là những năm 56 - 57, thời của những giấc mộng ngổn ngang, của những viễn tưởng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mướt như trái quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhưng tuyệt nhiên trong tôi không hề gợi lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ... Dạo ấy ba tôi đã mất... 1

Những câu hỏi người tò mò có thể đặt ra: một người chỉ học trường Pháp, giáo trình Việt ngữ rất hạn chế và lỏng lẻo, khi đặt lời ca, sao có thể sử dụng tiếng Việt điêu luyện đến như thế? Thỉnh thoảng anh viết truyện ngắn, tham luận, đều xuất sắc. Bạn bè nhận được thư riêng, đều nhớ rằng Sơn chữ đẹp văn hay.

Tự học đàn hát, rồi sáng tác một mình, Trịnh Công Sơn không thuộc một nhóm sáng tác nào, như những người đi trước, như Lê Thương, Hoàng Quý trong nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng, như Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước trong nhóm Myosotis tại Hà Nội, nhóm Hoàng Mai Lưu tại Nam Bộ. Cũng như sau này, anh sẽ tự học vẽ một mình.

Câu hỏi tò mò thứ hai: tự học nhạc, rồi từ rất sớm đã lao mình vào đời sống sáng tác và tranh đấu, làm sao anh có thể liên tục sáng tác khoảng 600 ca khúc, phần lớn được yêu chuộng?

Nói rằng Trịnh Công Sơn là thiên tài, cũng dễ thôi. Nhưng trở thành thiên tài trên một đất nước như Việt Nam, được thừa nhận là thiên tài trong một xã hội như Việt Nam - nhất là sau cuộc đổi đời 1975 - thật không đơn giản.

Mục đích của bài này là giải thích sự hình thành của thiên tài Trịnh Công Sơn, giải mã hiện tượng Trịnh Công Sơn và tìm hiểu vị trí của Trịnh Công Sơn trên những trầm luân của đất nước, chủ yếu là khúc quanh 1975.

Chúng tôi cũng muốn cung cấp cho các nhà nghiên cứu về sau một số tư liệu rải rác đây đó, e mai đây khó kiếm, khi những than khóc và tung hô đã lắng xuống.

*

Về hoàn cảnh sáng tác ban đầu, Trịnh Công Sơn đã tuyên bố với Vĩnh Xương, báo Đất Việt, năm 1985 : " Đến năm 1957, tôi sáng tác, gọi là để bạn bè nghe chơi. Sau đó thấy có hứng thú sáng tác và thử viết thêm một số bài. Năm 1959, tôi viết bài Ướt Mi và được bạn bè khích lệ. Tôi mới tìm sách nghiên cứu thêm về nhạc, trao đổi thêm về nhạc lý với bạn bè. Sau đó, tôi phổ nhạc cho khoảng một chục bài thơ tình yêu (như Nhìn Những Mùa Thu Đi chẳng hạn). Năm 63, tôi có một số sáng tác khá thành công như Diễm Xưa, Biển Nhớ, Hạ Trắng. Từ đó, tôi đi vào con đường sáng tác "2.

Và từ đó, Trịnh Công Sơn nổi tiếng.

*
Khi đặt câu hỏi : sao một thanh niên, rất trẻ, chỉ học "trường Tây" mà sử dụng tiếng Việt tài hoa đến vậy, tôi không có thành kiến - vì bản thân mình cũng chỉ học "trường Tây"- mà để tìm hiểu nguồn sáng tạo trong ngôn ngữ.

Trịnh Công Sơn, có lẽ - đây là giả thuyết dè dặt - không học nhiều văn chương Việt Nam được giảng dạy ở nhà trường thời đó, nên không bị nô lệ vào những khuôn sáo trường quy, không suy nghĩ bằng điển cố sẵn có, mà tạo được một hình thức mới cho lời ca. Lời ca ấy sử dụng nhiều hình ảnh, biểu tượng bị xé lẻ, đi thẳng vào tâm tưởng người nghe, mà không đòi hỏi họ phải hiểu nghĩa chính xác. Ví dụ bài Tình Sầu :

Tình xa như trời/ Tình gần như khói mây/
Tình trầm như bóng cây/ Tình reo vui trong nắng/
Tình buồn làm cơn say
... Cuộc tình lên cao vút / Như chim mỏi cánh rồi / Như chim xa lìa bầy / Như chim bỏ đường bay /
Mạch lạc nội tại (cohérence organique) của ca khúc không dựa vào tương quan ý nghĩa : "tình xa như trời" thì hợp lý, nhưng gần, sao lại như "khói mây" ? "Tình lên cao vút", sao lại "như chim mỏi cánh rồi"? "Tình reo vui trong nắng", thì phải đối ngẫu với "tình buồn cơn mưa bay" mới chỉnh, sao lại say sưa vào đây?
Thật ra, mạch lạc nội tại được cấu trúc trên hình thức ngôn ngữ : những từ lặp lại : tình, chim, như, những vần luyến láy : mây, cây, say, bay, những từ đối lập : xa/gần, vui/buồn. Hình ảnh nối tiếp nhau, không cần ăn khớp với lý luận, lại được tiết điệu, âm giai nâng đỡ, bay bổng, bay thẳng vào tâm tưởng người nghe.

Chúng ta thử so sánh, để tìm hiểu chứ không phân định hơn thua, một lời nhạc tương tợ của Đoàn Chuẩn-Từ Linh :

Gửi gió cho mây ngàn bay
Gửi bướm muôn màu về hoa
Gửi thêm ánh trăng màu xanh lá thư
Về đây với thu trần gian ...
Hai ca khúc na ná, vì đều là ẩn dụ xâu chuỗi (métaphore filée), nhưng câu sau của Đoàn Chuẩn và Từ Linh được cấu tứ theo ngữ nghĩa và quy ước, theo điển cố : gió+mây, bướm+hoa, gió+trăng, trăng+thu. Nét mới là màu xanh lá thư bị xoá nhoè giữa những ước lệ được liên kết thành một xâu chuỗi kiên cố, chặt chẽ quá làm mất chất thơ. Thêm vào đó là những câu thất ngôn đường luật rất chỉnh chu :
Lá vàng từng cánh / rơi từng cánh
Rơi xuống âm thầm / trên đất xưa
Bài Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay rất hay, nhưng hay một cách khác, được yêu chuộng ở một giới thính giả khác.
Phạm Duy, thời trẻ, đã có những sáng tạo tân kỳ :

Buồm về dội nắng đôi vai
Bao nhiêu màu hoa ngát trên đôi môi
(Tiếng Đàn Tôi), 1947
Sau đó, anh trở về với ngôn ngữ duy lý:
Bao giờ em giở lại vườn dâu (hỡi em)
Là một câu thơ tuyệt vời : vườn dâu là niềm thương nhớ muôn trùng một nền văn minh đã khuất bóng. Nhưng Phạm Duy lại bồi thêm câu sau:
Để anh bắc gỗ xây nhịp cầu (anh) bước sang...
(Quê Nghèo, 1948)
Thì cái ý đã thu hẹp cái tứ. Câu hát trở thành thô thiển, và giới hạn âm vang.
(Tôi đã có dịp trình lên anh Phạm Duy ý này, anh cười vui : thế à ?)
Tác phẩm Lê Thương uyên bác cả nhạc lẫn lời, đã đựơc người đời yêu thích.
Trịnh Công Sơn sẽ không viết được những câu văn vẻ như Lê Thương :

Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng ...
(Hòn Vọng Phu)
nhưng đã viết :
Đàn bò vào thành phố
Reo buồn tiếng hạt chuông
(...)
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn,
bỗng thấy buồn ...
(Du Mục)
Những hình ảnh ngoài trí tưởng tượng của Lê Thương - ông vua đặt lời ca - theo sự đánh giá của Phạm Duy.
Đi vào nền tân nhạc với một tâm hồn mới mẻ, Trịnh Công Sơn đã dần dần xây dựng một nhạc ngữ mới, phá vỡ những khuôn sáo của nền âm nhạc cải cách, thành hình chỉ hai mươi năm về trước.
*

Trịnh Công Sơn tự học nhạc, chứ không được đào tạo theo hệ thống trường quy. Khi bắt đầu sáng tác, được khích lệ, mới "trao đổi nhạc lý với bạn bè", anh không nói rõ là những ai.

Câu hỏi thứ hai người tò mò đặt ra là : học nhạc một mình, thì vốn liếng nhạc thuật lấy đâu ra mà sáng tác nhiều, nhanh và hay như thế ?

Nhiều người cho là tác phẩm anh đơn giản về mặt nhạc thuật, nói là nghèo nàn cũng được.

Văn Cao nhận xét : "Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển, theo cấu trúc bác học phương tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra" 3.

Lối nhạc hồn nhiên, dung dị này lại đáp ứng lại với nhu cầu thời đại, theo Phạm Duy :

"Về phần nhạc, toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại" 4.

Một thính giả bình thường, yêu quý Trịnh Công Sơn, đã viết sau khi anh qua đời : "Xét cho cùng, Trịnh Công Sơn là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là cái xe tải anh lắp lấy để chở thơ anh đến với chúng ta" (Vũ Thư Hiên, Varsovie, 4/2001). Nhận xét không đúng nhưng tiêu biểu.

Dù cho rằng nhạc thuật đơn điệu, thì cũng phải thừa nhận tài năng, có phần học tập, có phần thiên phú. Hoa hồng đẹp là do cây hồng, nhưng cũng còn nhờ vào đất đai, phân tro, mưa nắng, người chăm sóc, thậm chí cần cả người ngắm, hoa hồng mới có giá trị cái đẹp hoa hồng. Dù ở đây chỉ là một đoá vô thường.

Ta thử nhớ lại thời đại phát sinh tài năng Trịnh Công Sơn.

Năm anh 15 tuổi, 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, cả hai miền Nam Bắc đều hoá thân trong hoàn cảnh chính trị và văn hóa mới.

Ở miền Nam, văn hoá phương Tây tràn ngập thị trường, nhất định phải ảnh hưởng mạnh mẽ đến tuổi mười lăm.

Sách báo, đĩa nhạc Pháp du nhập ồ ạt vào Việt Nam hằng ngày, giá thực tế rẻ hơn tại Paris nhờ trợ cấp hối đoái, và đây lại là thời kỳ phát minh và phát triển của loại sách bỏ túi và đĩa hát rảnh mịn (microsillon), phát hành rộng rãi, kèm theo những phương tiện truyền thanh mới. Thời trước, tuy Việt Nam là thuộc địa Pháp, nhưng văn chương Pháp chỉ du nhập qua nhà trường, giáo trình dừng lại ở cuối thế kỷ XIX : uyên bác như Xuân Diệu mà không biết Apollinaire. Sau 1954, văn hoá Pháp - và phương Tây - du nhập thẳng vào thị trường. Công chúng đọc Françoise Sagan tại Sài Gòn cùng lúc với Paris. Trên hè phố, nhất là tại các quán cà phê, người ta bàn luận về Malraux, Camus, cả về Faulkner, Gorki, Husserl, Heiddeger.

Nhà văn Bửu Ý, bạn Trịnh Công Sơn - học trước Sơn hai lớp tại Lycée Français Huế - hát Lá Rụng (Les Feuilles Mortes) một lần với Juliette Gréco ; Đời Hồng Tươi (La Vie en Rose) một lần với Edith Piaff, Barbara một lần với Yves Montand ; trong khi Thanh Tâm Tuyền dịch Barbaracủa Jacques Prévert,đăng trên Sáng Tạo và nhà văn trẻ Nguyễn Xuân Hoàng cũng ngân nga Barbara. Nguyễn Trần Kiềm, bạn cùng lớp với Sơn, đi cyclo che nắng bằng sách của Sartre.

Người ta thắc mắc về những tên ca khúc Trịnh Công Sơn cầu kỳ như Mưa Hồng, Tuổi Đá Buồn, trong khi Thanh Tâm Tuyền viết Đêm Màu Hồng, về sau trở thành phòng trà lừng danh, lại viết thêm Lệ Đá Xanh, được danh hoạ Đinh Cường, bạn thân Trịnh Công Sơn, vẽ thành tranh trừu tượng, v...v... .

Song hành với sách báo, các cơ quan văn hoá tây phương mở cửa hoạt động : Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, Pháp, Trung Tâm văn hoá Đức ... dĩ nhiên là với những động cơ chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh, mà chúng tôi không đề cập ở đây, chỉ nhấn mạnh ở ảnh hưởng văn hoá phương Tây thời đó trên đời sống trí thức miền Nam. Những Chiều Chủ Nhật Buồn nằm trong căn gác đìu hiu.. ô hay mình vẫn cô liêu, rồi đến Ngày chủ nhật buồn còn ai, còn ai : ... Tuổi buồn Em mang đi trong hư vô, ngày qua hững hờ... Không thể không nhắc đến bài Chủ Nhật Buồn, Sombre Dimanche của Seress Rejso, nghe nói đã có người tự tử vì nó. Hay vì những hư vô, cô liêu, hững hờ, thịnh hành một thời. Trong bài viết "Nỗi lòng của tên Tuyệt Vọng" anh đã tiết lộ " tôi vốn thích triết học và vì thế, tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình ". Ví dụ như : Vết lăn trầm hằn lên phiến đá mà anh gọi là di thạch : roche errante, người hát không hiểu gì, nhưng vẫn thích hát ! Nhưng nói là Rolling Stones cũng không sai.

Ca khúc Trịnh Công Sơn gợi suy tư, đáp ứng lại nhu cầu trí thức chính đáng ở một thiểu số và ảo tưởng trí thức thời thượng ở một đa số, trong đó có các cô cậu, ở mục Tìm Bạn Bốn Phương trên các báo, tự giới thiệu là "yêu màu tím" và "nhạc họ Trịnh", hay "nhạc TCS" viết tắt.

Thời kỳ này, Nguyễn văn Trung đã viết bài Ảo Ảnh Thanh Thuý. Nói về ảo ảnh Trịnh Công Sơn, ông ấy cũng có thể viết một bài hay.

Nhạc Trịnh Công Sơn đơn giản : một nhược điểm tạo dựng thành công. Phạm Duy nhận xét về Trịnh Công Sơn " Bài hát chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm theo, nếu hoà âm phối khí rườm rà thì không hợp với những bài hát soạn theo thể ballade này ". Lại là một yêu cầu khác của thời đại : những Georges Brassens, Joan Baez lẫy lừng với cây đàn ghi-ta. Ca khúc Trịnh Công Sơn, có thể hát cho vài người nghe, cho một nhóm, hay trước quảng đại quần chúng. Nó đi vào quần chúng, nhất là giới thanh niên : Nó khác với nhạc phòng trà, có giàn nhạc và do ca sĩ hát, và thính giả đi nghe (và nhìn) ca sĩ nhiều hơn là nghe ca khúc.

Thời Trịnh Công Sơn cũng là thời của các tác-gia-soạn-giả-trình-diễn (auteur compositeur interprète) chẳng bao năm mà trở thành huyền thoại : Jacques Brel, Bob Dylan. Báo chí Mỹ gọi Trịnh Công Sơn là Bob Dylan Việt Nam, vì nội dung phản chiến, mà còn vì phong cách trình diễn.

Nhạc Trịnh Công Sơn không phải là nhạc giao hưởng. Những soạn giả bậc thầy của nhạc lý Việt Nam thời đó, như Vũ Thành, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi không có quần chúng.

Trịnh Công Sơn có tài đặt nhạc, soạn lời, lại biết bắt mạch thời đại, sống đúng thế hệ của mình, trong lòng đất nước, trong nhạc cảnh thế giới. Ngần ấy cái tài dồn lại, gọi là thiên tài, cũng không quá đáng.

*

Phân chất những lớp phù sa đã tấp vào dòng nhạc của mình qua những giao lưu văn hoá, Trịnh Công Sơn có nói đến những ảnh hưởng ngoại lai : " Thưở nhỏ tôi rất thích nhạc tiền chiến và có nghe một số nhạc nước ngoài. Những năm 60, tôi có nghe nhạc Blues nói về thân phận của người da đen ở Mỹ. Tôi rất thích nhạc của Louis Amstrong, D. Ellington... Tôi thấy loại nhạc này gần gũi với mình và thấy có khả năng muốn lấy nhạc này để nói lên tâm sự của mình ". 5

Và cũng trên số báo Đất Việt đó, anh cho biết thêm về ảnh hưởng : " Những năm 64-66, sáng tác có chất Blues, những năm 67-72, lại mang nhiều chất dân ca ".

"Chất dân ca" ở đây, phải hiểu theo nghĩa folk songs của Bob Dylan và Joan Baez thịnh hành thời đó. Cả hai danh ca đều hơn Sơn hai tuổi, cùng một thế hệ, cùng một lý tưởng chống chiến tranh, cùng một cây ghi-ta, cùng một điệu hát; "Dân ca" ở đây không phải là hò mái nhì, hò giã gạo của quê hương. Nhạc dân tộc trong thời gian đầu, dường như không mấy ảnh hưởng đến anh. Những bài theo chủ đề ru con của Trịnh Công Sơn không mấy âm hưởng những bài hát ru em Việt Nam.

Sau này, thỉnh thoảng người nghe có nhận ra chút âm hưởng hò Huế, như trong " Thuở Bống là Người ", hay điệu ru dân tộc, như " Lời Mẹ ru Con " thì cũng chỉ là đôi biệt lệ, không tiêu biểu.

Gần đây, sách báo thường trích dẫn câu Trịnh Công Sơn:

"Tôi chỉ là tên hát rong, đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo".

Lại phải hiểu chữ "hát rong" theo nghĩa hiện đại: không phải là ông sẩm chợ, hát vè Thất Thủ Kinh Đô ở phố Đông Ba mà Huy Cận đã mô tả, mà hình ảnh người du ca hiện đại, những baladins itinérants trong ca khúc Bob Dylan, trong quan niệm Nhạc Du Bất Tận, Never Ending Tour (1988). Nhà thơ Tô Thùy Yên, chuộng thuyết chính danh, nên đã nói rõ điều này và gọi Trịnh Công Sơn là "người du ca chính hiệu":

" Người du ca là một nghệ sĩ đặc biệt đứng giữa âm nhạc và thi ca, đúng hơn, người du ca là một thi sĩ nhiều hơn là một nhạc sĩ.

Người du ca thường khi xuất hiện và nổi bật trong những thời đại được coi là u uất nhiễu nhương, những thời đại mà tiếng nói con người bị lấn át, tự do con người bị cưỡng chế, giá trị con người bị hạ thấp, hạnh phúc con người bị tước đoạt và ước vọng con người bị bao vây.

Thành thử những tác phẩm du ca có thể là những tác phẩm yếu hơi, dễ dãi, sơ sài, những tác phẩm thành hình trong một thoáng cảm hứng nhất thời, những tác phẩm như những ký tự ghi chép vội vàng trên một trang giấy tình cờ, và thả bay ngay theo thời thế".

Trong Cõi Tạm, ăn xổi ở thì này, nơi con người chôm liền chộp lẹ mọi cơ hội để mua lẻ và mua rẻ chút hư danh, có người còn viết được những lời như vậy, là nghiêm túc và tâm huyết. Nhất là viết cho một người vừa khác phe, vừa khác phái.

Văn Cao cũng là một người sành chữ nghĩa. Trong câu chuyện thân mật, anh thường nói "Sơn là một troubadour (kẻ hát rong) có tài". Nhưng khi viết về Trịnh công Sơn, anh dùng chữ chantre, trang trọng hơn, trong nghĩa "kẻ ngợi ca" : " bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui, và biết đau đến tận cùng những nỗi đau của Tổ Quốc Mẹ hiền " 6. Troubadour hát nhạc mua vui cho trần thế, Chantre hát những Lời Buồn Thánh. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn cũng chỉ tự xưng là troubadour, như tên đặt cho phòng tranh anh triển lãm chung với Đinh Cường, Bửu Chỉ tại Gallery Tự Do, tháng 8/2000.

Năm 1969, bạn anh, họa sĩ Trịnh Cung, đã vẽ bức tranh đẹp, tên là Le troubadour = Kẻ du ca, hát để kêu gọi hoà bình. Những chuyện này đều tương quan với nhau.

Khi Phạm Duy gọi ca khúc Trịnh Công Sơn là những ballades, không cùng một nguồn gốc với chữ baladin, cũng là có ý trang trọng.

Các vị ấy tài cao, ý sâu mà lòng thì rộng rãi ; cho nên lời cũng khoáng đạt.

*

Hôm qua trăng sáng lờ mờ
Em đi tát nước, tình cờ gặp Anh
Người con gái Việt Nam da vàng, ngày xưa, đã hát như thế trong ca dao, là để che dấu khát vọng tình yêu, chứ trong đời sống nông thôn thời ấy, làm gì có cái tình cờ.
Đời sống thế giới hiện nay, nghĩ cho cùng, cũng vậy thôi. Những giai điệu blues, nhạc phản kháng Bob Dylan, Joan Baez, thơ Prévert, Aragon, Eluard ... Trịnh công Sơn đã gặp gỡ, trên dòng nhạc, dòng thơ, dòng tâm tư. Và dòng lịch sử, dân tộc và thế giới. Trong cao trào lớn của loài người, giữa lòng thế kỷ hai mươi : cao trào giải phóng dân tộc, chủng tộc và giai cấp. Đừng quên việc giải phóng phụ nữ : người phụ nữ Pháp đi phá ngục Bastille từ 1789, mãi đến 1944 mới có quyền đầu phiếu.

Người phụ nữ Việt Nam cũng vậy thôi : sau khi chờ chồng hoá đá, họ bước chân vào thế kỷ XX, thì ngồi đan áo. Từ Buồn Tàn Thu của Văn Cao, qua Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, thơ hiện đại của Ý Nhi, cho đến năm 2000, trong ca khúc Đêm Xanh của Bảo Chấn, cô ấy vẫn ngồi đan áo, trong khi dọc hè phố, áo pull bán rẻ mạt.

Đan áo là hình ảnh ẩn nhẫn, thụ động mà người đàn ông đòi hỏi. Đan áo cho ai đó, hay để tưởng nhớ, chờ đợi ai đó. Ca khúc Trịnh Công Sơn, rất nhiều phụ nữ, nhưng không thấy họ đan áo. Mà chỉ ... ngồi chơi, khi nghiêng vai, khi nghiêng đầu, khi nghiêng sầu. Ngồi chơi chán rồi thì Đứng lên gọi mưa vào Hạ. Nếu khóc, cũng chỉ khóc cho những Chiều mưa đỉnh cao .... Mai kia, có ra đi, thì cũng là Như những dòng sông nhỏ.

Người đàn bà trong Trịnh Công Sơn đẹp dung dị và tự do bình thường. Tự do với cuộc đời, với tình yêu, thậm chí với tình dục. Nhạc Trịnh Công Sơn không nói đến tình dục, vì nói đến ... làm gì?

Người phụ nữ nghe và hát nhạc Trịnh Công Sơn thoải mái, vì chỉ hát, hay nghe, mà không phải làm gì cả, không phải Hái Mơ, Lái Đò, bán Hàng Cà Phê, Hàng Nước, không phải thay quần áo làm cô Sơn Nữ, cô Láng Giềng hay mua lấy số phận Người Yêu của Lính. Và nhất là không phải ... đi lấy chồng: hạnh phúc không thấy đâu mà chỉ nghe oán trách dài dài suốt nửa thế kỷ : Em đi trên xác pháo, anh đi trong nước mắt... Em ơi tình duyên lỡ làng rồi, còn chi nữa mà chờ ... Và, ở một chân trời khác, họ cũng không phải ba đảm đang, ba sẵn sàng, làm Người Mẹ Cầm Súng, xung phong đi gỡ mìn ở Ngã Ba Đồng Lộc ...

Sau 1975, khi "Em ở Nông trường, em ra Biên giới" thì người nghe có cảm giác cô Tấm đã trở thành cô Cám, và Trịnh Công Sơn sẽ gào gọi Bống hỡi Bống hời, cô Tấm thỉnh thoảng có tái hiện, nhưng cũng đã tân trang nhiều lắm.

Trong xã hội Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa chắc gì người phụ nữ đã được giải phóng, và tôn trọng đúng mức. Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, họ được giải phóng và tôn trọng. Tôn trọng người đàn bà, không phải là tán tỉnh, Trịnh Công Sơn, rất hồn nhiên đã hiểu ra và nói vào điều đó.

*

Nhạc phản chiến, đòi hỏi hoà bình của Trịnh Công Sơn thì nhiều người biết, sẽ có nhiều người viết về đề tài này. Mới đây, trong buổi tưởng niệm Trịnh Công Sơn, tại Californie, anh Đỗ Ngọc Yến có nói rõ và nói đúng, khác với Đỗ Ngọc Yến cách đây 40 năm và 20 năm.

Tôi không đủ thì giờ viết về đề tài này, nhưng sẽ đề cập đến ở một dịp khác, nay chỉ vội nói ngay mấy ý kiến chủ quan:

1.- Dù đánh giá ra sao đi nữa, nhạc Trịnh Công Sơn cũng là sản phẩm của chế độ Việt Nam Cộng Hoà, trong cả hai mặt tích cực và tiêu cực của chế độ này.

Không có Miền Nam, cũng có thể có một Trịnh Công Sơn, nhưng là một Trịnh Công Sơn khác, đại khái như một Phạm Tuyên hay Phan Huỳnh Điểu.

2.- Chính quyền Cộng Sản, sau 1975, sau những thăm dò, đã lưu dung một phần trong nhạc phẩm Trịnh Công Sơn và đã khéo sử dụng Trịnh Công Sơn. Có thể nói sau 25 năm chiến thắng, thành công hiếm hoi, nếu không phải là duy nhất, của chính sách văn hoá của chính quyền cộng sản, là tiếp thu nhạc Trịnh Công Sơn, mà công đầu là Thành Uỷ Sài Gòn. Dùng chữ "chính sách", là để nhìn toàn cảnh, chứ đối với một cá nhân, chắc chỉ có những quyết định cục bộ, nhất thời, bất thành văn. Dù sao, họ cũng chỉ kế thừa kinh nghiệm Liên Xô vào thời kỳ Tân Chính Sách Kinh Tế (NEP) những năm 1920, sau cuộc nội chiến, khi Lenine thu dung những nhà văn, nhà thơ "bạn đường" (Popoutchiki) như Alexis Tolstoi hay Zamiatine.

Trong chiến tranh chống Pháp, người Cộng Sản đã không thu phục được Phạm Duy. Sau 1954, họ không thu phục được Văn Cao. Nhưng sau 1975, họ thu hoạch được Trịnh Công Sơn, như vậy đã là thành công. Thành công về mặt hiện tượng, không phải về mặt bản chất. Về mặt bản chất, chuyên chính vô sản không bao giờ chấp nhận cái gì khác họ, không phải do họ tạo ra. Mặt khác, ca khúc Trịnh Công Sơn trước kia và bây giờ không có "tiêu chuẩn" đáp lại quy luật của hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cố gắng đến đâu thì cây cam cũng không tạo được quả chanh. Trước kia "hai mươi năm nội chiến từng ngày" là sai đường lối, bây giờ hỏi "Em còn nhớ hay Em đã quên"vẫn sai lập trường.

Chấp nhận - dù trong giới hạn - những dư vang của một chế độ chính trị mà mình cố công bôi xoá, chính quyền Sài Gòn, trong chừng mực nào đó, đã nhượng bộ quần chúng, đã gián tiếp thừa nhận mình thất bại, trong việc ngăn chặn nhạc vàng, và nhất là trong việc đào tạo một nền âm nhạc mới đáp ứng với quần chúng. Chính quyền Trung Ương Hà Nội "wait and see" để cho Sài Gòn "phát huy sáng kiến" ; nếu rách việc thì ra tay chận đứng một "quyết đinh địa phương", nếu vô hại thì án binh bất động, và thêm được tiếng là cởi mở, hoà hợp.

3.- Về phía Trịnh Công Sơn, anh cũng khéo thoả hiệp với chính quyền mới. Việc anh ở lại Việt Nam sau 1975, hợp tác với các hội văn nghệ Huế, rồi Sài Gòn là hợp lý, sau khi đã sáng tác Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm... Đó là sự chọn lựa tự do của anh. Cũng như Nguyễn Trãi xưa kia, cháu ngoại nhà Trần, mà không phò tá các phong trào kháng chiến Hậu Trần, lại đi hợp tác với đám nông dân Lam Sơn. Hay như Ngô Thời Nhậm, nhiều đời ăn lộc chúa Trịnh vua Lê, mà đã đi hợp tác với nhóm áo vải Tây Sơn. Từ đó người ta có thể thông cảm khi anh làm một số bài ca ngợi chế độ mới, không hay lắm và ít được hát, ít người biết : âu cũng là điều may mắn cho anh, vì anh đã có một số câu chữ không hay và không cần thiết.

Anh là người được hưởng nhiều bổng lộc của chính quyền, nhiều hơn những cán bộ đã vào sinh ra tử trong cả hai cuộc chiến tranh. Anh có thể hát Đời Cho Ta Thế. Thật ra, đời không cho ai cái gì mà chỉ đổi chác ; anh đã phải trả giá, có khi là giá rất đắt. Anh không trả thì nhiều người khác phải trả. Ý thức điều đó có lần anh viết : " Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng. Nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận. Và khi đã nhận rồi thì phải có trách nhiệm với mọi người ".

Nói thì ngon lành như thế. Thực tế không đơn giản : người ta cho anh bó hoa, chai rượu. Ai cho anh trách nhiệm ? Anh hát " mỗi ngày tôi chọn một niềm vui ", khi bạn anh, Thái Bá Vân, phó viện trưởng Viện Mỹ Thuật Hà Nội than : "một năm không được một ngày vui". Muốn mua vui, phải vào Sài Gòn ... chơi với Sơn. Nhưng chẳng qua là niềm vui của phận "chim lồng cá chậu" ; Hiểu như thế, bạn bè không đòi hỏi gì nhiều ở một nghệ sĩ yếu đuối, sống chết giữa trùng vây như anh.

Người ta đánh giá một tác giả qua những tác phẩm anh ta đã thực hiện, chứ không qua những tác phẩm mà "lẽ ra" anh ta phải thực thực hiện. Nhân danh cái "lẽ ra" ấy, người làm văn học nghệ thuật đã là nạn nhân của bao nhiêu là oan khiên, oan khốc và oan khuất.

Không những vì chút tình riêng, nhưng còn vì tình đời, luật công bình, luật tương đối, luật chơi, chúng ta nên gạt sang một bên nhiều cái "lẽ ra" đối với Trịnh Công Sơn, mà chỉ xét những cái anh đã làm ra.

4.- Qua bốn mươi năm truân chuyên, Trịnh Công Sơn đã có những đóng góp lớn lao vào nền văn học nghệ thuật, vào đời sống xã hội, và lịch sử chính trị. Phần lớn sự nghiệp anh đã thành hình và thành công dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà, mà mọi người đã biết. Bài này tạm thời chưa nói đến.

Ngoài quần chúng cũ, nghe nhạc Trịnh Công Sơn vì yêu thích hay để nhớ lại ngững âm hao xưa cũ, thì thính giả khác, giới thanh niên Việt Nam ngày nay, hay người miền Bắc trước 1975, đón nhận ra sao ?

Trong xã hội Việt Nam ngày nay, ca khúc Trịnh Công Sơn mang lại chất Thơ cho đời sống. Nhìn qua một số đĩa hát CD, thu nhiều bài của nhiều soạn giả, thì cái tên chung thường mượn tiêu đề của Trịnh Công Sơn, như Lời Thiên Thu Gọi (Hồng Nhung), Xin Mặt Trời hãy ngủ yên (Mỹ Linh), những tiêu đề nhiều âm vang, nhiều thi vị. Những nhạc sĩ khác, Dương Thụ, Phú Quang, Trần Tiến, Bảo Chấn... đều tài cao, nhưng được đào tạo và trưởng thành trong một xã hội duy dụng và thực dụng, óc sáng tạo cao siêu của họ không đặt ra những câu hỏi vớ vẩn như là Sóng Về Đâu? Vì thực tế: sóng thì ... về đâu? Trong một mẩu xã hội nào đó, đặt những câu hỏi như thế, là có cơ nguy bị nhốt vào nhà thương điên.

Chủ nghĩa hiện thực xã hội rất nghiêm khắc, yêu chuộng văn vần, một loại văn xuôi diễn ca (prose versifiée), với điều kiện loại văn vần ấy không có chất Thơ. Thi phẩm của "công thần" Nguyễn Đình Thi còn bị gạt ra nói gì đến "hàng thần" Trịnh Công Sơn ? Nhưng ca khúc Trịnh Công Sơn đã lọt qua được các mắt lưới, vì đã cấp thời đáp lại được "lời gọi của khoảng trống" (l"appel du vide) và ca khúc là một thể loại nhẹ, phù phiếm (genre léger), chính quyền dung dưỡng vì có khả năng chận đứng bất cứ lúc nào - như đã làm với nhạc Văn Cao ngày xưa : thậm chí bài Quốc Ca còn bị hăm doạ thay đổi. Và đang làm với Phạm Duy ngày nay. Trong các CD thu tại Việt Nam hiện nay có ai thấy Giấc Mơ Hồi Hương, nhạc Vũ Thành?

Chính quyền dung dưỡng ca khúc Trịnh Công Sơn không phải vì động cơ nghệ thuật, nhưng như một thế phẩm (ersatz), trong thời kỳ quá độ, như bác sĩ ban thuốc an thần cho bệnh nhân mất ngủ. Trong khi chờ đợi, thính giả hưởng lạc khoản, được ngày nào hay ngày ấy. Họ đang được nghe bài Sóng Về Đâu một trong ca khúc cuối đời Trịnh Công Sơn :

Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã dưới chân người
Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại sóng về đâu
Sóng bạc đầu và núi chìm sâu
Ta về đâu đó
Về chốn nào mây phủ chiêm bao
Xã hội chủ nghĩa có thể tạo ra nhiều bài hát hay hơn. Nhưng tạo ra được cái gì na ná như thế thì vô phương. Thiên tài không phải là người không bắt chước ai, mà là người không để ai bắt chước được mình.
5.- Chứng từ cho giá trị một tác phẩm nghệ thuật, là khả năng kết hợp rộng rãi và lâu dài của nó. Nhạc Trịnh Công Sơn được hát rộng rãi ở Miền Nam trước 1975, chúng ta đã biết. Nhưng trước 1975, Miền Bắc đã nghe và đã thích nhạc này, như Văn Cao đã kể lại 7. Nguyễn Duy kể thêm rằng ở dọc Trường Sơn, bộ đội miền Bắc cũng đã nghe :

" Mặt trận Đường Chín-Nam Lào (1971)... trong căn hầm kèo bên dòng sông Sêbănghiêng ... Nghe, nghe trộm - vâng, lúc đó gọi là nghe trộm - đài Sài Gòn, tình cờ 'gặp' Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly... Diễm Xưa... Mưa vẫn mưa rơi ... làm sao em biết bia đá không đau ... Quỷ thật ! giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên 'ghim' lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như Cánh Vạc Bay... Quái thật ! ... Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy... ừ thì có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy... nhưng còn là cái gì lành mạnh nảy nở trong đó. Hình như là cái Đẹp... Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp, đẹp làm sao... Và cũng hơi ma quái thế nào ... "8

Người ác ý có thể ngờ vực : Nguyễn Duy là nhà báo có quyền nghe đài, sau này là bạn rượu của Trịnh Công Sơn, nên thêm thắt. Thì đây, một chứng từ khác đến từ một anh bộ đội, không quen biết gì, không điếu đóm gì với Trịnh Công Sơn, nhà văn Nguyễn văn Thọ, hiện ở Berlin:

" Năm 1972, khi ấy tôi là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch Lam Sơn 719 vớ được cái đài Sony rất tốt.

Đêm Trường Sơn, chờ cho mọi người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài Gòn. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với nhạc Trịnh Công Sơn.

Chúng tôi là lớp người lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng chộn rộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ, tới khúc thức. Một thứ nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những ngày sau hoà bình.

Rất lạ, với tôi khi đó nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn, hoà bình, đạo lý. Nó lạ, vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết truyền thống trên những ca khúc của Hà Nội khi đó"

Quý hoá hơn nữa, anh Thọ đã ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài Gòn, nghe nhạc Trịnh Công Sơn hát Nối Vòng Tay Lớn, buổi trưa ngày 30/4/1975, trên đài Sài Gòn:

" Mặt đất bao la ... anh em ta về ... gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng ...

Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học.

Chúng tôi tiến vào Sài Gòn...

Nối Vòng Tay Lớn

Chiến tranh nào bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc thường dễ nổi cáu và nổi doá.

Đấy là kỷ niệm thứ hai của tôi về anh "

Tiếng hát làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hằng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế không trọng đại hay sao?

Văn học nghệ thuật Việt Nam, đã bao nhiêu lần đóng vai trò đó?

Sau này, Thọ sang sinh sống tại Đức, theo diện xuất khẩu lao động, vẫn nghe nhạc Trịnh Công Sơn :

" Ngay cả sau này, đôi khi tự an ủi mình, nâng đỡ mình, tôi khe khẽ hát "Tôi ơi đừng tuyệt vọng"... và nhiều bài ca khác trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng tôi vẫn nhớ từng chi tiết và cám ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở trưa phát thanh trên làn sóng Sài Gòn ngày đó "9

Ở một chân trời khác, nhiều người oán trách Trịnh Công Sơn về việc lên đài hát Nối Vòng Tay Lớn, trưa ngày 30.4.1975. Thật ra, anh có hát hay không hát, thì chế độ Việt Nam Cộng Hoà cũng tan rã. Anh có hát, và có hợp tác với chính quyền mới, âu cũng là một cách cứu vãn vết tích văn hoá của nền Việt Nam Cộng Hoà đã đào tạo ra anh về mặt tài năng và sự nghiệp, thậm chí tạo ra cả một huyền thoại Trịnh Công Sơn.

Một lần nữa, ông Nguyễn Văn Trung, sau Ảo Ảnh Thanh Thúy nếu viết Trịnh Công Sơn Thực Chất và Huyền Thoại cũng sẽ nghĩ ra nhiều điều hay.

Nếu có ai đó nói rằng : Trịnh Công Sơn là một khổ nhục kế, để kéo dài hơi thở văn hoá của một chế độ chính trị đã bị bức tử, thì là lời đại ngôn, duy cảm, nghịch lý, vớ vẩn.

Vớ vẩn như một số lời ca trong tác phẩm Trịnh Công Sơn. Nhưng biết đâu chẳng là sự thực? Sự thực trong bao nhiêu cái vớ vẩn, kể cả trong lịch sử.

Chế Lan Viên, năm 1984, đã viết: " Văn hoá của thực dân mới là con đẻ của chủ nghĩa thực dân mới. Quân sự, chính trị thực dân mới có chết, có băng hà thì nó cũng truyền ngôi cho văn hoá "10. Và Chế Lan Viên không phải là người vớ vẩn, viết lách vớ vẩn.

*

" Không xa đời và cũng không xa mộ người..."

Trịnh Công Sơn đã xa đời lúc 12 giờ 45 tại Sài Gòn, ngày 01.4.2001.

Đám tang ngày 4 tháng tư, nghe nói lớn lắm, hàng trăm tràng hoa ngập con hẻm 47 Duy Tân. Hàng vạn người đưa tiễn, trong đó có thể có người đi tiễn một điều gì khác, một tâm tình hay u hoài nào đó của riêng mình, chẳng hạn.

André Malraux có nói đâu đây rằng " trong Thiên Chúa Giáo, chỉ có những pho tượng là vô tội ". Trịnh Công Sơn đã sống non nửa sau cuộc đời, trong một chế độ chính trị mà các pho tượng cũng không phải là vô tội.

Những đoá hoa đặt trên mộ Toa, Sơn ơi, không phải là đoá hoa nào cũng vô tội.

Bây giờ moa mới khóc Toa đây. Tại nhà moa, ngồi ở chỗ Toa ưa ngồi vẽ, nhìn dòng sông nhỏ, mà Toa đã gọi là sông An Cựu.

Sơn ơi, đời này, và sang đời khác nữa, làm gì có đến hai dòng sông An Cựu ;

an cựu, Sơn ơi.

Đặng Tiến
Orléans, 14.04.2001

--------------------------------------------------------------------------------

1 Trịnh Công Sơn, Nhạc và Đời, nxb Tổng Hợp Hậu Giang
2 Đất Việt, Canada tháng 6, 1986
(Thật ra bài ướt Mi, làm năm 1958, nxb An Phú, in 1959)
3 Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ hay Em đã Quên, nxb Trẻ, 1991, tr. 115
4 Phạm Duy, Hồi Ký Thời Phân Chia Quốc Cộng, nxb Phạm Duy Cường, California, 1991, tr. 287
5 Đất Việt, Canada tháng 6,1986
6 Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ hay Em đã Quên, nxb Trẻ, 1991
7 Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ hay Em đã Quên, nxb Trẻ, 1991.
8 Nguyễn Duy, trong Tôi Thích Làm Vua, nxb Văn Nghệ, 1987
9 Nguyễn văn Thọ, Nhớ Trịnh Công Sơn, Nước Đức, ngày 4.4.2001
10 Chế Lan Viên, Văn hoá thực dân mới chết hay chưa chết, trong "Ngoại Vi Thơ", tr. 121, nxb Thuận Hoá, Huế, 1987
:idea:

delta
01-25-2008, 10:45 AM
Một Đoạn Nhật Ký Trịnh Công Sơn


Trịnh Công Sơn

TTCN) Ðây là một đoạn nhật ký Trịnh Công Sơn viết năm 1969, khi vừa tròn 30 tuổi, lúc anh đã có nhiều sáng tác được công chúng biết đến và yêu mến...

Vào đầu mùa xuân này tôi có ba mươi tuổi chẵn. Câu nói đã xa lặp lại mãi âm thầm trong trí tôi: Tam thập nhi lập. Riêng tôi chả lập được gì cả.

Tôi đang ở trong một thành phố có những vết tích cổ xa của đền đài thành quách. Bây giờ những thứ đó cũng không nói lên được điều gì. Thỉnh thoảng nhìn lại cũng có gợn lên trong lòng một chút buồn bâng quơ vậy thôi. Người ta chỉ còn chú ý đến những đổ nát quanh thành phố và ngay trên những đền đài đó. Có lần tôi cùng vài người bạn đưa một cô bạn từ xa đến, đi thăm những đền đài này, cô bạn thắc mắc hỏi sao người ta chưa lo sửa sang lại những nơi này. Người bạn tôi cười bảo: lo gì, cứ làm một cuộc cách mạng, lo cho mọi việc khác xong thì một trăm cái đền đài này xây cũng nổi. Ðó là câu chuyện nhỏ của năm vừa qua, vào khoảng đầu mùa hạ. Bây giờ là mùa xuân của một năm mới. Mùa xuân mà tôi vừa đến tuổi ba mươi.

Tôi đã dự định sẽ tổ chức sinh nhật của mình thật lớn để mừng tuổi khởi đầu cho sự trưởng thành thật sự. Tôi có nói điều đó với mấy đứa em, cả với mẹ tôi nữa. Những đứa em gái có vẻ mừng, nhắc nhở luôn và chờ đợi. Chúng nó hỏi tôi tổ chức như thế nào, dọn ăn ra sao và mời những ai đến. Tôi cũng vẽ ra một không khí thật rực rỡ và bảo thôi chờ đến đó hẵng hay.

Ngày sinh nhật cuối cùng đã đến cùng với mùa xuân. Hàng cây trước nhà đã thay lá xanh nõn. Và tôi, cũng như những đứa em đã quên hẳn ngày sinh nhật đã vẽ ra từ năm ngoái. Hai ngày sau ngày sinh nhật, tôi nhận được một điện tín. Ðó là điện tín của một người con gái dễ thương nhưng không yêu gửi một lời chúc mừng sinh nhật.

Tôi đã bỏ một buổi chiều để nghĩ về ngày sinh của mình cách đây ba mười năm. làm sao còn nhớ được cái ngày khởi đầu cho một đời người xa heo hút như thế. Tôi thử kiểm điểm lại xem mình đã làm được gì. Tôi nhớ năm mười lăm tuổi có lần tôi đã mơ ước được đến tuổi hai mươi để làm người lớn, để được hút thuốc, được tự do đi chơi nơi này nơi nọ, được làm tất cả những gì mà với tuổi 15 tôi chưa có quyền làm.
Như thế mà đã 15 năm nữa. Tuổi mơ ước làm người lớn cũng đã đi qua. Ði qua với một số kỷ niệm buồn vui có khi không còn nhớ rõ.

Thời gian mơ ước được làm người lớn cũng là thời gian của mối tình đầu tiên. Cũng là thời gian đã được yêu và được nhìn người yêu mình đi lấy chồng. Cuộc tình duyên này không cân xứng về tuổi tác nhưng cân xứng về danh vọng và nhan sắc. Ðiều này đã trở thành cổ điển và không gây thêm được một chút ngạc nhiên nào trong xã hội nho nhỏ của thành phố. Tuy thế, riêng tôi là một thất vọng lớn không lường được. Sau đó là những mối tình khác nhưng tôi vẫn khó xoá được mặc cảm (tuy càng ngày càng mỏng dần trong tôi) đối với thành phố này.

Bây giờ tôi đã 30 tuổi.

Ba mươi cây nến không cây nào được đốt lên. Buổi chiều trong căn phòng chỉ còn lại mình tôi, những đứa em gái đã đi học. Một thằng em trai làm ăn ở xa. Một đứa khác đang hành quân trên đỉnh một núi cao mà có lần nó bảo là sương mù quanh năm lạnh lắm. Mẹ tôi thì sang phố từ sau bữa cơm trưa.

Tôi nhớ đến tên những thằng bạn thân, bây giờ mỗi đứa đang ăn, ngủ, nhậu hay hiểm nguy trên những địa thế khác nhau của mặt đất này. Ví dụ lúc này có thằng Tường (*) ở đây thì nó sẽ uống thật cạn một ly rượu và mang cái ly ra dòng sông bên cạnh nhà để vứt xuống. Không hiểu nó đã vứt được bao nhiêu cái ly xuống biển, xuống sông, xuống đèo cho những sinh nhật bạn bè. Ðó cũng là một thói quen làm người khác dễ nhớ đến. Tất cả đều đã phiêu bạt. Như tôi cũng đã phiêu bạt.

Những lần quay về lại với căn nhà này tôi luôn luôn mang cảm giác sự trở về của một đứa con đi hoang. Thời gian trở về bao giờ cũng là thời gian để nằm nghỉ và dưỡng sức. Như một con bệnh mệt mỏi, rã rời...

Trịnh Công Sơn

(*) Hoàng Phủ Ngọc Tường
:idea:

delta
01-25-2008, 10:48 AM
Trịnh Công Sơn Và Những Nốt lặng Của Tình Yêu

Khánh Ly

Tâm Sự

Tôi là gái Bắc, lớn lên ở Sài Gòn, nhưng lạ lùng làm sao, tôi không nhớ Hà Nội bao nhiêu. Không yêu Sài Gòn nhiều lắm. Mà chỉ xót xa đến Huế, Huế nghèo. Thành phố chỉ có vài con đường chính. Huế nóng cháy da, mềm thịt. Huế lạnh buốt, lạnh từ lòng lạnh ra. Dường như Huế chỉ thực sự huyền ảo, đẹp, nên thơ bời những nghệ sĩ khi viết về quê hương của mình. Có lẽ đó là điều dĩ nhiên của mọi người, mọi miền khi viết về nơi mình đã được sinh ra. Âu cũng không phải là điều làm cho ta ngạc nhiên.

Nhưng không phải vì những điều người Huế viết về Huế đã làm tôi yêu Huế. Vì nếu như vậy thì tôi phải yêu Hà Nội nhiều hơn mới có lý. Phải yêu Sài Gòn nhiều hơn, phải yêu Đà Lạt hơn mới phải. Vậy mà tôi yêu, thỉnh thoảng gặp lại một vài người bạn, tôi năn nỉ "mi" "noái" cho tau nghe chút cho đỡ "dớ". Con gái Huế nói như hát, dịu dàng, đi đứng khép nép nhẹ nhàng. Có một cái gì thật mong manh, như tơ, như sương, khói, như một điều không có thật trong con người của các cô gái Huế. Tôi có cảm tưởng họ không phải là sự hiện hữu. Một chút hương khói hư ảo chập chờn. Chỉ một tiếng động khẽ dù là tiếng rơi của một chiếc lá, cũng đủ làm tan biến đi tất cả. Mười ba năm qua, chỉ xin nói cho nghe vài câu cho đỡ nhớ "nhà". Như thế là yêu đấy, nhiều mới khổ chứ.


Dù tôi chỉ biết Huế sau Tết Mậu Thân và không quá 10 lần ghé Huế. Nhưng tôi yêu Huế bởi từ Huế tôi mới biết thế nào là tình yêu. Tôi không muốn nhắc đến, những điều đã được viết quá nhiều về một nơi chốn. Tôi chỉ muốn viết về "Huế của riêng tôi", và như vậy cũng có nnghĩa là mở ra cánh cửa của kỷ niệm, của những hân hoan đau đớn, những ước mơ không thành, những dằn vặt ám ảnh, đeo đuổi tôi trong suốt 13 năm qua . Mười ba năm trước đã không thành, không nói. Thì bây giờ lẽ ra càng không nên nói. Bởi vì dù có thêm 100 năm nữa "Hai mái đầu xanh giờ đã bạc" cũng chẳng còn bao giờ gặp lại nhau. Nếu có chăng nữa, thì cũng là kiếp sau. Nhưng "Tình tưởng đã yên mà tâm còn động vọng". Thì ra 13 năm với tôi vẫn còn là cơn mộng. Chưa thoát ra được. Không thoát ra được. Không muốn thoát ra. Còn cố gắng bao che, tự lừa dối mình. Chỉ là một cơn mộng. Đêm sẽ qua, mộng sẽ tàn. Ta sẽ tỉnh. Thấy tóc vẫn xanh với lời dặn xưa "Qua đèo Hải Vân, nhớ cột tóc, kẻo gió bay nghe em". Mộng đã tàn. Tôi đã tỉnh với đau đớn. Thì thầm một mình "khóc đi chứ". Còn khóc được là biết mình còn sống, còn khóc được là biết Huế còn đó trong trái tim, trong tận cùng đáy sâu thống khổ, khốn cùng của một kiếp người mà hạnh phúc cùng đồng nghĩa với bất hạnh.Tôi vốn là một đước trẻ mồ côi cha. Cha tôi chết trong trại Đầm Đùn sau 4 năm giam hãm. Học hành dở dang, vài năm trường tây, vài năm trường ta. Trường học chẳng dạy tôi điều gì. Gia đình chẳng dạy tôi điều gì. Nên tôi tự dạy tôi ra đời năm 16 tuổi. Đi hát nhưng không bao giờ nghĩ mình lại trở thành ca sĩ. Hát vì thích hát. Điều này tôi hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi ông bố có nhiều nghệ sĩ tính nhưng lại đi theo kháng chiến và chết đau thương trong lao tù. Không có tình thương của cha, không hợp tính với mẹ. Ngoài ý thích được hát, tôi không biết mình phải làm gì. Đời sẽ cho tôi những gì và tôi sẽ có được những gì. Tôi quờ quạng sống lang thang giữa đám bạn bè tốt bụng, nay đứa này cho bịch gạo, mai đứa kia cho nửa chai nước mắm. Nghèo mà vui tôi không buồn vì nỗi bị gia đình hắt hủi, từ bỏ. Tôi như một thằng con trai, giữa đám bạn trai. Tuy không có cái cảnh vườn đào kết nghĩa nhưng cho đến giờ đây, gần 30 năm qua, có đứa đã ra đi mãi mãi, có đứa nửa điên nửa dại, có đứa nhà cao cửa rộng, vợ con đề huề. Thỉnh thoảng gặp lại, tưởng như 30 năm chỉ là một ngày. Cũng tưởng đời sẽ lêu bêu mãi cho đến ngày cuối, nhưng nếu định mệnh là điều có thật, thì điều đó đã đến với tôi một đêm mưa tại Đà Lạt. Dáng người mảnh khảnh, cặp kính trắng tròn, gọng đồi mồi, cặp mắt bồ câu, vầng trán rộng, sống mũi thẳng, nụ cười đẹp, tươi với chiếc răng khểnh, người con trai đó nói với tôi bằng giọng Huế. Dân Đà Lạt, đa số nói tiếng Huế tuy hơi lai, nhưng Sơn là "Huế chay".

Sơn với hai bàn tay gày guộc, những ngón tay dài tài hoa, chắp cho tôi đôi cánh, xỏ vào chân tôi đôi hia bảy dặm. Cô bé lọ lem lột xác. Lột xác để từ một đoạn trường này bước sang một đoạn trường khác.Từ Sơn, tôi đã thành danh, nhưng đó cũng chưa hẳn là điều tôi mong muốn. Tôi có cảm tưởng như vậy. Có phải đời sống là như thế hay sao? Thế là đủ hay sao? Nếu thiếu thì thiếu cái gì và tại sao thiếu? Đời sống tầm thường thế thôi sao? Một đứa trẻ mồ côi, bị gia đình hắt hủi - luôn luôn thèm một mái ấm gia đình, một lời nói ngọt ngào của mẹ, thèm từ một cái áo, một đôi giày. Mà phải là gia đình nghèo khó gì cho cam. Chỉ vì ... đúng là tôi sinh ra dưới một ngôi sao không mấy đẹp. Lúc sống lang thang như một người lãng tử, tôi thường tự hỏi mình nhu cầu gì cho đời sống. Sống trong đời sống mình phải có những gì? Tình, tiền, danh vọng? cho đến lúc nghĩ rằng mình đã có đủ những điều mơ ước, tôi vẫn luôn luôn âm thầm.

Hình như không phải như mình nghĩ. Cuộc sống, đời sống, con người sống trong đời chỉ tầm thường thế sao?Một hôm tôi hỏi Sơn: Sống trong đời sống mình cần phải có gì? làm gì? Sơn cười ngón tay dài khẽ đẩy cái gọng kính đang trễ xuống. Câu trả lời ngắn gọn: Cần có một tấm lòng. Tôi nhìn Sơn: "Một tấm lòng?" ở giữa thế kỷ này, giữa thời gạo châu củi quế, giữa thời giá trị của một con người được đánh giá bởi áo quần, nhà cửa, vòng vàng, hột xoàn...Một tấm lòng để làm gì? Sơn nhìn tôi, ngón tay lại đẩy cao gọng kính. "Sống trong đời, ta luôn luôn phải sống với một tấm lòng, phải có một tấm lòng, dù không để làm gì cả, dù chỉ để... gió cuốn đi.". Tôi nhìn sững Sơn không nhớ bao lâu, nhưng chắc là lâu lắm. Cứ ngồi nhìn anh, nhìn vầng trán mênh mông, cúi xuống thật thấp, ngón tay gầy trên những sợi dây đàn. Chiều xuống lúc nào không hay, gió từ sông Hương thổi mạnh. Hình như trời muốn chuyển mưa. Hình như lòng tôi cũng đang chuyển động dữ dội. Một ánh sáng kỳ lạ nào đó vừa chiếu rọi vào cõi tôi u tối, ngu muội. Hình ảnh con nhỏ bụi đời, lúc hàn vi chợt sừng sững trước mắt tôi. Cái ngõ tối lầy lội đường Phan Thanh Giản, cái nhà sàn cầu sắt Đa Kao. Những buổi chiều nằm trên đồi sân Cù Đà Lạt, khóc một mình. Tất cả chợt sống lại hay đúng hơn, ở một lúc nào đó tôi đã chết rồi. Và chiều nay bên dòng sông Hương êm đềm thơ mộng - vầng trán mênh mộng, giọng nói dịu dàng, ánh mắt thăm thẳm, bao dung, Sơn kéo tôi khỏi cái chết ngu xuẩn. Sông vẫn chảy đời sông, suối vẫn trôi đi đời suối, đời người cũng dễ sống và hãy thả trôi đi những niềm đau.Hai mươi năm qua, tôi sống như lời Sơn nói, như điều Sơn muốn. Còn có ai thấy được hay không, điều đó không cần thiết. Chỉ cần Sơn không thất vọng - điều đó đủ rồi.Những ngày tháng ở Huế, gần Sơn và gia đình. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của đời tôi. Sáng Đông Ba, chiều Vỹ Dạ, tối họp nhau ở Cercle hoặc nhà anh chị Lễ, đàn hát ngâm thơ. Sơn yêu thơ Nguyễn Bính, bắt tôi ngâm đi ngâm lại bốn câu:

"Mà sao giấc ngủ không dài. Mà đêm xuống ngắn mà trời cứ mưa. ở đây tôi sống như thừa. Có đêm men rượu tạm vừa lòng nhau."

Có bao giờ Sơn hiểu rằng, dù rượu có hết mà sầu vẫn không vơi. Sơn ơi, Huế ơi, "Nỗi sầu như tóc bạc, cứ cắt lại dài ra"...

Khánh Ly
:idea:

delta
01-25-2008, 10:51 AM
“Lặng Lẽ Nơi Này” – Viên ngọc quý nằm lặng lẽ trong kho tàng thơ nhạc Trịnh Công Sơn


Một.

Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi
Tình yêu mật đắng, mật đắng trong đời
Tình yêu như biển, biển rộng hai vai, biển rộng hai vai …

Tình yêu như biển, biển hẹp tay người, biển hẹp tay người lạc lối


Em đi về nơi ấy, nơi đâu nơi đâu, sông cạn đá mòn
Trăng treo đầu con sóng, tan theo tan theo, chút tình xa vắng

Làm sao ru được tình vơi?
À ơi, nỗi đau này người

Tình yêu vô tội, để lại cho ai
Buồn như giọt máu, lặng lẽ nơi này
Trời cao đất rộng, một mình tôi đi, một mình tôi đi
Đời như vô tận, một mình tôi về, một mình tôi về … với tôi.
(Trịnh Công Sơn – Lặng Lẽ Nơi Này)

Hai.
Thưởng thức một bức hoạ và thưởng thức một bài nhạc có nhiều điểm tương đồng, và cũng có nhiều điểm dị biệt. Đứng trước một bức hoạ tuyệt đẹp, bạn cảm thấy choáng ngập vì mọi cá tính của bức hoạ hiện ra ngay trước mắt bạn, mọi cảm xúc về bức hoạ ấy trong một khoảnh khắc gây ngay một dấu ấn trong trí óc của bạn. Thưởng thức nhạc thì khác hẳn, người nhạc sĩ không thể nào gây một ấn tượng ở bạn chỉ trong một vài giây, mà bạn phải nghe hết bài mới có thể ít ra cảm nhận được cái hay của nó. Do vậy, nhạc sĩ phải dùng hết mọi vật liệu trong tay: lời ca, ý nhạc, tiết tấu, tưong phản, bố cục, v.v. để tạo dựng bài nhạc nhằm chuyển đạt tâm tình của họ đến bạn. Trong tiểu luận ngắn này, và trong sự giới hạn về ngôn ngữ và hiểu biết của mình, người viết cũng hy vọng sẽ phác hoạ cho bạn đọc một cảm nhận riêng về nhạc phẩm “Lặng Lẽ Nơi Này” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS).

Ba.
Như đã dẫn nhập ở phần trên, thưởng thức nhạc có cái hay riêng của nó. Nghe nhạc, bạn được chính nhạc sĩ dìu dắt bạn theo dòng nhạc, ông bắt ta dừng, ta phải dừng, ông bắt ta đi nhanh, ta phải đi nhanh. Ta không được quyền chọn lựa cách ngắt câu hay đổi chữ. Nghe nhạc với tờ giấy in bài nhạc trước mặt, bạn thấy hiển hiện tất cả những yếu tố đã làm nên thành công hay thất bại của bản nhạc đó. Nghe nhạc, bạn bước đi lại từ đầu với nhạc sĩ, cùng sống lại tâm tưởng hào hùng hay bi thương của nhạc sĩ ngay khi nhạc phẩm chào đời. Phân tích một bài nhạc, do đó, phần nào cũng là đi tìm chủ đề của bài hát, cùng nơi chốn nào đã tạo nguồn hứng khởi cho tác giả, làm cho người ấy không còn cách nào khác hơn là ngồi xuống và ghi chép lại âm hưởng đó, khung cảnh đó, nỗi niềm nhung nhớ khôn nguôi đó.

Bốn.
Bạn hãy cùng tôi tưởng tượng ra một bãi biển nào đó, khi trời đã về khuya và không một bóng người, ngoài nhân vật chính là “ta” trong bài hát. Nhân vật chính của chúng ta hoặc ngồi, hoặc đi dạo lang thang một mình, chỉ có tiếng sóng biển từng cơn, từng cơn đập vào bờ, rồi lại rút về biển cả. Biển mênh mông không cùng, chẳng thấy đâu là bờ. Trời về khuya tối đen, chỉ có ánh trăng ở xa treo trên đầu con sóng, xa đến nỗi tưởng như một ngọn sóng thôi cũng đủ làm nó tan theo với dòng nước, cùng với mối tình đã chết của “ta”. Tôi không có khiếu làm văn sĩ, nhưng tôi hy vọng đã dựng được sơ khởi cái khung cảnh (setting) của bài nhạc này.

Năm.
Như đã tường trình trong tiểu luận “Thử phân tích nhạc phẩm Phôi Pha của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn”, bài hát nào cũng phải có một ý nhạc hay thì mới đủ để người nghe nhớ về nó như một căn cước riêng biệt, không giống các bài khác. Trong bài này, căn cước đó là dòng nhạc có hình dạng răng cưa (zíc zắc), thể hiện qua câu nhạc đầu tiên “Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi”, và các phát triển tiếp theo của ý nhạc trên. Cũng như phần lớn các bài nhạc khác, TCS sử dụng âm giai thứ hoà điệu (harmonic minor) ở cung La thứ. Cũng giống như bài trước, nhạc phẩm được viết theo nhịp ¾, và cũng giống như nhiều bài khác, nhạc phẩm này lặp đi lặp lại nhiều từ (Ouch!). Vậy nhạc phẩm này hay ở chỗ nào???

“Lặng lẽ nơi này” được viết theo thể loại ABA, phân đoạn A (verse A) từ đầu đến “tay người lạc lối”, phần chuyển tiếp B (bridge B) từ “Em” đến “nỗi đau này người”, và phân đoạn A’ (verse A’) là dòng nhạc nhắc lại, nhưng với phần lời khác hẳn so với đoạn A.

Sự lặp đi lặp lại của ca từ có một chủ đích hẳn hoi mà người viết sẽ “bật mí” sau với bạn, còn bây giờ thì ta hãy thử phân tích xem nó lặp đi lặp lại ra sao. Trước tiên là lặp nhau về chữ kép: “mật ngọt” -> “mật ngọt”, “mật đắng” -> “mật đắng”; rồi thì lặp lại về hai câu nhưng với giai điệu câu sau là biến thể câu trước “ Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi” -> “tình yêu mật đắng, mật đắng trong đời”; và sau cùng là một sự lặp lại (có tính toán, tất nhiên :) của hai cặp bốn chữ “biển rộng hai vai” -> “biển rộng hai vai”.

Khác với bài viết trước, trong bài này người viết sẽ đi sâu hơn về mặt ngôn ngữ để qua đó giải thích bố cục của bài nhạc cùng ngôn ngữ âm nhạc đã minh họa rõ nét ý thơ ra sao. Trước hết, TCS đưa ra hai so sánh–định nghĩa về tình yêu: Tình yêu là mật ngọt, và tình yêu cũng đồng thời là mật đắng. Mật ngọt là những khi “uống môi em ngọt”, còn mật đắng thì ảnh hưởng dài hơn nhiều, là nỗi sầu muộn cả đời người! Tại sao vậy, là tại vì “ta” đã định nghĩa “Em” là “tình yêu”. Bạn hỏi tại sao ư? Thì rõ quá rồi còn gì nữa, tác giả nói về biển, mà biển chỉ rộng có hai vai thôi, nếu không phải là “vai em gầy guộc nhỏ” thì “còn ai trồng khoai đất này”???

Vì “Biển” là “Em” nên biển mới có tay, biển chỉ hẹp bằng hai tay thôi, và một khi biển đã buông tay “ta” ra rồi thì “ta” chơi vơi và ta lạc lối, chẳng trách tại sao TCS phải cảm khái những câu khác như “Không còn ai, dường về ôi quá dài, những đêm xa người” …

Sáu.
Về phần nhạc thuật của Đoạn A, ngoài việc sử dụng các từ lặp nhuần nhuyễn như trên, và phần nào dùng cung nhạc lên xuống để mô tả tiếng sóng đập vào bờ rồi lại rút về, điều là mtôi thích thú nhất là cách bố cục câu của ông. Ta thấy từ “Tình yêu mật ngọt” đến “biển rộng hai vai”, cả đoạn nhạc đó có thể coi là hoàn chỉnh, và ta có thể yên chí tạo ra một verse khác cũng dựa trên nền nhạc đó. Nhưng đây là dấu vết (clue) mà tôi đoán rằng TCS đã đặt lời đi trước bản nhạc, do đó ông đã đi thẳng ngay vào “Tình yêu như biển, biển hẹp tay người, lạc lối” So sánh về bố cục đoạn nhạc như vậy để thấy nó toàn hảo trong sự không cân bằng, và sự trở về hợp âm La thứ đã làm cân bằng đoạn đó lại.

Trong hội hoạ, sự mất cân đối này có thể được minh hoạ bằng tác phẩm sau của Gustav Klimt “Cái chết và Sự sống”. Nhìn thoáng qua với sự sống chiếm chỗ nhiều và làm ta tưởng như bức tranh mất cân đối, nhưng thần chết với màu tối hơn nhiều đã làm bức tranh này cân bằng trong sự bất đối xứng (asymmetrical balance.) Cái nhìn soi mói của thần chết đối lại với sự e dè của cô gái như hỏi thầm “Ông gọi tôi ?” đã nối kết hai phần của bức tranh với nhau, còn trong bài nhạc thì TCS đã làm được việc liên kết này bằng cách lặp lại “tình yêu như biển” cũng như phát triển ý nhạc dựa theo ý nhạc chính ở đầu đoạn.



Bảy.
Bây giờ ta hãy bước sang phân tích đoạn B (bridge). Trước hết, nếu để ý kỹ, ta thấy đoạn đầu TCS có chủ đích là không hề nhắc đến chữ “ta” và “em”. Đây là một sáng tạo nghệ thuật đặc trưng thông qua cách hành văn ẩn dụ, và là “trade mark” (nhãn hiệu) của TCS. Liền lạc trong đoạn đầu này là ý tưởng Ta <-> Em <-> Tình Yêu, đan kết với nhau vô hình bằng những so sánh, do vậy nhân vật “em” ở đây đã bàng bạc xuất hiện rồi. Thành thử ra, nếu ai chưa quen với lối viết ẩn dụ này của TCS sẽ cảm thấy ngôn từ của ông có vẻ gì bí hiểm. Nhân tiện đây, người viết cũng xin thú thật là, có lẽ cũng như nhiều người khác, khi ở độ tuổi mới vào đời đã bị lôi cuốn bởi giai điệu của nhạc TCS nhiều hơn là ca từ. Nhưng có lẽ chính phần ca từ mới làm người nghe nghe hoài không chán, với lối nói chung chung (không cụ thể) và đầy tính ẩn dụ, do vậy rất phù hợp với tâm trạng của nhiều người. Ngôn ngữ TCS thật ra vẫn còn rất bí hiểm với người viết, nhưng có lẽ vì vậy mới là cái thú để tạo động lực tìm hiểu thêm.

Trờ lại với chữ “Em”, tác giả đã khéo léo cho chữ em đứng lại một chút (một nhịp rưỡi) để nhấn mạnh chủ thể của câu nhạc, và cũng để làm rõ hơn câu hỏi chất chứa “nơi đâu nơi đâu”. Sở dĩ tôi nói vậy là vì câu “em/đi/về/nơi/ấy” bạn có thể lấy bất kỳ 3 chữ đầu mà phổ nhạc: chẳng hạn “em đi … về nơi ấy”, hay “em đi về … nơi ấy”, nhưng chữ “em” đứng một mình đắt giá hơn. Chữ “em” này cũng khéo léo lồng vào để làm điệp khúc không bị trùng lắp như đoạn 1. Cặp chữ “nơi đâu nơi đâu” được lồng vào rất thích hợp vì nó nhấn mạnh câu hỏi quắt quay của “tôi” về hình bóng em. Vả lại, khi ta nhớ nhung về một người nào đó, ta đâu có nhớ em ở “nơi đâu” một lần thôi, rồi quay sang suy nghĩ chuyện khác? Ta nhớ đi, nhớ lại, nhớ tới, nhớ lui, lăng xăng trong tâm tưởng.

Trong điệp khúc này, “em” đã được ẩn dụ bằng “trăng”, vì nếu so sánh hai câu đầu thì ta thấy rõ ngay là Em = Trăng. (Chẳng phải trong một bài khác, TCS đã bật mí “từ khi em là Nguyệt” rồi sao?) Một lần nữa, với lối hành văn ẩn dụ, người nghe nhạc tha hồ phiêu lãng theo nỗi nhớ riêng của họ về một người tình cũ đã trở thành một phần ký ức của cuộc đời.

Tám.
“Làm sao ru được tình vơi?
À ơi, nỗi đau này người”

Một lần nữa, TCS sử dụng cách đặt câu rất nghệ thuật để kết thúc đoạn B. Trước tiên ông chuyển hoà điệu từ các hợp âm đầy tính cao trào (dominant) như Dm và E7, và chuyển sang các hợp âm bình thản hơn (tonic) là Am và G, rất phù hợp với lời nhạc. Ta tưởng chừng như sẽ đi cho trọn vòng quãng 5 (như trong bài Hello của Lionel Richie), và lời ru “à ơi” cũng đã bắt đầu gióng lên, chuẩn bị tư tưởng cho việc nghe thêm các phát triển khác về ý nhạc, thì TCS “cắt cái rụp” và chuyển nhanh về lại chủ âm la thứ. Chính ở điểm này đã làm cho đoạn Bridge bị mất cân đối, nhưng đã tạo nên được một cảm giác hụt hẫng ở người nghe, minh hoạ cho nỗi đau trống vắng của nhân vật “tôi”.

Chín.
Đoạn 2 của bài hát tiếp tục cho chúng ta thấy những hình ảnh và sự tương phản mà nhân vật “tôi” cảm nhận, như so sánh mình với một giọt máu đã lìa khỏi xác người, hoàn toàn vô dụng. Tiếp theo, TCS đã mô tả những không gian thật rộng lớn, vô tận và tương phản với nó bằng hình ảnh lặp lại của “tôi” bé nhỏ, với những bước chân đơn điệu và cô độc. Cuối cùng, tác giả đưa ra một kết luận tuy bất ngờ những cũng đã có thể thấy trước, đó là “tôi về … với tôi”. Một kết luận đơn giản, cam chịu, và rất hiển nhiên. Sau những sự lặp đi lặp lại của những chữ đôi, cặp đôi, câu nhăc đôi, cái gì cũng có đôi hết, ta thấy cái “tôi”cũng có đôi vậy, là “tôi với tôi”. Bạn tưởng tượng đem hết các từ câu lặp trong bài này về môt phía của bàn cân, rồi bỏ câu “tôi về với tôi” này qua phía kia bàn cân, mới cảm nhận được cái cô độc của nhân vật “tôi”.

Kết.
Người viết cảm ơn đọc giả đã bỏ thì giờ cùng tôi tìm hiểu bài nhạc “Lặng Lẽ Nơi Này”. Tôi cảm thấy trên mạng lưới toàn cầu cũng như trong sách báo, người ta viết về TCS quá nhiều về nghệ thuật ca từ của ông, về nhân sinh quan của ông, thậm chí còn tôn sùng ông là một nhà tư tưởng lớn hay là một thiên tài. Tôi không có định nghĩa riêng về thiên tài, ngoài việc xác nhận Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ có tên tuổi trong làng âm nhạc Việt Nam hậu thế kỷ 20, đã tạo được một “đột phá” (breakthrough) trong cách đặt lời ca, có một số lượng nhạc phẩm được yêu thích rất đáng kể; và chắc chắn nhạc của ông đã có ảnh hưởng rất nhiều đến các nhạc sĩ khác cùng thời cũng như các thế hệ nhạc sĩ sau này. Tôi cũng cảm thấy bàn chung về ca từ và nhân sinh quan của ông, dầu rất bổ ích, nếu có quá nhiều bài vở tương tự như vậy sẽ dễ trở thành nhàm chán – biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Trịnh Công Sơn trước tiên và trên hết là một nhạc sĩ, và không có gì thiết thực hơn là đánh giá từng nhạc phẩm của ông, từng bài, từng bài, một cách cặn kẽ để có thể cùng người đọc nhận ra công phu căn bản cùng tài năng sáng tạo trong nhạc thuật của ông. Một nhạc phẩm hay không nhất thiết phải có những biến đổi âm giai hay những hành âm phức tạp cầu kỳ. Nều viết nhạc với lời ca phụ họa, thì bản nhạc phải nâng ca từ lên, và ca từ cũng phải làm cho hành âm hoặc trơn tru, hoặc gãy cạnh tương xứng. Tôi tin TCS đã làm được việc này. Tôi xin phép lập lại ý trong bài viết trước là để đạt được sự đơn giản như trong “Lặng Lẽ Nơi Này”, TCS cũng phải mang nặng đẻ đau chứ cũng chẳng phải “lấy nó dễ như từ trong túi” như nhiều người đã lầm tưởng.

Sau cùng, người viết hy vọng sẽ có nhiều người khác cũng viết lên những cảm nhận riêng về từng bài ca của TCS, để chúng ta cùng nhau chia xẻ những thành công về nhạc thuật của ông.

California 5/2005
Học Trò
:alert:

delta
01-25-2008, 10:54 AM
http://i214.photobucket.com/albums/cc72/delta38_1/tcsonlangle.jpg

Danh Sách Nhạc Trịnh Công Sơn

Bài Ca Dành Cho Những Xác Người (Tiếng hát Khánh Ly 1 - Gia Tài Của Mẹ / ấn hành trước 1975)
Bà Mẹ Ô Lý
Bài Ca Đường Tàu Thống Nhất
Bay Đi Thầm Lặng
Bên đời hiu quạnh (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Bến Sông
Biển Nghìn Thu Ở Lại
Biển Nhớ (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Biển Sáng (viết chung với Phạm Trọng Cầu)
Biết Đâu Nguồn Cội (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Bốn Mùa Thay Lá (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Bống Bồng Ơi! (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Bống Không Là Bống (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Buồn Từng Phút Giây (Tiếng hát Khánh Ly 9 - Buồn từng phút giây / ấn hành trước 1975)
Ca Dao Mẹ (tập nhạc Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận)
Cát Bụi (tập nhạc Cỏ Xót Xa Đưa)
Cánh Đồng Hoà Bình (tập nhạc Kinh Việt Nam 1968)
Cánh Chim Cô Đơn
Chỉ Có Ta Trong Cuộc Đời (Tiếng hát Thiên Phượng - Trở Về Mái Nhà Xưa - PDC 2000)
Chiếc Lá Thu Phai (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Chiều Một Mình (Tiếng hát Khánh Ly 5 - Lời Ru Đêm / ấn hành trước 1975)
Chiều Một Mình Qua Phố
Chiều Trên Quê Hương Tôi
Chìm Dưới Cơn Mưa (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Chính Chúng Ta Phải Nói (tập nhạc Ta Phải Thấy Mặt Trời 10/1969)
Cho Đời Chút Ơn (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Cho Một Người Vừa Nằm Xuống (Tiếng hát Khánh Ly 7 - Nhìn Những Mùa Thu Đi / ấn hành trước 1975)
Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói (tập nhạc Kinh Việt Nam 1968)
Chuyện Đóa Quỳnh Hương (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Chưa Mòn Giấc Mơ (tập nhạc Ta Phải Thấy Mặt Trời 9/1969)
Chưa Mất Niềm Tin (Tiếng hát Khánh Ly 5 - Lời Ru Đêm / ấn hành trước 1975)
Có Một Dòng Sông Đã Qua Đời (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)

Có Một Lần Không Còn Bóng Dáng Con Người(tập nhạc Phụ Khúc Da Vàng 1972) - (theo Đặng Tiến - Văn Học số 186&187 - 2001)
Có Một Ngày Như Thế (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Có Nghe Đời Nghiêng (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Có Những Con Đường (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Cỏ Xót Xa Đưa (tập nhạc Cỏ Xót Xa Đưa)
Cõi Tạm
Còn Ai Với Ai (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Còn Có Bao Ngày (tập nhạc Cỏ Xót Xa Đưa)
Còn Mãi Tìm Nhau
Con Mắt Còn Lại (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Còn Thấy Mặt Người(tập nhạc Cỏ Xót Xa Đưa)
Còn Tuổi Nào Cho Em (tập nhạc Tình Khúc Trịnh Công Sơn)
Cúi Xuống Thật Gần (tập nhạc Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận)
Cũng Sẽ Chìm Trôi (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu ( thơ Trịnh Cung) (tập nhạc Tình Khúc Trịnh Công Sơn)
Dã Tràng Ca
Dân Ta Vẫn Sống (tập nhạc Kinh Việt Nam 1968)
Dấu Chân Địa Đàng (tập nhạc Tình Khúc Trịnh Công Sơn)
Diễm Xưa (tập nhạc Tình Khúc Trịnh Công Sơn)
Du Mục (tập nhạc Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận)
Dựng Lại Người, Dựng Lại Nhà (tập nhạc Kinh Việt Nam 1968)
Đại Bác Ru Đêm (Tiếng hát Khánh Ly 1 - Gia Tài Của Mẹ / ấn hành trước 1975)
Để Gió Cuốn Đi (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Đêm Bây Giờ Đêm Mai (Tiếng hát Khánh Ly 1 - Gia Tài Của Mẹ / ấn hành trước 1975)
Đi Mãi Trên Đường (Bản viết tay trong "TCS - người hát rong qua nhiều thế hệ - NXB Trẻ / 2001))
Đi Tìm Quê Hương (Tiếng hát Khánh Ly 9 - Buồn từng phút giây / ấn hành trước 1975)
Đóa hoa Vô Thường (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Đoản Khúc Thu Hà Nội (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Đời Cho Ta Thế (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Đời Gọi Em Biết Bao Lần (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Đợi Có Một Ngày (Tiếng hát Khánh Ly 5 - Lời Ru Đêm / ấn hành trước 1975)
Đôi Mắt Nào Mở Ra (tập nhạc Kinh Việt Nam 1968)
Đồng Dao 2000
Đồng Dao Hoà Bình (tập nhạc Kinh Việt Nam)
Đừng Mong Ai Đừng Nghi Ngại (tập nhạc Ta Phải Thấy Mặt Trời 9/1969)
Đường Xa Vạn Dặm
Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Em Đã Cho Tôi Bầu Trời (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Em Đến Từ Nghìn Xưa (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Em Đi Bỏ Lại Con Đường (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Em Đi Trong Chiều (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Em Hãy Ngủ Đi (tập nhạc Cỏ Xót Xa Đưa)
Em Là Hoa Hồng Nhỏ
Em Ở Nông Trường Em Ra Biên Giới
Gần Như Niềm Tuyệt Vọng (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Ghế Đá Công Viên
Gia Tài Của Mẹ (Tiếng hát Khánh Ly 1 - Gia Tài Của Mẹ / ấn hành trước 1975)
Giọt Lệ Thiên Thu
Gọi Tên Bốn Mùa (tập nhạc Tình Khúc Trịnh Công Sơn)
Góp Lá Mùa Xuân (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Hạ trắng (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Hai Mươi Mùa Nắng Lạ (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Hành Ca (tập nhạc Kinh Việt Nam)
Hành Hương Trên Đồi Cao
Hát Cho Tôi
Hát Trên Những Xác Người (Tiếng hát Khánh Ly 1 - Gia Tài Của Mẹ / ấn hành trước 1975)
Hãy Cố Chờ (Tiếng hát Khánh Ly 5 - Lời Ru Đêm / ấn hành trước 1975)
Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngày
Hãy Đi Cùng Nhau (tập nhạc Kinh Việt Nam 1968)
Hãy Khóc Đi Em (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Hãy Nhìn Lại (Tiếng hát Khánh Ly 5 - Lời Ru Đêm / ấn hành trước 1975)
Hãy Sống Dùm Tôi (Tiếng hát Khánh Ly 1 - Gia Tài Của Mẹ / ấn hành trước 1975)
Hãy Yêu Nhau Đi (tập nhạc Cỏ Xót Xa Đưa)
Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngày (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Hoa Vàng Mấy Độ (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Hoa Xuân Ca
Hôm nay Tôi Nghe (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Huế Sài Gòn Hà Nội (tập nhạc Ta Phải Thấy Mặt Trời 9/1969)
Huyền Thoại Mẹ
Im Lặng Thở Dài
Khói Trời Mênh Mông (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Kinh Việt Nam
Lại Gần Với Nhau (tập nhạc Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận)
Lặng Lẽ Nơi Này (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Lời Buồn Thánh (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Lời Của Dòng Sông (tập nhạc Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận)
Lời Mẹ Ru (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Lời Ở Phố Về (Tiếng hát Khánh Ly 4 - Lời Mẹ Ru / ấn hành trước 1975)
Lời Ru Đêm (Tiếng hát Khánh Ly 5 - Lời Ru Đêm / ấn hành trước 1975)
Lời Thiên Thu Gọi (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Mẹ Bỏ Con Đi
Mẹ Của Anh
Mẹ Đi Vắng (thơ Nguyễn Quang Dũng - 1982) NEW!
Môi Hồng Đào (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Một Cõi Đi Về (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Một Lần Thoáng Có (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Một Ngày Như Mọi Ngày (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Một Sáng Mùa Xuân (Tiếng hát Khánh Ly 9 - Buồn từng phút giây / ấn hành trước 1975)
Một Ngày Vinh Quang
Một Ngày tuyệt Vọng (tập Phụ Khúc Da Vàng 1972, theo Đặng Tiến)
Mùa Áo Quan(tập nhạc Phụ Khúc Da Vàng 1972) - (theo Đặng Tiến - Văn Học số 186&187 - 2001)
Mùa Phục Hồi (Tiếng hát Khánh Ly 5 - Lời Ru Đêm / ấn hành trước 1975)
Mưa Hồng (tập nhạc Tình Khúc Trịnh Công Sơn)
Mưa Mùa Hạ (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Muôn Trùng Biển Ơi
Nắng Thủy Tinh (tập nhạc Tình Khúc Trịnh Công Sơn)
Này Em Có Nhớ (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Nhân danh ai anh bắn vào người (?)NEW
Ngẫu nhiên (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Ngày Dài Trên Quê Hương (Tiếng hát Khánh Ly 1 - Gia Tài Của Mẹ / ấn hành trước 1975)
Ngày Nay Không Còn Bé (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Ngày Mai Đây Bình Yên (tập nhạc Kinh Việt Nam 1968)
Ngày Về (Tiếng hát Khánh Ly 5 - Lời Ru Đêm / ấn hành trước 1975)
Nghe Những Tàn Phai (tập nhạc Cỏ Xót Xa Đưa)
Nghe Tiếng Muôn Trùng (tập nhạc Cỏ Xót Xa Đưa)
Ngủ Đi Con (Tiếng hát Khánh Ly 9 - Buồn từng phút giây / ấn hành trước 1975)
Ngụ Ngôn Mùa Đông (Tiếng hát Khánh Ly 1 - Gia Tài Của Mẹ / ấn hành trước 1975)
Người Con Gái Việt Nam Da Vàng (Tiếng hát Khánh Ly 1 - Gia Tài Của Mẹ / ấn hành trước 1975)
Người Đi Hành Hương (Tiếng hát Khánh Ly - Hát Cho Quê Hương Việt Nam 2 / ấn hành trước 1975)
Người Về Bỗng Nhớ (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Người Già Em Bé (tập nhạc Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận)
Nguyệt Ca (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Nhìn Những Mùa Thu Đi (tập nhạc Tình Khúc Trịnh Công Sơn)
Nhớ Mùa Thu Hà Nội (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Như Cánh Vạc Bay (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Như Chim Ưu Phiền (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Như Tiếng Thở Dài (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Như Một Lời Chia Tay (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Như Một Vết Thương (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Như Sóng Triền Miên (theo anh Chilli)
Nhưng Hôm Nay (Tuyển tập Ca Khúc Da Vàng )
Những Con Mắt Trần Gian (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Những Ai Còn Là Việt Nam (tập nhạc Ta Phải Thấy Mặt Trời 9/1969)
Những Giọt Máu Trổ Bông (tập nhạc Ta Phải Thấy Mặt Trời 9/1969)
Níu Tay Nghìn Trùng (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Nối Vòng Tay Lớn (tập nhạc Kinh Việt Nam 1968)
Nước Mắt Cho Quê Hương (tập nhạc Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận)
Ở Trọ (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Phôi Pha (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Phúc Âm Buồn (tập nhạc Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận)
Quê Hương Đau Nặng (Tiếng hát Khánh Ly 9 - Buồn từng phút giây / ấn hành trước 1975)
Quỳnh Hương (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Ra Chợ Ngày Thống Nhất
Ra Đồng Giữa Ngọ (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Rơi Lệ Ru Người
Rồi Như Đá Ngây Ngô (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Ru Đời Đã Mất (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Ru Đời Đi Nhé! (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Ru Em (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng (tập nhạc Tình Khúc Trịnh Công Sơn)
Ru Ta Ngậm Ngùi (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Ru Tình (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Rừng Cây Trút Lá
Rừng Xưa Đã Khép (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Rừng Xanh Xanh Mãi (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Sao Mắt Mẹ Chưa Vui (tập nhạc Kinh Việt Nam 1968)
Sẽ Còn Ai (Tiếng hát Khánh Ly 4 - Lời Mẹ Ru / ấn hành trước 1975)
Sóng Về Đâu? (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Ta Đi Dựng Cờ (tập nhạc Ta Phải Thấy Mặt Trời 9/1969)
Tạ Ơn (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Ta Phải Thấy Mặt Trời (tập nhạc Ta Phải Thấy Mặt Trời 9/1969)
Ta Quyết Phải Sống (tập nhạc Ta Phải Thấy Mặt Trời 9/1969)
Ta Thấy Gì Đêm Nay (tập nhạc Kinh Việt Nam 1968)
Tặng người Mẹ già đã gặp trong đoàn người từ Quảng Trị về Huế(tập nhạc Phụ Khúc Da Vàng 1972) - (theo Đặng Tiến - Văn Học số 186&187 - 2001)
Tặng Những THành Phố Việt Nam(tập nhạc Phụ Khúc Da Vàng 1972) - (theo Đặng Tiến - Văn Học số 186&187 - 2001)
Thành Phố mùa Xuân (Sài Gòn Mùa Xuân) (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Thuở Bống Là Người
Thương Một Người (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Tiến Thoái Lưỡng Nan
Tiếng Hát Dạ Lan (Tiếng hát Khánh Ly - Hát Cho Quê Hương Việt Nam 2 / ấn hành trước 1975)
Tình Ca Người Mất Trí
Tình Nhớ (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Tình Khúc Ơ-Bai (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Tình Sầu (tập nhạc Tình Khúc Trịnh Công Sơn)
Tình Xa (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Tình Xót Xa Vừa (tập nhạc Như Cánh Vạc Bay)
Tình Yêu Tìm Thấy (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Tôi Biết Tôi Yêu
Tôi Đã Mất (Tiếng hát Khánh Ly 5 - Lời Ru Đêm / ấn hành trước 1975)
Tôi Đang Lắng Nghe (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Tôi Ru Em Ngủ (tập nhạc Tình Khúc Trịnh Công Sơn)
Tôi Sẽ Đi Thăm (Tiếng hát Khánh Ly 1 - Gia Tài Của Mẹ / ấn hành trước 1975)
Tôi Tìm Tôi
Trong Nỗi Đau Tình Cờ (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Tự Tình Khúc (Tiếng hát Khánh Ly 4 - Lời Mẹ Ru / ấn hành trước 1975)
Từng Ngày Qua (tập nhạc Cỏ Xót Xa Đưa)
Tuổi Đá Buồn (tập nhạc Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận)
Tuổi Đời Mênh Mông (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Tuổi Trẻ Việt Nam (tập nhạc Ta Phải Thấy Mặt Trời 9/1969)
Từng Ngày Qua (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Tưởng Rằng Đã Quên (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Ướt Mi (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Vết Lăn Trầm (tập nhạc Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận)
Vẫn Có Em Bên Đời (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Vẫn Nhớ Cuộc Đời (tập nhạc Cỏ Xót Xa Đưa)
Vàng Phai Trước Ngõ (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Về Giữa Đồng Hoang
Về Trong Suối Nguồn
Về Thăm Mái Trường Xưa(Tự Tình Khúc - Nhạc Hoà Tấu TCS)
Vì Tôi Cần Thấy Em Yêu Đời (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Việt Nam Ơi Hãy Vùng Lên (tập nhạc Ta Phải Thấy Mặt Trời 9/1969)
Vườn Xưa (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Xa Dấu Mặt Trời (tập nhạc Tình Khúc Trịnh Công Sơn)
Xác Ta Xác Thù (tập Phụ Khúc Da Vàng 1972, theo Đặng Tiến)
Xanh Lòng Phai Tàn (Tiếng hát Khánh Ly 4 - Lời Mẹ Ru / ấn hành trước 1975)
Xin Cho Tôi (Tiếng hát Khánh Ly 1 - Gia Tài Của Mẹ / ấn hành trước 1975)
Xin Cho Tôi Nói (tập nhạc Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận)
Xin Mặt Trời Ngủ Yên (tập nhạc Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận)
Xin Trả Nợ Người (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)
Yêu Dấu Tan Theo (Tuyển tập những bài ca không năm tháng)


:alert:

delta
01-25-2008, 11:02 AM
Trò Chơi

Trịnh Công Sơn

....Khi cảm thấy trò chơi cuộc sống có điều gì đó bất ổn thì hãy tìm đến một nơi tịch mịch, khóa kín các cánh cửa lại và giả vờ thả mình vào một cơn đau mộng mị. Cơn đau có thể tùy thích nhưng không thể không đau. Đau đến mịt mù để cái chết có cơ hội đến nhìn ngắm, thử thách số phận của bạn và vào một lúc tưởng chừng như tuyệt vọng nhất, bỗng những cơn gió lành đến từ các thảo nguyên xa xôi mang theo mùi hương cốm, hương bạc hà của những loài hoa dại đánh thức bạn dậy và làm hồi sinh những mùa xuân đang ngủ quên trong các mạch máu của bạn. Đó cũng là thời gian phục sinh của các sinh vật nhỏ bé trong các đầm lầy và là thời tỉnh thức của các bậc thiện giả trên các đỉnh núi cao hay trong các hang động.

... Trong một tháng mà bạn phải đi thăm năm , bảy bệnh nhân cấp cứu nặng, mười cái đám tang và hai mươi cái đám cưới (trong đó có ngày trong cùng một giờ phải tham dự đến 2,3 cái) thì cái tháng quỷ quái đó không còn bày biện ra một cuộc chơi nữa mà đó là một trò địa ngục. Khi một trò chơi biến thành địa ngục thì không có lý do gì nữa để tiếp tục cuộc chơi, hãy rút lui và cao bay xa chạy.

...Có lẽ trong các trò chơi chung thì trò chơi tình bạn là ít gây phiền não nhất. Nó chỉ có thể vui nhiều hoặc vui ít chứ không thể làm nên những đoạn trường. Nhưng nếu vì không may mà trò chơi tình bạn bỗng dưng gây nên thảm trạng thì hãy từ tốn mở rộng lòng bạn thêm một đôi lần nữa và ngẫm nghĩ. Đừng để ngộ nhận réo gọi thêm ngộ nhận. Đừng để những vết ố của lòng tị hiềm di căn trên niềm tin.

Có những ngôi nhà nền móng không vững chắc nên sụp đổ. Những khu vườn gầy guộc vì thiếu phân bón. Đừng làm nặng thên những gì đã quá nặng bởi tâm trí ta sẽ bị nặng thêm dưới gánh nặng ấy. Hãy biết lãng quên và biết để lại đằng sau những gì không thể cùng ta đồng hành về phái trước.

...Có những trò chơi ta chơi suốt đời không biết chán. Ngược lại cũng không ít trò chơi chỉ tham dự một đôi lần đã không còn hứng thú.Trò chơi uống rượu, uống trà một khi đã lao vào thì khó bề rút lui. Uống trà đã trở thành đạo. Trà đạo thì hầu như ai cũng đã có lần nghe nói đến và nó là một trò chơi thanh nhàn cao cấp của những bậc thượng thừa cao niên. Trò chơi uống rượu gần gũi với đời hơn. Nó là người bạn, người tình, nó là niềm vui và cũng là nỗi buồn, nó là lời an ủi, là niềm phấn khích, nó chia sẻ rồi lại bù đắp. Tóm lại, với người biết uống rượu như một trò chơi tao nhã thì nó là tất cả. Uống rượu để thấy yêu đời, yêu người hơn và thậm chí yêu cả những lập lòe đom đóm ma trơi tình phụ.

Nếu biết giữ đúng lời hứa với những cánh đồng lúa mạch, những cánh đồng nho, thì trò chơi uống rượu không bao giờ gây ra những đổ vỡ. Tôi đã đi qua những cánh đồng như thế, rồi bước qua những ngưỡng cửa đưa vào nơi ăn chốn ở của những thùng gỗ sồi cao chất ngất chứa đầy một chất lỏng màu hổ phách và trong mỗi giọt thơm đó đang hình thành mỗi ngày, cả trong mỗi giây phút một sự sống âm thầm, kỳ bí trong bóng tối tĩnh mịch kéo dài hàng mấy trăm năm. Trong mấy trăm năm ấy rượu không ngủ mà rượu thức. Thức và hóa thân. Hóa thân thành một tấm thân mềm mại trong suốt, vàng óng thơm tho.

Khi trò chơi uống rượu không còn mời gọi ta nữa thì ta tạm thở dài và tự nhủ đây không phải là một sự phụ rẫy. Đây chỉ là một cuộc chia tay ngắn hạn và sẽ không bao lâu những giọt rượu thơm tho lại làm đầy những chiếc ly thủy tinh trong những bữa tiệc đời thầm lặng riêng lẻ hay náo nhiệt đầm ấm cùng bạn bè.

...Có một ngàn lẻ một trò chơi, nhưng với tôi trò chơi tình yêu, cuộc sống và rượu là những trò chơi thiết thân và ngọan mục nhất. Những trò chơi ấy đã chọn tôi và tôi đành nhận lấy. Nhận lấy như một chọn lựa đầu tiên và cuối cùng thứ số phận không màu sắc huy hoàng cũng không u ám. Tôi chạy quanh những trò chơi đó như chạy quanh lòng trắc ẩn. Những trò chơi có khi giải thoát tôi, vực tôi dậy từ những vũng tăm tối quỷ quyệt của sự suy tàn, có khi dìm tôi xuống tận cùng sâu thẳm của trầm luân.

Tôi không vỗ tay hoan nghênh đặc biệt một trò chơi nào cả bởi vì tôi muốn giữ được lòng chính trực và sự khoan dung. Trên lối đi đẫn vào cuộc sống tôi vẫn gặp gỡ tình yêu và rượu. Giờ đây tôi đang nói thêm một lời tạm biệt khác. Tạm biệt những ly rượu nồng nàn sớm, trưa, chiều, tối. Cuộc sống tôi đang trần trụi những trò chơi. Cuộc sống trắng. Trò chơi cuộc sống không màu sắc đã buộc tôi tìm lại chính mình, tìm lại một gương mặt mà tôi nghĩ rằng không còn như xưa nữa.

Trịnh Công Sơn

:idea:

delta
01-25-2008, 11:18 AM
http://i214.photobucket.com/albums/cc72/delta38_1/NhuMot.jpg
http://www.freewebtown.com/delta08/NhuMotLoiChiaTay_TCS.wma

Bấm Vào Nghe Nhạc

Download (http://www.freewebtown.com/delta08/NhuMotLoiChiaTay_TCS.wma)
:alert:
Như Một Lời Chia Tay
Sáng Tác: Trịnh Công Sơn
Trình Bày : Trịnh Công Sơn


1. Những hẹn hò từ nay khép lại
Thân nhẹ nhàng như mây
Chút nắng vàng giờ đây cũng vội
Khép lại từng đêm vui

2. Đường quen lối từng sớm chiều mong
Bàn chân xưa qua đây ngại ngần
Làm sao biết từng nỗi đời riêng
Để yêu thêm yêu cho nồng nàn

3. Có nụ hồng ngày xưa rớt lại
Bên cạnh đời tôi đây
Có chút tình thoảng như gió vội
Tôi chợt nhìn ra tôi

~o0o0o~

4. Muốn một lần tạ ơn với đời
Chút mặn nồng cho tôi
Có những lần nằm nghe tiếng cười
Nhưng chỉ là mơ thôi

5. Tình như nắng vội tắt chiều hôm
Tình không xa nhưng không thật gần
Tình như đá hoài nỗi chờ mong
Tình ngu ngơ cho ta muộn phiền

6. Tiếng thì thầm từng đêm nhớ lại
Ngỡ chỉ là cơn say
Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay

( Lập lại đoạn 3 & 6 )


:dizzy1:

delta
02-01-2008, 04:08 PM
Nếu các bạn muốn download nhạc Trịnh Công Sơn, có thể vào cái links nầy,

http://www.vietnhim.com/dongnhim/showthread.php?t=19848