PDA

View Full Version : Bình Ngô ?ại Cáo - Nguyễn Trãi



VietLang
01-17-2005, 01:43 AM
Tác giả: Nguyễn Trãi
Dịch giả: Trần Tr?ng Kim

Tượng mảng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ ?inh, Lê, Lý, Trần, gây n?n độc lập; cùng Hán, ?ư?ng, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cư?ng nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đ?i nào cũng có.

Vậy nên:

Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa ?ô, sông Bạch ?ằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng (10).

Vừa rồi:

Vì h? Hồ chính sự phi?n hà, để trong nước nhân dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược (11), b?n gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ng?n lửa hung tàn, vùi con đ? xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm (12) vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào m?, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc; nheo nhóc thay quan quả điên liên (13). Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng n? v? những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả ngh? canh cửi. ?ộc ác thay ! trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay! Nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào tr?i đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được.

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, th? sống chết cùng quân nghịch tặc. ?au lòng nhức óc, chốc là mư?i mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn tr?c trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi c? nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi duy ác hiếm ngư?i bàn bạc. ?ôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông (14); mấy thủa đợi ch?, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả (15). Thế mà trông ngư?i, ngư?i càng vắng ngắt, vẫn mịt m? như kẻ v?ng dương (16). thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch (17). Phần thì giận hung đồ ngang d?c, phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần; khi Khôi huyện quân không một lữ. Có lẽ tr?i muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma; cho nên ta cố gắng gan b?n, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ng?n c? phất phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ng?t ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi; quân giặc nhi?u, ta ít mà ta được luôn.

D?n hay:

?em đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cư?ng bạo. Trận Bồ ?ằng sấm vang sét dậy, mi?n Trà Lân trúc phá tro baỵ Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Th? mất vía chạy tan; Phương Chính, Lý An tìm đư?ng trốn tránh. ?ánh Tây Kinh phá tan thế giặc, lấy ?ông ?ô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh Ki?u máu chảy thành sông; bến Tụy ?ộng xác đầy ngoại nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng. Lý Lương lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo lư?ng, Mã Anh không đư?ng cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà ngư?i chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ng? đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho ngư?i; tham công một th?i, chẳng b? bày trò dơ duốc. ?ến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên ?ức (18), nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy. Năm đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiếng san; lại năm nay tháng mư?i, Mộc Thạnh tự Vân Nam kéo đến. Ta đã đi?u binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đư?ng lương đạo. Mư?i tám, Liễu Thăng thua ở Chi Lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã Yên. Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong; hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ng?n giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mư?i diệt tặc. Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn. ?ánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đư?ng, Xương Giang, Bình Than máu trôi đ? nước. Gớm ghê thay ! sắc phong vân cũng đổi; thảm đạm thay ! sáng nhật nguyệt phải m?. Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan chưn Cần Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh Câu, nước sông r?n rĩ; thành xương ?an Xá, c? nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang v?, nó đã vẫy đuôi phục tôi; thể lòng tr?i bất sát, ta cũng mở đư?ng hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuy?n, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, v? đến Tàu còn đổ mồ hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, ng? lòng thú phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.

Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt, xã tắc từ đầy vững n?n. Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái. N?n vạn thế xây nên chăn chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nh? tr?i đất tổ tông khôn thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.

Than ôi !

Vẫy vùng một mảng nhung y nên công đại định, phẳng lặng bốn b? thái vũ mở hội vĩnh thanh. Bá cáo xa gần, ng? cùng cho biết.

-------------

(1) Sách "Khâm ?ịnh Thông Giám" chép là núi Chí Linh này ở phủ Trấn ?ịnh, tỉnh Nghệ An, tức là ở vào đất Cam Môn, Cam Cát giáp tỉnh Hà Tĩnh. Nhưng xem kỹ địa đồ thì vua Thái Tổ khởi binh ở Lam Sơn, thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, và lúc ấy vẫn lui tới ở vùng Lạc Thủy, tức là Cẩm Thủy và ở vùng Nga Sơn. Vậy thì núi Chí Linh này không phải ở mi?n Trấn ?ịnh, mà chắc là chỉ ở trong vùng Thanh Hóa mà thôi. Xem như khi ngài thua ở Chí Linh thì chạy v? Lư Sơn ở châu Quan Hóa, thuộc phủ Quảng Hóa thì biết. Vả lại ngày khởi nghĩa từ năm Mậu Tuất (1418) mà mãi đến năm Giáp Thìn (1424) thì ngài mới bàn sự đi đánh mạn Nghệ An, như thết mà nói rằng núi Chí Linh ở phủ Trấn ?ịnh, tức là xứ Ng?c Ma ngày trước, ở phía nam tỉnh Nghệ An bấy gi? thì chắc là lầm.

(2) Lỗi Giang là tên một khúc sông Mã Giang ở vùng trên huyện Cẩm Thủy.

(3) Ông Nguyễn Trãi là cháu ngoại ông Trần Nguyên ?án, bởi vậy ông cùng với Trần Nguyên Hãn có tình thân. Ông Nguyễn Trãi và ông Trần Nguyên Hãn là ngư?i đại công thần nhà Lê, sau đ?u bị giết hại cả.

(4) Vào quãng gần đồn Linh Cảm, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.

(5) Trần Nguyên Hãn, có nơi chép là Trần Hãn, là cháu Trần Nguyên ?án, dòng dõi Trần Quang Khải.

(6) Những tên Ninh Ki?u, Ninh Giang, Ứng Thiên chắc là ở vùng huyện Từ Liêm, huyện Thanh Oai, v? quãng sông Nhuệ Giang và sông ?áy. Mà Ninh Giang có lẽ là khúc sông ?áy ở vào quãng Từ Liêm hay Thanh Oai gì đó.

(7) Tụy ?ộng và Chúc ?ộng ở vào quãng huyện Chương Mỹ, phía đông có sông ?áy, phía tây có con sông con g?i là sông Bùi, chảy vào sông ?áy, chỗ Ngã Ba Thá.

(8) Chắc là một khúc sông ?áy thuộc hạt tỉnh Hà ?ông bây gi?.

(9) Vợ con của quan Bố Chính thì phải 70 quan; vợ con những sinh viên và thổ quan thì 10 quan; còn những con trai, con gái đầy tớ, đứa ở thì 5 quan.

(10) Minh trưng: chứng cớ rõ ràng.

(11) Tứ ngược: Hết sức tàn ngược.

(12) Khoa liễm: Thuế má.

(13) Quan: Ngư?i không vợ; Quả: ngư?i góa chồng; ?iên Liên: những kẻ không có nhà ở, không trông cậy vào đâu được.

(14) Dục đông: ý nói muốn v? lấy ?ông ?ô.

(15) Hư tả: Cỗ xe không bên trái để đợi ngư?i hi?n.

(16) V?ng dương: Trông ra biển không thấy gì.

(17) Chửng nịch: Vớt ngư?i chết đuối.

(18) Vua Tuyên Tông nhà Minh, niên hiệu Tuyên ?ức.

saobang
06-02-2005, 08:31 PM
bài bình ngô đại cáo này hồi trước đi h?c sao bang đã h?c qua cái bản dịch gần như đã thuộc lòng nhưng bản hán việt thì gi? mới thấy hihi đ?c hong hỉu gì hết.

nhomientay
06-24-2005, 12:18 AM
?úng rồi đó. Bài này hồi xưa từng đ?c thô dịch :
Ta đây :
_ Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn hát đội tr?i chung....

?ây là bài cáo viết sau khi đất nước ta thắng quân Minh sau 10 năm trần ai. 1427 thì phải , không biết NMT nhớ đúng không nữa

VietLang
09-25-2005, 01:41 AM
Bình Ngô ?ại Cáo

Cái văn: nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. Duy ngã ?ại-Việt chi quốc, thực vi văn-hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong vực ký thù, Nam Bắc chi phong-tục diệc dị. Tự Triệu ?inh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc, dữ Hán ?ư?ng Tống Nguyên nhi các đế nhất phương. Tuy cư?ng nhược thì hữu bất đồng, nhi hào kiệt thế vị thư?ng phạp.

Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại, nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong. Toa ?ô ký cầm ư Hàm-tử quan, Ô Mã hựu ế ư Bạch-đằng hải. Kê chư vãng cổ, quyết hữu minh trưng.

Khoảnh nhân Hồ-chính chi phi?n-hà, trí-sử nhân-tâm chi oán-bạn. Cuồng-Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân; ngụy đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc. Hân thương-sinh ư ngược-diễm, hảm xích-tử ư h?a-khanh. Khi thiên võng dân, quỷ-kế cái thiên vạn trạng; liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên. Bại nghĩa thương nhân, ki?n khôn ky hồ dục tức; tr?ng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di. Khai kim-trư?ng, tắc mạo lam-chướng nhi phủ sơn đào sa; thái minh-châu, tắc xúc giao-long nhi hoàn yêu thộn hải. Nhiễu dân thiết huy?n lộc chi hãm tịnh, điễn vật chức thúy cầm chi võng la. Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh, quan quả điên-liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở. Tuấn sinh dân chi huyết, dĩ nhuận kiệt-hiệt chi vẫn nha; cực thổ mộc chi công, dĩ sùng công tư chi giải vũ. Châu lý chi chinh dao tr?ng khốn, lư diêm chi trữ trục giai không. Quyết ?ông-hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô; Khánh Nam-sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác. Thần nhân chi sở cộng phẫn, thiên địa chi sở bất dung.

Dư phấn tích Lam-sơn, thê thân hoang dã. Niệm thế-thù khởi khả cộng đái, thệ nghịch-tặc nan dữ câu sinh. Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên, thư?ng đảm ng?a tân giả cái phi nhất nhật. Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao-lược chi thư; tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý. ?ồ hồi chi chí, ngộ mỵ bất vong. ?ương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì, chính tặc thế phương trương chi nhật.

Nại dĩ nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh. Bôn tẩu ti?n hậu giả ký phạp kỳ nhân, mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ. ?ặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất-uất nhi dục đông; cố ư đãi hi?n chi xa, thư?ng cấp-cấp dĩ hư tả. Nhiên kỳ đắc nhân chi hiệu, mang nhược v?ng dương; do kỷ chi thành, thậm ư chửng nịch. Phẫn hung-đồ chi vị diệt, niệm quốc-bộ chi tao truân. Linh-sơn chi thực tận kiêm tuần, Khôi-huyện chi chúng vô nhất lữ. Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhâm, cố dư ích lệ chi dĩ tế vu nạn. Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập; đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm. Dĩ nhược chế cư?ng, hoặc công nhân chi bất bị; dĩ quả địch chúng, thư?ng thiết phục dĩ xuất kỳ.

Tốt năng dĩ đại nghĩa nhi thắng hung-tàn, dĩ chi nhân nhi dịch cư?ng-bạo. Bồ-đằng chi đình khu điện xiết, Trà-lân chi trúc phá khôi phi. Sĩ khí dĩ chi ích tăng, quân thanh dĩ chi đại chấn. Trần Trí, Sơn Th?, văn phong nhi trĩ phách; Lý An, Phương Chính, dả tức dĩ thâu sinh. Thừa thắng trư?ng khu, Tây-kinh ký vi ngã hữu; tuyển phong tiến thủ, ?ông-đô tận phục cựu cương. Ninh-ki?u chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý; Tụy-động chi thi tích dã, di xú thiên niên. Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ; Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bộc quyết thi. Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần, Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ. Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong; ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất. Vị bỉ tất dịch tâm nhi cải lự, khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô. Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá h?a ư tha nhân; tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên-hạ. Toại lệnh Tuyên- đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nhụ tướng, dĩ du cứu phần. ?inh-vị cửu nguyệt, Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu-ôn nhi tiến; bản niên bản nguyệt, Mộc Thạnh diệc phân đồ tự Vân-nam nhi lai. Dư ti?n ký tuyển binh tắc hiểm dĩ tồi kỳ phong, dư hậu tái đi?u binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực. Bản nguyệt thập bát nhật, Liễu Thăng vi ngã quân sở công, kế đ?a ư Chi-lăng nhi dã; bản nguyệt nhị thập nhật, Liễu Thăng vi ngã quân sở bại, thân tử ư Mã-yên chi sơn. Nhị thập ngũ nhật, Bảo-định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu; nhị thập bát nhật, thượng-thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

Ngã toại nghinh nhận nhi giải, bỉ tự đảo qua tương công. Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi, kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt. Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ, thân mệnh trảo nha chi thần. Ẩm tượng nhi hà thủy can, ma đao nhi sơn thạch khuyết. Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn, tái cổ nhi điểu tán quân kinh. Quyết hội nghị ư băng đê, chấn cương phong ư cảo diệp. ?ô-đốc Thôi Tụ tất hàng nhi tống khoản, thượng-thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm. Cương-thi tắc Lạng-giang, Lạng-sơn chi đồ; chiến-huyết xích Xương-giang, Bình-than chi thủy. Phong vân vị chi biến sắc, nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

Kỳ Vân-nam binh vi ngã quân sở ách ư Lê-hoa, tự đỗng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá đảm. Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư Cần- trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân. Lãnh-câu chi huyết xử phiêu, giang-thủy vị chi ô yết; ?an-xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng. Lưỡng lộ cứ binh, ký bất tuy?n chủng nhi âu bại; các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng. Tặc thủ thành cầm, bỉ ký điệu ngạ- hổ khất liên chi vỹ; thần vũ bất sát, dư diệc thể Thượng-đế hiếu sinh chi tâm. Tham-tướng Phương Chính, nội-quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách táng. Tổng-binh Vương Thông, tham-chính Mã-Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh. Bỉ ký úy tử tham sinh, nhi tu hiếu hữu thành; dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân đắc tức.

Phi duy kế mưu chi cực kỳ thâm viễn, cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn. Xã-tắc dĩ chi điện an, sơn xuyên dĩ chi cải quán. Ki?n khôn ký bĩ nhi phục thái, nhật nguyệt ký hối nhi phục minh. Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ, vu dĩ tuyết thiên cổ vô-cùng chi sỉ. Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.

Ô-hô! Nhất nhung đại-định, ngật thành vô cạnh chi công; tứ hải vĩnh-thanh, dản bố duy-tân chi cáo. Bá cáo hà nhĩ, hàm sử văn tri.

Bachy
09-28-2005, 09:45 PM
Bình Ngô ?ại Cáo có rất nhi?u bản dịch khác nhau, nhưng bản dịch của Nhà Văn Ngô Tất Tố có một số khác biệt có thể nói là phổ biến nhất vì cách hành, dùng từ đơn giản gần gũi nói chung là bình dân, dễ đ?c, dễ nhớ hơn. Bản dịch này được phổ biến nhi?u hơn và được sử dụng trong Sách Giáo Khoa Văn H?c nên nhi?u ngư?i biết nhi?u v? bản dịch này hơn ::) .

Bình Ngô ?ại Cáo
---- Nguyễn Trãi-----
Thay tr?i hành hóa, hoàng thượng chiếu rằng,
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước ?ại Việt ta từ trước,
Vốn xưng n?n văn hiến đã lâu,
Nước non b? cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, ?inh, Lý, Trần; bao đ?i xây n?n độc lập;
Cùng Hán, ?ư?ng, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt th?i nào cũng có.


Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa ?ô
Sông Bạch ?ằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.


Vưà rồi:
Nhân h? Hồ chính sự phi?n hà
?ể trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
B?n gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ng?n lửa hung tàn
Vùi con đ? xuống dưới hầm tai vạ
Dối tr?i lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất tr?ị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Ngư?i bị ép xuống biển dòng lưng mò ng?c,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây c?,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng n? những nổi phu phen
Tan tác cả ngh? canh cửi.
?ộc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước ?ông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng ngư?i đ?u căm giận,
Tr?i đất chẳng dung tha;


Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội tr?i chung
Căm giặc nước th? không cùng sống
?au lòng nhức óc, chốc đà mư?i mấy năm tr?i
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn tr?c trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi c? nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.


Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm ngư?i bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến v? ?ông,
Cỗ xe cầu hi?n,
Thư?ng chăm chắm còn dành phía tả.


Thế mà:
Trông ngư?i, ngư?i càng vắng bóng,
Mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu ngư?i chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang d?c,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Tr?i thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ng?n c? phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ng?t ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhi?u.


Tr?n hay:
?em đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cư?ng bạ?
Trận Bồ ?ằng sấm vang chớp giật,
Mi?n Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Th? nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, ?ông ?ô đất cũ thu v?.
Ninh Ki?u máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy ?ộng thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
M?t gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành b? mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà ngư?i chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ng? đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một ngư?i,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
?ể cư?i cho tất cả thế gian.


Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên ?ức động binh không ngừng
?ồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
?inh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mư?i,
Mộc Thạnh chia đư?ng từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã đi?u binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đư?ng
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mư?i tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mư?i diệt giặc
Sĩ tốt kén ngư?i hùng hổ
B? tôi ch?n kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Dánh một trận, sạch không kình ngạc
?ánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
?ô đốc Thôi Tụ lê gối dâng t? tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đư?ng
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đ? nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! ?nh nhật nguyệt phải m?.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ng?, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành ?an Xá, thây chất thành núi,
C? nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng tr?i ta mở đư?ng hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuy?n,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
V? đến nước mà vẫn tim đập chân run.
H? đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.


Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững b?n
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở n?n thái bình vững chắc
Âu cũng nh? tr?i đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đ?u hay.

VietLang
09-28-2005, 10:53 PM
Cám ơn ngư?i đẹp NB nhi?u nhé :)

Bản mà VL sưu tầm được là do cụ Trần Tr?ng Kim dịch trong bộ Việt Nam Sử Lược của ông ta.

Bachy
09-30-2005, 04:35 PM
Cám ơn ngư?i đẹp NB nhi?u nhé :)

Bản mà VL sưu tầm được là do cụ Trần Tr?ng Kim dịch trong bộ Việt Nam Sử Lược của ông ta.

du quẹo cằm VL ;-)
Tìm được cả bản chữ Hán của BNDC, VL cũng dày công dữ ha :)