PDA

View Full Version : TRUYỆN



Pages : [1] 2 3 4

Nhím Hoàng Kim
06-17-2007, 12:00 PM
Thiền Sư Và Năm Trăm Con Hạc


Xưa kia , có một nhà sư kia tu hành rất tinh tấn . Ông xuất gia đã nhiều kiếp , nhưng vẫn chưa được liễu thoát sanh tử ! Quý vị có thể xuất gia tu hành , trì giới nghiêm chỉnh và rất có đạo đức ; nhưng nếu không khai ngộ thì nhiều nhất cũng chỉ hy vọng được trở lại làm người xuất gia mà thôi . Thật ra , được như vậy cũng đã là tốt lắm rồi , chỉ sợ có khi làm người xuất gia cũng không được !

Vị sư này luân hồi làm người xuất gia rất nhiều lần như vậy trong suốt năm trăm năm ; mỗi lần ông đều là sư trưởng và đạo hạnh mỗi ngày mỗi cao hơn . Tuy rằng ông chưa khai ngộ , nhưng ông cũng giữ giới nghiêng chỉnh , rất có đạo đức , và rất thành thật . Lần này ông là một vị xuất gia , mỗi lần đi ăn xin hoặc thuyết pháp đều có năm trăm con hạc bay theo sau . Nhiều người thấy vậy rất lấy làm lạ . Có người có thiên nhãn nói rằng những con hạc này là đệ tử của ông kiếp trước . Kiếp đó ông có năm trăm đệ tử , nhưng không giải thoát cho chúng được vì lực lượng của ông không đủ mạnh .

Mỗi lần ông ra ngoài , để nhận cúng dường , dự những bữa tiệc danh dự , hoặc đi thuyết pháp , những người đệ tử này đều muốn đi theo . Họ than thở : "Sư Phụ , ngài thường nói những người xuất gia đều bình đẳng . Vậy mà mỗi lần ra ngoài hưởng thụ , sư phụ ít khi cho chúng con theo".

Thật ra , sư phụ của họ biết rằng họ không có đủ phước báu để nhận sự khen tặng , cúng dường . Vì chỉ là người phàm phu nên họ không hiểu , và chỉ mê mệt với những thú vật chất như vậy . Không còn cách nào khác , mỗi khi ra ngoài ông đành phải mang theo họ . Sau này , năm trăm đệ tử đó vãng sanh , họ không thể đầu thai thành người xuất gia nữa mà thành chim hạc ! Chỉ có ông thầy đó mới trở lại làm người xuất gia mà thôi . Thành ra , mỗi lần ông đi ra ngoài đều có đều có năm trăm con hạc , tức là năm trăm người đệ tử ngày xưa bay theo , chỉ vì duyên thầy trò kiếp trước .

Ông thể tự giải thoát cho chính mình , đương nhiên cũng không thể giải thoát cho đệ tử . Họ phải tự mình gánh nghiệp chướng . Nếu minh sư của quý vị có lực lượng rất mạnh , thì người đó có thể gánh bớt những nghiệp chướng nhỏ mà quý vị đã gây nên . Đó là lý do tạo sao quý vị cần phải có Minh Sư !

Nhím Hoàng Kim
06-27-2007, 02:51 PM
Chuyện Hai Củ Khoai


Hôm nay tôi muốn kể cho quý vị nghe một câu chuyện hay , cho thấy phục tùng Thầy hoặc Minh Sư của mình khó tới cỡ nào . Làm Minh Sư rất khó . Kiếm được Minh Sư càng khó hơn . Tin tưởng , phục tùng Minh Sư lại càng khó hơn như vậy nữa . Câu chuyện xảy ra như thế này .

Có một vị Minh Sư nọ rất là hoàn mỹ , một người vĩ đại nhất , nhưng không giống như "Minh Sư" mà chúng ta tưởng tượng . Có khi ông ta la lối học trò , (cười). Có khi lại đem một , hai người ra đánh đập nữa ; chuyện cũng tương tự như là câu chuyện của một thiền sinh Tây Tạng rất giỏi tên là Milarepa và người thầy của ông . Minh Sư này làm đủ thứ điều mà chúng ta cho rằng một vị Minh Sư không bao giờ nên làm . Thí dụ như , nếu chúng ta đến nói với ông ta rằng : "Minh Sư không bao giờ nóng giận" là ông ta sẽ trở nên rất là giận dữ !

Chúng ta có điên khùng thì mới có thể làm minh sư được (cười). Nếu chúng ta chỉ là người bình thường thì không thể nào làm minh sư được , bởi vì ở thế giới này cái gì cũng ngược ngạo cả . Cái tốt chúng ta nghĩ là xấu . Cái xấu thì chúng ta ca tụng và nghĩ là tốt . Chỉ đến khi nào quý vị hoàn toàn khai ngộ thì quý vị mới có thể thấy được khía cạnh khôi hài của mọi thứ trên đời này . Lúc đó quý vị có thể điên , điên một cách sung sướng , điên một cách quân bình .

Một hôm , vị minh sư "điên" này bảo một vị đệ tử cầm hai củ khoai đi ăn . Ông nhấn mạnh mấy lần rằng người đó phải ăn hai củ khoai ; ăn hết cxar hai củ . Rồi như chưa được yên lòng , ông gọi người đệ tử đó đến dặn thêm một lần nữa : "Ngươi phải ăn hết cả hai củ khoai , có hiểu không ?"

Người đệ tử đó nhận hai củ khoai từ tay thầy , đem ra ngoài đường ngồi xuống , và bắt đầu ăn . Chỉ ăn hai củ khoai thôi thì dễ mà , đúng không ? Quý vị sẽ nghĩ rằng bài khảo này đâu có gì là khó . ai cũng có thể ăn được hai củ khoai , có phải không ? Cho nên anh ta vừa ăn vừa tự hỏi : "Sư Phụ lại muốn gì đây ?"

Anh ta cứ phân vân như vậy , nhưng vì đã theo học với thầy lâu năm , anh biết thầy mình nói cái gì cũng có lý do và anh phải nghe lời . thế là anh ngồi đó ăn . Ăn hết một củ , anh bắt đầu bóc củ thứ hai . Lúc đó thì có một người ăn mày tới , có vẻ đói thảm như là sắp chết vậy , nói với anh rằng : "Làm ơn , làm phước cho tôi củ khoai đó , anh đã ăn một củ rồi , còn tôi mấy hôm rày không có gì để ăn cả . Nếu anh không cho , chắc tôi chết mất !"

Bây giờ phải làm sao đây ? Anh tự hỏi . Nên nghe theo lời thầy dặn , hay xử sự theo lòng từ bi ? Vì thầy đã nhấn mạnh là anh phải ăn cả hai củ khoai và nếu theo đúng lẽ thì anh không bao giờ nên trái lời thầy . Mặt khác , đối với một người đang đói mà không cho họ đồ ăn thì thật là quá tàn nhẫn . anh ngồi đó , nghĩ qua nghĩ lại giữa thầy và người ăn mày . Lúc đó người ăn mày khóc lóc , ngã quỵ xuống đất , như là đói sắp chết vậy , cho nên người đệ tử lập tức cho ông ta củ khoai còn lại . Rồi anh đi về , và người ăn mày cũng biến mất .

Về tới nhà anh kể lại cho thầy nghe chuyện gì đã xảy ra . Ông thầy hết lời la mắng đệ tử . Ông buồn quá mà la rầy , vì ông thấy tội nghiệp cho đệ tử , chứ không phải vì người đệ tử không vâng lời ông . Củ khoai thứ hai được gia trì với sự khai ngộ tối cao , khai ngộ hoàn toàn ; còn củ khoai thứ nhất được gia trì với sự giàu sang phú quý , thành công và danh vọng ở đời . Ông nói : "Ngươi ngu quá !" rồi thở dài : "Chắc đó là tại cái số cua ngươi mà thôi , số xấu quá nên không ăn được củ khoai đó !"

Cũng vì sự tình đó mà sau này người đệ tử đó luôn luôn thành công trên đời , được rất nhiều tiền bạc và danh vọng ; nhưng anh ta không thành minh sư được , có nghĩa là không bao giờ đạt được mục đích tối hậu , ngôi vị cao nhất trong vũ trụ .

Hầu hết chúng ta đều như vậy , nghĩ rằng mình có thể lo liệu được mọi việc và biết mọi thứ . Chúng ta nghĩ rằng mình không có ngã chấp . Chúng ta cho rằng đi theo và phục tùng một vị minh sư dễ lắm . Không , không có dễ đâu . Chỉ có việc ăn hai củ khoai thôi cũng đã gặp khó khăn rồi (cười).

Cho nên , đừng mơ mộng làm những việc khó khăn khác , vì chúng ta đã có quá nhiều thành kiến , quá câu nệ , chịu quá nhiều ảnh hưởng của tập quán xã hội và giáo dục nhà trường tích tụ đã hàng ngàn năm rồi . Chúng ta bị nhồi sọ quá nhiều , trong một thời gian ngắn khó mà rửa cho hết được .

Chúng ta luôn luôn cho răng mình biết hết mọi điều phải , trái . Những thành kiến này thật ra có liên quan như thế nào đối với khai ngộ của chúng ta ? Chúng cản lối chúng ta . Mỗi khi minh sư bảo chúng ta làm cái này thì chúng ta lại làm cái kia , vì chúng ta nghĩ rằng : "Không , không . Chuyện này tôi biết mà . Mẹ tôi bảo tôi thế này , thầy giáo trong trường dạy tôi thế kia , ông mục sư nhà thờ dạy tôi thế nọ ".

Chúng ta hoàn toàn làm ngược lại với những gì minh sư muốn chúng ta làm , và minh sư lúc lào cũng phải vất vả với những định kiến của chúng ta . Đa số chúng ta đều mù , điếc và câm . Chỉ có minh sư mới nhìn thấy được rõ ràng . Còn tất cả những người khác chỉ thấy lờ mờ hoặc thấy một nửa hoặc không trông thấy gì cả . Chúng ta tưởng chúng ta thấy , nhưng chúng ta không thấy . Chúng ta nghĩ rằng chúng ta biết , nhưng thật ra là không .

Ảo ảnh của thế giới này rất là mạnh . Việc làm của Ma Vương rất là tuyệt xảo . Nó lừa chúng ta tin vào những cái không nên tin . Chúng ta nghe theo nó một cách rất trung thành , rất nghiêm chỉnh , rất ngoan ngoản , cho tới khi chúng ta được một người đã khai ngộ đến lay tỉnh chúng ta ra khỏi cái ảo ảnh này . Nhưng dù vậy , chúng ta vẫn không tỉnh dậy nhanh chóng được . cũng như buổi sáng , đồng hò báo thức reo lên , nhưng quý vị lại nói : "A ... ồ ..." và nó cứ reng hoài . Rồi quý vị tắc đi và ngủ tiếp .

Vì thế mới có nhiều tôn giáo và nhiều cái gọi là con đường giải thoát . Nhưng chúng ta thấy gì ? Thế giới càng ngày càng đông , nghĩa là không có ai được giải thoát ra khỏi thế giới này , hoặc nếu có cũng rất là ít . Nếu không phải vậy , tại sao nhân số lại không giảm đi ? Nếu nhiều người đã được giải thoát , đã về nhà , thành thiên thần , thành phụ tá của Thương Đế , con cái của Thượng Đế và vĩnh viễn sống trên thiên đàng thì thế giới này đã không còn đông đảo như vậy .

Nhím Hoàng Kim
07-05-2007, 02:41 PM
Tỳ Kheo Khỉ


Hồi xưa , có một người xuất gia bị đầu thai làm khỉ . Thời Đức Phật xuống trần giảng pháp , dạy Chân Lý , nhiều người xuất gia theo Ngài học đạo . Có một số người đã đạt được quả vị A La Hán , nhưng nhiều người xuất gia khác không biết . Có một số người mặt mũi không được đẹp lắm , có khi nhìn có vẽ khôi hài , nên đôi khi bị người trêu chọc ...

Có một người xuất gia nọ rất , rất là nghịch ngợm . Mỗi lần trông thấy một trong những vị xuất gia đi xuống đồi , anh ta nói : "Coi anh giống như là con khỉ chạy xuống đồi vậy !" Vì chế nhạo vị xuất gia đó phải đầu thai làm khỉ .

Cho nên , hãy coi chừng , chớ chê cười những người xuất gia , vì giữa hai chữ "người xuất gia" (monk) và "con khỉ" (monkey) chỉ khác nhau ở hai mẫu tự . Nếu quý vị chê cười những vị xuất gia bình thường thì có thể là không sao . Nhưng nếu người ấy đã đạt đến quả vị A La Hán rồi , thì rất là phiền phức . Quý vị không thể biết được người nào đã thành A La Hán , và người nào đã tu hành tới đẳng cấp cao . Cho nên , phải cẩn thận .

Nhất là những vị xuất gia mà tôi gửi từ Miaoli tới quốc gia quý vị , thể theo lời yêu cầu của quý vị để dạy quý vị về đạo pháp ; quý vị nên cẩn thận đừng nên chê cười họ , và cũng đừng quyến rũ họ về thể xác . Trong Phật giáo có nói , dụ dỗ đi một vị xuất gia đang tu hành theo một vị Minh Sư là một tội nặng vô cùng .

Nhím Hoàng Kim
07-29-2007, 09:33 AM
Cố Vấn Con Vẹt

Đây là chuyện của Do Thái tựa đề "cố vấn con vẹt". Hồi xưa có một con chim vẹt sống trong cung điện . Nó là một con vẹt rất khác thường , được gọi là có "giòng máu hoàng tộc". Con vẹt này thật lộng lẫy , đẹo vô cùng ... Chủ của nó là một vị công chúa và nàng thương yêu nó lắm . Hai bên rất là hòa thuận với nhau , vì con chim này không những đẹp , trang nhã , mà còn biết rành về phép xã giao . Nó uống trà như vầy , một dáng cách rất là lịch sự . Nó có dáng đi quý phái , đôi mông lắc qua , lắc lại , tiến một bước thì lùi sáu bước , vân vân ... Con vẹt này rất thanh lịch . Chúng ta hãy gọi nó là "Nàng Vẹt".

Vì thuộc vào gia đình hoàng tộc , nên nó được trang điểm rất đẹp . Dù nó chỉ là một con vẹt , nhưng vì sống trong cung điện , nên nó đã trở thành một người của hoàng gia . Con vẹt này biết nói , chắc cũng biết niệm năm vị . Nó rất thông minh , và biết cả tiếng người . Cái lồng của nó được làm bằng vàng , trang trí rất lộng lẫy , có chạm kim cương , ngọc trai , san hô ... ồ , rất nhiều loại đá quý !

Mỗi ngày công chúa đều phái người đến hầu hạ con vẹt . Không ngày nào nó thiếu một cái gì cả . Trên đầu nó đội các loại mũ khác nhau , đuôi thì đeo đủ thứ hạt trai ; và đôi cánh thì đơm đầy những hạt ngọc quý . Toàn thân nó sáng lóng lánh . Đến bữa ăn , chà ! Đồ gia trì được giao tới tận lồng , không cần phải đi đâu kiếm .

Nước uống của nó lấy từ suối Dương Minh Sơn , vì nghe nói nước ở đó rất ngon . Hơn nữa , loại nước này không có chất khoáng , rất dịu và tắm rửa rất tốt . Hàng ngày đều có một vị thái giám lên núi lấy nước . Thỉnh thoảng , mỗi tháng vào ngày mồng một hay ngày rằm hay Chúa Nhật , để đổi món , một vị thái giám khác đến Miaoli lấy nước suối Cam Lồ . Con vẹt tự nó cũng rất là sặc sỡ . Lông của nó có chỗ màu xanh lá cây , có chỗ màu xanh dương , rất là sáng láng và bóng bẩy . Nghe nói con chim này rất là thông minh . Nếu Minh Sư chưa gia trì nước Cam Lồ thì nó không chịu uống . Nó đòi thái giám phải niệm tên năm vị trước , niệm nhiều lần để gia trì nước Cam Lồ hay nước ở Dương Minh Sơn , rồi nó mới chịu uống (Cười). Không giống như quý vị ở đây , có khi nuốt xong rồi mới cúng dường Thượng Đế . Không sao , nếu nuốt rồi thì thôi , không cần phải la lớn lên để cúng dường Thượng Đế , cứ cầu Sư Phụ bên trong gia trì cho những thức ăn đó ở trong bụng là được rồi . Lực lượng gia trì đều hiệu quả như nhau . Không hề gì đâu , vỏ bao tử không ngăn cản được sức gia trì , lực lượng đó có thể băng qua cổ họng , xuống đến dạ dày để gia trì đồ ăn trong bụng .

Ồ , bây giờ tới phần thứ hai của câu chuyện . Không lời lẽ nào có thể diễn tả nổi vẻ đẹp và trí huệ của con vẹt này . Mỗi ngày nó biết giữ gìn sắc đẹp để luôn luôn được đẹp . Sắc đẹp này không phải chỉ trong một ngày mà có . Từ khi sinh ra , nó đã được uống nước suối Cam Lồ , ăn thức ăn được gia trì bởi năm hồng danh , và bởi sự cúng dường Thượng Đế , cho nên càng ngày nó càng đẹp hơn .

Ngoài ra , con vẹt này còn tọa thiền ngày hai tiếng rưỡi , ăn chay trường , đến một con sâu nó cũng không ăn . Nếu vô tình ăn phải , nó sẽ ói ra hết cho đến từng cái lông tí xíu của con sâu kia . Từ nhỏ , khi được biết tất cả tổ tiên của nó đều tu pháp Quán Âm , nó đã quyết định ăn chay . Con vẹt tu hành có đẳng cấp khá cao khiến cho công chúa vô cùng thương mến , có lẽ từ trường của nó rất tốt và cái đẹp của nó phát ra từ bên trong .

Một ngày kia , công chúa nghe nói tại một quốc gia xa xôi nào đó có một loại nước hoa rất hiếm mà hoàng cung không có , cho nên nàng sai một viên thái giám đến đó mang về cho nàng . Vị thái giám này là người bạn thân nhất của con chim , vì mỗi ngày ông đều đến hàn huyên với nó . Thông thường làm thái dám trong hoàng cung rất là buồn chán . Họ không thể có bạn gái , như vậy quý vị nghĩ họ sống để làm gì ? Vì thế mà ông ta thường thấy chán ; tiện có có vẹt ở đây , nên mỗi ngày ông đều đến tâm sự với nó cả . Cả hai đối với nhau như là bạn thân vậy .

Trước ngày lên đường , dĩ nhiên ông đến cho con vẹt đến ! Dù đây là một sứ mệnh bí mật , ông cũng không thể dấu diếm người bạn thân nhất của mình trước khi chào tạm biệt . Sayonara ! Khi được biết viên thái giám sắp sửa đi một cuộc hành trình dài , nó dĩ nhiên sẽ thương nhớ rất nhiều . Cho nên cảnh biệt ly của họ cũng khá cảm động .

Dù con vẹt rất quý tình bạn giữa nó và viên thái giám này , nhưng có thứ gì khác lại còn quý hơn nữa ? (Đáp : Công chúa). Tự do ! Cái gì mà công chúa ! Công chúa là người trói cột nó , sao lại quý ? Chỉ có quý vị là quý chuộng Sa Tăng . Thế giới trói buộc quý vị mà quý vị lại thấy quý , quý trọng cuộc đời , quý trọng thân thể này , cứ nghĩ cái thân thể này là to tác lắm , đẹp đẽ lắm , hùng mạnh lắm , vân vân ... Thân thể này là phương tiện trói buộc linh hồn chúng ta lại , khóa cứng nó lại ở chỗ này .

Chúng ta để ý tới thân thể này từ sáng cho tới tối , tô xanh tô đỏ cho nó đẹp ... Thế là chúng ta quên con người thật của chúng ta , quên rằng chúng ta không phải là cái thân thể này .

Con vẹt này quý sự tư do hơn hết , ngày đêm đều nghĩ tới chuyện bay đi . Dù ở đó nó được bôi phấn xanh , phấn đỏ , thoa môi son , điểm trang này nọ , nhưng trong lòng của nó chỉ nghĩ tới việc bay đi . Dĩ nhiên , nó vẫn phải ăn , phải mặc đồ đẹp ; vì sống trong cung thì phải đàng hoàng , lịch sự . Nhưng suốt ngày nó chỉ tập trung ở mắt trí huệ , nghĩ cách thoát thân .

Con vẹt nói với vị thái giám rằng : "À , chúng ta là bạn thân với nhau . Tôi xin nhờ anh một việc . Mong anh đừng có quên".

Viên thái giám trả lời : "Dĩ nhiên là ta sẽ làm bất cứ việc gì cho ngươi". Hai bên thân với nhau lắm mà .

Con vẹt nói : "Trên cuộc hành trình , nếu anh có gặp ai trông giống như tôi . Những con vẹt đó là họ hàng , bè bạn của tôi . Anh phải nói với họ rằng tôi đang bị nhốt ở đây . Tôi đang đau khổ vô cùng và không được tự do . Tất cả đồ ăn ngon ở đây không có nghĩa lý gì đối với tôi cả . Những hạt ngọc trai , đá quý đó đối với tôi chẳng có một chút giá trị gì . Nhờ anh hỏi họ có cách nào để cứu tôi không".

Viên thái giám trả lời : "Được , ta sẽ cố gắng . Ta quyết định sẽ kiếm những con vẹt khác và cho chúng biết ".

Viên thái giám này cũng làm việc trong hoàng cung nên không thiếu một thứ gì ; nhưng ông cũng là một kẻ nô lệ . Vì vậy ông hiểu giá trị của sự tự do , thông cảm với con chim và quyết định giúp nó .

Ông đi kiếm nước hoa cho công chúa được một thời gian lâu thì một hôm , trong lúc đang thưởng ngoạn phong cảnh trên đường , ông trông thấy một đàn vẹt rất đông , rất giống con vẹt của công chúa trong cung . Lúc đó ông nhớ tới lời nó yêu cầu . Ông bèn tới chào hỏi đàn chim và kể cho chúng nghe tình cảnh thảm thương của con vẹt trong cung điện .

Trong số những con vẹt này , có một con chim thầy là chân sư của đàn chim . Nó dạy chúng tu Pháp Môn Quán Âm . Chúng bay đi nhiều nơi để cộng tu mỗi ngày . Ngày hôm đó , chúng đang trên đường đến Miaoli để dự buổi cộng tu lớn . Ồ ! Lúc đó là mùa đông , chắc là chúng đang đi Bình Đông vì Bình Đông ấm hơn . vị chân sư này cũng rất khôn ngoan , có trí huệ cao . Nó đã tu hành hàng trăm , hàng ngàn , hàng triệu ức năm rồi cho nên trông nó rất là lộng lẫy , trầm tĩnh , lóng lánh hào quang màu vàng , và mắt trí huệ mở thật to .

Sau khi nghe hoàn cảnh thương tâm của con vẹt trong cung điện , vị chân sư này lập tức lăn ra chết , như chết thật . nó rơi vào lòng bàn tay của người kia rồi chết , không một dấu hiệu nào cho thấy nó còn sống . Chết , chết ngắt , chết một trăm phần trăm . Viên thái giám lay nó cách mấy nó cũng không tỉnh dậy , nó chết thật sự . Ông cho nó nước , mở miệng nó ra , ráng nhét đồ ăn vô ; nó vẫn không ăn , hoàn toàn chết cứng . Không một cọng lông cử động , không một chân mày hay lông nheo nào di động cả ; nó nằm đó hoàn toàn "kapult".

Viên thái giám thất vọng quá , vì chưa nhận được lời khuyên nào cả . Ông chưa có cơ hội nói chuyện với nó , thì nó đã chết . Thế là ông ném nó xuống vệ đường , rồi bỏ đi . Nhưng vừa ném nó xuống đường , con vẹt lập tức bay lên , tat , tat , tat , la , la , la ! ... Nó bay về phía Bình Đông nhập bọn với đàn chim , đi cộng tu . Ủa , viên thái giám rất lấy làm kinh ngạc ! Ông không hiểu gì cả ! Sao lại có thể như vậy được ? Ông cứ đứng đó sửng sốt một hồi lâu .

Cuối cùng ông trở về cung điện . Không thể cứ đứng mãi ở đó cả ngày được . Con vẹt ở trong cung thấy ông trở về thì rất là sung sướng . Hai bên nắm tay , nắm chân , ôm nhau hôn hít , hàn huyên tâm sự .

Một bên nói : "Ngươi xuống cân".

Bên kia nói : "Ngươi lên cân".

Toàn là những lời xã giao , lịch thiệp ngoài đời , chằng có ý nghĩa gì cả .

Viên thái giám muốn kể cho nó nghe những chuyện hay , chuyện lạ xảy ra trong chuyến đi , nhưng cuối cùng , con vẹt không muốn nghe nữa . "Mấy chuyện này thật là vô bổ , xin đừng kể nữa , anh ăn cái gì , chơi cái gì , đi nghe nhạc ở đâu , nhảy điệu vũ gì , thấy gái đẹp nào ... mấy cái này cũng vô ích thôi , vì anh là thái giám mà , nói chuyện gái đẹp làm chi ? Mấy chuyện này cũng là vô dụng thôi . Anh nhảy đầm với ai không có quan hệ gì tới tôi , tôi không thích nghe ! Thôi , đừng nói những chuyện này nữa ! Anh có gặp bà con nào của tôi không ?"

Ông thái giám trả lời : "Có , có . Tôi có gặp một đàn chim rất đông . Hình như chúng bay đi cộng tu . Con nào con nấy đều có mắt trí huệ thật lớn và thật sáng chói . Tôi vô cùng ngạc nhiên và rất là khâm phục . Chúng oai nghiêm quá , có vẻ như rất nhiều công đức . Quai hàm dưới của chúng trệ xuống , bụng phệ , hai vai chững chạc , bay trên trời như tiên vậy ..."

Con vẹt chừng như càng nghe càng sốt ruột thêm nên mới ngắt ngang : "Tôi đâu có hỏi hình dáng của chúng ! Chúng có nói gì với anh không ? Chúng có chỉ cách nào giúp cho tôi được giải thoát không ?"

Lúc ấy viên thái giám mới nói : "Không , không ! Hình như chúng không biết nói như ngươi . Dù mắt trí huệ chúng mở , nhưng miệng thì không ; chúng không biết nói tiếng người , cho nên không nói gì với tôi cả . Tuy nhiên , vì ngươi hỏi tôi mới nhớ lại một câu chuyện thật là khó hiểu . Sau khi nghe xong chuyện về ngươi thì có một con vẹt bay vào tay của tôi . Tôi chưa kịp mừng gì cả thì nó đã ngả lăn ra chết .

Nó 'giả' chết , nằm đó . Dù tôi lay nó , đút đồ ăn , nước uống bao nhiêu đi nữa , nó cũng không ăn không uống . Tôi cho đồ ăn thơm tho , hiếm có , nó vân không thèm . Nước suối Cam Lồ ở Miaoli ngon lành như vậy , nó vẫn không chịu . Nó không ăn , không uống gì cả , cứ nằm đó giả chết thôi .

Tưởng nó chết rồi , tôi mới ném nó vào bên lề . Tôi vừa ném nó đi , nó lập tức bay lên một cách tự do , bình thản . Lại còn chào tôi nữa chứ . Chào ... Nó nói được khá nhiều ngô ngữ . Mới đầu tôi tưởng nó không nói được , lại tưởng nó chết . Nhưng không phải như vậy . Kỳ ghê ! Tới bây giờ tôi cũng không hiểu nó có ý gì ".

Sau khi nghe xong , con vẹt làm ra vẻ thản nhiên như không có gì làm cho nó xúc động cả : "Tốt , tốt . Cám ơn anh rất nhiều . Tôi cũng thấy kỳ cục . Chuyện này thật là kỳ cục . Sao kỳ vậy cà ?"

Rồi cả hai về chỗ ở của họ . Viên thái giám bận rộn làm việc , còn con vẹt thì bận rộn ăn uống .

Mỗi sáng công chúa đều tới thăm con vẹt , nhưng đến buổi sáng hôm sau thì công chúa tới thăm thì không thấy con vẹt đâu cả mà chỉ có một cái xác chết nằm đó mà thôi . Công chúa giận quá la mắng đầy tớ : "Các ngươi giết nó rồi ! Các ngươi giết nó rồi !". Nhưng công chúa nói sao cũng vô ích . Nàng đành ra lệnh ném con vẹt chết đó đi .

Khi người đầy tớ ném con vẹt ra cửa sổ , viên thái giám mới hiểu ra kế hoạch của con vẹt mà ông đã gặp .

Quý vị có hiểu không ? (Đáp : Giả chết). Giả chết ! Đúng vậy ! Chúng ta cũng phải giả chết đối với thế gian này . Chúng ta biết giá trị của thế giới này . Chúng ta biết thân người rất khó đặng . Nhưng chúng ta không cho Ma Vương biết . Ma Vương là gì ? Đó chính là đầu óc của chúng ta . Nếu đối với thế giới này chúng ta chết đi thì linh hồn chúng ta bắt đầu sống dậy . Vì thế , từ xưa tới nay , minh sư nào theo pháp môn chân chánh cũng dạy chúng ta hãy chết đi đối với thế giới này , nghĩa là đừng bám vào bất cứ cái gì , đừng bám vào thế giới này , như là chết vậy . Có như thế chúng ta mới có thể được tự do .

Thật vậy , nếu từ sáng tới tối , chúng ta đều cảm thấy có trách nhiệm đối với người khác , cảm thấy xấu hổ , phải lịch sự với nhau , phải kề cận với nhau vì sợ người khác buồn lòng hoặc sợ người khác nói chúng ta không tốt , vân vân ... , thì thật sự mà nói , chúng ta đã phí phạm rất nhiều thời giờ ! Hôm nay , chúng ta đến dự sinh nhật của người này ; ngày mai đến chỗ khác để đưa đám ma ; ngày mốt , đến nhà một người khác dự tiệc cưới ; rồi ngày sau nữa đi ra tòa làm nhân chứng ly dị cho họ ; chỉ vì muốn ta tử tế , lịch sự , vân vân ... Nếu cứ như vậy thì làm sao chúng ta còn thì giờ nghĩ gì nữa ?

Hôm nay , chúng ta nhận được cú điện thoại của người này chỉ nói toàn chuyện tầm phào ; hôm sau lại phải trả lời một người khác những chuyện không có ý nghĩa gì cả . Rồi lại còn đọc báo , coi truyền hình - ít nhất cũng coi tin tức , để biết coi ai giết ai . Rồi đến ngày kế lại còn làm gì nữa ? Nếu chúng ta có nhiều họ hàng , chắc là bận đến chết thôi . Vì vậy , muốn có thời giờ để tu hành ở thế giới này quả thật rất là khó ! Nếu chúng ta cứ bị trói buộc như vậy , chúng ta không thể nào thoát ra được . Nếu như không giả chết , thì còn cách nào nữa ? Không , không còn cách nào !

Giả chết là gì ? Chúng ta giả điếc , giả câm . Để họ hiểu lầm , để họ la mắng chúng ta , cũng đâu có ăn nhằm gì . Chúng ta vẫn cần phải có cái giới hạn , phải biết cái gì là cần hơn . Những gì làm được thì làm , những gì không làm được thì đành chịu . Chúng ta phải giả chết : giả bộ không biết phép lịch sự , giả bộ không biết hôm nay là sinh nhật của họ , giả bộ không biết ngày mai là đám ma của họ .

Nếu có thì giờ , nếu đời sống cho phép , thì dĩ nhiên chúng ta lịch sự bao nhiêu cũng được . Nếu đời sống quá bận rộn và chúng ta bị trói cột quá nhiều , thì phải tìm cách bớt nút ra , ít ra cũng thả được hai cái tay ; bằng không , nếu bị cột hết thì làm sao cử động được ? Chúng ta không thể giả bộ chết một trăm phần trăm , nhưng cũng có thể giả bộ tám mươi phần trăm . Tám mươi phần trăm cũng là tự do lắm rồi .

Cũng như con vẹt , nếu nó không giả chết hoàn toàn , nó cũng có thể giả tám mươi phần trăm . Giả bộ bịnh cũng được . Thế nào họ cũng đưa nó đi khám bác sĩ . Nó có thể nghĩ cách bay đi . Nhưng như vậy thì hơi liều lĩnh . Giả chết hoàn toàn thì tốt hơn . Người ta sẽ ném nó đi . Sau đó nó sẽ bay thoát .

Những người tu hành như chúng ta cũng vậy . Trong thế giới này chúng ta không thiếu gì cả , nhưng ta lại cảm thấy không tự do . Cái mà chúng ta khao khát nhất là được giải thoát . Giải thoát là gì ? Ồ ... là không ham muốn , không tham lam ! Đời sống của chúng ta được thảnh thơi , tự tại . Bên trong của chúng ta cảm thấy rất hạnh phúc , bên ngoài vẫn có thể lo liệu cho hoàn cảnh của mình ; được như vậy tức là được hiện đời giải thoát rồi .

Khi chúng ta chết thật , vì đời này chúng ta đã được giải thoát rồi , đời sau chúng ta cũng dược giải thoát . Lúc sinh thời chúng ta không bám víu vào thế giới thì khi chết đi chúng ta còn quyến luyến gì nữa ? Cũng như con vẹt vậy , ở trong lòng nó được đủ thứ cao lương mỹ vị nhưng nó vẫn không muốn ăn , làm sao nó còn có thể quyến luyến được những thứ đó sau khi nó bay thoát đi ? Người tu hành cũng giống như con vẹt này vậy !

Nhím Hoàng Kim
08-12-2007, 09:37 AM
Chuyện Yên Ngựa


Đây là một câu chuyện về cái yên ngựa . Thuở xưa ngựa không có yên . Có lẽ tại sau này người ta tu hành rồi mới nghĩ ra cái yên ngựa .

Có một người tên gọi là Hồ Liêu , là một vị quan rất hung ác , ông ta không lương thiện như chúng ta . Năm sáu mươi hai tuổi ông chết và đi xuống gặp Diêm Vương . Diêm Vương này là người Formosa , hơi kỳ lạ , trên mặt của ông bên trái thì đen , bên phải thì trắng , không biết tại sao (Cười).

Diêm Vương mở sổ có ghi tội ác và phước báu của mỗi người để coi Hồ Liêu lúc sinh tiền đã làm những việc xấu tốt như thế nào . Ông thấy Hồ Liêu đã tạo ra rất nhiều nghiệp chướng và chưa bao giờ bố thí một cái gì cho ai cả , ông ta cũng không chịu đi Hồng Kông biểu tình tranh đấu cho người tị nạn (Cười). Ông không bao giờ cúng dường cho một ngôi chùa nào ; không bao giờ đi nhà thờ ; không bao giờ bố thí cho ăn mày ; không bao giờ đóng góp một xu nào cho hội từ thiện Từ Tế hoặc bất cứ hội từ thiện nào . Hồ Liêu không ăn chay ; ông không ăn thịt vì quá hà tiện , chứ không phải vì muốn thành Phật . Cho nên , tôi đã nói quý vị rằng ăn chay không thể thành Phật được , còn phải tùy thuộc mục đích của việc ăn chay . Ông không ăn thịt vì không muốn tốn tiền mua thịt cho gia đình . Đôi khi thèm quá , ông trốn vo phòng tắm ăn một miếng , ăn xong mới bước ra để cho người khác đừng biết . Ông hà tiện tới cỡ đó . Ông cũng không bao giờ đi nghe Thanh Hải Vô Thượng Sư thuyết pháp (Cười).

Diêm Vương đọc đi đọc lại , thấy không có cách nào cứu vớt ông được , toàn là nghiệp xấu , không một phước báu nào cả . Trong sổ có ghi chép rằng có một lần , có người đề tử của Thanh Hải Vô Thượng Sư tặng cho ông một quyển sách biếu miễn phí ! Nhưng ông không lấy vì nói rằng quyển sách chiếm mất chỗ trong túi ny lông thức ăn của ông (Cười). Ai mà cứu nổi người này ?!

Rồi Diêm Vương nói : "Không tốt ! Thôi dẹp ! Dẹp ! Ta đã ráng hết sức kiếm khắp nơi trong sổ này , mà chỉ thấy toàn là nghiệp xấu . Bây giờ ngươi phải đầu thai làm ngựa để bù lại những việc làm xấu của ngươi trong quá khứ".

Nói xong , Diêm Vương khoa chân , múa tay , rồi đá Hồ Liêu một cái . Ông rớt xuống trần đầu thai làm con ngựa . Con ngựa này mang thẻ có tên , nên người ta biết là Hồ Liêu tái sanh .

Con ngựa Hồ Liêu càng ngày càng lớn , ăn rất nhiều cỏ và rất là thỏa mãn , vì kiếp trước , nó đã không muốn mua thịt , đậu hủ cũng không muốn mua , cho nên chỉ ăn cỏ cũng hài lòng . Nó chẳng bao giờ than phiền về việc ăn cỏ , miễn phí mà ! Làm thân con ngựa mà tính vẫn còn hà tiện . Nó ăn những nhúm cỏ rẻ mạt , hư thối , còn chỗ cỏ tươi thì nó dành dụm đem bán cho những con ngựa khác (Cười).

Khi nó lớn lên , chủ nhân cho nó đi làm công , chở cây , chở dầu ăn , chở gạo và những vật dụng cần thiết trong nhà . Có khi nó phải kéo một chiếc xe chở bốn mươi , năm mươi người thật là mập . Ôi giời ơi ! Nó chịu không nổi . Nhưng nếu không đi , người phu xe sẽ đánh nó . Cho nên nó rất là bực bội , không thể chịu nổi . Hơn nữa , người phu xe đối đãi với nó rất tệ . Hắn đá nó , đối xử với nó rất tàn nhẫn . Khi hắn cỡi ngựa , vì lưng ngựa không có yên cho nên nó cảm thấy thật đau đớn và khó chịu .

Con ngựa này kiếp trước vừa mới làm người , nên hãy còn tính người , không giống ngựa . Cho nên nó rất buồn bực , chua xót và cuối cùng nhịn đói đình công ! Nó bỏ ăn uống ba , bốn ngày rồi chết . Một số đệ tử Thanh Hải Vô Thượng Sư thấy nó tội nghiệp quá , đến tụng kinh , hát bài Halle-lujah cầu nguyện cho nó . Tuy nhiên , vì nghiệp nó còn quá nặng nên phải xuống gặp Diêm Vương .

Diêm Vương giận quá , la nó một trận tơi bời : "Ngươi tính chạy trốn nghiệp chướng hay sao ? Chạy được không ? Không , không thể được ! Ta nói cho ngươi hay , ta bảo ngươi làm ngựa , ngươi phải làm ngựa ; ta bảo ngươi làm chó , ngươi phải làm chó . Ngươi không thể trốn được . Ngươi có thể biết rằng trừ khi ngươi thanh toán xong hết nghiệp chướng , bằng không ngươi chạy đâu cũng không thể thoát được hay không ?"

Diêm Vương mắng nhiếc tới nỗi đỏ mặt tía tai : "Đồ bịp bợm ! Thời điểm của ngươi còn chưa tới , nghiêp chướng của ngươi còn chưa trả xong , lại cố tình nhịn đói đến chết . Đúng là đồ bịp bợm !" Nói tới đó , Diêm Vương biến nó thành một con chó . Ông khoa tay từ đầu xuống chân , rồi đá nó một cái . Thế là nó rơi vào bụng của một con chó mẹ và sinh ra đời .

Bây giờ tuy Hồ Liêu làm phận chó , nhưng vẫn còn một vài tính nết và trí khôn của con người . Nó cảm thấy vô cùng buồn bã , vô cùng bực tức , vô cùng khổ tâm , vô cùng lo lắng , rất là chán chường , rất là yếu đuối , rất là bất lực , và rất là áo não ( chữ "áo não" trong tiếng Trung Hoa được phát âm là "ủ lẻo" hay "hủ leo", đồng thanh với tên Hồ Liêu). (Sư Phụ và mọi người cười). Nhưng nó không dám tự sát nữa , vì nó biết Diêm Vương sẽ trừng phạt nặng hơn .

Nó cứ suy nghĩ mãi : "Bây giờ ta không thể nhịn đói được . Đồ ăn chó khó nuốt quá , nhưng ta vẫn phải ăn . Nếu không , không biết Diêm Vương sẽ trừng trị ta tới mức nào nữa !"

Nó nghĩ qua , nghĩ lại , nghĩ theo kiểu chó . Bỗng nhiên nó tỉnh ngộ và tự nhủ : "Bây giờ , nếu ta cắn ông chủ một cái thật đau , thế nào ổng cũng đánh ta chết ! Ha ! (Sư Phụ và mọi người cười) Như vậy ta sẽ được chết mà không phải tự vận !"

Nghĩ được ra kế này , nó lập tức làm ngay . Nó niệm kinh gì đó : "Da , da , da , da ..." để siêu độ cho mình trong khi đợi ông chủ về . Sau khi hút sách , rượu chè xong xuôi , ông chủ nó về tới nhà . Con chó vẫy đuôi rồi nhào tới cắn ông chủ mấy cái từ đàng sau ra đàng trước . Ông chủ đau quá , vừa say vừa giận , lấy gậy lớn đánh nó một cái . Con chó chết tiêu , kaputt !

Nó lại trở xuống địa ngục nữa . Diêm Vương tức quá , dĩ nhiên là la nó một trận nữa : "Mày là đồ chó hư ! Dám lừa bịp ta nữa ! Bây giờ , hừm ! Mày sẽ bị đánh năm roi trước đã".

Sau khi bị đánh xong , nó lại phải đầu thai làm một con rắn . Ôi ! Lúc trước làm chó còn đỡ , nhưng bây giờ làm rắn thì thật là khổ . Càng trốn càng bị phạt nặng nề . Sau khi biến nó thành rắn rồi , Diêm Vương ném nó vào một cái hầm tối , khóa lại , xem nó còn đi đâu nổi . Tuy nhiên , nó vẫn đào được cái lỗ chui ra . Bây giờ nó không còn dám tự vận hoặc cắn người khác , biết rằng làm vậy chỉ thêm tội mà thôi . nó suy nghĩ qua , suy nghĩ lại bằng cái đầu rắn , cuối cùng quyết định bò ra giữa đường , nằm ngủ (Sư Phụ và mọi người cười) . Tên này thật là nhiều ý kiến , ngủ giữa đường ban đêm ! Hồi xưa ngoài đường không có đèn , cho nên , khi có một chiếc xe chạy qua , nó bị cán ra làm mấy khúc và được giải thoát !

Thấy cảnh tượng đáng thương , Diêm Vương quyết định phạt như vậy đủ rồi . Cuối cùng nó đã thành công ! Diêm Vương thấy thương cho sự đau đớn và khổ sở của nó cho nên không đành lòng phạt nữa . A ! Diêm Vương cuối cùng cũng từ bi đấy chứ hả ! Chắc có tu Pháp Môn Quán Âm đây , vì mới tu nửa chừng cho nên khuôn mặt nửa trắng (cười) nửa đen ! Cho nên hồ Liêu được tha thứ và cho phép đầu thai làm người .

Đầu thai xuống lần này , nó lại được làm quan một lần nữa . Nhưng Diêm Vương dặn nó là phải dùng đạo đức và trí huệ để trị dân , không được tham lam hoặc tham nhũng ; không được hung ác hại người . "Nếu không", Diêm Vương cảnh cáo "ta nhất định sẽ không tha ! Ngoài ra nhà ngươi còn phải giữ năm giới nữa".

Diêm Vương còn dặn nó đi kiếm Thanh Hải Vô Thượng Sư thọ tâm ấn (Vỗ tay). Nói giỡn thôi ! Những người này muốn độ khó lắm . Tốt nhất là họ đừng có tới (Sư Phụ cười).

Nhưng sau đó quả thật ông đến kiếm Ngài . Ngài dạy ông trì năm giới , phải ăn chay , tọa thiền ngày hai tiếng rưỡi , phải đi cộng tu , phải bênh vực hoặc chống đối giúp người đau khổ , vân vân ... Từ đó về sau , ông trở thành một người rất tốt ; sau này , làm quan rất là đạo đức . Ông dặn thuộc hạ mỗi khi đi ngựa phải dùng yên , không được lấy chân đá ngựa và cũng đừng đánh nó mạnh quá , vì ông nhớ lúc còn làm ngựa phải chịu đau khổ tới mức nào . Ông cũng rất rộng lượng và ôn hòa đối với dân . Cho nên , về sau tất cả nghiệp xấu của ông đều được rửa sạch .

Nhím Hoàng Kim
08-19-2007, 08:58 AM
Sự Nguy Hiểm Của Thần Thông Mà Không Có Trí Huệ


Có một câu chuyện nói về những ngươi học trò rất tha thiết muốn tìm một vị minh sư để tu hành . Bởi vị Minh Sư này có rất nhiều thần thông , nên họ cũng muốn có một ít . Tuy nhiên , vị Minh Sư luôn luôn từ chối , bảo rằng họ chưa sẵn sàng học những cái đó , bởi vì có thần thông khi chưa có đạo đức và trí huệ thì rất là nguy hiểm . Nhưng những người học trò này không chịu nghe . Họ thấy sự phụ họ làm đủ mọi chuyện thần kỳ , họ cũng muốn được chút ít như vậy , đặc biệt là cách làm cho người ấy chết sống dậy . Họ rất thích chơi trò đó , nên cứ năn nỉ sư phụ họ hoài , cho tới một hôm vị minh sư phải chịu thua và đành phải dạy họ bí quyết để làm người chết sống lại .

Học được phép lạ này , họ rất là khoái chí . Sau đó , họ bỏ thầy ra đi , vì họ chỉ muốn biết bấy nhiêu đó thôi . Họ rũ nhau cùng đi nơi khác . Trên cuộc hành trình , họ đi ngang qua một vùng rất là hoang vắng ; hàng trăm rồi chỗ này không có một người nào ở . Thấy trên đường có một số xương khô , họ muốn thử nghiệm phép thần thông mà họ vừa học được . Họ bèn niệm chú , khoa chân múa tay , bla , bla , bla như vầy . Bỗng nhiên tất cả xương khô bay lên , nối lại với nhau hóa nguyên hình thành một con vật còn sống . Da thịt nó sống lại , rồi tới sừng , rồi tới răng nanh mọc ra , thành một con khủng long khổng lồ của nhiều triệu năm về trước . Nó đuổi theo bắt họ ăn thịt , giải thoát cho họ luôn !

Đây cũng là một trong những nguy hiểm của sự bắt chước . Bắt chước minh sư mà không có trí huệ của một người thật sự liễu ngộ , không có khả năng kiềm chế tính tò mò của mình , không phải vì lòng từ bi để kịp thời giúp đỡ chúng sinh , mà chỉ vì muốn thỏa mãn trí tò mò hay để khoa trương lực lượng của mình thì rất là nguy hiểm . Vì vậy , trong sự tu hành , tôi không khuyến khích ai dùng thần thông . Nếu quý vị có cũng không nên dùng .

Như tôi đã nói , đó chỉ giống như vai mượn từ nhà máy điện chung , không phải từ nhà máy điện tối cao . Khi mượn cái gì từ cảnh giới thấp , quý vị nhất định phải trả , và còn phải trả thêm tiền lời nữa . Khi quý vị lãnh ngộ được từ đấng tối cao , từ đấng toàn năng toàn giác , thì nó thuộc về quý vị , thuộc về lực lượng của Thượng Đế ; quý vị không phải trả gì hết .

Có một minh sư kia , tôi không nhớ tên . Ông càng ngày càng già , cho nên mắt ông cũng theo tuổi tác mà lòa đi , lòa tới nỗi không nhìn thấy đệ tử , không còn nhận ra những gì chung quanh nữa . Có một người kia chuyên dùng thần thông chữa bịnh (khi họ để tay lên người mình là lành bệnh , thí dụ vậy) nói với minh sư này rằng : "Hãy đến đây , đặt niềm tin vào tôi , tôi có thể chửa khỏi mắt và ngài sẽ nhìn lại được".

Nhưng vị minh sư đáp : "Đừng , đừng . Tôi đã thấy những gì tôi cần thấy rồi , đó là những thứ ở bên trong . Những thứ khác không có quan trọng gì cả".

Đó là thái độ đúng đắn của một nhà tu hành . Chúng ta đừng bao giờ ham dùng thần thông chữa bịnh , ham có thần thông và những thứ tiện nghi đó . Nó chỉ là tạm thời , tạm thỏa mãn một chút thôi , không có cái gì lấy mà không cần phải trả . Chỉ có thế giới thứ năm là thứ gì cũng tràn đầy và đều miễn phí . Còn tất cả những thứ khác đều từ vật chất mà ra , trong thế giới này và trong tam giới , nếu chúng ta lấy quá nhiều cho riêng mình , thì chỗ khác sẽ bị thiếu . Cho nên , thần thông không gì khác hơn là lấy một thứ gì đó từ chỗ này đặt vào chỗ khác mà thôi .

Nhím Hoàng Kim
09-25-2007, 03:32 PM
Sự Tích Trái Dưa


Ðây là sự tích bên Âu Lạc nói về một vị hoàng tử mà trước kia là một người tầm thường nghèo khó, được nhà vua đem về làm con nuôi. Dĩ nhiên là sau khi được vua nuôi nấng, anh sống như một hoàng tử và có một lối sống vương giả. Cần gì cũng có, rất là sung sướng, và được săn sóc rất là chu đáo. Mặc áo gấm lụa là, sống trong lâu đài nguy nga tráng lệ, có người hầu kẻ hạ, cung nữ xinh đẹp và đủ thứ tiện nghi.

Cho nên mọi người đều ganh tỵ nói với anh rằng: "Chao ôi, anh may mắn quá! Tự nhiên lại có tất cả những gì người khác ao ước mà không được: tiền của, danh tiếng, sức khỏe, tiện nghi và vinh dự. Ai cũng kính trọng, túc trực hầu hạ, mang cho anh bất cứ gì anh đòi hỏi. Anh may mắn quá!" Vị hoàng tử con nuôi đáp rằng: "Ðúng vậy, nhưng tôi cám ơn Thượng Ðế, Trời Phật đã cho tôi tất cả những thứ này. Thượng Ðế là đấng duy nhất: Ngài là người đã cung cấp cho tôi; Ngài tràn đầy ân điển; Ngài rất tốt đối với tôi; Ngài ban cho tôi tất cả!"

Tình cờ nghe thấy như vậy, nhà vua tức giận nói rằng: "Ngươi là đứa con vô ơn! Ta là hoàng đế! Chính ta đã cho ngươi tất cả những tiện nghi thoải mái, giàu sang và cuộc sống tốt đẹp này, mà một tiếng 'cám ơn' ta ngươi cũng không bao giờ nói. Ngươi lại cám ơn Thượng Ðế, ta không biết Thượng Ðế là ai cả! Ngươi có thấy Ngài bao giờ không? Ngài đã cho ngươi cái gì chứ? Ngươi cám ơn Ổng trong khi ta là người cung cấp cho ngươi. Ta mới chính là vua! Ngươi nên nhớ!"

Nhưng hoàng tử vẫn không lay động, nói rằng: "Ngay cả tiền của, quyền năng, tất cả những gì phụ hoàng có cũng là do Thượng Ðế ban cho! Tất cả chúng ta đều mang ơn Thượng Ðế mà thôi. Con không thể nói 'Cám ơn phụ hoàng' được, con chỉ có thể cám ơn nhân vật duy nhất cung cấp cho toàn cõi đất trời, đó là Thượng Ðế!"

Nghe xong nhà vua càng giận dữ hơn trước, nói rằng: "Ngươi vẫn không hối cải, đồ con bất hiếu! Ðược, ta sẽ cho ngươi thấy ai thực sự là người cung cấp. Không có ta, xem ngươi có sống nổi hay không. Xem Thượng Ðế của ngươi có cung cấp cho ngươi những gì ta ban cho ngươi ở đây không. Ði ngay bây giờ! Ngươi sẽ bị đày tới một hải đảo xa xôi, hẻo lánh, riêng biệt, không có ai ở đó, và việc sinh tồn rất khó khăn vì rất xa văn minh, xa cách tất cả. Thử xem Thượng Ðế của ngươi có cho ngươi sống sót hay không".

Thế là xong: nói dứt, ra lệnh, đóng dấu, niêm phong. Hoàng tử và vợ bị đưa đi trên một chiếc thuyền nhỏ, chỉ có một ít đồ vật sống được một tháng. Rồi anh lướt thuyền đi tới hòn đảo với vợ. Một tháng trôi qua, họ không còn gì để sống nữa, người vợ lo sợ, nhưng hoàng tử nói với vợ rằng: "Ðừng có lo! Thượng Ðế sinh mình ra và Ngài đã lo cho đời sống của mình cho tới bây giờ. Thượng Ðế sẽ tiếp tục cung cấp cho chúng ta".

Rồi hai người ngồi xuống tọa thiền, niệm Thanh Hải Vô Thượng Sư. Và nhìn kia, một chuyện xảy ra! Ngồi thiền một ngày, họ trông thấy một con chim đen. Rồi sau đó hai con chim rồi ba con chim rồi cả đàn chim, tất cả đang ăn cái gì đó cách đấy không xa. Cái gì mà xanh xanh bên ngoài, đo đỏ bên trong, và có hột màu đen.

Như chúng ta đã biết, chim ăn được là mình ăn được. Có thể không ngon, nhưng chim ăn được có nghĩa là không độc. Thế là vợ bảo chồng: "Hình như là mình có đồ ăn rồi đó". Họ đi tới đó xem thử, rồi họ nếm mấy miếng chim ăn còn dư. Ồ, ngon quá! Ðây là dưa hấu. Thế là họ đi tìm xem mấy cây này từ đâu đến để hái thêm trái ăn. Họ không cần đi đâu xa vì cây này mọc khắp nơi phía bên kia đảo, chỗ họ chưa từng tới bao giờ. Rồi họ đi đến đó, mỗi ngày đem trái về ăn hết sạch. Họ sinh tồn bằng cách đó. Dưa có nước, hột bên trong đầy chất đạm.

Nên họ sống sót. Họ được chất đạm, nước và chất xơ, giống như mỗi bữa ăn vừa có rau vừa có chất đạm. Họ ăn dưa như vậy và cảm thấy khỏe khoắn trong người, mỗi ngày vui vẻ, sung sướng. Chẳng lo lắng gì và họ rất là hạnh phúc. Rồi người chồng nói với vợ rằng: "Sống như vầy sướng hơn là ở trong cung điện. Trong triều mình có lụa là, vàng bạc, đủ thứ sơn hào hải vị, nhưng lại phải giữ gìn luật lệ, theo phép lịch sự, ăn mặc đàng hoàng. Lúc nào cũng phải tỏ ra một người vương giả, quý tộc, đàng hoàng đứng đắn cho mọi người xem. Ðối với nhà vua thì lúc nào cũng phải cúi đầu chào. Sáng tối mỗi lần nói chuyện với vua cũng phải quỳ xuống đau đầu gối v.v... Cho nên anh nghĩ đời sống này tốt hơn, tốt hơn nhiều lắm! Mình ngủ với mặt trời, thức dậy với mặt trời và ngồi thiền cả ngày. Mình được đi dạo trên cát trắng, cầm tay nhau dưới những cây tùng. Mình được hát với nhau dưới bóng trăng, mình được đi bộ hàng dặm dọc theo bờ biển, hít thở không khí trong lành, tươi mát một trăm phần trăm, không một lo lắng gì trên cõi đời này. Anh sẽ không đổi đời sống này để lấy bất kỳ vương quốc nào trên toàn thế giới."

Người vợ nói: "Anh nói đúng, anh nói đúng. Mình may mắn quá!"

Thế rồi ngày qua ngày, họ vui hưởng cuộc đời. Họ rất thích, cho tới một hôm, người vợ nghĩ ra một điều và nói rằng: "Quả ngon này từ trước tới nay trong đời mình không bao giờ được hưởng. Trước kia mình chưa bao giờ thấy qua, nhưng bây giờ thì mình biết nó ngon, bổ cho sức khỏe, ăn vào thấy người mát mẻ dễ chịu. Cho nên chúng ta hãy đem quả này chia sẻ cho người khác. Nhưng vì không có ai tới đây, có lẽ mình nên thả nó ra biển, người nào lấy được thì ăn".

Người chồng đáp: "Ý kiến hay! Có lẽ mình cũng nên vẽ bản đồ hòn đảo này cho người ta tìm đến đây đem thêm về cho quê nhà của họ".

Họ dùng than viết mấy chữ lên lá cây, đục một cái lỗ trong mỗi quả dưa, nhét thông điệp có ghi chữ vào trong cùng với bản đồ, rồi bít lại. Xong họ thả dưa ra biển, trôi lềnh bềnh quanh đảo, để những ngọn sóng đẩy đưa đi muôn phương hướng. Không bao lâu sau, một số thương gia làm nghề buôn trên biển vớt được một số dưa, bổ ra, trông thấy thông điệp bên trong, ăn thử thích quá. Thế là họ tìm đường đến đảo để lấy những quả dưa này.

Khi các thương gia tới đó, họ lấy dưa nhưng cũng trao đổi một số đồ vật như là những nhu yếu phẩm căn bản. Những gì hai vợ chồng này cần, các thương gia đều mang tới để đổi lấy dưa, bởi vì lúc bấy giờ dưa hấu còn là một đặc sản hiếm có. Chưa ai được ăn; ngay cả nhà vua cũng chưa bao giờ được ăn. Nên các thương gia mang dưa về đem bán. Họ lời nhiều lắm vì dưa hấu rất hiếm, người ta mua bất cứ giá nào, nhất là những người giàu có. Bao nhiêu tiền họ cũng trả để đem dưa hấu đi khoe với bạn bè, làm quà cho người thân, ngay cả những quan quân trong triều, và nhà vua cũng được luôn. Người ta trả rất nhiều tiền và các nhà buôn mang đến cho hai vợ chồng đủ thứ.

Không bao lâu sau, hải đảo đó trở thành một trung tâm buôn bán sầm uất, và thậm chí vợ chồng đó không còn phải chăm lo cho dưa hấu. Chim muông cứ tới ăn rồi nhả hột xuống cát, cây lại tiếp tục lên nữa. Quanh năm suốt tháng lúc nào cũng có đủ dưa cho mọi người ăn.

Không bao lâu thì hai vợ chồng này một lần nữa trở nên giàu có, thậm chí còn giàu hơn xưa kia. Họ được tất cả những gì quý báu, hiếm có trên toàn thế giới vì người mua đến từ nhiều nước khác nhau mang đủ thứ quà cáp để đổi lấy những trái dưa. Dù hai người không lấy tiền, họ cũng rất cám ơn đã được những quả dưa xinh đẹp và lợi tức cao kiếm được tại nhà. Ngay cả những món quà họ không muốn, họ cũng được.

Một hôm nhà vua cũng được ăn thử dưa hấu, ông hỏi nó từ đâu tới và muốn nữa. Những nhà buôn nói rằng: "Chúng tôi có thể đi lấy nữa, nhưng bệ hạ phải đợi vài tháng. Chúng tôi phải đi ra đảo mới lấy được".

Nhà vua hỏi: "Ðảo đó ở đâu? Ðảo gì mà lại có quả ngon như vậy?"

Họ nói: "Ðó là hòn đảo mà bệ hạ đã đày hoàng tử vài năm trước". Lúc đó nhà vua nhớ lại. Thật ra ông ta cũng thường tưởng nhớ tới hai người này, nhớ họ nhiều lắm và trong lòng ông rất là buồn bã. Hối cải trước mọi người về sự nóng nảy của mình hồi đó, ông nói: "Chỉ một chốc nóng giận mà ta đã không suy nghĩ rõ ràng. Bây giờ thì ta thấy họ nói đúng; ta nghĩ Thượng Ðế là người cung cấp duy nhất. Nếu không có Thượng Ðế thì ta làm gì được? Cho nên ta nghĩ họ nên trở về đây".

Do đó nhờ có quả này mà ba cha con đoàn tụ một lần nữa, và cả nước vui mừng hớn hở. Nhà vua làm một ngày lễ lớn, rất lớn trên toàn quốc, mọi người ăn uống, múa hát tưng bừng cả tháng trời, có người còn tiếp tục sang tháng sau, thậm chí kéo dài ba tháng. Dĩ nhiên hai vợ chồng này mang về rất nhiều dưa hấu làm quà cho vua và cả triều đình. Họ còn đem hột giống vào đất liền trồng trọt. Từ đó về sau, chúng ta có nhiều, rất nhiều dưa hấu; và mỗi lần ăn vào chúng ta nghĩ tới Thượng Ðế. Chúng ta nên làm như vậy mỗi khi ăn dưa hấu.

Bây giờ quý vị biết truyện rồi. Truyện rất là hay, vị hoàng tử này chắc là một nhà tu hành rất tốt, vì sau đó nhà vua bỏ thời giờ đi tìm Thượng Ðế và sự khai ngộ. Cho nên dưa hấu rất có ý nghĩa, nó làm cho vua và hầu như cả nước khai ngộ để mỗi ngày họ nhớ tới Thượng Ðế, chỉ từ việc ăn dưa hấu và từ tấm gương sáng của nhà vua. Ông bỏ thêm thời gian ra ngồi thiền, cầu nguyện, nhớ tới Thượng Ðế, cầu Thượng Ðế và đồng một thể với Thượng Ðế. ♥

Nhím Hoàng Kim
10-06-2007, 08:51 AM
Quá Tham Lam


Đây là một câu chuyện cổ tích Âu Lạc . Hồi xưa , có một gia đình kia rất nghèo . Cha mẹ qua đời , để lại cho hai người con trai một ít ruộng vườn . Người anh khôn lanh , xảo trá và biết nhiều mưu lược ở đời . Người em không biết gì nhiều , nhưng tốt bụng hơn , thanh bạch hơn và hay tin người .

Sau khi cha mẹ qua đời , họ bắt đầu chia nhau đất đai tài sản . Người anh có vợ , còn người em thì không . Người anh nói với người em rằng : "Hãy để anh trông coi đất đai nhà cửa thì tốt hơn . Vì em không có vợ con và không biết chăm sóc của cải , nếu giao cho em thì chỉ lãng phí mà thôi . Tuy nhiên , vì biết em là một người em rất tốt , anh sẽ nhường cho em cây khế . Cây khế ở góc kia là của em , còn những của cải còn lại là của anh hết . . Cịu không ?" Người em đáp : "Chịu" (mọi người cười).

Thế là mỗi ngày người anh ra đồng làm việc và trở nên giàu có , đời sống thoải mái . Người em nhờ cây khế cũng sống được thoải mái . Khi khế chín , anh ta hái đem đi bán . Cây rất to lại sai trái . Nếu bán không hết thì anh ta mang những quả còn lại về làm nước trái khế và mức khế . Anh xoay xở cũng khá giỏi . Một số trái anh đem ngâm đường , một số ngâm muối , còn một số thì ngâm giấm . Anh chế biến ra nhiều loại sản phẩm khế rất ngon , rất nổi tiếng . Nhiều người thích những món mứt của anh và đi từ thật xa đến để mua . Thành ra , anh có đủ tiền sống một cách ung dung và tự tại . Anh không giàu có gì mấy , nhưng con người anh cũng chẳng đua đòi gì .

Một hôm , anh ra ngoài mua vật dụng làm mứt khế . Khi trở về , anh thấy gần một nửa số khế trên cây đã bị ăn mất . Anh buồn quá . Rồi anh trông thấy một chú quạ hãy còn đậu trên cây , vẫn còn tiếp tục ăn khế của anh . Anh ta nghĩ bụng : "Ồ ! Sao lại như vậy ?"

Anh liền hỏi chú quạ : "Tại sao ngươi ăn khế của ta ?"

Chú quạ đáp : "Tôi đói bụng !" (Mọi người cười).

Rất giản dị , chú quạ ăn vì nó đói .

Con quạ hỏi : "Khi đói , ông không ăn sao ?"

Anh ta trả lời : "Dĩ nhiên là ta ăn".

"Vậy ông hỏi làm gì ?"

Người em thật hà không biết cãi làm sao , hơi khựng lại và nghĩ bụng : "Dĩ nhiên , nó đói thì nó ăn . Sao ta lại hỏi ?" (Sư Phụ và mọi người cười). Nhưng ta chỉ có một cái cây này . Nếu bị ăn hết , ta sẽ không còn gì nữa , ngày mai ta sẽ phải nhịn đói và không có gì để ăn".

Rồi anh nói cho chú quạ biết như vậy . Con quạ này rất kỳ lạ ; không giống như những con quạ bình thường . Cái mỏ nó rất dài (Mọi người cười). Loài quạ không có tai , nhưng con này có hai cái tai to , đeo bông tòng teng (Sư Phụ và mọi người cười) . Lông của nó quăn lên và rất hợp thờ trang . Quần áo nó rất đẹp . Dù là quạ nhưng quần áo của nó đủ màu sắc hêt .

Người em nói với chú quạ rằng : "Không phải là ta dành với ngươi mấy quả khế . Dĩ nhiên nếu ngươi đói thì có thể ăn . Cứ tự nhiên . Nhưng nói thật cho ngươi hay , sau khi cha mẹ ta qua đời , anh ta chỉ cho ta cây khế này . Ta phải sống nhờ vào nó . Ta ngu si dốt nát , không biết làm gì khác . Nếu không có cây khế này chắc ta chết mất . Hoàn cảnh của ta tội nghiệp như vậy đó , chứ không phải ta muốn hơn thua với ngươi về mấy trái khế".

Nghe nói vậy , chú quạ cảm động và trả lời : "Ông là một người rất tốt . Được rồi , được rồi . Không sao . Vì tôi đã ăn khế của ông , tôi sẽ trả vàng cho ông . Như vậy được chưa ?"

Người em trả lời :"Được" (Sư Phụ và mọi người cười). Anh ta chỉ biết nói "chịu" hay "được" , không gì khác . Anh không từ chối gì cả .

Rồi chú quạ dặn : "Ngày mai , ba giờ sáng sơm mai tôi sẽ tới đây chở ông đi . Bây giờ ông hãy về tìm một miếng vải khâu thành cái túi lớn cỡ này , dài cỡ này , và rộng cỡ này . Ngày mai tôi sẽ đưa ông đi lấy vàng ngọc , châu báu , chịu không ?"

"Chịu !" Rồi người em về nhà làm một cái túi lớn cỡ đó , dài cỡ đó và rộng cỡ đó - không hơn , không kém . Sáng hôm sau , như đã hứa , chú quạ đợi anh ta ngay đó . Chú quạ nói : "Được rồi . Bây giờ anh leo lên lưng tôi . Tôi sẽ bay đưa ông qua biển . Trong lúc bay , ông không được nói , không được mở mắt . Dù chuyện gì có xảy ra cũng không nên trái lệnh tôi , nếu không ông sẽ chết".

Người em nói : "Được !"

Sau khi anh ta leo lên lưng chú quạ và ôm cổ , con chim cất cánh bay . Bỗng nhiên chú quạ trở nên to lớn dị thường . Người em ngồi cảm thấy dễ chịu quá nên ngủ thiếp đi . Anh ta có thể ngồi thiền quán âm trên đó cũng không sao (Mọi người cười). Không , không thiền quán âm được , chỉ quán quan mà thôi .

Những người tu hành như chúng ta nếu không có ai hỏi thì cũng đừng nói gì cả . Ngoài chữ 'chịu' và 'được' , không nên nói gì khác . Kinh Thánh cũng dạy như vậy : Có ai hỏi thì cũng chỉ nên nói 'chịu' và 'được'.

Đừng nên nói chuyện không đâu , điều này có nghĩa là chúng ta nên tiết kiệm lờ nói và đừng nói chuyện .

Người em này có tu pháp Quán Âm và rất tốt bụng . Khi được dặn đừng nói là anh ta không nói . Anh thiền chẳng bao lâu sau thì nhập định . Rồi họ tới nơi .

Ồ! Chỗ đó đồi núi đẹp , bãi biển đẹp , có đủ thứ . Ngọc ngà châu báu chồng chất thành một cái núi lớn . Cây cối , mọi vật đều bằng ngọc ngà châu báu . Lá cây bằng vàng và thân cây bằng ngọc quý . Tất cả đều bằng ngọc ngà châu báu . Không có một cục đá nào cả mà chỉ thấy châu báu khắp mọi nơi .

Rồi chú quạ bảo anh chàng : "Bây giờ ông hãy lấy vàng ngọc nào mà ông thích bỏ vào túi . Rồi chúng ta sẽ bay về ngay". Người em trả lời : "Được !" Anh ta lấy những thứ mà anh ta thích nhất , những món quý báu nhất bỏ vào túi , gắn vô thắt lưng rồi nhảy lên mình quạ . Trong khi bay về , anh nhắm mắt thiền nữa , nhập định rồi về đến nhà .

Từ đó , người em trở nên giàu có . Anh ta bán vàng ngọc , xây một ngôi nhà khác , cưới một cô gái đẹp và nuôi một con mèo đẹp (Mọi người cười). Anh sống một cuộc đời rất thoải mái .

Một thời gian lâu sau , khi hay tin người em bỗng nhiên trở nên giàu có , người anh từ xa tới thăm em . Người anh hỏi người em làm cách nào mà bỗng nhiên được giàu có như vậy . Người em trả lời : "Đó là nhờ ơn của anh . Tất cả đều nhờ phước báu của anh ban cho . Em được giàu có là nhờ anh cho em cây khế đó . Cám ơn anh".

Nói xong anh ta xụp xuống lại người anh .

Người anh ngạc nhiên hỏi : "Cây khế làm em giàu bằng cách nào ?"

Dĩ nhiên người em kể cho anh nghe mọi chuyện . Lòng tham của người anh bắt đầu nổi dậy : "Ồ , đó là công ơn của anh rồi ! Được , bây giờ em dọn về ở chỗ của anh . Tất cả tài sản là của em hết . Còn cây khế này là của anh (Sư Phụ và mọi người cười). Bây giờ chúng ta đổi nhau . Em được cây khế lâu rồi , anh sẽ đổi với em , vì mình phải thay phiên nhau chăm sóc đất đai của cha mẹ . Anh đã lo chăm sóc nhiều năm nay rồi , mệt rồi . Bây giờ đến lượt em . Em đi về ở đàng kia . Bây giờ để anh lo cho cây khế . Chịu không ?"

Người em nói : "Chịu".

Sau đó anh ta dọn về chỗ của người anh ở . Người anh mỗi ngày cứ giăng võng đợi dưới gốc cây . Một hôm , như dự định , một chú quạ đến ăn khế . Người anh giả bộ bực tức nói : "Nếu ngươi ăn khế của ta , ta sẽ bị đói mà chết". Rồi anh chàng tiếp tục "đa , đa , đa ..." bắt chước giọng điệu của ngươi em .

Nghe vậy , chú quạ nói : "Không sao . Vì tôi đã ăn khế của ông , tôi sẽ trả vàng cho ông . Chịu không ?"

Người anh đáp : "Chịu !"

Chú quạ nói : "Hãy đợi tôi ở chỗ này , ba giờ sáng mai . Ông hãy may một cái túi dài như vầy , rộng như vầy . Tôi sẽ dẫn ông đi lấy vàng ngọc châu báu".

Người anh lập tức về nhà cắt một miếng vải . Nhưng túi vải anh ta cắt lớn như tấm khăn quán âm vậy (Sư Phụ và mọi người cười). Nó dài như vầy , rộng như vầy . Anh ta ráp hai miếng vào nhau , to như vậy ; tận dụng hết cỡ của tâm vải (Mọi người cười). Rồi may thành cái túi bự như vầy .

A ! Mới hai giờ sáng , anh chàng đã ra đó đợi rồi ! Nhưng con quạ không đến sớm , nó đến rất đúng giờ . Đến ba giờ , nó tới đón người anh . Người anh leo lên lưng chú quạ và được chú quạ dặn dò là phải bám vào cổ nó , không được nói và không được mở mắt .

Người anh rất xấu bụng . Anh ta không tu Pháp Môn Quán Âm và không ăn chay , cho nên nghiệp chướng rất nặng nề . Chú quạ băng qua biển không nổi , nên phải dùng thần thông đặc biệt mới bay nổi . Người anh nghe "Hú ... ú ... hú ... hú ..." cảm thấy gió thổi rất mạnh . Sau khi bay một hồi lâu , người anh thấy sốt ruột định hỏi : "Tới nơi chưa ?" (Sư Phụ cười). May quá , chú quạ dùng cánh đập vào mặt anh , anh mới nhớ và không nói nữa .

Cuối cùng , họ đến nơi . Cuộc hành trình thật là dài đối với chú quạ , cũng như đối với người anh . Cả hai đều mệt nhoài . Sau khi thả anh chàng xuống , chú quạ liền đi ngủ một giấc . "Ông hãy lấy vàng bạc châu báu nào ông thích . Còn tôi phải đi ngủ một giấc mới chở ông về được . Ông ăn mà nặng thế ? Có phải ông sinh năm con voi không ? (Sư Phụ cười)

Chúng ta người nào cũng sinh vào năm con ngựa hay con chuột , còn anh chàng này thì sinh vào năm con voi . Có lẽ nghiệp chướng của anh ta nặng hơn (Cười). Sau khi chú quạ ngủ dậy , người anh vẫn chưa lấy xong châu báu . Nhìn cái gì anh ta cũng sáng mắt lên , cái gì cũng muốn lấy . Anh ta không đành rời cái này hay để lại cái kia . Cứ chọn hoài . Một hồi lâu sau cũng không xong .

Cuối cùng , chú quạ tỉnh dậy nói : "Ông không thể tiếp tục chọn lựa được nữa . Ông cứ lấy đại đi , hết giờ rồi . Chúng ta không thể ở lại đây lâu hơn . Nếu ở đây thêm nữa thì chúng ta không bao giờ về nhà được . Mau lên , leo lên lưng tôi".

Lúc đó , anh ta nhanh tay bỏ mọi thứ vào túi . Ồ , leo lên lưng chú quạ khó ơi là khó . Chú quạ nói : "Không được , nặng quá . Ông hãy lấy bớt ra , nếu không tôi sẽ không bay nổi".

Nhưng người anh tham lam quá , chỉ lấy ra một viên ngọc ném xuống .

Con quạ nói : "Không , không . Không đủ . Bỏ ra nữa".

Anh ta bèn lấy thêm một hòn ngọc lớn như vầy rồi ném xuống .

Con quạ nói : "Không ! Nếu ông không chịu bỏ bớt ra nữa , chúng ta sẽ không thể nào về được . Bây giờ tôi không cất cánh nổi".

Người anh vô cùng tiếc nuối , nhưng đành phải ném xuống một nắm . Rồi con quạ nói : "Chúng ta không thể ở lại nữa . Phải đi chứ , hết giờ rồi".

Chú quạ cực khổ lắm mới có thể cất cánh lên nổi . Trên đường về , ngoài biển cả mênh mông , ở bên dưới không còn thấy gì nữa . Thình lình , một cơn bão tới , rất là mạnh làm cánh chim không được thăng bằng . Nó cứ giữ thăng bằng ; nhưng gió quá mạnh và chú quạ bị đu đưa , nghiêng ngả .

Người anh nói : "Nếu ngươi bay như vầy , ta sẽ chết mất . Nhà ngươi làm gì thế ?" Rồi anh ta mở mắt ra : "Ồ , biển !"

Vì anh ta mở miệng và mở mắt , vàng ngọc châu báu tuột ra khỏi tay và cả người anh lẫn châu báu đều theo nhau rớt xuống .

Anh ta được dặn là phải may cái túi dài cỡ này , rộng cỡ này ; nhưng vì may quá lớn thì dĩ nhiên con quạ không thể chịu nổi sức nặng đó . Loài người chúng ta cũng tương tự như anh này . Chúng ta quá tham lam , cho nên cuối cùng có khi cũng chẳng còn gì cả .

Nhím Hoàng Kim
10-20-2007, 02:12 PM
Thế Giới Đảo Điên



Thuở xưa có một vị minh sư và một người đệ tử mới vừa theo ông học chưa được bao lâu . Vị minh sư này đã dắc đạo và thường hay đi khắp nơi trên thế giới để đọ người có duyên . Người đệ tử cũng theo ông đi khắp nơi . Ông thầy rất thanh bạch đến nỗi thọ bát ông cũng không muốn , vì vậy ông hay ẩn lánh và tìm những con đường rừng núi vắng vẻ để đi ; vừa đi vừa hái trái cây và rau cỏ dại để ăn , được gì thì ăn nấy . Cứ như thế sau một thời gian dài , người đệ tử đương nhiên không chịu nổi .

Một ngày kia , người đệ tử tự ý vào phố , hy vọng tìm được nhà nào giàu có để hóa duyên . Cuối cùng , anh chàng đến một căn nhà nọ , thấy người đang ăn mừng , ai cũng có thể được vào dự . Trong lòng hết sức mừng rỡ , anh đi vào ăn một bụng no nê , lại còn mang về một ít cho thầy . Vì đệ tử đã đem thức ăn về rồi , vị thầy đành phải ăn . Vừa ăn vị minh sư vừa cười và nói rằng : "Đây là oan gia nợ chủ đến đòi , có gì đáng để vui đâu !"

Người đệ tử nghe qua rất phân vân , không hiểu ý của sư phụ mình nói gì . Người ta mới sinh em bé , sung sướng quá nên mời mọi người tới dự tiệc . Tất cả đều rất vui vẻ , sao sư phụ lại nói là oan gia nợ chủ đến đòi ? Anh ta nghĩ : "Có lẽ sư phụ ăn nhiều quả chua quá , nên đầu óc không được tỉnh táo lắm" (Sư Phu cười).

Tuy nghĩ vậy nhưng anh ta không nói gì , anh ta hãy còn tin tưởng nơi thầy mình , nên không bỏ thầy mà đi .

Gia đình đó đã nhiều năm cầu xin có một đứa con . Bây giờ được trời cho một đứa con trai , nên họ định đãi tiệc mừng luôn mấy ngày liên tục . Đến ngày hôm sau , người đệ tử lại đi đến đó thọ bát , nghĩ rằng người ta đãi khách miễn phí , mà mình không đến ăn thì thật là uổng ! Cho anh lòng anh vui vẻ mà đến , hy vọng được hưởng thụ các thức ăn thêm một lần nữa .

Không ngờ , chưa vào tới cửa đã thấy mọi người đang hoảng hốt chạy ngược , chạy xuôi , khóc lóc thảm thiết , không có gì để ăn cả . Mới hôm qua , cha mẹ đứa bé vui mừng hớn hở , hôm nay lại nằm vật dưới đất khóc than Trời Phật . Thì ra , đứa bé mới sinh ra hôm qua , hôm nay đã chết !

Không có gì ăn , người đệ tử tìm chung quanh coi có món ăn gì còn sót lại không . Vì người ta đang có tang gia , đâu còn thiết gì đồ ăn đồ uống , nên không ai buồn để ý tới anh cả . Anh vội vã lấy một ít thức ăn rồi đi . Anh trở về kể lại cho thầy : "Sư Phụ có chuyện không may xảy ra ! Đứa bé mới sinh ra hôm qua , hôm nay đã chết rồi , cho nên hôm nay không có món gì ngon , con chỉ mang về một ít thức ăn hôm qua còn dư lại ".

Vị minh sư nghe vậy đột nhiên cười lớn . Người đệ tử liền hỏi thầy : "Sự phụ cười cái gì vậy ? Ngày hôm qua oan gia tới thì họ vui . Hôm nay oan gia đi thì họ lại buồn !"

Khi người đệ tử hỏi vì sao ông lại nói như vậy , vị minh sư đáp : "Đứa bé ấy vốn là người hành xóm của gia đình này . Trước kia gia đình này mượn tiền của người ta mà không trả . Sau này trở nên giàu có , họ quên luôn món nợ . Người hàng xóm sau khi chết lại đi đầu thai thành con của gia đình này , hy vọng sẽ xài hết gia tài của gia đình này . Nhưng vì sau khi đứa bé chào đời , họ đãi nhiều khách và đã xài hết gia tài của gia đình này . Nhưng vì sau khi đứa bé chào đời , họ đãi nhiều khách và đã xài hết tiền . Số tiền nó muốn đòi chỉ trong một ngày là tiêu hết , cho nên nó không còn lý do gì để ở lại . Nợ nần thanh toán rồi thì nó phải ra đi " (Vỗ tay).

Con người chúng ta có hỷ nộ ái ố là do vô minh mà ra . Chúng ta không biết tại sao lại vui , tại sao lại giận , tại sao lại buồn , và tại sao lại thấy sung sướng . Khó mà biết ai là bạn bè thân thuộc , ai là oan gia . Trừ phi chúng ta tu hành , còn không thì không cách nào biết được .

Nhím Hoàng Kim
10-27-2007, 07:34 AM
Sự Tu Hành của Moses Yên Lặng và Chấp Thuận


Quý vị biết Moses ? Ai cũng biết Moses là một người nổi tiếng với Mười Điều Răn . Ông là người câu thông với Thượng Đế , biết Thượng Đế , nghe tiếng Thượng Đế , và nhận được Mười Điều Răn trực tiếp từ Thượng Đế . Tuy đó là những điều răn của Thượng Đế , nhưng mới nửa chừng nó cũng bị thay đổi , sửa chữa rất nhiều . Tôi không biết tại sao . Có lẽ không phải vì tính nóng nảy của Thượng Đế (Sư Phụ cười) mà là vì Moses . Giống như tính tôi , tính nóng của ông cũng ghê lắm (Sư Phụ cười). Cho nên ông giận quá quăng tảng đá khắc Mười Điều Răn của Thượng Đế đi . Tôi nghĩ về sau ông làm lại . Có lẽ ông mất thêm bốn mươi ngày nữa (Sư Phụ cười) để khắc chữ lên đá , mất rất là nhiều thời gian .

Bây giờ để coi Moses làm thêm gì trong cuộc đời của ông . Đây là một câu chuyện ngắn về Moses , khi ông hãy còn tu hành để thành minh sư . Lúc đó vì chưa là minh sư , cho nên tính nóng nảy của ông chưa có thời giờ nổi dậy , tuy nhiên quý vị cũng có thể cảm nhận được ít nhiều sự nóng nảy của ông trong lúc này . Sau này Moses mới trở thành minh sư . Trước khi lãnh đạo con người trên đất Ai Cập , ông tu hành với một vị thầy rất vĩ đại .

Bài học đầu tiên mà vị thầy này bắt ông phải học là giữ yên lặng . Hai thầy trò đi giao du qua một vùng quê nọ , ông thầy bắt đệ tử phải tập tánh yên lặng . Vị minh sư này có lẽ đã nhận Moses làm đệ tử rồi , và có lẽ biết ông có tư cách là một minh sư tương lai .

Nhưng tuy vậy , như quý vị biết , dạy người rất là "dễ" (Sư Phụ cười). Nhưng làm họ tin , hiểu , và giữ giáo lý thì rất là khó . Dạy thì có thể làm được , nhưng họ có nghe lời hay không lại là chuyện khác . Cái đó rất quan trọng , là điều cốt yếu , và rất , rất là khó . Moses bắt đầu theo học với minh sư này , và vị này dặn ông bất cứ chuyện gì xảy ra cũng phải giữ yên lặng . Yên lặng có nghĩa là câm ... mồm . Nhưng khó lắm !

Ông thầy nói : "Bất cứ chuyện gì xảy ra , ngươi cũng phải giữ yên lặng . Đừng nói chuyện tiếng nào cả , chỉ khi nào ta cho phép mới được nói ".

Moses đáp : "Dạ vâng !"

Rồi hai thầy trò du ngoạn qua các vùng quê trong một thời gian khá lâu , có khi dừng lại chỗ này , có khi dừng lại chỗ kia , có khi dừng lại ở khách sạn . Một hôm , họ đi qua một miền quê rất , rất đẹp , đẹp kinh khủng , đẹp hoa mắt , đẹp tới nỗi Moses không thể không mở mắt nhìn và mở cả miệng nữa . Không những mở , mà còn phải ra thành tiếng : "Ồ , sư phụ ơi , đẹp không kìa ?" (Sư Phụ và mọi người cười).

Nhưng ông thầy vừa la vừa tha thứ : "Ta đã bảo ngươi c .. c .. âm miệng " (Mọi người cười).

Moses nói : "Ồ , xin sư phụ tha lỗi cho con . Tha lỗi . Tha lỗi . Con sẽ câm miệng . Con sẽ không nói nữa đâu ".

Đi một hồi nữa , họ đến bên một con sông . Bên bờ sông có một bà mẹ đang khóc vì con bà vừa mới bị nước cuốn đi . Dòng nước rất , rất mạnh . Moses muốn cứu đứa bé nhưng thầy không cho . Dĩ nhiên là Moses cũng không thể cứu được vì dòng nước chảy mạnh quá .

Moses hỏi thầy : "Sư phụ , ngài nói có nhiều lực lượng . Ngài là vạn năng . Ngài cứu đứa bé được không ? Người mẹ đang khóc kìa , sư phụ không thấy sao ? Đứa bé sắp chết chìm , vậy mà sư phụ vẫn yên lặng được sao ?"

Ông thầy : "S.. suỵt ! Yên lặng !"

Mắt ông thầy nhìn như vầy ... (Sư Phụ giả bộ nghiêm liếc mắt . Mọi người cười). Quý vị biết cái nhìn đó rồi , của người mà tôi không nói tên ra (Mọi người cười). Khi giận , trông bà ta cũng giống vậy . Đôi mắt bà ta trợn lên to gấp hai lần thường lệ (Mọi người cười). Bây giờ quý vị biết người đó là ai rồi chứ ? Người đó gọi là Tử .. Tử .. Tử gì đó , tôi không biết .

Mặc dù Moses nghe lời thầy vẫn giữ yên lặng , nhưng đối với chuyện đứa bé bị chìm , ông vô cùng khổ tâm , nhưng lại không thể hỏi , chỉ biết trách thầm thầy mình . Ông nghĩ bụng : "Người này chắc là một người thiếu mẫn cảm ; không có lòng từ bi , không thương yêu nhân loại . Ổng lúc nào cũng dạy chúng ta phải từ bi ; chúng ta phải có lòng thương yêu người khác ; chúng ta phải giúp đỡ người thiếu thốn , khổ sở , hoạn nạn này nọ ; chúng ta phải giúp đỡ loài người . Vậy mà ở đây , ổng cứ đứng đó nhìn đứa bé bị chìm , người mẹ bất lực khóc con mà không chịu làm gì cả ".

Mặc dù trong lòng ông rất ngờ vực , rất nghi ngờ và rất khổ tâm , mang nhiều ý nghĩ trách cứ thầy , nhưng vẫn ngậm miệng lại . Dù Moses năn nỉ thầy thi triển thần thông này nọ , nhưng thầy không giúp . Ông biết phê bình thầy là không đúng , nhưng ông không thể không làm vậy ; ông không thể gạt bỏ những ý tưởng xấu về thầy trong suốt một thời gian rất lâu như vậy .

Thế rồi trong khi họ đi khắp nơi trong nước , có lẽ họ cũng đi vòng quanh để gặp những đệ tử khác . Hồi xưa không có xe hơi như ngày nay , có lẽ vì vậy mà họ đi bộ . Khi có tiền thì họ đi xe ngựa , nhưng có lẽ hai người không có nhiều tiền nên phải đi bộ .

Một hôm , khi đi đến một bãi biển kia , hai người trông thấy một chiếc tàu đang từ từ chìm xuống . Moses không dằn được lại phải mở miệng ra một lần nữa . Ông nói : "Nhìn kìa , sư phụ ! Nguyên chiếc tàu đang chìm kìa . Sư Phụ thấy không ? Và cả những người trên tàu cũng sắp sửa bị chìm . Sư phụ có thể làm gì để giúp họ không ?"

Ông thầy đáp : "S .. uỵt ! Yên lặng !"

Thầy chỉ nói bấy nhiêu đó . Dĩ nhiên Moses không nói gì nữa và yên lặng . Nhưng ý tưởng trách móc càng lúc càng nhiều . Trong lòng ông hết sức nặng nề và đau khổ .

Khi trở về nhà , ông than thở , không phải với thầy mà là Thượng Đế . Ông nói : "Thượng Đế ơi , Ngài bảo con theo người này , nhưng Ngài thật sự không hiểu người này đâu " (Sư Phụ và mọi người cười).

Thượng Đế trả lời : "Không được nói bậy . Làm sao ta lại không hiểu ?"

Moses nói tiếp : "Nhưng Thượng Đế , ngài không biết đâu . Ổng thấy một đứa bé sắp chết và ổng thấy một cái tàu sắp chìm với cả đoàn người - hơn ba mươi người trên đó sắp chìm , mà ổng không làm gì cả , cũng không một chút động lòng , không chớp mắt . Ổng là người như vậy đó , mà ngài lại bảo con theo ".

Thượng Đế trả lời : "Ngươi mới là người không biết gì cả mà thôi . Đứa bé chết chìm kia là người sẽ gây ra chiến tranh tàn khốc giữa hai quốc gia , trong đó sẽ có hàng trăm ngàn người chết và hàng triệu người bị thương . Cho nên tai họa xảy đến cho nó như vậy rất tốt , và sự chết chìm của nó đã cứu được rất nhiều mạng người . Còn chiếc tàu chìm kia là tàu hải tặc . Những tên hải tặc đó sắp sửa đi ăn cướp lớn , gần cửa biển đó , rất gần chỗ bị chìm . Tàu chìm và tất cả những tên hải tặc đó chết , như vậy rất tốt . Thành phố đó thoát nạn cướp của , giết người , hãm hiếp và đủ thứ mọi chuyện không may do những tên hải tặc này gây ra . Bây giờ thì ngươi biết rồi , tất cả những người vô tội được cứu là nhờ đứa bé bị chết đuối và tàu hải tặc bị chìm ".

Kết cuộc Moses dĩ nhiên không nói nữa (Sư Phụ và mọi người cười) và "miệng bên trong" cũng câm luôn . Đó mới quan trọng . Không phải bên ngoài không nói là bên trong yên lặng đâu .

Thấy chưa Moses ít nhất cũng là một minh sư tương lai , nhưng trong thời gian tu học , ông lại là một người học trò gai góc và u minh như vậy . Quý vị có thể tưởng tượng nổi một vị minh sư hạy dỗ cho một người bình thường , kém thông minh hơn , ít trí huệ hơn , và ít phước báu hơn còn khó tới mức nào không ? Bởi vì muốn trở thành một vị minh sư , ông phải là người phi thường , có rất nhiều phước báu và trí huệ sẵn rồi , phải là một người có đẳng cấp cao . Muốn dạy một người đẳng cấp cao như vậy , minh sư cũng phải trải qua rất nhiều cực khổ .

Quý vị tưởng nếu Moses nghe lời thầy giữ yên lặng là đủ sao ? Không , không đủ . Không phải những cái ông làm bên ngoài , mà là cái bên trong , nó phóng ra một thứ năng lực độc hại , đôi khi thứ năng lực này làm cho vị thầy rất là khó chịu . Mặc dù ông thầy im lặng chịu đựng hết , nhưng không có nghĩa là không đau đớn . Có thể nó không làm đau đớn thân xác của vị thầy đó , nhưng nó có thể làm đau đớn tinh thần hoặc ảnh hưởng đến từ trường của người thầy . Nó không làm tổn thương trí huệ của thầy , lòng thương yêu nhân đạo của thầy , và con người thật sự của thầy . Có khi cả thể xác cũng bị đau đớn . Nếu một gánh nặng nào đó trầm trọng quá đến nỗi tinh thần không chịu đựng được , thì nó sẽ bộc phát ra bên ngoài và ảnh hưởng đến cả thể xác .

Cho nên , nếu năng lực đó quá mạnh và quá xấu thì cả tinh thần lẫn thể xác đều bị ảnh hưởng . Phần đông , khi một đệ tử quá gần gũi với thầy , như trường hợp của Moses đối với minh sư của ông , thì năng lượng này sẽ ảnh hưởng ông thầy rất là mạnh , ảnh hưởng một cách trực tiếp và rất khó mà chịu đựng nổi . Nhưng ông thầy dĩ nhiên là làm thinh không nói bởi vì không có chứng cớ , bởi vì Moses giữ yên lặng . Không ai biết ông đang âm thầm tấn công thầy ông bằng những tư tưởng chống đối kia ; ảnh hưởng của việc đó cũng mạnh mẽ như đánh đập ở bên ngoài vậy .

Nhím Hoàng Kim
11-04-2007, 09:11 AM
Con Chim Cứu Cả Khu Rừng



Bây giờ tôi muốn kể cho quý vị nghe một câu truyện cổ tích nhi đồng . Truyện này nói về một trong những kiếp trước của Phật Thích Ca . Có rất nhiều truyện nói về kiếp trước của Ngài , truyện này nói về lúc Ngài còn là một con chim két .

Ngày xưa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đầu thai là một con chim két tí hon . Con két này sống trong một khu rừng nhỏ . Nó sống rất là hạnh phúc , không một chút lo lắng gì cả . Ngoài việc tọa thiền ngày hai tiếng , nó chỉ bay quanh những đám mây và cây rừng , ca hát và nhảy múa . Những con thú khác trong rừng rất ưa thích nó , cho nên nó hay đi quanh quẩn thăm viếng bạn bè . Con nào cũng có đeo "thẻ" (Sư Phụ cười). Ở đó không có ai là người lạ . Cho nên đi tới đâu nó cũng chào hỏi mọi người . Nó cảm thấy rất may mắn và sung sướng được Thượng Đế cho nó biết bay !

Một hôm , bầu trời bỗng nhiên đầy mây đen và thế giới tối xầm lại . Rồi một tia sét chợt loé lên , từ trên không đánh xuống một thân cây khô héo . Thân cây lập tức bốc cháy , và những cỏ khô chung quanh cũng bắt cháy theo . Gió đưa ngọn lửa lan ra khắp chung quanh và chẳng bao lâu cả khu rằng trở thành một biển lửa . Thú vật chạy lung tung tìm chỗ tránh . Hoàn cảnh thật là bi thương , nhưng những con thú cũng không biết chạy phía nào , vì đang ở giữa rừng nên không có chỗ nào để chạy , chạy tới đâu cũng thấy lửa trờ tới . Chúng bị kẹt ở trong một bể lửa thật là đau đớn ! Có con không còn thở được nữa , chỗ nào cũng đầy khói và không đủ dưỡng khí .

Con két nhỏ này là tiền kiếp của Phật Thích Ca , nó lượng qua lượng lại . Nó bay vào chỗ lửa và khói , miệng la không ngừng vào máy phóng thanh : "Chạy lẹ lên ! Cháy , cháy ! Cháy phía kia . Chỗ đó không có lửa , nhanh lên !"

Nhưng khu rừng quá lớn mà chú két thì tiếng nói nhỏ quá , không ai nghe được . Gió thổi rầm rầm , lửa giăng mù mịt , cho nên giọng nói nhỏ bé của nó bị lửa và gió át đi . Nhiều con thú bị cháy và nghẹt thở mà chết trong đau đớn . Nó vẫn tiếp tục la : "Chạy nhanh tới dòng sông !" Nhưng nhiều con không chạy nổi đến đó .

Trong tình cảnh khẩn cấp như vậy , nó có ý kiến là dùng nước chửa lửa . Thế là nó bay đến dòng sông , nhúng mình xuống nước , bay trở lại , rỏ nước xuống khu rừng . Mặc dù biết rằng như vậy không đủ , nhưng nó vẫn cứ làm hoài , làm hoài như vậy . Nó tiếp tục nghĩ : "Ta phải cố gắng hết sức mới được".

Nó hy sinh chính bản thân mình , bay tới bay lui chỗ dòng sông , nhúng nước đầy mình rồi bay về rừng , rỏ vài giọt nước . Không ăn nhằm gì , nhưng nó vẫn làm , làm hoài , làm hoài , đến nỗi người nó đen thui , chảy mỡ . Thân nó đầy tro , trông giống một con quạ hơn một con két . Mệt lắm rồi mà nó vẫn tiếp tục làm như vậy . Nó tự nhủ : "Ta chỉ là một con chim nhỏ . Trong lúc nguy khốn như vầy biết làm sao hơn ? Ít ra ta cũng cố gắng hết mình . Ta sẽ bay cho tới khi nào ta chịu hết nổi mới thôi".

Lúc đó , các thiên thần trên trời đang uống rượu bồ đạo . Họ đang ngồi trên ngai vàng , trong cung điện nguy nga tráng lệ . Chỗ nào cũng có hào quang cho nên không cần đến điện . Họ đang vui cười , ăn uống (Sư Phụ cười) những cao lương mỹ vị của thiên đường và rượu bồ đào ngọt lịm . Họ ngà say nhưng rất sung sướng .

Bỗng nhiên thấy khói bay lên , họ hiếu kỳ mới nhìn xuống khu rừng đó và thấy một cái chấm nhỏ xíu màu đen , đang bay qua bay lại giữa dòng sông và khu rừng . Khó mà nhận ra được loại chim gì . Họ thấy nó nhúng mình xuống nước , rồi bay về rỏ nước xuống đám rừng đang cháy dữ dội kia .

Một hai người to miệng , vừa ăn thức ăn gia trì vừa la lên : "Ha ! Quý vị có nhìn thấy con chim nhỏ ngu muội kia không ? Nó điên mất rồi ! (Sư Phụ và mọi người cười). Mấy giọt nước trên cánh sao lại có thể dập tắt đám cháy khổng lồ kia được ? Ngu không thể tưởng tượng nổi ! Dĩ nhiên nó chỉ là một con két !"

Vừa nhìn họ vừa cười , họ thấy nó khôi hài quá . Nhưng một vị thần trong nhóm trông thấy chuyện xảy ra và rất lấy làm cảm động . Thế là vị này hóa thành một con chim khổng lồ tức thì bay xuống chỗ con chim nhỏ kia lúc nó vẫn còn bay qua bay lại rung đôi cánh cho rỏ nước xuống rừng cây .

Bỗng nhiên , con két nhìn thấy con chim lớn nọ ; nó chưa bao giờ thấy một con chim nào thật là đẹp như vậy . Hai cánh của con chim kia mang sắc cầu vồng . Mắt nó to và bóng như cái tách bằng sắt vậy ! Bên mình con chim tỏa ra một từ trường êm nhẹ đầy ái lực làm cho con két cảm thấy vô cùng dễ chịu . Tuy nhiên , nó vẫn không quên bổn phận của nó đang làm , vẫn tiếp tục rung cánh để thả nước xuống . Mặc dù rất mệt mỏi , nó vẫn bay đến dòng sông , nhúng mình xuống nước .

Con chim khổng lồ bay theo , nói : "Ê ! Con két nhỏ kia ! Đừng làm cái chuyện ngu muội đó nữa ! Hãy nghỉ đi ! Chớ vào khu rừng đang cháy đó ! Ngươi phải thức tỉnh trước khi quá trễ , nếu không ngươi chỉ có nước chết trong đó mà thôi !"

Con két không chịu nghe , nó đáp lại : "Tôi không có thời giờ . Ngay cả nghe quý vị nói cũng không có thời giờ . Tôi đang có việc quan trọng . Tôi phải làm bổn phận của tôi , và sẽ làm cho tới khi nào thân thể yếu đuối này không làm được nữa . Tôi không có thời giờ nghe quý vị nói !"

Rồi nó lại tiếp tục bay qua bay lại giữa con sông và khu rừng . Nó vẫn muốn dập tắc đám lửa và cứu những con thú đang mắc kẹt trong đó . Nó còn nói với con chim lớn rằng : "Bây giờ tôi không cần cố vấn (Sư Phụ cười). Tôi chỉ cần giúp đỡ , tôi cần nước . Tôi không cần những câu nói trống rỗng của một cố vấn".

Nó tiếp tục làm công việc của nó , không đếm xỉa gì tới con chim to lớn , đẹp đẽ ấy . Con chim lớn này , thật ra là một vị thần trên thiên đàng , rất lấy làm cảm động thấy chú két này hy sinh thân mình cứu những con thú dưới trần gian . Con chim lớn không thể tha thứ chính mình . Vị thần đó vô cùng hổ thẹn nghĩ rằng : "Mình làm được gì với những phước báu , hưởng thụ mà mình đang có ? Mỗi ngày chỉ ăn bánh , uống sữa , thưởng thức rượu đào , thật không ích lợi gì cho ai cả !"

Con chim lớn thấy con vật nhỏ bé này có tinh thần giúp đỡ và hy sinh , nên rất lấy làm hổ thẹn . Nó nhìn lên thiên đàng thấy thiên thần và những vị khác đang hưởng thụ . Họ đang nhìn xuống trần gian đầy đau đớn , buồn phiền này mà cảm thấy vui như đang coi kịch vậy . Nó nghĩ nó không nên sống như vậy . Nhìn con két nhỏ bé nhưng đầy lòng từ bi và có tinh thần hy sinh can đảm , nó nghĩ nên làm việc gì đó để cứu giúp con két . Như vậy có lẽ còn có ý nghĩa hơn là mỗi ngày cứ uống rượu , uống sữa , ăn bánh trên thiện đàng và không làm gì cả .

Những cái này chỉ là phước báu thiên đàng . Nhiều người tu hành để được lên thiên đàng , sống cuộc đời thoải mái , dễ chịu . Nhưng vị thần này nghĩ trên thiên đàng hưởng thụ phước báu hoài chán quá và điều đó càng khiến nó cảm thấy xấu hổ . Thế là nó quyết định giúp con két , nó tự nhủ : "Mình sẽ giúp con két này !"

Nó cảm động nhìn con két cố gắng giúp những con thú khác bớt đau đớn . Nó thấy thú vật chạy ngược , chạy xuôi , khổ sở vô cùng . Rồi nó cảm thấy rất là thương tâm , và bắt đầu khóc . Nó khóc hoài , khóc hoài ; nước mắt cứ chảy xuống như mưa vậy (Sư Phụ cười). Nó vừa khóc vừa bay tới bay lui , nước mắt rỏ xuống như mưa rào .

Trận cháy rừng được dập tắt một cách nhanh chóng . Con két nhỏ cũng được tắm trong mưa , và trở thành đẹp như trước . Nó thấy không cần phải làm gì nữa , và mọi thú vật đều ra khỏi tình trạng hiểm nghèo . Nó bắt đầu cười to và hát : "Go ! Go ! Go" (Sư Phụ và mọi người cười . Vỗ tay).

Những con thú thoát nạn đều biết tất cả đều là nhờ chú két nhỏ này . Chúng thấy con chim đó bay qua bay lại và biết vì thế mà có một vị thần cảm động bay xuống cứu . Tất cả thú vật đều ca hát , nhảy múa , vỗ tay , hoan hô con két . Sau đó tất cả sống với nhau suốt đời hạnh phúc , giống như trước ! (Sư Phụ cười . Vỗ tay).

Dù đây chỉ là chuyện nhi đồng , nhưng trong đó cũng có một vài điều mà chúng ta có thể học hỏi . Sống trong thế giới này , bất kể là đối với gia đình hay đất nước , chúng ta cũng phải làm bất cứ gì trong khả năng của chúng ta để giúp đỡ kẻ khác . Đó là bổn phận của chúng ta . Không cần nói tới những điều vĩ đại khác như là hòa bình thế giới , chúng ta chỉ cần làm công việc hàng ngày cho giỏi , như vậy là tốt rồi .

Cho nên quý vị hãy chăm sóc nhà cửa gọn gàng , đẹp đẽ để đón người trong gia đình trở về ; hãy cho con cái một môi trường sạch sẽ và giữ cho chúng được khoẻ mạnh , như vậy là quý vị làm tròn bổn phận trọng đại của mình . Đôi khi nếu thấy thiên tai chỗ nào đó , như lụt lội , động đất , hỏa hoạn , thì chúng nên cố gắng hết sức giúp đỡ , giống như những việc chúng ta vẫn làm . Đó là bổn phận của chúng ta . Có nhiều chuyện chúng ta không biết tới và không thể giúp được . Nhưng chúng ta hãy cố gắng làm những gì có thể làm được . Đừng nghĩ rằng : "Trên đời có quá nhiều đau khổ , có giúp cũng không biết đến bao giờ mới hết". Quý vị chỉ cần giúp đỡ những gì đang xảy ra trước mặt hoặc những chuyện quý vị biết đến là đủ rồi .

Nhím Hoàng Kim
11-21-2007, 05:58 PM
Nội Tâm Của Một Vị Thầy
Chuyện Một Con Chim


Sáng nay trước khi đi ra khỏi nhà , chúng tôi thấy một con chim . Chắc là nó bay lẹ quá nên đụng vào cửa kính , rồi rơi xuống chết ngay trước cửa nhà tôi . Đó là một chuyện buồn , nhưng có một chuyện khác còn thảm hơn . Bên cạnh nó còn có một con chim nữa , cứ đứng đó không nhúc nhích và đứng rất lâu , đứng hơn nữa tiếng đồng hồ cho tới khi chúng tôi phát hiện ra chúng . Nó đậu ở chỗ đó có lẽ vì nó muốn đợi con kia đứng lên rồi cùng bay với nó . Theo kiểu nó đưng như vậy thì đúng là bất động .

Bình thường , loài chim nếu đứng một chỗ , cái đầu nó cũng động đậy bên này , bên kia . Nhưng con chim kia đứng lặng đó như đã chết rồi , cứ nhìn đăm vào xác con kia . Có lẽ nó quá khủng hoảng tới nổi bất động , hay cũng có thể là nó đang nghĩ : "Sao không đứng dậy bay với tôi ?" Có lẽ nó cũng biết con kia chết rồi nhưng vẫn cứ đợi , rồi tự hỏi không biết con kia sẽ có bao giờ đứng dậy hay không . Trông nó như chết rồi , vì tôi bước qua bước lại bên cạnh nó lên tiếng gọi người khác , mà nó vẫn không nhúc nhích . Bởi vậy nên tôi gọi người kia : "Lại đây , chắc cả hai con chết rồi". Khi cô ấy đến gần , con kia mới chịu bay lên . Con chết vẫn nằm bất động . Thấy nó trung thành như vậy tôi cảm động quá đi . Con chết thì được sung sướng rồi ; nhưng con sống , chắc lúc đó đang đau lòng lắm , nhìn cách nó đậu chỗ đó đợi con kia bay như vậy . Chúng nó cùng nhau bay đến , tự nhiên một con bay xuống chết ; con kia thì cứ ngồi đó đợi . Ôi ! Tôi thật chịu không nổi hoàn cảnh đó .

Cho nên , đừng cho rằng mấy câu quý vị hỏi là nhỏ ; đối với tôi , nó không nhỏ , không có gì là nhỏ . Đối với cái nhìn của người trong cuộc , nó không nhỏ . Không biết con chim đó có tìm được bạn đồng hành khác không . Có lẽ nó sẽ bay lên , bay xuống chỗ đó coi con kia có đi mất chưa . Nhưng mấy nữ thường trú đã chôn nó .


Chuyện Con Ruồi


Còn một câu chuyện khác xảy ra hồi tôi còn ở bên Ấn Độ . Hai tháng trước tôi đi Ấn Độ nghĩ hè . Tôi trở về Hy Ma Lạp Sơn , nhưng lần này tôi thấy thất vọng quá . Chỗ nào chỗ nấy đều dơ bẩn , mất vệ sinh . Người ta làm nhà vệ sinh dọc theo suốt bờ sông , tôi không kiếm được một chỗ nào sạch sẽ mà ngồi thiền . Kinh quá ! Chỗ nào cũng vậy ; rồi còn ồn ào nữa . Hàng ngàn người đến đó hành hương , tôi nghe đủ các loại nhạc rẻ tiền . Tôi cũng đã ở lại đó thiền một hồi ; vì đã đến đò rồi nên tôi đành ở lại , chỉ có vật thôi .

Một hôm tôi đến nhà hàng kiếm một chút gì để ăn . Dĩ nhiên vì tôi chỉ có một mình nên không nấu nướng gì cả . Và ở chỗ đó thì , ồ ! không thành vấn đề , chỗ nào cũng có thức ăn chay . Trong nhà hàng , tôi thấy một con ruồi đang bị mắc vào mạng nhện bên ngoài một cửa sổ bằng kính . Thấy nó vùng vẫy tôi đau lòng quá , và dĩ nhiên là tôi cố gắng để cứu nó . Cửa sổ làm theo kiểu Ấn Độ , bị đóng đinh chặt quá nên tôi không mở được . Tôi cố dùng dao , nĩa mở ra , nhưng không có kết quả . Tôi có mở suốt nửa tiếng đồng hồ như vậy . Lúc đó , người ngồi bên cạnh tôi là một ông khách người Ý tôi mới quen trong một dịp tình cờ , ông nói với tôi rằng : "Mặc kệ con ruồi đi . Có gì quan trọng đâu nào ! Một con ruồi thôi mà có ăn nhằm gì !"

Tôi nói : "Không ăn nhằm đối với ông , nhưng đối với tôi nó có ăn nhằm . Sao ông phải xen vào làm gì ?"

Ông ta lắc đầu . Ông cố gắng thuyết phục tôi rằng đời sống của một con ruồi không có gì là quan trọng , nhưng cũng chẳng có kết quả gì . Hai chúng tôi nói chuyện một hồi lâu , trong khi đó tôi vẫn tiếp tục cố gắng với niềm hy vọng mong manh là có thể cứu được con ruồi . Trong khi trò chuyện , ông ta cứ bảo tôi mặc kệ nó , nhưng tôi trả lời : "Con ruồi có thể là không quan trọng , nhưng vấn đề là nó đang vùng vẫy trước mặt tôi , và tôi trông thấy . Nếu tôi có thể giúp được thì tôi nên giúp . Dù nó là một con ruồi hay một con người , thật ra có gì khác đâu ? Điểm quan trọng là sự vùng vẫy , nỗi đau khổ là cần phải được giải quyết . Ông cũng đừng bận tâm gì đến chuyện này . Tôi làm vậy là để giúp con ruồi và cả chính tôi nữa ; vì thấy nó đau khổ quá tôi cũng không chịu nổi".

Khi chúng tôi đang nói chuyện thì một người đàn ông Ấn Độ tiến tới . Ông ta xin phép được ngồi bên tôi . Tôi đáp : "Được chứ , đây là nhà hàng , ai cũng ngồi được (Sư Phụ cười). Sao lại phải hỏi tôi ?"

Ông nói : "Phải , vì tôi muốn nói chuyện với cô".

Tôi hỏi : "À , có chuyện gì ?"

Ông ta cố gắng giảng cho tôi hiểu rằng cuộc đời của một con ruồi không có gì quan trọng cả . Biện luận của ông có lý lắm , không nghi ngờ gì cả . Ông nói : "Xin lỗi cô , nhưng cô nên nhớ rằng ngay bây giờ , ngoài kia , khắp mọi nơi trên thế giới , hàng ngàn , hàng triệu con ruồi đang chết như vậy tại sao cô lại để ý tới một con ruồi nhỏ xíu này ?"

Tôi trả lời : "Phải , vì nó sắp chết trước mắt tôi , còn hàng ngàn chúng sinh khác thì tôi không thấy . Tôi không thể giúp cho hàng ngàn chúng sinh mà tôi không biết , nhưng ngay đây tôi giúp được những con mà tôi biết . Nếu nói như ông thì chúng ta cũng có hàng ngàn , hàng triệu người chết đi mỗi ngày . Sao còn phải lo gì nữa ? Ngay cả cuộc đời của mình , sao chúng ta phải lo ? Nếu nói như vậy thì cứ nhịn ăn cho đến chết đi cho rồi . Hoặc giả cũng đừng nuôi nấng con của mình nữa , vì có hàng ngàn trẻ em đang chết đói ở Phi Châu kìa . Theo lý luận đó , tại sao chúng ta phải lo cho một hoặc hai đứa trẻ ở đây ?"

Nhưng ông ta không được vui lắm . Ông cứ ráng giảng nghĩa thêm cho tôi . Không biết tại sao . Tôi vô cùng khổ tâm nhìn con ruồi phải vùng vẫy để sống còn như vậy . Rồi người ấy lại nói với tôi : "Nhưng cứu con ruồi đó là cô lấy đi thức ăn của con nhện".

Tôi nói : "Phải , phải , nhưng con nhện đó đi rồi . Con nhện không còn ở đó nữa".

Ông ta nói : "Sao cô biết ?"

Tôi đáp : "Bởi vì ông thấy đó , màng nhện gần hư hết rồi , và còn có mấy cái xác hãy còn nguyên vẹn , không có con nào ăn . Ông thấy không , chỗ đó rất nhiều gió và nhện không thể ở chỗ ấy được lâu . Nó đã đi rồi . Ở đó có nhiều màng nhện , nhiều xác , nhưng không ai được lợi ích gì . Cho nên , nếu tôi cứu con ruồi đó , không có hại gì cho con nhện . Dù nó hãy còn ở đó đi nữa , nó cũng vẫn còn nhiều lương thực , quá nhiều cho nó rồi , không cần them một nạn nhân nữa . Chúng ta chỉ nên ăn khi đói và lấy khi cần".

Cuối cùng họ đành phải mặc tôi một mình . Thế rồi họ bỏ đi , và như vậy là hết chuyện .

Quý vị thấy không , tôi đâu phải là người không có tình cảm . Điều đó làm cho công việc của tôi càng khó hơn , nhưng tôi vẫn sống sót được . Có lẽ chỉ là chết mới một nửa chứ chưa chết hết . Tôi có tất cả những tình cảm mà quý vị có . Hơn nữa tôi biết đó chỉ là những cảm xúc nhất thời bị khơi dậy của đầu óc . Tùy vào tình huống , đôi khi tôi giữ nó để sống còn trong thế giới này , đôi khi tôi đè nén nó , đôi khi tôi lờ nó đi . Tôi phải giữ tất cả những tình cảm của con người . Tôi phải ở cả hai chỗ , trái đất và thiên đàng . Nếu tôi ở cao quá , quý vị sẽ không thể đến với tôi được , và tôi cũng thể hiểu được quý vị .

Trong Phật Giáo , có một cuốn kinh gọi là Kinh A Di Đà . Trong kinh đó , Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mô tả cái đẹp của cõi Tịnh Độ . Trong cõi Tịnh Độ này , ngoài khung cảnh đẹp đẽ , nhà cửa quý giá (làm bằng pha lê , kim cương , đủ loại đá quý), đủ thứ bông hoa quý và đẹp , đủ loại người lộng lẫy , quý phái sống ở đó , còn có nhiều những thứ khác . Tất cả đều tuyệt vời .

Nhưng có một điều vô cùng đặc biệt rất đáng đề cập đến . Đó là , trong cõi đó , người ta không bao giờ nghe tới tiếng "khổ", chưa hề có cái chữ "khổ", huống chi biết khổ là gì . Nếu những người đó hoặc vị Phật đó muốn hiểu nỗi đau khổ của thế giới này , thì chính họ phải trải qua sự đau khổ . Nếu cảnh giới của họ luôn luôn ở nơi Tịnh Độ , thì họ sẽ không bao giờ nghe tới chữ "khổ", huống chi là biết khổ .

Cho nên nếu người nào nói quý vị là Phật vượt trên khỏi đau khổ , vượt trên khỏi tình cảm , thật sự họ không biết Phật là gì .

Nhím Hoàng Kim
11-22-2007, 06:58 PM
Cô Gái Chọn Ông Vua



Tại Ấn Độ có một câu chuyện nói về một vị vua . Ông là một người rất tốt và thương yêu dân .

Một hôm , ông bày tất cả của cải , châu báu của ông ra để tặng cho đại chúng . Người nào cần cái gì cứ việc tới lấy tự do tại chỗ trưng bày , mà không cần chịu một điều kiện gì cả . Ông không có con cái , không thân bằng quyến thuộc , nên ông thương dân như thương người trong gia đình vậy .

Mọi người đến lấy những món họ thích . Nhưng có một cô gái , cô đến và đi thẳng ra phía sau , chỗ nhà vua đang bày của cải . Cô đặt tay lên vai nhà vua và hỏi rằng : "Lấy Hoàng Thượng cũng được phải không ?"

Ông vua ngạc nhiên nói : "Sao vậy ? Nàng không thích lấy những món đồ ta để ngoài kia sao ?"

Cô gái đáp : "Không tôi chỉ thích Ngài thôi" (Sư Phụ cười).

Dĩ nhiên , ông vua rất sung sướng là có người thích ông , vì chính cá nhân ông mà không phải vì kho tàng của ông . Ông vua bằng lòng , họ kết hôn với nhau và sống với nhau trọn đời hạnh phúc ; và đáng được như vậy đó .

Cô gái đó không muốn gì cả , nhưng trọn quốc gia bây giờ là thuộc về cô ta , kể cả dân chúng của nhà vua và tất cả của cải của ông .

Nhím Hoàng Kim
11-26-2007, 05:24 PM
Tình Thương Và Lòng Thù Hận



Xưa kia có một ông vua tên là Chang-Shou , tiếng Trung Hoa có nghĩa là Trường Thọ . Tuy nhiên , bây giờ ông không còn sống nữa . Cho nên quý vị thấy rằng thế giới này không có gì là vĩnh cửu cả (Sư Phụ cười). Này đó , vua Trường Thọ đi du hành trong kinh thành . Sắc mặt của ông có vẻ lo lắng vì đất nước sắp sửa có chiến tranh với một quốc gia láng giềng .

Nhà vua rất thương dân và là người rất tài giỏi , thông minh và sáng suốt . Ông không muốn dân chúng phải bị sát hại một cách tàn nhẫn vì chiến tranh , và không muốn thấy loài người phải bị đổ máu và chết chóc , cho nên ông vô cùng do dự và cố gắng để tránh tình trạng này . Nhà vua đi qua , đi lại trong kinh thành , nghĩ đến những điều không may sắp xảy ra trong tương lai . Những viễn tưởng này làm cho ông vô cùng lo sợ , buồn bã đến như là muốn khóc vậy .

Rồi ông nhớ lại lời của một vị đại thần trung thành nói rằng : "Khải tâu Hoàng Thượng , xin ngài đừng e ngại . Chúng ta có một quân đội hùng mạnh , được huấn luyện kỹ càng . Đất nước của chúng ta cũng rất giàu mạnh . Thần tin chắc chúng ta sẽ đương đầu nỗi với bọn chúng . Xin ngài đừng e ngại gì cả . Chúng hạ thần đã sẵn sàng và đang chờ lệnh của ngài".

Nhà vua càng suy gẩm càng cảm thấy đau lòng hơn , và càng do dự hơn . Từ khi lên ngôi tới nay , chưa bao giờ vua dùng sức mạnh gươm đao để trị vì quốc gia của ông . Ông cai trị nước của ông bằng tình thương , cho nên đất nước của ông rất thanh bình và thịnh vượng . Dân chúng rất thương yêu và kính trọng nhà vua phần nhiều là vì tình thương và đức tính cao cả của ông , cũng như hệ thống trị nước của ông . Cũng vì lý do đó , quân đội trong nước không được mạnh mẽ , hùng hậu cho lắm . Ông không có lòng tin là mình sẽ thắng trận .

Chưa bao giờ ông nghĩ tới việc xâm lăng hay gây chiến vơi nước khác . Ông không biết làm sao để đối phó với tình trạng trước mắt . Hiển nhiên nếu đem quân đội ra trận , cũng chưa chắc gì thắng nữa . Hơn nữa , nếu chiến tranh xảy ra , thì sẽ có người tử vong ; người thân bị chết sẽ làm cho nhiều gia đình tan nát . Chiến tranh sẽ gây ra rất nhiều nguy hại cho quốc gia và dân chúng . Sau chiến tranh , chắc chắn sẽ có trẻ mồ và góa phụ . Ông nghĩ đến những đứa trẻ ; chúng có tội tình gì mà phải chịu những đau khổ , tàn nhẫn của chiến tranh ?

Ông cứ nghĩ đến chuyện này và cảm thấy vô cùng đau xót . Ông quyết định ra đi . Ông muốn tìm một cái gì đó quý báu hơn tài sản , địa vị ở đời . Ông định giao trọn quốc gia cho quân địch . Có lẽ ông muốn ngồi thiền , được thọ pháp và ăn chay . Nghĩ rồi ông đi khắp cung điện để nhìn hoàng tử con trai ông và những cung thê , myc nữ một lần cuối . Họ vẫn say sưa ngủ , không biết ngày mai quốc gia sẽ đổi chủ .

Vua đến phòng hoàng tử để nhìn con lần cuối . Tên nó là "Chang-Shen", tiếng Trung Hoa có nghĩa là Trường Sanh . Người "Trường Sanh" không còn nữa và người "trường thọ" cũng hết thọ luôn . Nhà vua chăm chú nhìn con . Hoàng tử đang gục đầu trên bàn ngủ sau nhiều giờ đọc sách . Đứa con một này là nguồn an ủi duy nhất , là niềm vui của ông sau khi hoàng hậy qua đời . Bỗng nhiên hoàng tử tỉnh dậy . Trông thấy cha , chàng cất tiếng chào .

Vua nói với con rằng : "Này con , nước bên cạnh đã xâm lăng nước chúng ta và họ đang tính cướp ngôi và chiếm nước của mình . Nhưng cha không muốn dân chúng bị đẩy vào vực sâu đau khổ , chỉ vì cha muốn giữ ngai vàng . Chiến tranh sẽ gây đau khổ cho người dân nước bên kia , sẽ gây thiệt hại , thương vong cho đất nước của chúng ta , không tốt cho dân chúng của hai nước . Cho nên , cha đã quyết định nhường ngôi lại cho ông vua nước láng giềng . Chúng ta hãy lên núi tu hành".

Nghe vậy , hoàng tử không cầm được nước mắt . Tôi nghĩ chàng ta hãy còn thèm kẹo sô cô la trong cung điện , thèm thức ăn gia trì , vân vân ... Đi lên núi rồi tìm đâu ra được đồ ăn gia trì ? Chắc chắn sẽ không có kẹo thạch sương để ăn nữa . Cũng có thể hoàng tử sẽ rất nhớ nhà , nơi mà chàng đã sinh ra và lớn lên . Từ trước tới giờ chưa bao giờ hoàng tử phải chịu khổ cực . Nhưng khi nghe cha nói như vậy , chàng biết ngày tháng huy hoàng sắp sửa sẽ không còn nữa ; và kể từ nay , chàng sẽ phải chịu đựng nhiều cực khổ và làm việc nặng nhọc .

Ông vua và hoàng tử nắm tay nhau ra đi về phía rặng núi . Sau đó ông ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề , tu pháp môn Quán Âm . Có lẽ là như vậy . Trong thời gian sống ở đó , họ không còn nghe tiếng nói của một người nào khác ; dần dần rồi họ cũng quen với nếp sống như vậy và càng ngày càng cảm thấy dễ chịu hơn , không còn tiếc nuối cuộc sống huy hoàng trong quá khứ nữa .

Mỗi ngày hoàng tử đi vô rừng kiếm trái cây và rau dại ăn được mang về cho cha . Một ngày kia , hoàng tử lại đi nữa , để lại vua cha một mình ngồi thiền . Bỗng nhiên , nhà vua nghe thấy tiếng người từ đâu la hớt hải : "Ông ta kìa , ổng kìa ! Ông ta là nhà vua đó !"

Rồi có một người đàn ông nhỏ , vừa gầy vừa xấu , từ bụi rậm chạy ra . Người đó nói với vua rằng : "Hoàng cung đã bị kẻ thù xâm chiếm . Nhiều bậc trung thần đã tự vận để tỏ sự trung thành . Những người còn lại đều từ quan về quê làm ruộng . Vua láng giềng ra lệnh tầm nã hoàng thượng và hoàng tử . Dân chúng đang chịu rất nhiều đau khổ , không biết bao giờ thảm cảnh này mới dứt . Tôi đã đi tìm ngài khắp nơi trong nước . Hôm nay tìm thấy được , tôi thật là mừng quá .

Nghe vậy , nhà vua vô cùng đau khổ , bật khóc và hỏi : "Dân chúng chịu đau khổ cùng cực như vậy chỉ vì ta bỏ đi hay sao ?"

Người kia đáp : "Thưa phải , vì ngài chạy thoát , vua nước địch ra lệnh bắt bớ , tra khảo , hành hạ dân chúng rất nặng nề để điều tra xem ngài đi đâu , nhưng không ai biết cả . Nhà vua này nghi ngờ là dân chúng đang dấu ngài ở chỗ nào đó , cho nên hắn đánh đập người ta rất là tàn nhẫn . Ông còn hứa sẽ thưởng hậu hỹ cho người nào tiết lộ hành tung của ngài".

Nói đến đó người kia nắm lấy tay vua Trường Thọ và nói : "Ngài đi với tôi ngay bây giờ . Tôi muốn được lãnh thưởng". Nhà vua đẩy người gầy ốm đó ra , hắn té xuống đất . Ngài sắp sửa trách hắn một trận , nhưng rồi lại nghĩ : "Sao nỡ lòng để dân chịu đau khổ vì ta ? Thân thể này dù sao cũng chỉ là tạm bợ mà thôi !"

Dù tên là Trường Thọ , ông nhận thấy cuộc sống là vô thường . Ông nghĩ : "Ta có thể giữ thân thể này ngày hôm nay , nhưng đến mai rồi nó cũng sẽ tàn . Nếu trở lại cho địch thủ bắt , ta có thể cứu được rất nhiều người dân vô tội".

Ông vua vỗ vai người kia và nói : "Thôi được , nhà ngươi có thể đem ta về , như vậy ngươi sẽ được thỏa mãn và nhiều người khác cũng được an thân".

Nhà vua không chống cự nữa . Sau đó ông dùng đá khắc lên trên cây vài lời giã từ con trước khi đi . Ông sợ hoàng tử sẽ vô cùng lo lắng khi trở về không thấy cha . Nhà vua viết : "Cha đã bị bắt đem về kinh . Con hãy ở lại đây tiếp tục tu hành".

Sau khi dặn dò con phải tiếp tục tu hành thay vì vì chạy theo ông , nhà vua đi theo người kia . Người đàn ông nhỏ bé này tiếp tục hối nhà vua phải đi nhanh hơn . Ông này quả là một người u minh . Tình cảnh như vậy mà vẫn không cảm thấy xúc động gì cả . Đầu óc độc ác của hắn không hiểu thông suốt được như người tu hành . Sự ham muốn giàu sang đã làm cho mắt hắn mù đi , che đậy mắt của hắn lại và làm cho đầu óc hắn tối tăm .

Sau đó không lâu , hoàng tử từ trong núi đi ra , hai tay bưng một rổ đầy rau và trái cây đã hái về cho vua cha , nhưng không tìm thấy đâu . Chàng gọi nhưng không nghe tiếng trả lời . Bỗng nhiên , hoàng tử nhìn thấy được những hàng chữ viết trên cây . Chàng òa lên khóc .

Vua cha của chàng không còn ham muốn phú quý trần gian nữa . Ông đã trôi dạt đến đây và trở thành một người tu hành . Ông tỉnh tu dưới gốc bồ đề , không còn hứng thú đến việc trần gian , không còn khao khát giàu sang phú quý trên đời , cũng không còn muốn đoạt lại ngôi vua nữa . Ông làm như vậy chỉ vì muốn giảm bớt những giết chóc tàn nhẫn của quân thù đối với dân chúng của ông . Để làm vơi bớt đau khổ nhọc nhằn cho dân chúng , ông đã không ngần ngại từ bỏ ngai vàng . Vậy mà cũng còn có người đến bắt và muốn giết vua . Hoàng tử cảm thấy thế nhân thật quá ác độc ác và hung dữ không thể tưởng tượng được .

Ông vua và hoàng tử sống tại một nơi hoang vắng , không một bóng người , chỉ ăn trái rừng và uống nước suối qua ngày , cuộc đời bình thản như vậy , mà người ta vẫn tới bắt đem đi giết . Hoàng tử khóc lóc , không hiểu tại sao thế nhân lại tàn nhẫn như vậy .

Khi vua Trường Thọ bị đưa về kinh , vua láng giềng không chần chờ gì cả , vội chuẩn bị sửa soạn thiêu sống ông . Người trong nước đến tụ họp chung quanh chỗ hành hình , họ buồn rơi nước mắt vì họ biết ông là một vị vua tốt và rất thương dân . Người ta khóc không phải chỉ tiếc vì nhà vua phải chết , mà còn tiếc phải mất đi một người hiền lành , tử tế , có đạo đức , có tình thương . Hoàng tử lẩn trong đám người đang khóc lóc buồn bã đó . Chàng không thể không đến nhìn cha một lần cuối , dù biết rằng cha muốn mình ở lại trên núi để tiếp tục tu hành .

Hoàng tử không dám khóc lớn tiếng , mà chỉ ra dấu bằng tay cho cha biết là mình đang có mặt ở đó . Đang lúc đó quân lính đốt lửa . Vua Trường Thọ sắp tới giờ phút lìa đời . Nhưng khi trông thấy hoàng tử đứng đó ánh mắt đầy căm hận , nhà vua vô cùng lo lắng , sợ chuyện không may sẽ xảy ra , vì ông đọc được trong tâm hoàng tử như muốn nói rằng thế nào chàng cũng sẽ trả thù cho cha . Vua Trường Thọ cố gắng khuyên con .

Sắp chết tới nơi rồi mà ông vẫn rán dạy con . Nhưng ông không dám nhìn thẳng về phía hoàng tử đang đứng , mà chỉ ngẩn mặt lên trời mà nói : "Trường Sanh , con phải dùng tình thương để xóa bỏ hận thù . Con không nên dùng gươm đao để báo oán . Hãy sống một cuộc đời như Đức Phật hoặc Bồ Tát , với tình thương , lòng khoan dung ; đừng nghĩ tới hận thù hay bạo lực". Rồi nhà vua chết thiêu trong đám lửa .

Hoàng tử quá giận dữ , đau lòng mà ngất xỉu . Lúc đó chàng mới mời bốn tuổi . Còn trẻ mà phải chứng kiến cảnh cha mình bị chết một cách đau khổ , chắc quý vị cảm nhận được tâm trạng của chàng khi chứng kiến cha mình bị giết một cách tàn nhẫn như vậy . Dĩ nhiên hoàng tử khó mà cam lòng cho được . Càng nhớ tới cái chết của cha , chàng càng muốn báo thù . Hoàng tử nghĩ : "Người kia xâm chiếm lãnh thổ lại còn giết cha ta nữa . Ta phải trả thù hắn mới được . Ta phải trả thù !"

Trong đầu hoàng tử ngoài việc trả thù không còn một ý nghĩ gì khác . Càng bị đói lạnh , càng khổ cực , hoàng tử lại càng căm hận và muốn báo thù . Chàng suy tính những kế hoạch để có thể đến gần vua địch , càng gần càng tốt .

Theo kế hoạch đó , hoàng tử lên đường trở về kinh thành kiếm công ăn việc làm . Mau thay hoàng tử vô tình gặp được một ông đại thần nước địch ; ông này thấy chàng khôi ngô tuấn tú và khoẻ mạnh , liền mướn về giúp việc trồng rau , tưới hoa và săn sóc vườn tược . Hoàng tử rất thông minh và chăm chỉ làm việc . Chẳng bao lâu sau , mọi người trong gia đình vị quan này đều thương mến chàng . Vị quan này và tất cả những người phụ tá của ông đều rất tin tưởng và yêu thích hoàng tử . Họ quý mến và giao phó cho hoàng tử nhiều công việc . Vị quan này hoàn toàn không biết chàng trai trẻ kia là Hoàng Tử Trường Sanh , vì chàng hóa trang rất giỏi .

Một hôm , vị quan hỏi hoàng tử rằng : "Ngươi có tài năng gì khác ngoài những tài năng mà ta đã thấy không ?"

Hoàng tử đáp : "Tôi còn nấu ăn giỏi lắm".

Quả thật chàng nấu ăn rất ngon . Chàng nấu còn ngon hơn những tay đầu bếp khác trong nhà vị quan này . Nhờ đó , chàng càng được ông thương mến hơn nữa . Vì rất hãnh diện đối với hoàng tử Trường Sanh , ông mời nhà vua tới dùng bữa , dự định là sẽ khoe người nấu bếp giỏi và thông minh của ông . Tới ngày đó , hoàng tử muốn nhân dịp may này cố gắng dùng hết tài nghệ nấu cho nhà vua ăn những món ăn hết sức tuyệt vời . Tôi không biết những món đó là mặn hay chay . Ông vua mới này vô cùng cảm phục hoàng tử Trường Sanh , vừa trẻ tuổi lại vừa nấu ăn giỏi . Nhà vua liền nói với vị quan : "Hãy đưa người này đến cho ta".

Ông vua yêu cầu vị quan cho hoàng tử Trường Sanh đến làm người đầu bếp của ông và giữ bên cạnh ông . Dĩ nhiên vị quan này không dám từ chối lời yêu cầu đó ; ông không còn cách nào hơn là cho nhà vua viên phụ tá mà ông quý mến và tin tưởng nhất . Thế là hoàng tử Trường Sanh trở thành đầu bếp của nhà vua . Để được vua tín cẩn nhiều hơn nữa , hoàng tử mỗi ngày cố gắng làm vua vui vẻ , sung sướng và nấu ăn thật ngon cho ông . Chàng đảm đương mọi việc một cách rất chu toàn để phục vụ cho vua và nhờ vậy càng ngày chàng càng được nhà vua thương mến hơn .

Hoàng tử Trường Sanh rất tinh khôn , tài giỏi cho nên nhà vua rất thích . Sau đó hoàng tử trở thành cận vệ của vua và là người mà nhà vua tin tưởng nhất . Hầu như việc gì ông cũng hỏi ý kiến Trường Sanh . Nhờ sinh trưởng trong cung điện , hoàng tử thông thạo nhiều điều và biết luật lệ trong triều . Hoàn cảnh nào chàng cũng đối phó được .

Một hôm , ngày mà hoàng tử mong muốn đã đến . Hôm đó , nhà vua cùng hoàng tử đi săn . Nhà vua mãi mê săn đuổi một con thú nên càng lúc càng đi sâu vào một rặng núi xa . Vì nhà vua cưởi con ngựa tốt nhất cho nên cả đoàn tùy tùng không ai đuổi theo kịp ngài . Nhà vua và hoàng tử Trường Sanh đuổi theo con mồi và đi thật sâu vào rừng núi . Hoàng tử tuy biết được lối ra nhưng chàng cố tình dẫn nhà vua đi lạc rồi giả bộ như không biết đường về .

Mãi đến đêm về , họ vẫn không không tìm được lối thoát . Nhà vua vì mệt quá nên nằm xuống nghỉ . Chung quanh , cây cối rậm rạp , đường mòn nhỏ hẹp quanh co nhiều hướng khác nhau . Hoàng tử Trường Sanh đứng bên cạnh , cầm kiếm "bảo vệ" vua . Cơ hội hiếm có của hoàng tử Trường Sanh bây giờ đã đến . Trường Sanh nhìn kẻ thù đang say ngủ bên cạnh , trong đầu đột nhiên lại vang lên tiếng nói : "Hắn giết cha ngươi , cướp ngai vàng của ngươi . Hãy mau mau giết hắn ! Ông vua này tuy không tu Pháp Môn Quán Âm nhưng cũng sắp sửa được giải thoát ! Cứ việc dùng gươm cắt hắn ra hai mảnh là xong !"

Nhưng rồi hoàng tử Trường Sanh lại lưỡng lự . Chàng chợt nhớ tới lời khuyên của cha , nhưng tiếng nói trong đầu lại vang lên một lần nữa : "Còn chần chờ gì nữa ? Hãy giết hắn mau !"

Đầu óc là như vậy đó . Nó hay xúi giục chúng ta làm những việc không tốt , đúng không ? Dù là người tu hành như Trường Sanh cũng không tránh khỏi . Hoàng tử cảm thấy bất công , vì còn nhỏ tuổi mà đã phải chứng kiến những chuyện không hay xảy ra cho vua cha .

Hoàng tử Trường Sanh rút kiếm ra chuẩn bị . Chàng không phải là sắp cắt cỏ , mà sắp sửa đâm vào mắt trí huệ của nhà vua . Bỗng nhiên lúc đó hình ảnh vua cha lúc sắp chết cháy một cách thảm thiết lại hiện ra . Với ánh mắt đầy nhân từ , nhà vua nói rằng : "Con ơi , hãy lấy tình thương xóa bỏ hận thù . Con nên theo con đường của Đức Phật , tập tính khoan dung và thương yêu kẻ khác . Con không nên đối xử tàn nhẫn".

Nghĩ tới đó , lòng chàng mềm đi vì tình thương và tự nhủ : "Tại sao ta lại không nghe lời dặn của phụ hoàng lúc lâm chung ? Nếu không vân lời tức là ta mang tội bất hiếu . Phụ hoàng rất từ bi và nhân hậu . Ta phải theo gương của phụ hoàng thay vì làm ngược lại". Nghĩ vậy , hoàng tử chậm rãi tra gươm vào vỏ , rồi đứng đó mà khóc .

Lúc đó ông vua mở mắt dậy , nói với hoàng tử Trường Sanh : "Ta mới trải qua một cơn ác mộng . Có người đang muốn giết ta".

Hoàng tử Trường Sanh đáp : "Có lẽ vì ngủ dưới đất lạnh nên ngài có ác mộng đó . Đã có tôi hộ vệ , không ai dám giết ngài đâu".

Ông vua cảm thấy an tâm , và nằm xuống tiếp tục ngủ còn hoàng tử Trường Sanh thì tiếp tục đứng canh . Một lúc sau , chàng lại nghĩ tới cái chết thê thảm của cha , rồi lòng căm hận lại nổi dậy . Đầu óc chàng lại xúi giục : "Giết hắn ! Giết hắn ! Giết hắn ! Hắn giết cha ngươi , ngươi phải trả thù !"

Đầu óc cứ xúi giục mấy lần như vậy . Chàng rút gươm ra , đưa cao lên rồi hạ xuống đầu ông vua .

Lúc đó lời vua cha lại vang lên một lần nữa : "Con không được ác độc như vậy . Con phải lấy tình thương xóa bỏ hận thù , vân vân ..."

Không chịu nổi sự giằng co trong lòng , hoàng tử hét lên một cách giận dữ , rồi nhìn đăm đăm vào mặt nhà vua vẫn còn đang say giấc mà nói rằng : "Ngươi là kẻ thù không đội trời chung với ta nhưng hôm nay ta tha thứ cho ngươi ... Vì phụ hoàng ta , vì lòng nhân hậu của người mà ta tha thứ cho ngươi !"

Nói rồi hoàng tử tra kiếm vào võ cho "nghỉ" luôn , từ đó không bao giờ rút ra nữa . Tình thương đã thắng hận thù . Vừa lúc đó , ông vua bỗng nhiên tỉnh dậy . Ông luôn luôn tỉnh dậy đúng lúc , vừa sau lúc suýt mất mạng . Ông nói : "Ta vừa mới trải qua một cơn ác mộng nữa . Ta thấy con của ông vua cũ tha tội cho ta . Nó không muốn trả thù nữa . Ngươi có biết ý nghĩa của giấc mộng đó là gì không ?"

Hoàng tử Trường Sanh nước mắt đầm đìa đáp : "Tôi chính là con trai của ông vua trước . Lúc cha tôi bị ông thiêu sống , người có dặn tôi đừng lấy oán trả oán , mà phải lấy tình thương xóa bỏ hận thù . Người muốn tôi theo con đường tình thương của Đức Phật , và dùng tình thương đối xử với mọi chúng sinh . Tôi định giết ngài , nhưng khi nhớ đến lời răn đó thì lại không làm được".

Nhà vua nghe được cảm thấy rất xúc động và bắt đầu thấy ăn năn hối hận . Ông ôm chầm hoàng tử Trường Sanh rồi khóc . Hai người cùng ôm nhau mà khóc . Vua nói : "Được , ngươi hãy giết ta đi để trả thù cho cha ngươi . Ngươi không cần phải giằng co gì cho đau khổ thêm nữa".

Bản tính đanh thép của vua bỗng tan biến đi . Ông cảm thấy khai ngộ được một chút , và sẵn lòng để hoàng tử Trường Sanh giết . Ông không muốn hoàng tử bị giằng co nữa , điều này cho thấy ông cũng có tình thương , cho nên đã làm cho hoàng tử Trường Sanh cũng thấy cảm động . Chàng nói : "Thưa ngài , không . Tôi sẽ không giết ngài . Làm thân cầu cận , tôi không dám , xin ngài hãy trừng trị tôi".

Thế rồi hai người quyết định không giết nhau và ngồi đó để tỉnh tâm . Chợt nhiên cả hai đều thức tỉnh . Khi mặt trời ló dạng , tâm họ cũng không còn bóng tối nữa . Ánh sáng tình thương , khoan dung như đang chiếu rọi toàn thế giới . Nhà vua ôm đầu , nghĩ đến những tội lỗi nặng nề mà ông đã làm và cảm thấy vô cùng hổ thẹn trước lòng cao thượng và khoan dung của hoàng tử Trường Sanh . Bỗng nhiên ngộ được điều đó , nhà vua cảm thấy rất là thích thú . Ông trở nên sáng suốt hơn và nói với hoàng tử rằng : "Này người cận thần yêu quý , hôm nay ta mới thật sự tìm ra một điều đẹp nhất trên đời . Chiến tranh , thù hận đều là tội lỗi và độc ác . Chỉ có tình thương mới thật là kho tàng quý báu".

Sau đó hoàng tử Trường Sanh đưa vua ra khỏi khu rừng . Nhiều vị quan đại thần vẫn còn ở đó trong lòng lo lắng không biết vua đã đi đâu . Khi vua và hoàng tử Trường Sanh trở về đến kinh thành , vua hỏi các quan rằng : "Có ai biết hoàng tử của vua cũ ở đâu không ?" Dĩ nhiên là không ai biết cả . Vua cầm tay hoàng tử Trường Sanh giơ lên cao và nói : "chính là người này ! Người này là hoàng tử của vị vua trước và cũng là thầy của ta . Hắn không giết ta mà còn cho ta một bài học quý giá . Nhờ hắn , ta mới biết được đức tính cao thượng của vị vua cũ . Ta muốn noi gương của người này".

Nhà vua trao trả ngai vàng cho hoàng tử Trường Sanh rồi trở về nước của ông , lấy tình thương để trị dân . Hoàng tử Trường Sanh tiếp tục noi gương tình thương và lòng nhân hậu của vua cha để an dân trị quốc . Đất nước càng ngày càng trở nên hòa bình , thịnh vượng . Trên thế giới chúng ta lại có thêm một vùng đất bớt đau khổ ; thêm một nơi sáng sủa , hòa bình . Câu chuyện chấm dứt ở đây .

Theo lời của Phật Thích Ca Mâu Ni , một trong những kiếp của Ngài là vua Trường Thọ . Hoàng tử Trường Sanh là ngài Anan và vua nước địch kia là kiếp trước của Đề Bà Đạt Đa . Thảo nào ông luôn luôn muốn hại Phật Thích Ca . Kiếp nào ông cũng muốn giết hại Ngài . Phật Thích Ca đi tới đâu Đề Bà Đạt Đa cũng muốn theo để giết .

Nhím Hoàng Kim
11-27-2007, 09:41 PM
Tai Hoạ Bắt Đầu Ở Miệng



Hồi xưa , ở một nơi nọ có một cái hồ nước . Bên cạnh hồ , có một con rùa và hai con chim hồng hạc sống chung làm bạn với nhau . Năm đó trời hạn hán , không có một chút nước nào . Một năm trôi qua mà không có một giọt mưa ; nước hồ càng ngày càng cạn dần . Mặt trời dường như càng ngày càng nóng hơn thường lệ . Tất cả cây cỏ đều đổi sang màu cà phê , có loại trở thành màu đen . Vì nước có quá ít , mặt trời quá oi bức , thành ra nước hồ rất , rất là nóng , và vì thế những con vật sống trong hồ từng con từng con một đã dần dần trở về thượng giới .

Bấy giờ , trong tình cảnh như vậy , chú rùa này rất bồn chồn áy náy ; trong đầu luôn luôn nghĩ đủ mọi cách nhưng không biết làm sao . Nó rất muốn được giải thoát ra khỏi tình trạng này . Nó cứ nghĩ hoài nghĩ mãi ! May thay , một hôm hai vợ chồng chim hạc đến thăm . Thấy chú rùa đưa bộ mặt Phật buồn ảo não như vậy ra , vợ chồng hạc bèn hỏi một cách rất thân mật , lo lắng , ân cần , tha thiết : "Có chuyện gì thế ? Anh có sao không ? Tại sao trông anh thiểu não vậy ?"

Chú rùa đáp : "Ồ ! Ồ ! Quý vị không biết ! Tôi đang ở trong tình trạng vô cùng nguy ngập ! À ... tôi nghĩ tôi sắp ... chết rồi . Chắc tôi sẽ không bao giờ gặp quý vị nữa . Ơ ... !"

Con hạc trống chặn lời : "Chúng ta là bạn thân với nhau từ lâu . Bao lâu nay , chúng ta đã từng chia xẻ buồn vui với nhau . xin cho chúng tôi biết chuyện gì đã làm cho anh buồn bã , lo lắng như vậy , chúng tôi nhất định sẽ cố gắng hết sức giúp anh , cứu anh ra khỏi tình cảnh khổ đau đó . Chúng tôi không biết vấn đề gì đã làm anh khổ tâm , thất vọng như vậy . Anh không nên như thế . Vấn đề gì cũng có giải pháp cả".

Chú hạc nói nghe có vẻ khôn ngoan lắm . Có lẽ nó tu pháp Quán Âm . Chim hạc khai ngộ ! À , để coi ...

Con rùa buồn bã , thở hơi thật dài , rồi trả lời rằng : "Tôi không biết quý vị làm gì được cho tôi , hai vị . Nhưng ... đã nhiều ngày ... tôi không có gì bỏ vô bụng . Tôi chỉ thiền quán cái bụng này . Chưa thấy khai ngộ gì cả . Cho nên , chắc tôi chết mất . A ... Không có nước , không có cá , không có ếch nhái , không có gì cả . Chắc tôi sắp chết rồi . Hoặc là từ từ mấy thằng cao bồi chúng sẽ kiếm ra tôi và mang tôi về nấu cháo ... Có lần , cách đây năm năm , tôi bị chúng bắt . May quá ! Một bà già tin tưởng Phật giáo , đã mua tôi lại và đem tôi thả về hồ . Nếu bị bắt nữa , tôi không chắc Phật A Di Đà có cứu tôi được không . Có thể Thanh Hải Vô Thượng Sư cứu được . Tôi chưa thử , nên tôi không biết . A ... mỗi khi nghĩ tới lần thoát chết kỳ đó là tôi lại nổi da gà khắp mai rùa của tôi".

Bấy giờ con hạc trống đang hết sức tập trung quán tưởng về vấn đề này . Cặp lông mày của nó đan vào nhau như vầy , hai chân bắt chéo như vầy , hai cánh xếp trên hai chân ở vị thế chim hạc , và mắt trí huệ của nó hơi nheo lại vì suy nghĩ . Con hạc mái cũng vậy , vô cùng thương cảm cho chú rùa . Rồi con hạc trống nói : "Sao anh không dọn đi chỗ khác , dọn nhà đi ?"

Con rùa , với vẽ mặt rất khổ tâm , đáp lại : "Quý vị cứ tưởng tượng xem , tôi chưa từng bao giờ đi đâu cả . Tôi đâu có xe ! Quý vị biết tôi cử động không nhanh gì cho lắm . Không có xe cộ , tôi biết làm sao được ! Hơn nữa tôi thích quê nhà của tôi . Thà tôi chết nơi đất mẹ còn hơn . Nếu bị chôn vùi ở một nơi xa lạ nào đó , quý vị nghĩ linh hồn tôi sẽ an ổn được sao ?"

Bỗng nhiên , con hạc trống ngẩng cái cổ dài lên , nói : "Tôi có một ý kiến hay , xin được nói . Với tấm lòng đầy hy vọng và hứng khởi nó nói tiếp : "À , đừng sợ ! Đừng sợ ! Tôi biết cách đây mười dặm có một cái hồ sen , cái hồ này nổi tiếng là không bao giờ cạn . Dù bị hạn hán như vầy cũng không bao giờ cạn . Chúng tôi sẽ mang anh tới đó . Rồi chúng tôi sẽ sống với anh để anh không bị cô đơn . Chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ ngọt bùi . Như vậy có được không ?"

Chú rùa ngẫm nghĩ . Ngay cả suy nghĩ nó cũng rất là chậm chạp . Nó nghĩ theo kiểu rùa , nhưng khôn ngoan . Nó cứ suy nghĩ như vậy cả nửa tiếng đồng hồ mới xong . Rùa rất là chậm chạm . Nó nói : "Bây giờ mười thước tôi còn không đi nổi , huống chi là mười dặm . Tôi chưa được ăn gì cả . Mười thước tôi còn đi không nổi , làm sao đi mười dặm ?"

Trông chú như sắp chết tới nơi rồi . Rồi chú hạc nói : "Đừng lo ! Chúng tôi biết vậy và đã có phương tiện giao thông cho anh . Chúng tôi đã đặt mua cho anh vé máy bay hạng nhất . Đừng lo , đừng lo . Nhưng chúng tôi có một điều kiện . Anh phải nghe kỹ kế hoạch của chúng tôi , thì chúng ta mới có thể thực hiện được".

Con rùa chăm chú rất muốn biết , đáp : "Được , được . Xin nói ". Bây giờ thì nó trả lời nhanh hơn , chỉ cần hai mươi phút để suy nghĩ thay vì nửa tiếng : "Xin nói , xin hãy nói".

Con hạc giải thích : "Rất là giản dị . Hai chúng tôi lấy một sợi dây , mỗi đứa chúng tôi cắn một đầu , còn anh cắn ở giữa . Rồi chúng tôi sẽ mang anh tới chỗ đó . Nhưng anh cần phải biết là trên đường đi anh không được nói chuyện , nếu không sẽ rất nguy hiểm . Có thể cái mai của anh sẽ không còn nguyên vẹn - mỗi miếng một nơi , hoặc có thể trở thành bột rùa , tan ra như khoai nghiền . Trên đường đi dù có chuyện gì xảy ra , dù anh có hồi hộp , nóng giận hay bị khiêu khích gì chăng nữa , anh cũng đừng bao giờ , đừng bao giờ mở miệng . Chỉ trong vòng nửa tiếng , chúng ta sẽ tới nơi . Anh nhớ đó".

Chú hạc dặn dò kỹ lưỡng một lần nữa : "Nhớ bậm răng lại , đừng nói , ngay cả ngáp cũng không được , hắt hơi cũng không được luôn . Anh phải kiên nhẫn , tự kiềm chế chính mình cho tới khi đến nơi . Mọi chuyện xong xuôi . Sẵn sàng ? Rõ chưa ? Chuẩn bị , và chúc anh may mắn".

Nói rồi hai con hạc cắn hai đầu dây , con rùa cắn ở giữa . Chúng bay đi từ chỗ này sang chỗ khác . Bay qua cánh đồng xanh , ruộng hoa đỏ , bãi cỏ khô màu cà phê - như bên California khi chúng ta tới viếng kỳ rồi , một hai tuần sau nó xanh tươi trở lại - băng qua nhiều cảnh đẹp . Chú rùa thích quá không còn cảm thấy nhớ nhà nữa . Nhiều lần chú muốn mở miệng ra khen cảnh trí chung quanh . Ồ , cây thông đẹp quá ! Bánh chapati thơm tho quá ! Trà Ấn Độ ngon quá ! Cô gái Âu Lạc đẹp quá ! Bài hát Trung Hoa hay quá ! Nước thích quá ! Nhưng nó nhớ lời dặn . Nó nhớ con hạc đã dặn là không được mở miệng dù bất cứ lý do gì . Thành ra nó ráng kiềm chế , để tất cả sự chú ý vào cái miệng , và không bao giờ mở ra .

Nhưng ... luôn luôn có chữ "nhưng". Nhưng , chúng bay qua một ngôi làng nọ có một đám con nít đang chơi đùa . Quý vị con nít mà , chúng nó rất là ranh mãnh . Khi trông thấy hai con hạc và một con rùa đi với nhau như vậy , chúng bắt đầu reo hò , nhảy nhót , chọc ghẹo chú rùa . Bây giờ , chú rùa không thể chịu nổi nữa rồi . Không bao giờ trông đời , tuy sống già như vậy , nó chưa hề bị một người nào khinh bỉ nó như vậy . Cái ngã của nó bị tổn thương ! Lòng tự trọng của nó đã bị tiêu hao gần hết , trí huệ của nó bị méo mó , và tính hãnh diện của nó sôi lên sùng sục như khi quý vị đốt lò lên đến hai trăm độ . Nó liếc cặp mắt rùa xuống mặt đất bên dưới và mở miệng rùa ra nói : "Câm miệng ! Câm miệng chúng mày lại !"

Vừa nói xong , nó không còn là rùa nữa . Nó được giải thoát ! Thoát khỏi cái mai của nó !

Vì thế Đức Phật nói rằng : "Trong thế giới này , có biết bao nhiêu người chỉ vì mở miệng mà gặp tai họa . Cho nên , hãy coi chừng , chỉ nói chuyện khi nào cần thiết".

Câu chuyện này ngụ ý là như vậy .

Nhím Hoàng Kim
11-29-2007, 09:18 PM
Tin Vào Lực Lượng Của Minh Sư



Đây là một câu chuyện bên Ấn Độ . Có một người đàn bà kia tu hành rất giỏi , nhưng cũng chính vì bà được rất nhiều người thích và kính nể cho nên có rất nhiều người ganh ghét , ngay cả nhà vua đương thời cũng ganh tỵ với bà . Nhà vua , cũng như nhiều người khác nghe đến sự tu hành của bà đều không tin rằng một người đàn bà có thể tu được cao như vậy , nên ngài cho người đem bà về cung điện , với mục đích sỉ nhục bà .

Trong hoàn cảnh bị ép buộc như vậy , bà phải cố gắng để vượt khỏi tình trạng khó khăn này . Bà cố gắng dùng trí óc của mình , nhưng chẳng có kết quả gì . Thỉnh thoảng , bà có nhớ gọi sư phụ của bà một , hai lần ; phần lớn là vì thói quen mà gọi cho nên không được thành khẩn gì cho lắm . Tuy mọi sự cố gắng đều vô hiệu , bà vẫn cố gắng dùng lực lượng của mình , bà không hoàn toàn tin tưởng là sư phụ của bà có thể giải cứu cho bà . Ngay cả trong lúc cầu xin sư phụ cứu giúp , bà vẫn cố gắng phấn đấu , không thật sự nhất tâm cầu khẩn , không để mọi chuyện cho sư phụ bà lo . Vì thế sư phụ của bà không hiện đến .

Cuối cùng , khi tất cả những cố gắng đều vô hiệu , bà đành phải bó tay và đặt hết lòng tin vào sư phụ của bà . Bà nói : "Bây giờ dù cho có chuyện gì xảy ra đi nữa , xin Sư Phụ hãy lo cho con".

Lúc đó , sư phụ của bà mới hiện đến với đầy hào quang và cứu bà ngay lập tức .

Phần nhiều , phấn đấu bằng lực lượng của chính mình không hữu hiệu bằng . Minh sư là ai ? Thật ra , đó cũng là lực lượng của chính mình , của bản ngã tối cao , của con người hoàn mỹ biết tất cả mọi thứ , vô sở bất tại , vạn lực vạn năng . Nếu dùng đầu óc , chúng ta chỉ dựa vào sự hiểu biết thấp kém , chỉ dựa vào những kinh nghiệm quá khứ của chúng ta . Thí dụ : "Tôi phải làm gì trong trường hợp nào đó ? Tôi nên phải ứng thế nào khi giáp mặt với những loại người như vậy ? Tôi đã gặp trường hợp này rồi , nên đối phó làm sao ?" Tất cả những điều này là xử dụng những kinh nghiệm trong quá khứ đã nhét đầy trong đầu óc . Tuy nhiên , quý vị nên biết rằng kinh nghiệm của thời quá khứ khác với thời bây giờ , bởi vì hai hoàn cảnh khác nhau . Có khi , chỉ cần sai lạc một chút xíu thôi cũng đủ làm cho nó hoàn toàn khác hẳn .

Nhím Hoàng Kim
11-30-2007, 09:40 PM
Tiên Nhân Khai Ngộ


Bên Ấn Độ có một câu chuyện như vầy , hình như người Trung Hoa cũng có một câu chuyện tương tự . Một ngày kia , Diêm Vương tổ chức một buổi tiệc linh đình , cho mời quỷ , thần , tiên đến để cùng nhau ăn uống . Diêm Vương rất nghịch ngợm (tính của ngài như vậy). Ngài cố tình cho bày thức ăn ngon ở giữa , còn ghế ở tuốt bên kia bàn , trong các dĩa thức ăn đặt những muỗng có cán rất dài . Đầy dẫy sơn hào hải dị thơm ngon , đào tiên , rượu nho , tất cả những món gì quý vị có thể tưởng tượng được đều có ở đó . Những món ăn ngon lành nhất , hợp khẩu nhất , làm mọi người thèm chảy nước miếng .

Tuy nhiên , Diêm Vương ra một điều kiện là trong khi ăn , không ai được cong khuỷu tay . Bình thường , người ta phải co khuỷu tay mới ăn được . Cái muỗng dài như vậy , bàn thức ăn xa như vậy , khuỷu tay lại không được cong , mà Diêm Vương bảo họ muốn ăn gì cũng được ! Lũ quỷ , lũ atula phàn nàn , cãi vã , nguyền rũa Diêm Vương , rồi bỏ đi hết . Chỉ còn mấy vị tiên ở lại nghĩ cách . Chỉ một lát sau họ tỉnh ngộ ra và bắt đầu đút cho nhau ăn . Như vậy không vi phạm quy tắc , không cần phải cong khuỷu tay mà vẫn ăn được . Đây là sự khác biệt giữa quỷ và tiên đã khai ngộ .

Những người bình thường như chúng ta , nếu không ăn được , sẽ phá hoại không cho người khác ăn . Kết quả hai bên đều ăn không được . Đó là phẩm chất của ma . Mặc dù chúng ta mang thân thể con người , nhưng có một số người là ma . Nếu hành động như ma , thì chúng ta là ma , không có tinh thần hy sinh , mình không được người khác cũng không được , chỉ biết phá hoại mà thôi . Giống như lũ ma kia , áp bức nhau mà không chịu săn sóc lẫn nhau .

Khi chúng ta chăm sóc cho người khác , Thượng Đế cũng sẽ chăm sóc cho chúng ta . Tôi bảo đảm chuyện đó . Khi tu hành đừng sợ mất công ăn việc làm , nên theo tinh thần của những tiên nhân này . Cái muỗng dài như vậy , đút cho nhau ăn , vừa tiện vừa vui . Họ chơi đùa thỏa thích . Ai cũng cười . còn đám ma quỷ kia ra về không có gì vô bụng , vừa giận , vừa không được gì cả .

Người khai ngộ sống rất thoải mái , bởi vì chúng ta có thể nhìn thông suốt và nghĩ rõ ràng . Nếu chúng ta không khai ngộ , lúc nào cũng tự cho rằng "ta là người quan trọng nhất" thì nhất định sẽ gặp nhiều phiền phức . Cứ tưởng tượng đến một cõi đời không có ai , chỉ có một mình "ta" thì chúng ta phải gánh chịu đau khổ một mình , hạnh phúc chỉ có mình "ta"được hưởng , thì đó chỉ là một cảnh giới vô nghĩa mà thôi .

Nhím Hoàng Kim
12-08-2007, 09:38 AM
Lời Khuyên Của Mẹ



Một cô gái nọ đã đính hôn và sắp sửa đi xa . Trước ngày nàng về nhà chồng , người mẹ khuyên nàng một câu thật hay . Bà không khóc và cũng không để con gái mình khóc . Bà nói rằng : "Con hãy nghe lời mẹ . Hôm nay là ngày rất vui . Thượng đế đã ban phước lành cho con có được một người chồng tốt , lại tu Pháp Môn Quán Âm (Sư Phụ và mọi người cười), không cờ bạc , không lăng nhăng , không uống rượu , không lừa dối ; một người ngay thẳng , hào phóng , đôn hậu , có tư cách , có đạo đức và ... đẹp trai (mọi người cười) cả trong lẫn ngoài".

Bên trong anh chàng đẹp trai còn đẹp hơn bên ngoài . Bên trong anh trắng , mặc dù bên ngoài anh đen (Sư Phụ và mọi người cười).

Cô gái mỉm cười , chăm chú lắng nghe lời mẹ dặn một cách trìu mến . Bà mẹ nói : "Bây giờ , về nhà mới , con hãy đối đãi gia đình chồng như gia đình con . Kính trọng cha mẹ chồng như kính trọng cha mẹ con . Tôn sùng chồng như Trời , như một vị thầy , một người bạn , một người che chở , một người đáng yêu kính nhất trên quả địa cầu này ; để sau này con sẽ là tâm gương sáng cho con cái và đem lại hạnh phúc , vinh dự đến cho gia đình mới của con . Con có bổn phận đối với chồng , đối với cha mẹ , tất cả anh em của con trong gia đình mình để làm tròn trách nhiệm này . Và con có bổn phận đối với chính mình cũng như đối với chồng . Con hãy làm vẻ vang cho tất cả chúng ta bằng cách đó . Hãy chăm nom gia đình con , đất đai nhà cửa , công ăn việc làm của chồng cho được phát đạt , mang đến nhiều thành công , sự an toàn và no ấm cho gia đình , để con cái được sống một cách thoải mái . Hôm nay không có gì mà phải buồn bã , chẳng qua đó chỉ là một tương lai hồi hộp , một thử thách mới đang chờ đón con . Được chồng yêu là một diễm phúc nhất trên đời . Con nên nhẫn nại làm một ngươi vợ hiền , để được mọi sự hạnh phúc và thành công ở đời".

Người con hỏi : "Nhưng con phải làm sao để làm tròn tất cả những trách nhiệm và bổn phận cao quý đẹp đẽ mà mẹ vừa mới nói ?"

Người mẹ đáp : "Con phải ăn ngon , ngủ kỹ và mặc đẹp mỗi ngày".

Người con nói : "Thưa mẹ , con hiểu".

Rồi nàng về nhà chồng , làm y như vậy - ngủ kỹ , ăn ngon , mặc đẹp mỗi ngày . Tất cả những người bên chồng rất hài lòng đối với nàng . Cô ta mang đến cho chồng và gia đình chồng những đứa con kháu khỉnh , ngoan ngoãn , thông minh , chăm làm , chăm học .

Những người khác tới hỏi bí quyết của nàng : "Cô làm cách nào vậy ? Cô từ xa đến đây , không biết gì về phong tục tập quán xứ này , vậy mà cô giỏi quá . Cô làm cách nào vậy ?"

Người con dâu , bây giờ là mẹ của ba đứa con , làm dâu trưởng trong gia đình (Sư Phụ và mọi người cười), bà chủ hãng của chồng , bà tổng thứ ký , bà nội trợ của cả nhà (Sư Phụ và mọi người cười), y tá cho cha mẹ chồng già , người hướng đạo cho các em chồng và một người mẹ nhân hậu của ba đứa con đẹp , khoẻ mạnh , thông minh - trả lời một cách khiêm tốn : "Tôi được như vầy là nhờ tình thương và lời khuyên của mẹ tôi".

Mọi người dĩ nhiên nói : "Xin cho tôi biết , xin cho tôi biết ; nói nghe đi , nói đi , nói đi".

"Mẹ tôi dặn tôi , vốn một cô dâu buồn bã trước khi về đây , rằng về nhà chồng tôi nên ăn ngon , ngủ kỹ và mặc đẹp". (Sư Phụ và mọi người cười)

Mọi người hỏi : "Cái gì ? Khuyên gì mà kỳ cục vậy ? Cô chỉ làm y như vậy để lo cho gia đình thôi sao ?"

Nàng đáp : "Phải , tôi làm y như vậy thôi ; ăn ngon , ngủ kỹ và mặc đẹp mỗi ngày . Tôi làm vậy đó".

Họ hỏi : "Sao được ? Cô nói thế có nghĩa là sao ? Chỉ có hưởng thụ như vậy mà lo được cho gia đình và mọi việc đều tốt đẹp sao ? Xin giải thích thêm cho chúng tôi nghe . Cô có nói đùa không đó ?"

Nàng đáp : "Không , không . Mẹ tôi nói ăn ngon có nghĩa là tôi phải chăm sóc cho cả nhà , kể cả khách khứa , cho họ ăn uống cho tới khi họ no nê . Sau đó tôi ăn thức ăn còn lại ; vì khi mọi người no nê rồi không ai phiền hà tôi nữa (Sư Phụ cười). Lúc đó tôi sẽ đói (Mọi người cười). Sau khi chạy tới chạy lui , bất cứ thứ gì còn dư , không kể là món gì , sẽ rất thơm ngon , (mọi người cười) bổ dưỡng và có nhiều sức gia trì .

"Tôi cầu Thanh Hải Vô Thượng Sư trước khi ăn (Sư Phụ và mọi người cười) và Ngài gia trì thức ăn cho tôi . Thành ra những gì tôi ăn đều trở thành nước cam lồ . Sau khi thưởng thức một bữa ăn ngon lành trong yên tĩnh , thân thể tôi khoẻ mạnh , khẩu vị tôi thỏa mãn , tâm tôi hài hòa , như vậy tôi mới có thể phục vụ gia đình một cách đắc lực . Khi mọi người hả hê , họ cũng thương tôi và dĩ nhiên họ sẽ dành cảm tình tốt đẹp của họ cho tôi vì tôi đã chăm sóc họ chu đáo . Mọi ước muốn tốt đẹp của họ , sự hài lòng của họ cũng sẽ gia trì cho tôi và tôi được chia xẻ một phần phước báu trong hạnh phúc của họ . Đó là bí quyết của việc ăn ngon".

Rồi họ hỏi : "Mỗi đêm cô ngủ kỹ ? Cô chỉ lo ngủ thôi sao ?"

Nàng đáp : "Không ! Mẹ tôi nói ngủ kỹ có nghĩa là , sau khi mọi người đi ngủ , tôi phải kiểm soát tất cả cửa nõ , tắt tất cả đèn , mọi thứ đâu vào đấy an toàn để trộm không vô nhà được ; săn sóc cho mọi người trong gia đình khoẻ khoắn , ngủ ngon thì tôi mới không lo lắng và yên chí , thảnh thơi . Vì tôi biết mọi người đều đã yên bề và ấm áp trong chăn , biết họ sẽ ngủ ngon suốt đêm , không đau ốm , không thức dậy làm phiền tôi hoặc đòi hỏi tôi điều gì . Như vậy tôi sẽ không lo nữa và ngủ ngon , vì không còn phải làm gì nữa (Sư Phụ và mọi người cười). Ý mẹ tôi là như vậy đó".

Những người kia rất ngạc nhiên và khâm phục trí huệ của người mẹ cũng như của người con gái . Dĩ nhiên mẹ nào thì con nấy .

"Bây giờ còn điều cuối cùng , xin cho biết điều cuối cùng . Ồ ! Tại sao phải mặc đẹp ?"

Nàng nói : "Phải , mặc đẹp có nghĩa là luôn luôn ăn mặc đàng hoàng , gọn ghẽ . Khoác lên một nụ cười tươi khi thức dậy mỗi sáng và mỗi tối trước khi đi ngủ . Khoác lên người tất cả tình thương yêu nhân hậu mà Thượng Đế đã ban cho ; như vậy khi người khác trông thấy mình , họ sẽ nhìn thấy một thiên thần , thấy tình thương hiện trên nét mặt , thấy sức gia trì trong ánh mắt , họ thấy Phật Bồ Tát qua nụ cười dịu hiền . Ý mẹ tôi nói mặc đẹp là như thế .

Tôi mặc đẹp như vậy mỗi ngày . Tôi ăn uống khoẻ mạnh như vậy mỗi ngày . Tôi đi vào mộng đẹp mỗi ngày . Nếu tất cả quý vị làm giống vậy , thân nhân gia đình và bên chồng của quý vị cũng sẽ được như người nhà của tôi đây".

Mọi người dĩ nhiên gật gù , vỗ tay khen ngợi và vui vẻ ra về .

Nhím Hoàng Kim
12-13-2007, 08:53 PM
Hoàng Tử Victoria Và Năm Trăm Người Ăn Mày


Có một câu chuyện nói về một trong những kiếp trước của Đức Phật . Trong kiếp đó Ngài là một gia chủ tên là Pacifier . Có một lần , tôi nghe nói , vị Khai Ngộ này sống tại một thành phố tên là Sarasvati , trong một tu viện tên là Chettavana tại "Annatakapikitikakapapa". Quý vị biết nơi đó rồi hả ? Khó đọc lắm (cười). Lúc bấy giờ , trong vùng này có năm trăm người ăn mày phải sống nhờ vào Đức Phật và tăng chúng .

Tôi không biết họ sinh sống cách nào ? Có thể là họ tới ăn thức ăn dư thừa , hoặc đứng gần đó , hễ ai cúng dường thức ăn cho tăng chúng và Đức Phật thì họ lấy bớt một phần . Có thể như vậy .

Một hôm , tại công viên Chettavana , năm trăm người ăn mày này bỗng nhiên tới chỗ Đức Phật để xin quy y . Họ nói với Phật rằng : "Hỡi Đức Từ Bi , nhờ lòng thương của Ngài và tình thương huynh đệ mà chúng tôi đã được cho ăn uống . Bây giờ , xin Ngài ban cho chúng tôi một công đức to lớn nữa , là cho phép chúng tôi làm người ở trong chùa".

Có nghĩa là xuất gia .

Phật trả lời : "Pháp mà ta dạy rất là thuần khiết , không phân biệt chủng tộc , địa vị , giàu hay nghèo , tốt hay xấu . Cũng như được tắm rửa bằng nước trong , nước rửa tất cả giống người , mọi giai cấp , giàu cũng như nghèo , xấu cũng như tốt , không hề phân biệt . Nó cũng như lửa đốt mọi vật , không trừ ra cái gì : núi , đá , trờ , đất . Giáo lý của ta giống như bầu trời , mà ở bên dưới tất cả mọi vật đều có nơi chốn : nam , phụ , lão , ấu , giàu nghèo không phân biệt".

Dĩ nhiên , như vậy có nghĩa là Ngài nhận những người ăn mày này làm đệ tử xuất gia .

Những người ăn mày rất sung sướng . Họ tin tưởng ngay những gì Phật vừa nói . Một lần nữa , họ xin phép được xuất gia . Có lẽ , đó là nghi thức hồi xưa . Họ phải xin Phật hai , ba lần để bày tỏ lòng thành tâm , tha thiết muốn theo Ngài tầm đạo . Lúc bấy giờ Phật mới nói : "Hoan nghênh quý vị".

Thế là họ cạo hết râu tóc , mặc vào những bộ tăng phục màu vàng và trở thành tăng sĩ . Khi Đức Phật giảng pháp , đầu óc họ được giải thoát , những ước vọng của họ ngưng lại và họ trở thành A La Hán .

Khi những dân trưởng giả , thương gia và hoàng tử trong nước nghe nói những người ăn mày rác rưới đó được nhận vào làm tăng chúng , họ đều tỏ vẻ bực tức và bảo với nhau rằng : "Nếu chúng ta mời Đức Phật và những bậc cao tăng khả kính tới để được phước báu , thì những người ăn mày này cũng sẽ ngồi trên chúng ta . Chúng ta sẽ phải tôn sùng họ , vân vân ... Như vậy sẽ mất danh dự của chúng ta". Đại khái có nghĩa là họ coi thường những tăng chúng ăn mày này .

Rồi một lần đó hoàng tử Victoria mời Đức Phật và tăng chúng đến dự tiệc chay , nhưng ông dặc trước với Phật rằng : "Thưa Ngài , tôi xin được kính mời Ngài và tăng chúng , nhưng những người ăn mày được làm tăng sĩ kia thì không được mời".

Ông có tâm phân biệt . Quý vị nghĩ như vậy có tốt không ? Không , không tốt .

Ngày hôm sau , trước khi Đức Phật và đệ tử đi tới cung điện của hoàng tử , Đức Phật nói với những vị sư không được mời rằng : "Vị chủ nhân đãi khách này đã không mời các con . Hãy đi về vùng đất phía Bắc lấy lúa dại mà không ai gieo , cũng không ai gặt , mang đến nhà của vị tặng quà này và ăn tại đó".

Theo chỉ thị của Phật , họ lập tức dùng lực lượng tu hành A La Hán bay về phía Bắc , đổ đầy gạo vào bình bát của họ . Trong hóa thân đẹp như ngỗng trời , họ bay về cung điện của hoàng tử Victoria , ngồi xuống thành hàng và ăn thứ gạo đặc biệt đó . Khi hoàng tử Victoria trông thấy những tăng sĩ , trong hóa thân thật dễ thương , từ trên trời bay đến , ông vô cùng ngạc nhiên , sung sướng , và với lòng đầy ngưỡng mộ , ông hỏi Đức Phật : "thưa Ngài , những người huy hoàng , lộng lẫy , đạo đức , thánh thiện và đầy trí huệ kia từ đâu đến ?"

Đức Phật trả lời : "Ngươi phải nhận ra họ chứ . Này hoàng tử , ta nói cho ngươi biết , hãy nghe kỹ . Những người này là những tăng sĩ mà ngươi đã không mời . Vì không được mời , nên họ phải đi vùng đất Bắc đem gạo dại về ăn".

Ồ ! Ghê quá ! Nếu là hoàng tử Victoria trong trường hợp này , quý vị cảm thấy thế nào ? Thấy thích thú ? Xấu hổ ? Hay hoảng sợ ?

Hoàng tử Victoria nghe xong , xấu hổ quá . Quý vị thông minh lắm ! Đoán rất đúng . Ông ta vô cùng xấu hổ với chính mình , sám hối những gì ông đã làm và nói với Phật rằng : "Vì tôi bị vô minh làm mù quáng , nên đã không nhân biết được những thánh nhân này , và đã không mời họ . Thưa Ngài , đức hạnh của Ngài quả là tột bực , tuy những thánh nhân này là những kẻ ăn mày thấp kém trong nước , qua lòng thương của Ngài mà họ đã tìm được vui sướng trên đời và đạt được lợi ích lâu dài . Xin Ngài giải thích cho , họ đã trồng nhân đức nào mà ngày nay được gặp Ngài và đạt được sự giải thoát ? Và đồng thời họ đã làm tội lỗi gì trước kia mà phải sinh ra làm ăn mày như vậy ?"

Chỗ này nói về nghiệp chướng và nhân quả .

Rồi Đức Phật giải thích như vầy : "Từ xa xưa , hằng hà sa số năm về trước , có một ngọn núi tên là Many Reshis . có lần , lúc đó có khoảng hai ngàn vị Reshis sống trên núi đó , có một ông thầy bói báo trước là mười hai năm nữa sẽ không có mưa". (Reshis là người biết nhiều thần thông , kể cả bay trên không , có lẽ vậy , thấy xa hàng ngàn dặm , thấy qua tường , qua chướng ngại vật , vân vân ... Họ cũng rất có đạo đức . Cho nên , họ được gọi là Reshis)". Sau đó những vị Reshis này tới gặp một gia chủ giàu có tên là Pacifier đang sống trong vùng đó , để xin được cúng dường thức ăn , thức ăn uống trong mười hai năm ; và nếu không được chấp thuận , họ sẽ đi nơi khác".

Vị gia chủ trả lời : "Hỡi các vị thánh nhân Reshis , xin đừng đi đâu cả . Xin quý vị hãy ở lại đây , tôi sẽ cúng dường các Ngài trong mười hai năm".

Vì trong vòng mười hai năm tới sẽ không có mưa nên khi những vị Reshis đến , vị gia chủ này xin được bảo đảm cúng dường suốt mười hai năm .

Vị giáo chủ bèn hỏi người thủ quỹ coi có đủ lương thực dự trữ để nuôi những vị thánh này trong vòng mười hai năm không . Khi được biết là đủ , ông bổ nhiệm năm trăm người phục vụ cho những vị này . Một thời gian sau , năm trăm người phục vụ này , cảm thấy mệt mỏi và bắt đầu thì thầm với nhau rằng chăm sóc cho những người ăn xin này cực quá .

Lúc đó , có một người chuyên lo đi gọi các vị Reshis tới dùng bữa và ông có một con chó đi theo . Một hôm , người này quên không gọi , nhưng con chó kia vẫn chạy đi sủa để gọi gọi . Các Reshis biết là bửa ăn đã sẵn sàng , và họ tới để thọ bát . Sau một thời gian , các Reshis cho gia chủ biết trờ sắp có mưa và cần phải chuẩn bị đồng áng để gieo hạt . vị gia chủ sai nông phu ra đồng bắt tay vào việc .

Họ trồng lúa mạch , lúa mì , và những loại ngũ cốc khác . Khi hạt bắt đầu nẩy nầm và lên cao bằng mặt nước , vị gia chủ đến hỏi các vị Reshis đoán xem mức thu hoạch sẽ có được tốt hay không . Họ trả lời , mùa này sẽ rất tốt và khuyên ông nên thường tưới nước . Đến mùa gặt , mức thu hoạch lên đến bội phần . Vị chủ nhà rất lấy làm vui sướng khi thấy kho đầy ngập thóc .

Khi năm trăm người phục vụ cho các Reshis chứng kiến lực lượng của những người này , họ vô cùng xấu hổ , hối hận và thú nhận với những vị thánh này rằng : "Hỡi các vị thánh nhân , chúng tôi đã nhục mạ quý vị bằng những lời cay đắng . Chúng tôi xin thú tội . Trong tương lai , xin cho chúng tôi gặp lại các ngài và đạt được sự khai ngộ".

Vì những lời nói không tốt với các Reshi mà năm trăm người đó đã bị đầu thai lại làm những kẻ ăn mày cực khổ qua năm kiếp . Sau đó , nhờ sự thú tội và lời nguyền của họ mà ngày nay họ đã gặp ta và không còn phải chịu luân hồi sinh tử".

Hoàng tử , ngươi nên hiểu rằng chính ta là vị chủ nhà tên Pacifier đó . Udiyana là người thủ quỹ (lúc đó Udiyana là một trong những đệ tử của Đức Phật). Còn ngươi , hoàng tử Victoria , ngươi là người hàng ngày gọi các Reshi khi đến giờ ăn . Còn Giọng Hay , ngươi là con chó đó (bên cạnh hoàng tử có một người tên là Giọng Hay) vì ngươi đã một lần gọi những vụ thánh này đến bữa ăn bằng tiếng sủa nên trong tất cả những kiếp sau đã có giọng nói rất thanh tao . Năm trăm người ăn mày này là năm trăm người làm việc lúc đó".

Sau khi nghe Phật kể như vậy , một số người trong pháp hội tức thì đạt được quả vị từ thứ nhất tới thứ tư . Có người đạt đến đại khai ngộ . Ai nấy đều tin lời Phật nói và trong lòng vô cùng sung sướng .

Đa số các chuyện trong sách này cho chúng ta biết cúng dường cho những người xuất gia hoặc các vị thiền sư thì sẽ được lợi ích như thế nào . Ngay cả các Reshi , họ có lẽ không phải là Phật , nhưng họ tu theo con đường đạo đức và Chân Lý . Họ tu hành để đạt được một trình độ trí huệ nào đó và không đi theo con đường ác . Vì vậy , những người này xứng đáng được chúng sanh cúng dường .

Những ai cúng dường cho những người này sẽ có nhiều đạo đức , phước báu trong tất cả những kiếp sống trong cõi ta bà của họ . Cuối cùng họ sẽ gặp Phật sống , được giải thoát và đại khai ngộ . Ngay cả con chó , vì có lòng tốt , sủa để gọi các Reshi tới ăn , làm có vậy thôi mà nó được sinh ra làm người rất nhiều kiếp và có được giọng nói hay . Cuối cùng , nó ra đời ở Ấn Độ , được gặp Phật , và tu cùng với hoàng tử .

Hoàng tử Victoria , bình thường không có tâm phân biệt như vậy đối với bất cứ người xuất gia nào , dù là ăn mày hay quý tộc , nhưng đó là vì nghiệp chướng của những người ăn mày này trong kiếp trước , nhớ không ? Khi họ còn là người giúp việc trong nhà của Phật , khi Ngài còn là một người phàm phu . Vì họ đã gây nên nghiệp xấu như vậy , nên khi gặp hoàng tử Victoria , ông tự nhiên cảm thấy không muốn mời họ . Thật ra dù là nghiệp đi nữa , hoàng tử cũng không nên phân biệt như vậy . Nhưng đó cũng không phải là lỗi của ông ta , cho nên không thể trách ông được . Đó là cái nghiệp của năm trăm người ăn mày trong kiếp trước . Cho nên , những gì xảy ra cho chúng ta cũng đều có nguyên nhân .

Chuyện này dạy chúng ta tính kiên nhẫn , chấp nhận và chịu đựng bất cứ thử thách nào mà luật nhân quả đã giành cho chúng ta , để rửa tội , để rửa sạch những lỗi lầm mà chúng ta đã phạm trước kia . Trước hết dĩ nhiên là chúng ta giữ năm giới luật , gồm cả tình thương , tính chịu đựng , kiên nhẫn , vân vân ... , để chúng ta đừng gieo mầm xấu cho tương lai . Khi gặp bất cứ nghiệp xấu nào trong quá khứ , chúng ta cứ kiên nhẫn chấp nhận bằng tình thương cho tới khi trả cho dứt . Thí dụ như trong chuyện này , dù năm trăm người ăn mày làm những điều rất xấu trong kiếp trước , nhưng họ đã sám hối , cho nên những hành động của họ kiếp trước , sau năm trăm kiếp luân hồi trả nghiệp đã được rữa sạch .

Tuy họ chỉ cảm thấy lười biếng một vài lần và nghĩ rằng các Reshi này không xứng đáng được kính trọng và cúng dường , chỉ cảm thấy trong lòng và nói ra vài lời bất kính như vậy mà thôi , mà năm trăm người này đã phải làm ăn mày đến năm trăm kiếp , chịu đựng rất nhiều cực khổ , đau đớn , đói lạnh , bà sự nhục mạ của thế nhân qua giai cấp , lối sống của họ . Vậy mà sau khi họ trả hết tội , được gặp Phật , trở thành tăng chúng , đến mức như vậy rồi mà một chút tội bất kính còn sót lại từ kiếp trước vẫn còn phảng phất trong bầu không khí chung quanh họ . Vì thế hoàng tử Victoria không biết từ đâu , cũng có thể ngửi thấy , nếm được , nhìn được , cảm nhận được bằng trực giác . Thành ra ông ta mới phản ứng như vậy , không muốn mời họ tới dự tiệc .

Thật vậy , bất cứ gì chúng ta làm hoặc đã làm , dù không ai biết , dù những người đó không bao giờ nhìn thấy chúng ta làm những việc này , ngay cả chưa bao giờ gặp chúng ta , họ vẫn cảm thấy được một cái gì đó tỏa ra từ chúng ta , trong từ trường của chúng ta , và từ đó mà họ có phản ứng . Vì thế chúng ta phải luôn luôn cẩn thận giữ mình cho được hoàn toàn trong sạch , thanh bạch và cố gắng giữ như vậy hoài . Bằng không , nếu có chuyện gì xảy ra , chúng ta không thể trách ai được .

Nhím Hoàng Kim
12-17-2007, 04:10 PM
Công Chúa Thuần Nhẫn


Có một câu chuyện nữa trong Phật Giáo có tựa đề là "Công Chúa Chun-ren" . Chun nghĩa là thuần , Ren nghĩa là nhẫn . Vì nàng công chúa này có tính nhẫn nại rất cao nên được gọi là Thuần Nhẫn .

Công chúa là con út của ông vua tên là Bersna . Nàng rất có hiếu đối với cha mẹ và vô cùng nhẫn nại . Nhưng nàng có một khuyết điểm , đó là dung mạo của nàng rất xấu xí , quá xấu xí , xấu kinh khủng , xấu không thể tưởng tượng được . Vì vậy nên dù đã mười tám tuổi rồi mà nàng vẫn chưa có chồng . "Đóa hoa" này đã nở rất lâu .

Cha mẹ nàng không kiếm được một tấm chồng nào cho con gái họ . Họ cố gắng tìm nhưng chỉ vô ích . Họ oán trách Thượng Đế là không công bình , không thương tình , đã cho nàng một khuôn mặt như vậy . công chúa xấu đến nỗi người nào nhìn mặt nàng cũng không chịu nổi , và mất bình tĩnh ngay .

Nàng xấu như thế ? Ồ sóng mũi tẹt , hai lỗ mũi to huyếch lên trời ! Ai nhìn cũng thấy ngay hai cái lỗ mũi của nàng . Trán của nàng nhô ra . Răng vẩu giống như không muốn giữ bí mật cho nàng , cả hàm răng ngó ra hóng gió , vì trong miệng nóng quá . Mắt trông không giống mắt , vừa to vừa xấu .

Đó là chưa nói tới thân hình của nàng . Vừa gầy vừa cao , trông không được cân đối chút nào , dáng đi cứng như là người máy vậy . Người nào nhìn thấy cũng tưởng gặp ma . Rất là ghê gớm ! Trai tráng trong triều đều lấy cớ đi du học để tránh xa nàng . Trong truyện nói rằng họ sợ phải làm chồng của nàng .

Công chúa buồn bả , thèm thuồng mỗi khi nhìn hai người chị của nàng soi mình trước gương hài lòng với sắc diện của họ . Nhưng không bao giờ nàng ganh tỵ với các chị , nàng chỉ buồn thương cho số phận của mình . Nàng là một người có tinh thần cao và nhiều đức hạnh . Điều an ủi nhất của nàng là trong khi các chị của nàng rất hảnh diện với sắc đẹp của họ , họ lại không được mấy người ưa thích , còn công chúa thì lại khác , tuy nàng xấu xí nhưng ai cũng quý mến nàng .

Mấy người chị của nàng rất kiêu ngạo và hãnh diện với sắc đẹp của họ . Họ biết người em xấu , cho nên cố tình liếc bên này , liếc bên kia (cười) hay là bỏ lờ nàng đi . Họ nhìn nàng bằng cặp mắt lạnh lùng , thậm chí có khi chổng mông vào mặt nàng . Họ không bao giờ nhìn nàng một cách gần gũi thân thiện , không bao giờ chuyện trò với nàng , không bao giờ chào hỏi nàng , không bao giờ an ủi nàng , không tiếp xúc gì với nàng cả . Thậm chí họ còn khuyên nhà vua đừng bao giờ cho nàng ra khỏi hoàng cung , e rằng người khác sẽ nói xấu hoặc chê cười hoàng gia . Từ đó về sau nàng không được ra ngoài chơi nữa . Không có ai làm bạn , công chúa rất là buồn bã và cô đơn . Tuy nhiên , mặc dù sống trong tình cảnh đó , nàng vẫn hết mực hiếu thảo đối với cha mẹ và kính trọng các chị . Đối với những người hậu cận , thuộc hạ , nàng đối xử rất rộng rãi , chu đáo . Mỗi khi có ai thiếu thốn thứ gì hoặc có ai nghèo cần giúp đỡ , nàng đều cố gắng hết sức để giúp họ . Nàng tận tay tặng tiền của vàng bạc để mua thuốc men cho những người thiếu thốn . Nếu có ai đau ốm , nàng cố gắng săn sóc người đó , hoặc nhờ bác sĩ trông nom . Vì thế ai cũng thích nàng hơn là hai người chị kia . Mặc dù dung mạo không đẹp , công việc từ thiện của công chúa đã làm nàng nổi tiếng trên khắp quốc gia , kể cả nước láng giềng . Cả đức hạnh lẫn diện mạo đều được người ta biết đến .

Một hôm , có một vị hoàng tử nước láng giềng , tên là Tôn Đức (tiếng Trung Hoa có nghĩa là giữ gìn công đức), tới thăm vương quốc này . Có lẽ hoàng tử không ham sắc đàn bà , vì chàng muốn hỏi cưới công chúa làm vợ . Ồ , nghe được tin đó tất cả mọi người trong hoàng cung đều kinh ngạc ! Ông vua cầm lấy tay hoàng tử suốt buổi vì sợ anh ta đổi ý (Sư Phụ và mọi người cười). Ông vua lấy cớ muốn cám ơn , nhưng thật sự ông sợ hoàng tử muốn bỏ chạy . Ông vua nắm chặt tay hoàng tử và gọi chàng là l-chie ("l-chie" tiếng Trung Hoa có nghĩa là người biết công lý). Nhà vua nói với Tôn Đức rằng : "Trẫm cám ơn tình thương của ngươi đối với con gái trẫm . Không ngôn ngữ nào có thể diễn tả được xúc động của trẫm . Hoàng tử là một người biết công lý , khanh coi trọng đạo đức hơn là nhan sắc ! Nếu trong tương lai khanh cần gì , trẫm sẽ hết lòng ủng hộ khanh . Từ giờ trở về sau , hai quốc gia chúng ta sẽ sống chết có nhau ..."

Nhà vua vẫn khuyên hoàng tử nên giữ công chúa trong nhà sau khi cưới hỏi , đừng để nàng ra khỏi cung điện (cười) để tránh tiếng người đồn đãi .

Sau khi thành hôn , hoàng tử đưa công chúa về nhà , và nghe theo lời vua dặn . Mặc dù đầu óc hoàng tử rất là phóng khoáng và rất rộng rãi , nhưng khả năng chịu đựng của chàng rất giới hạn . Nhan sắc xấu xí của công chúa thì lại vô giới hạn . Cái giới hạn chống với cái vô giới hạn !

Cuối cùng hoàng tử không thể chịu nổi nữa . Mặc dù đôi khi chàng ta rất khâm phục đức hạnh của công chúa , nhưng khi nhìn mặc nàng thì chàng không thể chịu nổi nữa , dù chỉ nhìn một tí thôi . Dần dần , Chun-der thích sự vui chơi hơn là quan tâm đến khía cạnh đạo đức . Hoàng tử lấy đủ mọi cớ để đi ra ngoài . Chàng đi săn , uống rượu , chơi cờ ... Chàng không gặp mặt nàng thường xuyên nữa .

Công chúa sống trong cung điện , có đầy đủ mọi thứ , nhưng cũng giống như con chim bị nhốt trong lồng vàng , lúc nào cũng bị vây trong bốn bức tường , nên nàng không biết những gì xảy ra bên ngoài . Công chúa vô cùng buồn bã , nhưng nàng tin đó là số mệnh của mình . Nàng rất nhẫn nại , hay suy nghĩ tìm tòi nguyên do của tình cảnh mà nàng đang phải chịu . Có thể là vì nàng không tu hành trong những kiếp trước , hoặc vì nghiệp chướng của nàng quá nặng nề . Nhưng dù hoàn cảnh thế nào , nàng vẫn cố gắng làm tròn bổn phận và không bao giờ than thở . Nàng luôn luôn đối xử với chồng như ngày đầu tiên chung sống . Nàng chịu đựng rất nhiều sự khinh bỉ , nhưng vẫn rất chung thủy , săn sóc chu đáo cho chồng và ủng hộ chồng một cách tận tình .

Dù nàng đối xử rất rộng rãi với mọi người trong cung điện , một vài chuyện không hay vẫn xảy ra . Các cung thê mỹ nữ của nhà vua , các công chúa và họ hàng của hoàng gia thường đến khoe sắc đẹp của họ . Họ còn đồn về dung mạo xấu xí của công chúa ra ngoài công cộng . Tuy vậy , công chúa thật là một người nhẫn nhục . Nàng tiếp tục chịu đựng tất cả và không bao giờ nóng giận . Không bao giờ nàng đối xử với người khác một cách bất lịch sự . Nàng luôn luôn lễ độ , nhẫn nại và hiền hòa .

Một hôm , những cô tiểu thơ trong hoàng gia và các cô công chúa quái ác đó nghĩ cách chọc ghẹo công chúa . Họ bảo chồng họ mở một bữa tiệc mời tất cả mọi người , kể cả hoàng tử và công chúa . Buổi dạ vũ này thường thường phải có vợ chồng đi với nhau . Những cô tiểu thư này đều trạc tuổi với hoàng tử và họ rất kiêu ngạo .

Cuối cùng hoàng tử Tôn Đức chỉ tới một mình . Những cô tiểu thơ trong hoàng cung và công chúa , có chồng cũng như độc thân , đều khoe sắc , và chọc ghẹo hoàng tử . Họ muốn tán tỉnh và quyến rũ chàng ... Có khi họ cố tình chế nhạo và làm cho chàng buồn , biết vợ mình vô cùng xấu xí .

Những áp lực vô hình đó đã làm cho hoàng tử không còn thiết gì đến đạo đức nữa . Chàng ta không còn chịu đựng nổi những điều nhạo báng và trở nên tức giận đối với vợ . Chàng bỏ về nhà , vừa giận vừa xấu hổ , tự nhủ là mình phải ly dị với vợ . Chàng ta hết chịu nổi nữa rồi .

Cùng ngày hôm đó , trước khi chồng về tới nhà , công chúa ngồi trong phòng một mình , chưa biết chuyện gì sắp sửa xảy ra . Bỗng nhiên nàng cảm thấy sợ hãi , khủng khiếp trong lòng . Dường như giác quan thứ sáu đang cho nàng biết chuyện không hay sắp sửa xảy ra . Công chúa tủi phận mình rồi bật khóc lên . Nàng khóc một mình . Diện mạo kỳ quặc của nàng đã khiến cho nàng vô cùng đau khổ . Nàng chắp tay quỳ xuống , cầu nguyện Phật sống , lúc bấy giờ là thời Phật Thích Ca Mâu Ni . Có thể nàng là đệ tử của Phật hoặc có thể là nàng chỉ nghe tới danh của Ngài .

Nàng khẩn cầu : "Ngài là Phật tại thế cứu khổ cứu nạn chúng sanh . Bây giờ con là người đang đau khổ nhất , con không thể bỏ nhà đi gặp Ngài , xin Ngài hãy nghe lời con cầu nguyện và đến với con . Con cầu xin Ngài hãy đến đay".

Phật Thích Ca Mâu Ni đang ở trong tu viện Jetavana cảm nhận được sự thành tâm của nàng liền lập tức dùng hóa thân bay đến . Vừa trông thấy Đức Phật , công chúa bật lên khóc nức nở . Nàng nửa buồn nửa vui , rồi vừa khóc vừa nói với Phật rằng : "Kính lạy Phật , con không biết kiếp trước con đã làm nên tội nghiệt gì !" Công chúa cầu xin Phật cho biết kiếp trước nàng đã gây nghiệp gì mà thân thể diện mạo của nàng kỳ quặc như vậy ; và nàng đã làm điều gì tốt mà kiếp này được sinh ra trong một gia đình giàu có và được kính mến như vậy . Có người kính mến nàng , có người ganh ghét nàng , lại cũng có người chọc ghẹo , khinh bỉ vì bề ngoài của nàng . Nàng cầu xin được sám hối trước mặt đức Phật những việc làm xấu kia . Nàng cầu xin Phật tin tưởng vào lòng thành tâm của nàng và chứng giám cho sự ăn năn hối lỗi về những tội nghiệp kiếp trước nếu có .

Đức Phật nói : "Kiếp trước , con là một người vợ đẹp , là người đàn bà đẹp . Tuy nhiên , con rất lạnh lùng đối với những người giúp việc , và con hay ganh ghét những bạn bè , họ hàng nào đẹp hơn con . Con hay xoi mói những ai có nhan sắc hơn con . Con đối đãi với người khác không tốt , thường ỷ vào sắc đẹp của mình mà khinh thường kẻ khác . Con rất kiêu căng , hách dịch . Nếu bây giờ con thành tâm sám hối thì nghiệp này trong tâm sẽ tan đi , bởi vì mọi thứ đều là do tự tâm mà tạo ra".

Công chúa lắng nghe tiếng nói của Đức Phật , âm thanh vô cùng hiền dịu , ngọt ngào , ấm áp . Nàng cảm thấy pháp hỷ tràn đầy và rất dễ chịu . Nghe những lời Phật giảng , nàng lại cảm thấy càng ăn năn hơn nữa , vội quỳ xuống cầu xin Đức Phật giúp nàng giải nghiệp . Trước tấm lòng thành tâm và thật tình sám hối của nàng , hóa thân của Đức Thích Ca Mâu Ni nâng đầu của nàng lên để nàng được nhìn vào mắt của Đức Phật .

Trong truyện này nói rằng cứ nhìn như vậy một hồi lâu (cười). Có lẽ nàng nhập định cho nên mới lâu như vậy . Đây nói là nhiều tiếng đồng hồ . Trong lúc nhìn vào mắt Đức Phật Thích Ca , mắt công chúa cũng trở nên đẹp và sáng như của Đức Phật vậy . Khi nhìn vào hình dáng oai nghiêm của Phật , hình dáng của nàng bỗng nhiên cũng trở nên oai nghiêm và đẹp đẽ . Nàng vô cùng sung sướng , một cảm giác vui sướng nhất trong đời . Nàng vô cùng khâm phục , kính trọng và thương Phật .

Khi nàng đưa mắt nhìn kim dung của Đức Phật , dung mạo của nàng cũng dần dần thay đổi , và cuối cùng nàng đã trở thành một công chúa hết sức xinh đẹp . Sau khi hóa thân của Phật Thích Ca nói chuyện với nàng xong , Ngài dùng thần thông bay đi . Trong sách nói Ngài dùng thần thông nhưng thật ra đây chính là hóa thân của Ngài !

Đức Phật đi rồi thì hoàng tử cũng vừa về tới nhà . Lúc đó , chàng ta không còn chịu đựng nổi nữa và muốn ly dị vợ . Khi công chúa nghe thấy tiếng ngựa chạy về một cách hấp tấp , tim nàng đạp nhanh hơn nghĩ chắc có chuyện gì đây . Nàng ra ngoài đón chồng trong lòng vô cùng lo sợ .

Nàng thấy chồng với vẻ mặt vô cùng giận dữ , tâm tình có vẻ không được hòa hoãn lắm , cho nên nàng không dám nói một lời nào , mà chỉ quỳ xuống cởi giầy cho chồng . Mỗi khi chồng về , nàng thường hay làm như vậy . Nàng giúp chàng ta cởi giày cho dễ chịu , sau đó bóp chân cho chàng ta , rồi cởi vương niệm ra , vì nó rất nặng . Người vợ này thường xuyên đối với chồng như vậy . Nàng cất gươm đi , rồi cởi thắt lưng cho chàng . Thắt lưng này gắn đầy ngọc và đá quý và cũng rất nặng .

Hoàng tử cứ đăm đăm nhìn nàng , không biết cô gái này là ai và cứ nhìn khắp người nàng . "Không , không phải người này !" Nhưng người có cử chỉ như vầy chỉ có một người thôi đó là vợ của mình , là công chúa ! Công chúa vẫn làm như vậy , dáng điệu như vậy và cũng thái độ đó ; chỉ có điều là mặt mũi lại khác , hình dáng cũng khác ! Chàng ta nhìn chung quanh nàng không hiểu tại sao . Cuối cùng không nhịn được , chàng mới hỏi công chúa : "Nàng là ai ?"

Công chúa hiểu được nỗi thắc mắc của hoàng tử , bèn kể hết đầu đuôi về chuyện gặp Đức Phật và nàng đã thay đổi như thế nào ... Chà ! Lúc đó anh chàng sướng quá không muốn ly dị nữa (cười). Sau đó anh hiểu tu thiền là phước báu to lớn nhất , cho nên họ cùng thiền với nhau (cười). Có thể họ đi thọ tâm ấn và đi cộng tu ngày hôm đó . Họ trở nên rất tinh tấn tu hành và được nhiều công đức , nhiều phước báu ; tinh tấn tọa thiền để có trí huệ và siêng năng bố thí .

Một hôm , trong lúc hai người đang vui vẻ truyện trò với nhau . Công chúa không thể kiềm chế lòng mình , nàng nói với chồng : "Tôi nghĩ anh thích nhan sắc hơn là đức hạnh" (cười). Nàng muốn đổi tên chàng vì chàng ta muốn nhan sắc đàn bà hơn là muốn phước báu . Hoàng tử xấu hổ liền đổi sang đề tài khác (cười).

Đối với công chúa thì đó là vì cái nghiệp chướng của nàng đã đến , cho nên nàng bị vướng vào tình trạng khắc nghiệt như vậy . Nàng không thể đi ra ngoài thờ phượng Phật . Nàng ước ao có Đức Phật , chứ không phải muốn có nhan sắc . Nàng muốn có Phật bởi vì nàng cho rằng mình không tốt số , dung mạo của nàng kinh khủng tới nỗi nàng mất cả tự do . Nàng là một công chúa quý phái , nhưng không có tự do . Mọi người chung quanh đều châm biếm , chỉ trích nàng thật nhiều nên nghiệp chướng của nàng cũng đã được rửa bớt đi rất nhiều rồi . Hôm đó , ngay cả ông chồng đáng kính kia cũng muốn ly dị và bạc đãi nàng . Tất cả những chịu đựng này đã làm thay đổi một phần nào nghiệp quả của nàng .

Những chuyện này đã làm cho nàng vô cùng đau đớn , buồn bã - không được phép đi gặp Phật - mặc dù nàng cũng rất khao khát được gặp Ngài . Vì thế , nàng cầu nguyện Ngài đến để cho nàng được gặp . Nàng không hy vọng thay đổi dung mạo , không có chủ ý muốn xin Phật giúp đỡ , mà chỉ ăn năn hối hận vì biết đó chỉ là nghiệp quả từ kiếp trước . Chính vì sự thành tâm đó mà dung mạo của nàng được biến cải .

Ý tôi muốn nói là , những người tu hành không cần xin những thứ vật chất này . Nếu cần phải tới , nó cũng sẽ tới một cách tự nhiên ; nếu không có gì xảy ra cũng không sao . Quan trọng nhất là sự thành tâm tìm về Chân Lý , lo cho đạo hạnh của chúng ta , thì những thứ bên ngoài sẽ tự động tới , cũng như Đức Chúa Giê Su đã nói : "Hãy tìm Thiên Quốc trong tâm con trước , thì con sẽ được tất cả mọi thứ khác".

Chúng ta nên tự tin rằng chúng ta đẹp hơn . Quý vị không nghĩ quý vị đẹp , thanh thoát , sáng sủa sao ? Có chứ . Vẻ đẹp bên trong của chúng ta cũng tự nhiên mà phát ra . Khi người khác nhìn thấy chúng ta , họ sẽ cảm thấy được chúng ta đẹp . Có khi xảy ra như vậy . Họ bị phẩm chất sáng ngời bên trong của chúng ta làm họ choáng mắt , thành ra họ không thấy những khuyết điểm và hình dáng bên ngoài của chúng ta . Điều này có thật .

Khi chúng ta vui sướng , chúng ta không đẹp hay sao ? (Mọi người : Dạ). Cũng có người tuy đẹp nhưng cái mặt buồn hiu , chúng ta không muốn nhìn . Dù quý vị đẹp cách mấy , tôi cũng không thèm nhìn những bộ mặt buồn bả , dù có năng nỉ tôi cách mấy đi nữa cũng vậy thôi . Quý vị không nên để ý tới bề ngoài quá nhiều , mà chỉ nên để ý tới những gì bên trong . Nếu quý vị đẹp bên trong , bên ngoài cũng như vậy . Nếu không , lực xấu từ bên trong thoát ra sẽ làm bên ngoài trở thành đen tối .

Khi buồn mặt mũi chúng ta trở nên xấu xí . Là những người tu hành , chúng ta không cầu mong những thứ bên ngoài . Cho dù không có , cũng đã sao đâu . Sau khi tu hành nhiều hơn , chúng ta sẽ không còn để ý đến những thứ này nữa . Vẽ đẹp bên ngoài , nếu có cũng tốt ; không có những vẽ đẹp này cũng là một điều tốt .

Nhím Hoàng Kim
12-21-2007, 09:01 PM
Bà Già Keo Kiệt



Tại một chân núi bên Ấn Độ , có một bà già nọ . Bà này rất thích "ẩn dật". Đa số người ta đến khi họ thích ẩn dật có nghĩa là họ muốn được yên tịnh một mình để họ có thể nghĩ đến Thượng Đế , thiền quán về Thượng Đế , tưởng nhớ tới Thượng Đế , yêu mến Thượng Đế , nhìn thấy Thượng Đế và nói chuyện với Thượng Đế , ... Đó mới thật là "ẩn dật".

Nhưng bà già trong chuyện này không phải như vậy . Bà là một người bủn xỉn nhất trong nước , ý nói bà rất keo kiệt . Bà sống ẩn dật một mình chỉ vì không muốn chia của cải , thức ăn cho người khác . Xưa nay bà chưa bao giờ biết bố thí là gì . Ngay cả một hạt gạo để cứu trợ dân Kampuchia bà cũng không muốn cho (Cười). Cả cuộc đời bà không bao giờ cho ai một cái gì , thậm chí miếng giẻ cũ lau nhà bà cũng vá lại để dùng , cất một chỗ để dành , không bao giờ cho ai .

Lúc đó có một vị thần tên là Vishnu ; quý vị biết Vishnu hả ? Vị thần này ở thế giới thứ hai , ông hiếu kỳ muốn theo dõi đời sống và việc làm của bà già nổi tiếng này . Ông thấy tuổi thọ của bà sắp hết , sau mồng một tết thì sẽ chết (Cười). Khi ăn miếng bánh chưng , bánh tét đầu năm , chắc là bà sẽ bị mắc nghẹn mà chết . Thật đó , nhiều người già Nhật Bản ngày tết ăn bánh chưng , bánh tét bị mắc nghẹn . Quý vị ăn bánh tét phải cẩn thận đừng ăn miếng lớn quá , bánh tét làm bằng gạo nếp đó biết không ? Tôi không hiểu tại sao họ lại mắc nghẹn , nhưng cũng có người bị .

Thần Vishnu thấy bà chỉ còn sống thêm ba ngày nữa . (Tốt quá ! Sau khi bà chết người ta sẽ tha hồ chia nhau tài sãn của bà). Thần Vishnu gọi Busandi đến một bên và nói rằng : "Busandi yêu quý , hôm nay ngươi phải cố gắng lấy của bà già này ít nhất cũng một món gì đó , vì ngày mai bà ta sẽ qua đời . Được như vậy , khi chết đi bà sẽ có được một chút công đức , nếu như ngươi ăn cắp của bà ta một cái gì đó , ít nhất cũng một vài thỏi kẹo sô-cô-la hay một hột bắp rang cũng được "(Cười).

Busandi gật đầu , và biến thành một con quạ , bay đến đậu trên một cành cây gần nhà của Kachani ; Kachani là tên của bà già . Lúc đó bà đang vo một nắm gạo , ngâm nước chuẩn bị nấu cơm . Busandi bèn quyết định đánh cắp đi một mỏ đầy gạo . Bất thình lình , nó bay vút một cái xuống nồi gạo , ngậm một nhúm đầy : "Chíu ... !" (Cười).

Nhưng bà già vì lúc nào cũng đề cao cảnh giác cho nên bà còn nhanh hơn chú quạ , bắt lấy cổ chú như vầy . Bà vặn cổ của chú quạ . Eo ơi ! (Cười). Rồi xiết , xiết không để một hạt nào trôi xuống bao tử của chú . (Mọi người : Ồ !). Trời đất ơi ! Cùng một lúc , bà dùng tay kia cạy mỏ , móc trong cổ họng của chú quạ đang vùng vẫy và lấy ra hết cho tới hạt cuối cùng mới thôi .

Ồ ! Bà này rất đáng rất đáng được chúng ta thưởng (cười) cho cái tên - Người Đàn Bà Keo Kiệt Nhất Lịch Sử . Tôi không biết chuyện này có thật không , chắc phải là có . Có người bủn xỉn , ngu đần , ác độc và lạnh lùng như vậy . Busandi vùng vẫy thoát thân . Gụp ! Gụp ! Gụp ... (cười). Cuối cùng sau khi nghĩ đã móc hết tất cả những hạt gạo , bà mới thả chú ra .

Busandi bay về ngã quỵ xuống trước mặt thần Vishnu , giống như gần chết rồi . Vị thần bảo Busandi kể lại những chuyện đã xảy ra từ lúc Busandi ra đi . Busandi thở hổn hển và kể lại đầu đuôi câu chuyện ; kể xong , Busandi nói : "Thưa Ngài ! Thiếu chút nữa là con bỏ mạng rồi ! Con đã không hoàn thành nhiệm vụ , con thành thật xin lỗi . Bà già đó tệ quá , một hạt gạo con cũng không lấy được".

Vị thần nói : "Ồ ! Busandi , đừng nói thế ! Lại đây , mở miệng ra cho ta kiểm soát (cười). Mở miệng ra cho ta xem".

Busandi há mỏ ra , thần Vishnu dùng mắt trí huệ và kính hiển vi nhìn vô cổ họng của chú : "A ! Có một chút (cười). Cái gì đây ? Để xem , nhất định là có cái gì ở đây".

Ông trông thấy một chút vỏ thóc , phần ngoài của hạt gạo , dính trong miệng chú (cười). Cảm ơn Trời Phật ! Ít ra Busandi cũng không hoàn toàn uổng phí công lao và thời giờ của nó . Thần nói : "Nhìn đây Busandi , trong miệng của ngươi còn có một tí vỏ thóc . Ta vừa ý rồi".

Ồ ! Vị thần này thật là dễ hài lòng .

Cho nên , bà già lúc đó đã được một chút công đức . Ồ ! Vị thần này thật là phúc hậu , nhân từ , bác ái ! Rồi ông nói : "Busandi , sau khi bà già chết và đầu thai trở lại thế giới này , hãy cho bà sống bằng loại thóc có miếng vỏ dính trong miệng ngươi".

Bà già này sẽ ăn thứ đó suốt đời . Vị thần nói xong rồi biến mất .

Lợi ích của việc bố thí và ăn ở đạo đức thật là không thể tưởng tượng được , cho dù không phải là tự nguyện cũng vậy . Tình thương và lòng từ bi của Thượng Đế thật là vô lượng , vô biên . Hành vi tử tế nhân đạo dù chỉ có một tí xíu thôi cũng có hiệu lực vô cùng kỳ diệu . Có lẽ bà ta không muốn cạy ra vì biết cũng không dụng gì . Không có bao nhiêu ! (Cười)

Thượng Đế , với tình thương như biển cả , luôn luôn tạo cơ hội cho những người có tội được chuộc tội và được cứu rỗi . Bà già này không làm công đức gì cả mà còn được cho ăn bánh mì làm bằng thóc . Nếu chúng ta cho người khác nhiều hơn nữa , chúng ta sẽ còn được biết là bao nhiêu !

Nhím Hoàng Kim
12-23-2007, 11:22 AM
Ba Tên Đầy Tớ Cố Chấp



Một ông phú hộ nọ có ba người đầy tớ : Một người rất hay suy nghĩ , một người rất cẩn thận , còn một người thì rất lễ phép . Ông nhà giàu này rất hài lòng và quý mến họ .

Có một lần , con của phú ông sơ ý té xuống sông và gần chết đuối . Người làm thứ hai cẩn thận kia nhìn thấy , nhưng anh ta cẩn thận quá đến nỗi phải chạy về báo cho chủ nhân : "Thưa ông chủ , con của ông mới té xuống sông . Tôi cứu nó được không ? (mọi người cười). Ông nghĩ có cứu được nó không ? Làm cách nào thì tốt nhất ? Chúng ta phải thảo luận trước đã".

Dĩ nhiên phú ông rất tức giận và đuổi người này đi . Đến lúc phú ông chạy tới cứu con thì đã quá muộn , chỉ còn có nước sai người đầy tớ thứ nhất , là người hay suy nghĩ đó đi mua quan tài để chôn con . Người này thuộc loại hay phòng xa những chuyện chưa xảy tới , nên đã mua hai chiếc quan tài (Sư Phụ và mọi người cười). Anh chàng này nghĩ xa quá ! Phú ông tức quá hỏi : "Ta chỉ có một đứa con thế thôi , sao lại mua tới hai chiếc quan tài ?"

Người đầy tớ trả lời : "Rủi như đứa con thứ hai của ông cũng chết , có thể là chết đuối hay tai nạn gì đó , (Mọi người cười) thì khỏi cần phải đi mua nữa . Đỡ mất công , đỡ tốn thời giờ , đỡ tốn xăng".

Phú ông giận quá đuổi người đó đi .

Bây giờ chỉ còn lại một người đầy tớ , người rất lễ phép , vẫn còn được phú ông ưa thích . Một hôm người này cùng một người đầy tớ khác khiêng kiệu cho ông chủ ra ngoài chơi . Giữa đường họ băng qua một đầm lầy , nước không sâu lắm , nhưng nếu lội qua quần áo sẽ bị dơ , bị ướt . Người khiêng kiệu kia hơi do dự , không muốn bị dơ ao quần nên có ý đòi quay về . Tuy nhiên người đầy tớ lễ phép kia nói rằng : "Đừng đi về ! Chúng ta nên tiếp tục đi , miễn ông chủ vui là được rồi , còn chúng ta không có gì quan trọng".

Thế là họ quên bản thân , khiêng kiệu lội nước đi .

Chủ nhân nghe người này trung thành như vậy thì mừng lắm , mới nói rằng : "Ngươi đối với ta rất biết suy nghĩ , biết cống hiến và trung thành như vậy ; khi về nhà , ta sẽ tặng cho ngươi nhiều quần áo và tăng tiền lương". Nghe phú ông nói như vậy , người đầy tớ lễ phép đó liền để kiệu xuống (lúc đó họ đang ở giữa đầm lầy), và chắp tay lại trả lời : "Cám ơn ân điển của ông chủ !" (Sư Phụ và mọi người cười).

Quý vị thấy đó , đồng tu chúng ta đâu có khác gì mấy , phải không ? (Mọi người cười). Họ không biết ấn biến theo tình thế . Ai cũng có tính tốt của họ , nhưng đều không biết dùng đúng chỗ .

Quý vị nhớ Khổng Tử có nhiều đệ tử rất nổi danh không ? Tử Lộ rất dũng cảm và Tử Nhiễm thì rất là cẩn thận . Nhưng mỗi người chỉ có phẩm tính đó thôi . Nếu quá cẩn thận thì không biết làm sao uyển chuyển . Quá dũng cảm thì không biết lúc nào nên khiêm nhường . Điều đó cho chúng ta thấy điều gì thái quá cũng là không tốt .

Tuy họ giỏi như vậy mà vẫn phải đến học với Khổng Tử , vì Khổng Tử phẩm tính gì cũng có , dũng cảm mà không quá dũng cảm ; khiêm tốn mà không quá khiêm tốn . Ngài biết hoàn cảnh nào thì phải phản ứng ra sao , làm việc gì cũng trung dung và không quá cực đoan .

Nhưng đa số chúng ta đều có tính ngoan cố . Nếu dùng đúng chỗ thì tốt , nếu dùng không đúng chỗ thì nó sẽ thành xấu . Giống như chúng ta có thể dùng điện để cho đèn sáng , để phát hơi lạnh hoặc phát hơi nóng . Nhưng nếu chúng ta trực tiếp chạm vào điện thì sẽ bị rắc rối . Cũng như nhiều loại thuốc chữa bịnh mới ra , nếu dùng đúng lượng thì có thể cứu người , nhưng dùng quá liều sẽ gây nguy hại .

Chúng ta đến thế giới này để học trở thành hoàn mỹ , cho nên phẩm chất gì cũng phải có , và phải biết cách xử dụng cho thích đáng . Không thể nói rằng vì chúng ta dũng cảm mà chúng ta cứ làm gì cũng được , không cần để ý đến gì khác . Có dũng khí mà không có trí huệ thì sẽ gây hại cho mình và người khác .

Nhím Hoàng Kim
12-26-2007, 08:44 PM
Phục Hồi Sự Khiêm Cung



Một người nọ rất muốn tu hành . Anh ta đọc rất nhiều chuyện và kinh điển , tất cả đều viết rằng : "Khiêm tốn là điều tiên quyết thể hiện phẩm chất của một thánh nhân", vì vậy cho nên , anh rất muốn tập tính khiêm tốn .

Anh theo học với một vị thầy , và nói với thầy rằng anh rất muốn thấy Thượng Đế , nhưng không biết làm cách nào để học tính khiêm tốn . Anh cảm thấy mình không trong sạch , không đơn thuần , không khiêm tốn , cho nên anh không thấy được Thượng Đế .

Thầy của anh nói : "Được rồi , con hãy đi tìm một người nào hay một vật gì dơ dáy hơn , thấp kém hơn , xấu xa hơn con , rồi mang về đây cho sư phụ xem hoặc nói cho sư phụ biết . Sau đó sư phụ sẽ dạy con làm thế nào để từ đó mà học hỏi và trở thành khiêm tốn hơn".

Anh đi từ Đài Bắc tới Cao Hùng , nhưng vẫn không tìm thấy , ngay cả ở Miaoli cũng không có . Dù chúng ta tệ như vầy , anh cũng không sao tìm ra được một người tệ hơn anh , anh rất lấy làm thất vọng .

Có một lần anh đi nhà cầu , bỗng anh nghĩ tới cục phân , nó nhất định phải dơ hơn , thấp kém hơn anh , vì không ai muốn nó cả . Bất cứ người nào trông thấy cũng bịt mũi chạy trốn . Anh muốn lấy một nắm phân cho thầy xem , vì anh tìm không ra cái gì thấp hơn .

Khi đưa tay ra định lấy , và trước khi đụng tới , anh bỗng nghe một tiếng nói cất lên : "Đừng đụng tôi ! Đừng lại ! Đừng đụng tôi !"

Anh lấy làm lạ không biết ai nói vậy . Rồi lại có tiếng : "Anh đừng đụng vào tôi !". Hình như cục phân nó đang nói với anh , anh thấy lạ quá bèn hỏi : "Tại sao ? Tại sao không đụng mi được ?" Nó trả lời : "Anh thấy không , hôm qua tôi còn là một miếng bánh ngon lành (mọi người cười), rất đẹp , rất có giá , rất quý , có thể dâng lên cho vua , cũng có thể cúng dường cho một đại thánh nhân . Hôm nay chỉ vì tiếp xúc một lần với anh thôi , mà tôi biến thành như vầy . Bây giờ bất cứ người nào cũng không muốn nhìn tôi , không dám đến gần . Hễ trông thấy tôi là họ nhắm mắt , bịt mũi chạy cho lẹ , ai cũng đều khinh tôi . Vì quan hệ với anh chỉ một lần thôi mà tôi bị biến thành như vầy ! Nếu anh còn đụng tôi thêm một lần nữa . Ồ ! Ghê quá (mọi người cười) không biết tôi sẽ ra sao ? Không biết chuyện gì khủng khiếp nữa sẽ xảy ra ? Cho nên , xin đừng đụng tới tôi nữa".

Anh ta bấy giờ mới hiểu và cảm thấy khiêm tốn .

Chúng ta ai cũng nghĩ rằng mình rất tốt , nhưng chưa chắc ! Chúng ta cho rằng mình tốt hơn cục phân , nhưng thật ra chính vì chúng ta nên nó mới biến thành như vậy . Chúng ta , những người tu hành , biết rõ mình có lòng khiêm tốn hay không . Đừng tưởng chúng ta là cái gì hay lắm .

Nhím Hoàng Kim
12-30-2007, 09:24 AM
Yêu Tinh Xanh và Yêu Tinh Đỏ


Có một câu chuyện nói về hai người nửa quỷ , nửa thần ; có lẽ là nửa tiên , nửa yêu tinh . Hai người sống với nhau . Một người thì xanh , còn người kia thì đỏ , (Sư Phụ cười) giống như đèn xanh , đèn đỏ ngoài kia . Màu xanh là tượng trưng cho hòa bình , không trục trặc . Màu đỏ là tượng trưng cho chiến tranh , sự cản trở , bế tắc . Nhưng hai người sống với nhau rất là hòa thuận trên một ngọn núi , không bận rộn , lo nghĩ hay ham muốn gì cả .

Họ sống với nhau nhiều trăm năm như vậy . Và những khi không có gì làm , họ hay ngồi với nhau trên núi , nhìn xuống trần gian , thế giới của loài người . họ thấy đủ thứ chuyện bận rộn , người đi ngược , kẻ đi xuôi ... Họ thấy thế giới luôn luôn biến chuyển . Con xanh nói với con đỏ : "Anh thấy không , chúng ta đã sống trên nhiều trăm năm nay rồi , đời sống không bao giờ có gì thay đổi , ngày nào cũng như ngày nấy . Nhưng tại sao thế giới dưới kia , thế giới của loài người , mỗi ngày đều có thay đổi vậy ?"

Con đỏ đáp : "Ừ nhỉ , anh nói đúng , cũng hay , đời sống của họ cũng hay đấy".

Nhưng con xanh nói : "Tại sao đời sống của họ chuyển biến hoài vậy ?"

Con đỏ nghĩ một hồi rồi đáp : "Ồ , chắc tại vì họ hay đánh nhau . Họ xây nhà thật đẹp , thật lớn , hôm sau lại đánh nhau rồi phá hoại hết . Rồi họ xây cái khác , rồi chiến tranh nữa , phá hoại nữa . vì vậy mà thế giới luôn luôn có công chuyện để làm (Sư Phụ cười), luôn luôn thay đổi . Đối với hai đứa mình bây giờ , thế giới này quá yên ổn , quá chán . Tôi nghĩ chúng ta nên đánh nhau đi". Con đỏ nói như vậy .

Con xanh nói : "Không , đừng đánh nhau . Chúng ta là bạn tốt , đã là bạn bè với nhau nhiều trăm năm nay rồi , sao lại đánh nhau chứ ?". Nhưng con đỏ nói : "Nếu không đánh nhau , chúng ta sẽ không có gì thay đổi . Cuộc đời sẽ cứ như vầy hoài . Chán quá ! Không có gì tiến bộ cả . Tụi mình đánh nhau đi !".

Con xanh nói : "Không , không , không ! Tôi không làm vậy đâu . Không , tụi mình là bạn mà".

Con đỏ nhất định và nói : "Kể từ hôm nay , anh là kẻ thù của tôi . Đừng nói gì thêm nữa".

Nó tuyên bố ngay tại đó , rồi bỏ đi . Nó không sống với con xanh nữa , mà dọn về phía bên kia núi , ngồi một mình ở đó chuẩn bị chiến tranh . Con xanh ở lại , trong lòng buồn bả cô đơn , nó nhớ con kia .

Yêu tinh là một nửa thiên thần , họ có phép thần thông . Ngoài việc biết bay , hóa phép ra đồ vật , nhìn được rất xa , nghe được rất xa , họ cũng có thể biến cái mũi của họ mọc ra dài vô tận .

Một ngày kia , con xanh ngồi đó trong lòng chán nản , bỗng nhiên thấy thế giới loài người dưới kia có một cái gì đó luôn luôn sáng lóng lánh . Nó tò mò quá , bèn xử dụng cái mũi của nó , (cười) làm dài ra , nói : "Dài nữa , dài nữa , dài nữa".

Thế là mũi nó mọc dài , dài , dài vào tới thế giới bên dưới , đến chỗ có cái vật sáng lóng lánh kia . Ánh sáng lấp lánh này phát ra từ xiêm y của công chúa trong thành phố đó . Lúc bấy giờ mấy người tỳ nữ đang phơi đồ của công chúa ngoài sân . Những bộ đồ này được kết vàng , có cái kết kim cương , ngọc thạch ... sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời .

Tỳ nữ nói chuyện với nhau rằng : "Ồ , quần áo công chúa đẹp thiệt , nhưng nhiều quá không có đủ tre để phơi . Phải làm sao đây ?"

Lúc đó , mũi con yêu tinh này cũng vừa đến (cười). Mấy người tỳ nữ nghĩ : "Ồ , có cái cột tre dài đủ để phơi những bộ đồ còn lại rồi nè".

Thế là họ treo số quần áo công chúa còn lại trên cái cọc xanh đó , rồi vui vẻ vào nhà ăn bánh chapati .

Con xanh bỗng nhiên cảm thấy có cái gì nặng trĩu trên mũi . Nó sợ hãi quá , tức thì kéo cái mũi lên trở lại bình thường , kế tiếp là một đống quần áo lóng lánh đổ xuống chân nó .

Nó nghĩ bụng : "A ! Ô ! Hôm nay hay quá !". Nó liền mặc vào thử , coi đẹp như thế nào . Nó hãnh diện đi qua đi lại một mình . Đúng lúc đó con đỏ đến gây sự muốn đánh nhau , đề tiến bộ .

Nhưng con xanh nói : "Nhìn nè ! Tôi có quần áo mới , đẹp không ? Tôi nhường cho anh một nửa .

Con đỏ nhìn tỏ vẻ coi thường , nói : "Tao không mặc mấy thứ đồ vô duyên này , chỉ những người điên như mày mới mặc". Nó muốn gây lộn , nên cứ nói bậy nói càng .

Con xanh lúc nào cũng xanh , rất điềm tĩnh , cũng không bắt bẻ gì hết . Nó nói : "Cũng được . Anh không mặc cũng không hại gì . Cứ để lại đó , không sao hết".

Con đỏ không biết làm cách nào khác , đành về nhà .

Anh ta thật ra rất , rất là ganh tỵ với con xanh ; cho nên sau đó cũng rán kiếm một ít quần áo cho nó . Nó cũng thả cái mũi dài xuống cung điện , đợi người treo quần áo . Nhưng đúng lúc đó đang có vài kiếm sĩ tập đánh gươm với nhau . Họ nhìn thấy một vật gì dài từ đâu đến , bèn hỏi nhau : "Cái gì vậy ?"

Một người đáp : "A ! Chắc là phát minh mới của kẻ địch muốn tấn công chúng ta đó . Hãy phá hủy nó trước".

Người kia nói : "Phải đó".

Rồi họ dùng gươm "pa!" (Sư Phụ bắt chước tiếng chém). Con đỏ bỗng nhiên cảm thấy đau nhói , kéo chiếc mũi ngắn lại như cũ , máu chảy ròng ròng ; nó khóc ngất lên .

Con xanh nghe tiếng khóc của con đỏ lập tức chạy lại hỏi : "Chuyện gì vậy ? Chuyện gì vậy ?"

Con đỏ vừa mắc cở vừa tức , không biết nói sự thật làm sao , trả lời : "Kệ tao . Đừng có làm phiền tao".

Con xanh nói : "Không , tôi không làm rộn anh đâu , tôi chỉ muốn giúp thôi . Nó đang chảy máu kìa . Coi nè , tôi biết thuốc trị . Tôi bôi nó vào là hết chảy máu liền . Mũi của anh sẽ đẹp lại như trước . Nếu không , anh sẽ có theo bự lắm , thành một cái lỗ ngay đó , xấu lắm . Tôi chỉ muốn giúp anh thôi".

Cuối cùng con đỏ thấy cảm động nói : "Thôi được , thôi được". Rồi bắt đầu khóc thảm thiết : "Ai da ! Đau quá . Làm mau lên , mau lên ! Làm nó khỏi mau lên đi".

Dĩ nhiên họ giảng hòa với nhau vì bị đánh như vậy đủ rồi . Nó thấy đánh nhau không tốt và học được bài học hòa bình . Từ đó về sau , họ mặc quần áo đẹp , mỗi ngày uống trà với nhau , và không gây chiến tranh nữa .

Nhím Hoàng Kim
01-17-2008, 09:04 PM
Chiếc Ghế Thần


Ngày xưa có một cụ già rất nghèo , sống ở dưới chân núi nọ . Gia tài duy nhất của cụ là một túp lều tranh mà cụ đang sống . Thật ra người này rất là lười biếng , nên mới như vậy !

Một ngài kia , ông nghe nói ở phương nọ có một nhà tu hành lực lượng rất cao , rất nhiều thần thông , muốn gì cũng có thể biến hóa ra được . Ông già lười biếng không muốn làm việc này nghe vậy liền muốn đi đến đó nhờ nhà tu hành nọ biến hóa ra những đồ vật cho ông dùng , như vậy ông sẽ không phải làm việc nữa . Nghĩ xong , ông liền khởi hành lên đường .

Sau một quãng đường dài , ông ta tới sơn động nơi nhà tu này ẩn cư . Khi nhìn thấy vị tu sĩ , ông liền quỳ xuống lạy . Vị tu sĩ này khá tốt , đón tiếp ông một cách lịch sự và hỏi mục đích của ông đến thăm . Ông già lười biếng này nói rằng : "Sư phụ kính mến , tôi là một người rất nghèo , ngoài túp lều tranh nhỏ bé ra tôi không có gì cả . Bây giờ tôi đã già , lại không làm việc được , cho nên xin sư phụ từ bi giúp đỡ cho tôi chút tài sản để độ nhật . Tôi biết Ngài có nhiều thần thông , muốn điều gì cũng có thể được ngay lập tức . Tôi tin rằng ngài có thể giúp tôi được".

Vị tu sĩ nhắm mắt lại , lặng lẽ ngồi yên không nói một lời nào cả . Có lẽ ông đã chán nghe những lời này quá rồi . Ông già vẫn tiếp tục năn nỉ . Sau một hồi lâu nghe cầu khẩn như vậy , vị tu sĩ bất đắc dĩ mới cho ông một cái ghế và nói : "Ông mang về nhà , lúc nào muốn điều gì , thì ngồi trên chiếc ghế này . Nhưng trước đó phải rửa tay , rửa mặt , tắm sạch sẽ , rồi mới được ngồi lên ghế . Sau đó ông nghĩ đến điều này , sẽ được như ý".

Sau khi cảm ơn vị tu sĩ , ông già vội vã mang chiếc ghế về nhà . Khi tới nhà , ông không để mất thời giờ , vội vàng rửa tay rửa mặt , tắm gội , rồi lập tức ngồi lên ghế . Lúc đó ông rất đói bụng , liền nghĩ tới đồ ăn . Thức ăn lập tức xuất hiện . Ồ ! Một cỗ yến tiệc đầy những thức ăn đẹp mắt , thơm ngon . Ông thưởng thức những món ngon vật lạ này cho tới khi no nê .

Ăn xong , cảm thấy mệt , ông ước được một cái giường để nằm nghĩ . Một cái giường nệm dầy liền hiện ra . Ông nằm xuống ngủ , nhưng không ngủ được vì trong lòng cứ nghĩ tới chuyện muốn đồ vật , tiền của . Ông lại nghĩ xuống giường , lên ghế ngồi . Bây giờ ông bắt đầu nghĩ túp lều tranh của ông trở thành cung điện . Quả nhiên , vừa nghĩ tới thì túp lều tranh lập tức biến thành cung điện !

Hoàng cung của ông già này vô cùng đẹp đẽ , châu báu khắp mọi nơi , cửa bằng vàng , sàn nhà và máy nhà cũng lát vàng , ngay cả cột nhà cũng bằng vàng , dát ngọc , quý báu vô cùng . Cho nên ông rất vui mừng và sung sướng . Bấy giờ ông lại nghĩ nữa : "Ai da ! Cung điện này nguy nga như vậy mà không có người giúp việc !" Vừa nghĩ xong liền có rất nhiều người làm xuất hiện , đứng chờ lệnh của ông . Sau đó ông lại nghĩ : "Có người làm , có cung điện thì không thể không có tiền bạc !" Ông muốn có nhiều vàng bạc , tiền của . Đột nhiên tất cả những thứ này đều hiện ra , khiến ông già vui mừng cực độ . Nhưng đột nhiên ông lo lắng nghĩ rằng : "Ai da ! Cung điện của ta đẹp như thế này , tiền của nhiều như thế này , lỡ như động đất thì sao ?"(Sư Phụ và mọi người cười).

Ông vừa nghĩ xong thì động đất liền xảy đến (mọi người cười). Tất cả tài sản , cung điện đều xụp đổ vào lòng đất .

Câu chuyện này dạy chúng ta điều gì ? Trước hết đầu óc của chúng ta phải trong sạch , đơn thuần . Không phải có thần thông hoặc có lực lượng tu hành là đủ . Cho nên cần phải giữ gìn thân khẩu ý cho trong sạch trước , rồi sau đó mới nghĩ đến việc có lực lượng . Nếu có lực lượng rồi mà thân khẩu ý không trong sạch , giới luật không rõ ràng thì chúng ta có thể sẽ làm chuyện xấu . Vì như vậy , chính lực lượng của chúng ta có thể sẽ làm hại chúng ta , và có khi làm nguy hại đến người khác . Cho nên từ xưa đến nay , các vị minh sư trước khi nhận đệ tử đều khảo nghiệm họ rất lâu , cho đến khi thân khẩu ý của họ hoàn toàn trong sạch mới ban cho lực lượng .

Minh sư thường hay dặn quý vị đừng tu thần thông . Người thường bên ngoài muốn tu thần thông rất dễ , không cần giới luật , cũng không cần ăn chay . Khi chưa kiểm soát được đầu óc của mình , nếu chúng ta nghĩ đến chuyện xấu , nó sẽ đến ngay ; vì lúc đó chúng ta nghĩ điều gì thì sẽ có điều đó . Lực lượng của vũ trụ rất vĩ đại , nhưng chúng ta phải biết cách xử dụng , nếu không sẽ gây ra nhiều nguy hại , làm cho thương tổn chính mình và cho thế giới .

Chúng ta thấy một số tai nạn xảy ra trên thế giới , đôi khi không hẳn là do nghiệp chướng của con người , mà do một số người tu thần thông , tu theo những chiều hướng xấu hoặc vì tư tưởng của họ không tốt nên đã làm cho thế giới bị ảnh hưởng theo . Chúng ta có nói những người đó là những kẻ gây rối hay bị khống chế bởi lực lượng phủ định . Thật sự có những người như vậy .

Cho nên khi tu hành , mỗi ngày chúng ta hãy nhớ đến Thượng Đế , nhớ đến những Phật danh đã được gia trì để bảo vệ cho mình . Đôi khi không hoàn toàn do nghiệp chướng tạo ra trở ngại , mà do lực lượng âm , lực lượng ma vương ở xung quanh chúng ta gây ra . Nếu chúng ta thường xuyên nghĩ đến Thượng Đế tối cao , thì tâm chúng ta sẽ trong sạch , sau đó chúng ta sẽ không ham muốn điều gì nữa . Lúc đó , đối với chúng ta thần thông cũng vô dụng , vì chúng ta đã đồng một thể với Thượng Đế , và không một cái gì mà chúng ta không thể có . Lúc đó bên trong chúng ta rất mãn túc và biết rằng sau khi lìa bỏ thế giới ảo tưởng này , chúng ta sẽ trở về quê hương của chúng ta , nơi ấy cái gì cũng có . So với nơi đó , thế giới này là rác , không một cái gì có thể lôi cuốn chúng ta được . Khi linh hồn chúng ta được trở về nhiều lần nhìn thấy quê hương , đầu óc chúng ta sẽ hiểu và trở nên vững vàng . Lúc đó chúng ta không muốn gì nữa . Dù có muốn , cũng chỉ là muốn những điều tốt cho kẻ khác . Tâm hồn của chúng ta sẽ trở nên rât nhân hậu , luôn luôn nghĩ đến những điều tốt ; và khi nghĩ tới những điều tốt thì những điều tốt sẽ đến .

Nhím Hoàng Kim
01-25-2008, 05:11 PM
Tin Thượng Đế

Có một người bị tai nạn xe hơi . Anh ta bị đụng văng ra khỏi xe , treo lủng lẳng trên một cành cây sinh mạng rất là nguy hiểm . Trước giờ anh ta chưa từng tin Thượng Đế , cũng chưa bao giờ niệm danh hiệu Thanh Hải Vô Thượng Sư hay đại khái như vậy (mọi người cười). Trong cơn nguy biến anh ta la lên kêu cứu , nhưng chung quanh không có ai cả .

"Ô ! Thượng Đế ơi , ít ra cũng có Ngài ở đó chứ ? Lúc trước con chưa từng cầu nguyện Ngài , nhưng hôm nay con cầu nguyện Ngài đây . Xin Ngài đến cứu con , xin Ngài !"

Không có gì xảy ra . Thượng Đế chẳng nói một lời nào , hay có thể là Ngài không có ở đó . Anh ta lại tiếp tục cầu nguyện : "Thượng Đế ơi , xin Ngài đừng giận con . Con biết là trong suốt cuộc đời con chưa bao giờ gọi đến Ngài đây . Con tin Ngài mà , phải không ? Chính vì vậy mà con đang gọi Ngài , đúng không ? Nếu không tin thì sao con lại gọi Ngài chứ ? Xin Ngài mau mau đến cứu con".

Không có gì xảy ra . Thượng Đế không nói một lời nào cả . Anh ta mệt quá , gắng gượng muốn hết nổi và như sắp bị rớt xuống dốc núi rồi vậy . Mỏm đất nơi nhánh cây mọc cũng sắp lỏng ra . Anh nói : "Thượng Đế ơi , xin Ngài đến gấp . Con xin hứa sẽ quảng cáo tên Ngài trên khắp lục địa . Con sẽ trở thành linh mục . Con sẽ đi khắp nơi giảng giáo lý của Thượng Đế . Con sẽ bảo mọi người tin nơi Ngài , vì nếu Ngài cứu con ngày hôm nay , con sẽ làm nhân chứng . Con sẽ kể họ nghe phép lạ này , lúc đó chắc chắn ai cũng sẽ chạy theo Ngài . Con hứa sẽ là con chiên của Ngài , là tôi tớ của Ngài , là bất cứ gì Ngài muốn".

Từ đâu có một giọng nói cất lên : "Người nào trong lúc lâm nạn cũng nói như vậy".

Người này nói : "Ồ ! Không phải vậy đâu , con không phải vậy đâu . Con thật tình tin tưởng Ngài mà . Nếu Ngài giúp con , con sẽ làm thật , con xin hứa".

Thượng Đế cất lên tiếng nói : "Thôi được , ta cho nhà ngươi một cơ hội . Bây giờ nhà ngươi hãy buông cành cây đó ra , rồi ta sẽ cứu ngươi".

Người đó nói : "Cái gì ? Ngài nghĩ tôi điên rồi sao ?"

Anh ta tin Thượng Đế như vậy đó .

Chuyện này nghe rất giống như một số đồng tu của chúng ta lúc nào cũng nói : "Con tin Sư Phụ , nhưng khi gặp chuyện lại nói , cái gì ? Ngài bảo con làm vậy à ? Để làm gì ?"

Nhím Hoàng Kim
03-19-2008, 04:12 PM
Không Nên Bắt Chước Hành Động Bên Ngoài Của Minh Sư



Có một vị minh sư kia huấn luyện đệ tử về phương diện trí huệ . Có người đến gặp vị minh sư để xin học về trí huệ . Vị minh sư nói rằng : "Ừ , được , muốn làm minh sư tương lai , vị Phật tương lai , dĩ nhiên chúng ta phải có tối thiểu là hai khả năng . Phật tương lai cần phải có nhiều phẩm chất quan trọng , nhưng đây là hai khả năng quan trọng mà họ phải có để tiến bộ nhanh chóng trên con đường tu hành".

Những người đệ tử nghe vậy liền hỏi : "Đó là cái gì ? Sư Phụ ? Hai tài năng này là gì ?"

Ông thầy trả lời : "Tài thứ nhất là khả năng chịu đựng . Chịu đựng có nghĩa là quý vị phải chịu đựng được những gì mà người khác không thể chịu được . Tài thứ hai là khả năng quan sát ; nhìn , nhìn , nhìn".

Để làm thí dụ điển hình , ông thầy gọi thị giả mang lại một cái tô đựng đầy những thứ dơ bẩn , mới ngửi đã muốn nôn rồi . Nhưng ông thầy không động tâm chút nào . Ông để ngón tay vào trong cái tô đựng đồ dơ bẩn , kinh tởm đó , những thứ mà quý vị cũng không muốn nhìn , có lẽ vừa lấy thẳng từ trong nhà cầu ra . Ông chấm ngón tay vào , rồi lấy ra đưa lên miệng nếm . Mặt ông vẫn tỉnh lặng như bức tường trước mặt tôi và quý vị vậy .

Những vị Phật tương lai chung quanh ông hăng hái muốn tỏ cho sư phụ của họ thấy rằng họ rất đủ điều kiện để làm đệ tử , cho nên , người nào cũng tới gần , chấm ngón tay vào tô , rồi đưa lên miệng nếm , cố gắng giử cho nét mặt không thay đổi . Họ cố không tỏ vẻ gì là ghê tởm cả .

Vị thầy cười nói rằng : "Chúc mừng quý vị đã qua được bài thi , nhưng chỉ qua được một bài thôi , không phải hai . Bài thi quý vị đậu đó là tính chịu đựng . Nhưng bài thi thứ hai thì quý vị rớt , vì không có khả năng quan sát".

Các đệ tử hỏi : "Tại sao vậy ?"

Vị thầy trả lời : "Ta chấm ngón tay này vào tô , nhưng ta đưa ngón tay khác lên nếm". Ông chấm ngón tay trỏ vào trong cái tô hôi hám kia , nhưng lai nếm bằng ngón tay giữa (Cười). Các đệ không trông thấy điều đó , cho nên họ đưa lên miệng nếm cùng ngón tay họ chấm vào tô .

Bây giờ quý vị thấy chưa ? Đây là những người đệ tử ngu . Có rất nhiều đệ tử giống như vậy . Họ chỉ bắt chước minh sư thôi ; cái gì , việc gì cũng bắt chước ; biến họ thành một người ngố . Cái khổ là ở chổ đó ! Cho nên chúng ta đừng bắt chước ai cả . Ngay cả minh sư cũng không bắt chước ai , cho nên nếu muốn được như minh sư , thì đừng bắt chước người nào cả . Mọi việc đều là nguyên bản , bởi vì mỗi người đều được trời phú cho khả năng sáng tạo . Mọi người đều có thể sáng tạo mọi vật , tùy theo khả năng và khuynh hướng nghệ thuật của người đó .

Chúng ta không cần phải bắt chước người nào , kể cả Đức Phật , Minh Sư , hay Đấng Tạo Hóa của cả thế giới . Vì vậy quý vị thấy có rất nhiều minh sư nhưng không ai giống ai cả . Lục Tồ Huệ Năng nhìn không giống như Đức Phật , hành động cũng không giống Đức Phật . Chúa Giê Su không hành động giống như Lão Tử . Lão Tử cũng không làm điều gì giống Krishna , ... Cho nên , nếu chúng ta bắt chước một vị minh sư , hoặc đòi hỏi minh sư đó phải giống như vị minh sư trong kinh thánh hoặc như chúng ta tưởng tượng trong đầu , thì không bao giờ chúng ta tìm thấy được . Chúng ta không nên tìm bản sao , mà phải tìm bản chính . Minh sư luôn luôn là bản chính . Chúng ta đâu có muốn bản sao , đúng không ?

Vì vậy trong khi tu hành , chúng ta phri luôn luôn thận trọng . Minh sư có cách đặc biệt để làm việc , đôi khi rất , rất là đặc biệt . Chúng ta cứ nhìn theo rồi nghĩ rằng mình làm được , sờ đầu , nhìn mắt , cho kẹo ; chúng ta còn có thể mua nhiều kẹo hơn như vậy , chẳng hạn như vậy . Chúng ta không thể chỉ dựa vào hành động bên ngoài để phán đoán một người có phải là Minh Sư hay không . Chúng ta phải nhìn vào bên trong .

Nhím Hoàng Kim
04-15-2008, 03:09 PM
Nhất Thiết Vi Tâm Tạo


Ngày xưa, có hai người bạn thân cùng nhau đi chơi. Khi họ đi ngang qua một ngôi chùa Ấn Độ, chợt nghe trong chùa có tiếng niệm "Bhagavadgita" là một bộ kinh nổi tiếng của Ấn Độ. Một người bạn mới nói với người kia rằng: "Này! Này! Chúng ta hãy vào chùa nghe kinh." Sau đó cả hai cùng bước vào; một người ở lại nghe kinh, còn một người nhìn qua nhìn lại, rồi bỏ ra ngoài tìm các cô kỹ nữ ở lầu xanh.

Người bạn đến lầu xanh một hồi rồi cũng thấy chán, sau đó cảm thấy hối hận và xấu hổ, lòng thầm nghĩ: "Áy da! Mình thật là bậy, thật là đáng xấu hổ, nghe giảng kinh không nghe, lại tới những nơi như thế này! Bạn mình hiện giờ đang nghe kinh, công đức vô lượng, còn mình thì trụy lạc ở chốn lầu xanh này, thật là đáng tội!" Anh ta cảm thấy mình thật đáng tội, thật đáng xấu hổ, cho nên muốn trở lại ngôi chùa để nghe kinh. Nhưng khi anh đến, thì buổi giảng kinh cũng vừa xong. Trong lòng anh vô cùng ân hận, về nhà ray rứt mãi mấy ngày.

Trong lúc người bạn đang ở lầu xanh hối hận, thì người bạn ngồi nghe kinh trong chùa nọ, tâm không sao yên để nghe giảng (Sư Phụ cười), đầu óc cứ nghĩ mãi: "Thật là chán, tại sao ngồi đây nghe kinh. Bây giờ bạn mình đang du hý vui chơi, hưởng những giây phút tuyệt vời, còn mình lại ở đây nghe người ta giảng kinh, chán chết đi được!" (Sư Phụ cười) Và anh ta cứ nghĩ như vậy cho nên trong lòng càng đau khổ.

Rồi một thời gian, hai người này đều qua đời. Tử thần đến nhà của người bạn nghe kinh, kéo anh ta xuống địa ngục; còn đến nhà người bạn đến lầu xanh đưa anh ta lên thiên đường (Sư Phụ cười). Quý vị có biết tại sao không? Không biết à? "Đó là do nhất thiết vi tâm tạo!" Thượng Đế không phải chỉ nhìn vào hành động của chúng ta, Ngài còn nhìn vào tâm chúng ta. Có những lúc nhìn hành vi của một người, chúng ta không hiểu rõ họ có phải thật sự như thế không, chúng ta cần phải nhìn vào tâm họ thì mới chính xác, lòng người lại rất khó lường; có những lúc bề ngoài trông thật lịch sự, nhưng trong lòng lại không tốt; có những khi trong tâm một người rất tốt, nhưng trông bề ngoài không như thế.

Cũng vậy, trong số đồng tu chúng ta có những người có quá khứ không hay lắm, có những người vẫn còn là những tay đàn anh, có những cô vẫn còn là tay đàn chị (Sư Phụ và mọi người cười), có người giết người, có người làm những chuyện xã hội không dung thứ nổi, nhưng sau này họ hối hận, tìm cách tịnh hóa bản thân, thành tâm tu hành, rồi nghiệp chướng của họ cũng được tiêu trừ. Có những người tuy cả đời không làm chuyện gì xấu, nhưng cứ lượn tới lượn lui, không chịu ngồi thiền, gặp Sư Phụ cũng không cảm thấy gì quý trọng, liếc qua một cái rồi bỏ đi, sau đó lại đi tìm Minh Sư khác, đi shopping - đi dạo phố, chúng ta có thể gọi họ là những người "dạo núi"! Bởi vì hầu hết các vị Minh Sư đều ở trong núi (Sư Phụ cười); họ từ núi này trông sang núi nọ, trông ngọn núi kia xanh hơn, đẹp hơn. Bởi vì tu hành không thật sự thành tâm, cho nên làm việc gì cũng không thành tựu.

Vì vậy không phải bề ngoài chúng ta trông có vẻ ngoan ngoãn dễ thương, rồi chúng ta có thể gạt được Thượng Đế. Chúng ta không thể gạt được Thượng Đế, bởi vì gạt Thượng Đế là tự gạt chính mình. Chúng ta tự hiểu mình muốn điều gì. Vả lại khi chúng ta làm việc gì, lòng không thành tâm, bản thân sẽ hiểu một cách rõ ràng.

Quý vị đã đọc qua những câu chuyện về các vị Minh Sư thời xưa, có những người rất lạ lùng, chẳng hạn như Tế Công. Nghe nói ông ăn thịt uống rượu, cả ngày nhậu nhẹt say sưa, đi đứng nghiêng ngửa, không có một chút phong độ. Rồi còn có một vị Kim Sơn Hoạt Phật, ông cũng là một hòa thượng kỳ quặc (Sư Phụ cười), ngày tối lang thang vất vưởng, cũng không có chút tư cách nào v.v.... Nhưng họ tu hành, tự biết đẳng cấp của họ; không những bản thân họ biết, mà Phật Bồ Tát cũng biết. Cho nên những người tu hành chúng ta khó phán đoán từ bề ngoài, nhưng trong tâm chúng ta chúng ta hiểu rõ mình có thành tâm hay không. Nếu chúng ta không biết, Phật Bồ Tát cũng biết. Không thể dựa vào sự biểu diễn bề ngoài mà người ta sẽ tin tưởng, không hẳn là như thế! Thượng Đế sẽ biết cách phán đoán.

Chúng ta tu hành, điều quan trọng nhất là thành tâm. Có những người đến cộng tu, tuy ngồi yên một chỗ, nhưng tâm của họ không ở đó. Cho nên Sư Phụ mới bảo quý vị: Đến chỗ cộng tu, thân khẩu ý phải thanh tịnh (Sư Phụ cười); nếu không, ngồi ở đó không có công đức đâu, còn tệ hơn những người ngồi nhà thiền mà thành tâm. Mỗi ngày ngồi thiền rất thành tâm, khiêm tốn, sẽ được nhiều công đức nhiều hơn (Sư Phụ cười). Nhưng đi cộng tu đương nhiên công đức rất nhiều, bởi vì sự thành tâm của người khác cũng ảnh hưởng đến chúng ta. Ví dụ, đến đây thấy hàng trăm, hàng ngàn người cùng nhau chuyên tâm tọa thiền, thấy mọi người thiền rất chăm chỉ, mình cũng cảm thấy xấu hổ nên cũng ráng tọa thiền một lát (Sư Phụ cười), ngồi một hồi, tự nhiên cũng có công đức vì đầu óc được tịnh hóa và chuyên tâm.

Nhím Hoàng Kim
04-22-2008, 05:33 PM
Người Tu Hành Phải
Tự Lực Cánh Sinh

Có một người nọ , thường đi lang thang vào trong rừng sâu , có lẽ ông ta đi ngắm cảnh hay làm chuyện gì đó . Một hôm , ông tình cờ trông thấy một con chồn cụt chân . Ông tự hỏi con chồn này bị cụt chân như vậy làm thế nào sống được trong cánh rừng này . Rồi ông để ý quan sát . Ông trông thấy một con hổ đen đem mồi về ăn , những gì còn thừa lại thì con chồn ăn . Bây giờ ông mới biết con chồn này sống bằng cách đó .

Ngày hôm sau , một lần nữa , Thượng Đế lại dùng con hổ để nuôi con chồn . Người đó xem được như vậy nên nghĩ rằng bây giờ ông ta được khai ngộ hơn một chút . Ông tự nhủ rằng : "À , mình phải nương tựa vào Thượng Đế , phải tin vào Thượng Đế thì Ngài sẽ cung ứng mọi thứ cho mình".

Thế là ông bỏ việc làm , bỏ vợ con , cũng không đi đạo tràng Tây Hồ để cộng tu nữa (Mọi người cười). Ông chỉ ngồi trong rừng và hoàn toàn hàng thuận Thượng Đế , hy vọng Ngài sẽ mang thức ăn lại cho ông . Rồi ông ngồi đó thiền quán Thượng Đế . Ông cũng không thèm niệm Phật hay niệm Nam Mô Thanh Hải Vô Thượng Sư nữa (Mọi người cười).

Ông nói : "Ta chỉ tin tưởng vào Thượng Đế . Sao phải lại niệm tên ai ? Ta tin Thượng Đế , ta thương Thượng Đế , ta phục và kính trọng Thượng Đế , thế là đủ rồi . Ta hoàn toàn hàng thuận Thượng Đế".

Nghĩ vậy ông ngồi đó . Có lẽ ông đợi bơ , bánh ngọt , bánh mì , phó mát , đậu hũ tới . Ngày đầu tiên , không có gì đến cả , ông tiếp tục ngồi đó , nói rằng : "Thượng Đế đang khảo lòng tin của ta".

Rồi ông ngồi đó sang ngày hôm sau .

Ngày thứ hai , cũng chẳng thấy đậu hủ nào xuất hiện và cũng không có cây cải nào mọc lên từ mặt đất trước mũi ông . Không thấy gì xảy ra , ông nghĩ rằng : "Ồ , Thượng Đế chắc là muốn thử lòng can đảm của ta , đức tin của ta . Dĩ nhiên ta sẽ cho Ngài biết lòng tin của ta , khả năng dâng hiến và đức tin bất thoái chuyển của ta". Ông ngồi đó nữa và cứ chờ hoài .

Đến ngày thứ ba . Chẳng có gì xảy ra . Không bơ , không bánh mì , không phó mát , không đậu hũ , không rau cải , không cà rốt , ngay cả giọt mưa cũng không có nữa ! (Nuốt) ực ... ực !! Bây giờ ông mới cảm thấy khảo nghiệm tử cổ họng , từ dạ dày , từ tứ chi , không nhất thiết là từ Thượng Đế , mà từ khắp thân thể của ông . Mọi bộ phận trong cơ thể của ông bắt đầu (Sư Phụ và mọi người cười) hành hạ ông . Cho nên ông vô cùng đau khổ và cố gắng nghĩ coi chuyện gì đã xãy ra . Ông cầu Thượng Đế : "Xin Ngài đừng khảo con nữa , con hoàn toàn tin tưởng nơi Ngài . Con thật sự dâng hiến cho Ngài . Lòng tin của con đối với Ngài không lai chuyển , không bao giờ tàn".

Rồi một giọng nói từ trên trời vọng xuống , hay có thể là từ bao tử của ông ta cũng không biết nữa (Sư Phụ và mọi người cười) nói như vầy : "Nhà ngươi thật là đần độn . Tại sao nhà ngươi lại học lối sống của con chồn tật nguyền ? Hãy đứng dậy ! Hãy bước mạnh dạn như con hổ kia vậy".

Chúng ta cũng có thể xuất gia , nhưng cũng nên làm việc , làm một chút gì đó để nuôi thân . Vì vậy tôi mới dạy quý vị là chúng ta phải tự mình tìm cách mưu sinh , bởi vì chúng ta được ban cho những công cụ và trí thông minh . Chúng ta không phải là những con chồn tàn tật . Nếu chúng ta thật sự tàn tật , có lẽ Thượng Đế sẽ cung cấp cho chúng ta . Nhưng nếu chúng ta không tàn tật thì tại sao lại phải làm như một con thú tật nguyền ? Chúng ta nên bước mạnh dạn như sư tử , hổ , voi , ngựa . Chúng ta nên làm người có dư để cho , đừng làm kẻ ăn mày , đừng làm người nhận đồ bố thí . Đó là cách sống ở đời . Một khi chúng ta còn sống trong thế giới ảo tưởng này , chúng ta cần nên phải tự lực cánh sinh , tự huấn luyện chính mình , dùng cho quen những công cụ này , thử nghiệm khả năng và trí thông minh của chúng ta , để coi cuộc đời sẽ cống hiến những gì , coi ngày mai sẽ mang đến những gì cho chúng ta .

Với khả năng và trí thông minh , chúng ta nhìn đời sống tăng trưởng lên bên trong chúng ta , nhìn cuộc đời thay đổi theo bốn mùa , nhìn những công cụ của chúng ta đang mang lại lợi ích cho chúng ta , cũng như cho gia đình và cho xã hội bên ngoài . Có trí thông minh thì chúng ta nên dùng .

Trí huệ là một chuyện , trí thông minh và khả năng là chuyện khác . Trí huệ thf chúng ta giữ , không bao giờ bị mất , không bao giờ cần phải được huấn luyện , không bao giờ bị xem thường , không bao giờ bị suy giảm hoặc gia tăng . Nhưng trí thông minh , sự hiểu biết thì chúng ta nên dùng để giải quyết đời sống hàng ngày , trong thế giới tạm bợ này . Chúng ta có thể dùng trí huệ vào mục đích vĩ đại hơn , cao thượng hơn , chẳng hạn như giúp cho người khác khai ngộ hoặc làm cho chúng ta thêm lực lượng có thể giúp những người cần đến , như chữa bịnh mà không chữa bịnh , biết mà không biết , giúp mà không giúp , gia trì cho thế giới mà không để lại mà không để lại một dấu vết kiêu ngạo , hay công trạng gì cả . Chúng ta hãy nên như vậy .

Cho nên , hôm nay , ngày mai , hoặc mỗi ngày , chúng ta nên tọa thiền . Đó là cách sống hùng , sống mạnh như hổ . Chúng ta cung cấp , chúng ta gia trì , không đòi hỏi , không xin xỏ . Tôi nghĩ rằng Thượng Đế , các vị thiên thần , bồ tát , họ đã làm xong phận sự của họ rồi . Họ đã làm xong công việc của họ rồi . Bây giờ chúng ta phải theo bước chân của họ và cũng làm công việc của họ , không phải lúc nào cũng cầu nguyện cho mình , hoặc xin xỏ cho cuộc sống tạm bợ này . Khi nào thật sự cần một điều gì đó thì chúng ta có thể cầu nguyện . Chỉ cầu cho một chút nhu cầu cần thiết đó mà thôi , để chúng ta có thể tiếp tục đời sống tu hành , nhưng đừng cứ mãi làm kẻ ăn xin trong thế giới tâm linh .

Nhím Hoàng Kim
05-04-2008, 09:53 AM
Pháp Môn Đôi Giầy Ống

Xưa kia ở Ấn Độ , có một ông vua rất tốt , rất tử tế và nhân hậu . Ông rất thương dân , trị nước bằng tình thương , lòng bác ái , và sự quan tâm đến dân chúng . Tuy nhiên , mỗi lần gặp một người dân nào , ông đều để ý đến bàn chân của họ . Thời xưa người ta chưa có giầy , cho nên họ thường bị đau vì đạp trúng sỏi đá , và gai nhọn . Gai đôi khi từ bụi gai rơi xuống đất , nên khi đi người ta đạp phải , gai sẽ đâm vào chân họ rất đau , có khi còn chảy máu và bị nhiễm độc .

Nhà vua rất đau lòng vì chuyện này cho nên ông ra lệnh cho quân lính lấy lông và da của thú vật đã chết , đem trải khắp đường xá để dân chúng đi lên khỏi đau . Ông ra lệnh lót da không những chỉ trên các lối đi mà có phủ khắp mặt đất của quốc gia đó .

Lúc đó có một ông quan lớn tuổi và thông minh , mới tâu với vua rằng ông có một ý kiến hay hơn . Ông nói , thay vì trải da khắp nơi trên mặt đất , rất khó khăn , tốn nhiều thời giờ , và tiền bạc , nhà vua chỉ cần buộc da vào chân mỗi người và như vậy thì họ có thể đi bất cứ nơi nào họ muốn .

Câu chuyện này nghe có vẻ buồn cười , nhưng cũng hàm một ngụ ý . Giống như nhiều người chúng ta đôi khi muốn làm thế giới này bình đẳng , hòa bình , thịnh vượng , thân thiện , thương yêu nhau , ... nhưng lại không thể làm được . Cũng giống như gai , đá sỏi rơi xuống đường hoài hoài , có khi từ trên trời rớt xuống , bao phủ khắp mặt đất . Vì thế , cho dù phủ lên bao nhiêu đi nữa , cũng vẫn còn có đá , gai rơi xuống nữa , có khi rơi lên trên ngay cả tấm da nữa . Vậy tốt hơn hết là chúng ta chỉ lo cho bản thân của chúng ta .

Pháp môn Quán Âm cũng giống như đôi giầy mang nơi chân quý vị vậy . Dù thế giới này vẫn đầy dẫy khó khăn , chông gai và sỏi đá , chúng ta cũng vẫn có thể bước lên mà đi mà vẫn thấy an toàn . Ngày nào thế giới vẫn còn nhiều người không tu pháp môn Quán Âm , thì ngày đó thế giới vẫn còn nhiều khó khăn . Cho nên , nếu muốn thoát khỏi những khó khăn này , chúng ta hãy bảo vệ cho chính bản thân mình thì sẽ không sao . Mặc dù trở ngại vẫn còn nhưng đối với chúng ta thì cũng không đến nỗi nào . Càng ngày quý vị sẽ càng thấy phiền não của thế giới ít ảnh hưởng đến quý vị hơn . Đôi khi chúng ta cảm thấy như bị ảnh hưởng , nhưng đó cũng chỉ vì quý vị có lòng thương yêu , từ bi đối với người gặp hoạn nạn mà thôi .

Nhím Hoàng Kim
05-04-2008, 10:20 AM
Sự Cúng Dường Chân Chính

Đây là một câu chuyện về sự thờ phượng trong tâm . Thờ phượng trong tâm có nghĩa là người mộ đạo hoặc theo đạo không dùng những thứ vật chất bên ngoài như : bông hoa , nhang đèn , hình tượng , thức ăn ... để mà cúng dường .

Quý vị có nhớ Arjuna không ? Trong sách Bhagavadgita có nhắc đến Arjuna là một đệ tử của Krishna . Arjuna rất thích những nghi thức thờ phụng Thượng Đế bề ngoài , vừa dài dòng vừa có tính cách phô trương . Ông có một gian nhà từ đường rất rộng chưng bài rất nhiều đèn nến . Ông dùng các lư đèn bằng vàng bạc rất đẹp đẽ và quý giá . Hàng ngày ông dành rất nhiều thời gian để tế lễ và tưởng niệm Đức Shiva . Ông có thể ngồi hàng giờ và rải hết cả một xe hoa tươi lên pháp tướng Đức Shiva . Quý vị biết Đức Shiva không ? Một trong những vị thần đạo Ấn Độ - Đức Phạm Thiên , Vishnu và Shiva . Shiva là thần của sự hủy diệt . Thật ra ông chỉ tiêu hủy kẻ gian tà , chứ không tiêu hủy người tốt .

Arjuna có một người anh tên là Bhima . Người này không bao giờ ngồi lễ bái , cũng không bao giờ đến chùa , chỉ thường đến Miaoli thôi (mọi người cười và vỗ tay). Ông thường hay nhắm mắt một vài phút trước khi dùng cơm và chỉ dùng tâm để tượng niệm Thượng Đế . Có thể là ông đang cúng dường hoặc niệm Phật hay gì đó .

Arjuna nghĩ mình là một người vô cùng thành tâm sùng bái Thượng Đế , và nghĩ anh Bhima của ông không có lòng thành cho nên ông coi Bhima không ra gì (Mọi người cười).

Đức Krishna biết được thái độ của Arjuna và muốn dạy đệ tử một bài học xứng đáng để anh ý thức được sự sai lầm của mình . Ông bèn rủ Arjuna cùng đi du ngoạn với ông đến núi Kailash , chỗ Đức Shiva cư ngụ .

Trên đường đi , họ gặp một người đang đẩy một chiếc xe chất đầy các loại bông hoa . Arjuna hỏi người ấy mang hoa đi đâu nhưng ngươi đẩy xe chỉ lặng yên , có vẽ như rất chuyên chú vào công việc , rất là tập trung tư tưởng .

Đức Krishna nói với Arjuna rằng : "Chúng ta hãy đi theo người này để xem ta làm gì". Arjuna bằng lòng và cả hai đi theo phía sau người nọ . Rồi họ thấy ông ta đổ xe hoa xuống bên cạnh một đống hoa thật lớn , lớn như cái đồi ở đạo tràng Tây Hồ vậy . Hai người cũng thấy hàng trăm chuyến xe nữa , tất cả đều chất đầy hoa cũng đến cùng một chỗ và đều đổ xuống đó . Một đống hoa tươi cao như cái núi nằm ở đó .

Arjuna lại càng tò mò hơn nữa . Sau cùng không dằn lòng được , ông bèn hỏi những người kia rằng : "Xin cho tôi biết những xe hoa này từ đâu đến vậy ?"

Không ai thèm trả lời cả . Arjuna hỏi đi hỏi lại mấy lần , cuối cùng một người trả lời : "Thưa quý nhân , xin đừng làm phiền chúng tôi . Chúng tôi đang bận lắm , không có thời giờ nói chuyện với người khác . Chúng tôi chỉ mới mang đến bảy trăm năm chục chuyến hoa thôi , còn hơn bảy trăm năm chục chuyến nữa vẫn còn ở trong ngôi đền . Tất cả số hoa này là do Bhima , con của Pandu , cúng dường Đức Thần chúng tôi ngày hôm qua".

Như vậy có nghĩa là cả cái núi hoa này chỉ là một nửa số hoa mà họ phải chở đi , một nửa kia còn nằm một nơi nào đó trong đền thờ . Tất cả số hoa này từ Bhima , anh của Arjuna , một người lười biếng , không bao giờ đi chùa , không bao giờ thấy thờ phượng Thượng Đế , không bao giờ làm gì cả , chưa bao giờ mang một cành hoa một nén hương đến cúng dường Đức Thánh Thần , một người mà Arjuna khinh bỉ là vô dụng , vô đạo , không có lòng cống hiến Thượng Đế !

"Bây giờ chỉ còn bốn tiếng nữa là tới giờ Bhima cúng dường cho ngày hôm nay và trước giờ đó chúng tôi phải chở cho hết số hoa đi . mỗi ngày Bhima cúng dường thì có cả một núi hoa mang tới". Vì thế , mỗi ngày , sau khi ông cúng dường xong thì họ phải dẹp số hoa đó đi .

Thấy vậy , Arjuna vô cùng ngạc nhiên , hỏi lại : "Ông đang nói Bhima hay Arjuna vậy ? Chắc ông không lầm chứ ? Ông muốn nói Arjuna phải không ? Arjuna không phải Bhuma ! Ông bạn nghĩ lại đi , nghĩ lại đi . Ông lầm rồi ! Tên của người đó là Arjuna , Arjuna , A-R-J-U-N-A , nhất định là như vậy !"

Người nọ trả lời : "Ồ ! Đừng nói tới Arjuna . Không , không , không . Không phải người đó . Chính Bhima là người thờ lạy trong trọng với tấm lòng cống hiến cao tột như vầy , không phải người em Arjuna , nó chỉ có thờ lạy bề ngoài mà thôi".

Đúng lúc đó một người khác đến mang một giỏ hoa . Ngài Krishna cố ý hỏi người đó chứ không phải là ông không biết : "À ! Anh bạn ơi , hoa này do ai cúng dường vậy ?"

Dĩ nhiên quý vị biết câu trả lời là gì rồi . Người nọ trả lời rằng : "Hoa này là do một người hay phô trương sống trên trái đất này cúng dường ngày hôm qua , tên là Arjuna (Mọi người cười). Hắn chỉ khoa trương sự cúng dường của hắn mà không có sự thương yêu và thờ phượng thật lòng (Mọi người cười). Chỉ có một giỏ hoa mà nói cả ngày !"

Arjuna mắc cở cúi đầu , nói với Đức Krishna rằng : "Ôi , Krishna , Ngài Thanh Hải Vô Thượng Sư (mọi người cười), tại sao Ngài đưa con đến đây ? Chúng ta hãy rời khỏi nơi đây ngay lập tức . Lẽ ra lúc ở nhà Ngài cũng có thể nói thẳng cho con biết những khuyết điểm của con , tính tự phụ của con , sự giả dối , phô trương của con , như thế chúng ta khỏi phải mất công , phiền phức như vầy . Con công nhận là con rất đề cao sự thờ phượng , cống hiến của con , nên đã coi thường Bhima . Bây giờ con đã liễu ngộ được rằng sự tọa thiền ngắn ngủi của Bhima với tấm lòng thành tâm cống hiến , còn cao quý hơn cả mọi sự sùng bái liễu ngộ khoe khoang suốt cả ngày của con".

Đức Krishna mỉm cười im lặng .



Cho nên , bên trong của chúng ta , ngôi chùa mà không phải là chùa , chúng ta không để ý gì đến bông hoa , hương đèn , trống mõ hay bất cứ gì khác . Chúng ta chỉ cần sự thành tâm và lòng cống hiến bên trong là đủ . Vì thế tôi đã bảo quý vị là hãy chú tâm tọa thiền , không cần phô trương bên ngoài nhiều quá , cũng đừng lạy tôi hoặc bất kỳ vị Phật nào .

Nếu ở bên trong quý vị gặp được Phật , lúc đó quý vị muốn lạy thì lạy . Nhưng Phật Bồ Tát không kỳ vọng điều này . Họ chỉ mong quý vị dốc lòng vì bản thân mình để quý vị có thể tìm được bản lai diện mục , tự mình trở thành Phật , trở thành đồng nhất thể với Thượng Đế , tìm lại tự tánh huy hoàng của quý vị , để tự mình giúp đỡ bản thân và những chúng sanh khác . Đó là kỳ vọng của Phật Bồ Tát đối với chúng ta .

Nhím Hoàng Kim
05-04-2008, 10:22 AM
Trí Huệ Của Một Bà Già Ăn Mày


Đa số người ta , kẽ biết thường thì không nói và người nói thường là không biết . Lẽ dĩ nhiên trường hợp của những vị minh sư như Đức Phật và Chúa Giê Su đi giảng Pháp lại là khác . Đó là chuyện họ phải làm như vậy , chứ họ không hề thích nói nhiều . Sứ mệnh của họ là như vậy , mặc dù họ đau khổ , họ cũng vẫn phải làm dù là họ không thích làm . Nhưng nói như vậy không có nghĩa là lúc nào họ cũng tìm cơ hội để tranh luận . Điểm khác nhau là như vậy . Gặp trường hợp như vậy họ cảm thấy rất chán và muốn tránh đi nơi khác . Họ bị bắt buộc phải làm việc đó để giảng dạy cho đệ tử và những người đã tìm đến họ . Nhưng họ không ra ngoài tranh cãi với người khác để phô trương sự hiểu biết của mình .

Còn trong trường hợp này , Tiloba (là một vị đại sư tổ của sư phụ của Milarepa) là một người hay đi khắp nơi trên Ấn Độ để khoe khoang kiến thức sách vở của mình . Đi đến đâu ông cũng thắng ; không ai có thể thắng nổi ông bởi vì sự hiểu biết của ông thật là mênh mông . Ở nhiều quốc gia khác cũng có người như vậy , không phải chỉ có một mình Tiloba mà thôi .

Một hôm , ông ta đang ở nhà đọc một cuốn sách rất nổi tiếng , rất có giá trị thời bấy giờ thì có một bà già ăn mày đến . Bà già ăn mày trông rất dơ bẩn và gầy ốm , thiếu ăn , đi ngang qua chỗ ông và nói với ông như vầy : "Ông đọc một cách say mê như vậy , nhưng thật ra ông có hiểu được chút nào không ?" (Mọi người cười)

Ồ ? Tiloba cảm thấy ngạc nhiên quá . Một người vừa già , vừa xấu như vậy mà dám nói như thế trước mặt một nhà học giả như ta sao ? Ông hơi giật mình , không biết phải phản ứng như thế nào . Rồi bà già ăn mày đó nhổ nước miếng vào cuốn sách của ông ta rồi bỏ đi .

Ông thấy bà dám nhổ vào cuốn sách thánh này thì rất là giận , cho nên ông ta đuổi theo . Khi ông vừa đuổi kịp thì bà ta lẩm bẩm điều gì đó trong miệng rồi bỗng nhiên ông cảm thấy nguôi đi , không còn giận nữa . Rồi ông ngừng lại , quay trở về nhà và bắt đầu suy nghĩ . Có lẽ ông cảm thấy bà nói không hợp với những thứ ông học được từ sách vở . Cho nên ông suy nghĩ , suy nghĩ rất nhiều . Và ông cũng nghĩ nhiều về chuyện một bà già ăn mày sao lại dám nhổ nước miếng vào cuốn sách thiêng liêng mà cả nước Ấn Độ tôn kính từ hàng ngàn năm nay .

Người ta còn quỳ lạy trước cuốn sách . Ngày nay tại một số quốc gia họ vẫn còn làm như vậy , kể cản Ấn Độ . Tôi biết , tôi đã nhìn thấy . Họ lạy cuốn sách , cúng dường tiền bạc , bông hoa cho cuốn sách , và tin rằng lạy quyển sách đó là có thể lãnh hội được tất cả sự hiểu biết và trí huệ trong đời . Nhưng sách là sách , quý vị là quý vị , quý vị làm sao có thể chỉ dạy cuốn sách mà thu hoạch gì được ! Nhưng cũng có nhiều người tin như vậy .

Rồi Tiloba suy nghĩ rất là lâu . Ông cũng ngạc nhiên là làm sao một bà già yếu đuối như vậy , mà chỉ cần lẩm bẩm một hai câu là sự giận dữ của ông liền bị dập tắt như lửa gặp nước vậy . Cho nên sau một thời gian suy nghĩ , ông bỏ việc làm và không tranh luận gì với ai nữa . Ông đi khắp mọi nơi để kiếm bà già ăn mày đó hầu tìm cho ra được điều bí ẩn mà ông mà ông không hiểu .

Một ngày kia , ông tìm thấy bà già trong rừng chỉ có một mình . Ông cố gắng tranh luận với bà , tận dụng tất cả khả năng hùng biện và kiến thức của mình để cố gắng cải cho thắng . Nhưng dù cố gắng cách mấy , bà ta vẫn thắng . Bà già ăn xin , xấu xí , nghèo nàn , thiếu ăn lúc nào cũng thắng (Sư Phụ cười). Cuối cùng bà nói với ông rằng : "Những cái mà tôi biết , trí huệ mà tôi có không nằm trong sách vở . Ông không thể nào tìm ra được , cho nên không bao giờ ông cãi thắng tôi".

Cuối cùng ông quỳ xuống lạy bà già , nhận bà làm sư phụ và xin được chỉ dạy . Bà ta bằng lòng . Ý bà nói với ông ta là những điều ông muốn biết không có trong sách vở và cũng không có trên thế giới này . Quý vị phải đi kiếm thánh nhân mà học .

Con đường đó là thọ tâm ấn . Chúng ta từ bên trong đi lên thì sẽ tìm thấy những vị thánh nhân này , ý nói là như vậy , rồi chúng ta học hỏi với họ .

Những gì tôi dạy quý vị , hay bất kỳ vị minh sư nào dạy quý vị , cũng chỉ là lời nói , cũng chỉ ở mức độ vật chất mà thôi . Nếu muốn học hỏi những gì tốt đẹp hơn , quý vị phải đí vào bên trong , đến những cảnh giới cao hơn và học với vị thầy bên trong , vị minh sư vô sở bất tại , chứ không phải với vị thầy có nhục thể . Người thầy nhục thể chỉ như là nấc thang đem quý vị lên những cảnh giới cao hơn . Tại đó quý vị sẽ học với những vị thầy cao hơn , có thể cũng cùng một vị thầy đó , hay với một vị thầy khác , nhưng ở một cảnh giới cao hơn , siêu việt hơn .

Sau đó Tiloba xả bỏ hết tất cả và hết sức cố gắng để đi vào cảnh giới thiên đàng , gặp thánh nhân và học hỏi với họ . Con đường đến đến với các thánh nhân này đầy cạm bẫy và khó khăn , nhưng ông vẫn vượt qua được .

Đó là câu chuyện của Tiloba . Dù là một nhà đại trí thức vĩ đại nhất cũng phải quỳ lạy trước một bà già ăn mày xấu xí , đói khát , để xin được học hỏi về trí huệ . Cho nên khi chúng ta tới lạy bất cứ người nào có trí huệ , người nào có thể thật sự chỉ dạy cho chúng ta con đường đến sự giải thoát , điều đó không có gì là quá khiêm tốn cả .

Đa số những minh sư ngày xưa rất nghèo . Chúa Giê Su là thợ mộc , không bao giờ giàu có . Đức Phật có rất nhiều tài sản nhưng Ngài bỏ lại hết sau lưng (Sư Phụ cười). Cho nên Ngài cũng không có gì cả . Ngài đi khất thực khắp cùng Ấn Độ thành ra Ngài cũng trở thành một người ăn mày . Đa số minh sư không có sở hữu gì cả nhưng nếu họ muốn có cũng không sao .

Một trong những vị thầy đạo Sikh , vị minh sư đạo Sikh thứ mười rất là nổi tiếng . Ngài giữ lại tài sản của Ngài . Ngài trong có vẻ rất sang trọng và đeo nhiều trang sức như là một vị hoàng tử vậy . Ngài chẳng ngại gì về chuyện này cả . Nhưng những minh sư khác trong đạo Sikh đều đi khắp nơi trong nước để khất thực . Cho nên không cần phải chỉ trích là minh sư như thế này , nên như thế nọ . Không hề gì đâu .

Quý vị có thấy Quán Thế Âm Bồ Tát không ? Ngài có rất nhiều trang sức , tóc của Ngài dài và đẹp , Ngài mặc quần áo rất đẹp . Ở thiên đàng , các thiên nhân rất là đẹp . Đồ trang sức của họ rất tự nhiên , tùy theo công đức mà kết lên thân của họ . Cho nên , không cần phải nói rằng minh sư luôn luôn phải nghèo , không nhất thiết phải như vậy . Đa số minh sư vì liễu ngộ bên trong cho nên họ thường chọn cuộc sống giản dị nhưng minh sư lúc nào cũng theo hoàn cảnh mà sống . Không phải lúc nào cũng nhất thiết phải như thế đó ; vì nếu một minh sư hãy còn chấp vào sự nghèo khó , đời sống đơn giản , hay quần áo giản dị không thôi , đó cũng kể như là một thứ câu nệ . Nếu cứ câu nệ vào một cực đoan này hay cực đoan kia cũng không tốt . Minh sư phải buông bỏ ở bên trong , còn ở bên ngoài thì sao cũng được . Phải tùy vào hoàn cảnh và xuất thân hay bất cứ những gì càn làm để đem lại lợi ích cho chúng sinh .

Nhím Hoàng Kim
05-13-2008, 06:48 PM
Tình Thương Không Phân Biệt


Hồi xưa có một người thương gia kia , buôn bán nhỏ thôi , và cũng không khá giả gì cho lắm . Việc buôn bán của anh không mấy gì thành công nhưng anh ta cũng không nệ hà gì . Anh vẫn cảm thấy thỏa mãn và lo cho gia đình rất chu đáo . Có một người láng giềng của anh là một người tu chân Đạo , và người này rất nghèo cho nên người láng giềng thương gia này thỉnh thoảng mang cho ông ta thức ăn và vật dụng để giúp ông trải qua mùa đông cũng như những lúc khó khăn . Từ khi anh ta bố thí một chút , rất ít , có thể chỉ là một phần ngàn lợi tức của anh ; một chút bánh mì , có khi bánh ngọt , có khi bánh ngọt , có khi bắp cải , có khi một chùm cà rốt , một chén gạo , đại khái vậy , những thứ không đáng giá bao nhiêu cho người láng giềng là người tu hành đó thì công việc làm ăn , gia đình và sức khoẻ của anh trở nên khá hơn , con cái ngoan ngoãn hơn và anh ta kiếm được nhiều tiền hơn .

Càng kiếm được nhiều anh càng mang cho vị tu hành nhà bên cạnh nhiều hơn , bởi vì bây giờ anh đã khá giả hơn . Càng cho nhiều anh càng kiếm được nhiều , công việc làm ăn càng phát đạt và mọi chuyện ngày càng tốt đẹp hơn .

Rồi anh bắt đầu để ý mối tương quan giữa sự khá giã của anh với những sự bố thí mà anh làm cho người láng giềng , mà thật sự cũng đúng như vậy . Anh ta bắt đầu suy nghĩ : "À , ta càng mang cho người này thì việc làm ăn của ta càng phát đạt . Nghe nói người này có một vị sư phụ , và ông ta cũng nói rằng sư phụ của ông vĩ đại hơn ông cả triệu lần". Là người buôn bán , anh thầm nghĩ : "Phải rồi , hàng mấy triệu lần hơn nữa ! Ta chỉ mới bố thí cho một người đệ tử xoàng như vậy mà việc buôn bán đã gia tăng gấp bội ; nếu ta cho sư phụ của ông ta , người mà ông ta nói là hàng trăm , hàng triệu , hàng tỷ lần vĩ đại hơn , thì có lẽ việc làm ăn của ta sẽ ..."

Quý vị có thể tưởng tượng được anh ta nghĩ gì (mọi người cười). Rồi anh móc ra trong hồ bao , chuẩn bị rất nhiều những món quà quý giá , đủ thứ ; và đi thật xa để tìm vị sư phụ của ông láng giềng kia . Bây giờ anh chỉ đi cúng dường vị sư phụ đó mà thôi , không cúng dường ông láng giềng nữa .

Từ khi cúng dường cho vị minh sư vĩ đại nhất mà anh nghe đến , việc làm ăn của anh bị suy xụp , càng ngày lại càng xuống dốc . Càng cho vị minh sư bao nhiêu thì anh càng thâu được ít bấy nhiêu , tới mức không chịu nổi nữa , gần như là phá sản . Trong nhà anh hầu như là không còn gì nữa và cả nhà cũng gần chết đói rồi .

Anh sang nhà láng giềng nói chuyện với người mà anh cho là đệ tử xoàng của vị minh sư vĩ đại kia . Anh hỏi : "Tại sao ông nói với tôi là thầy của ông vĩ đại hơn ông gấp triệu lần ?" Người đệ tử đáp : "Đúng vậy , dĩ nhiên . Tôi đã nói thật lòng với anh . Thầy tôi còn vĩ đại hơn tất cả những gì tôi có thể diễn tả được . Không phải chỉ hàng trăm triệu lần giỏi hơn , nó còn vĩ đại hơn nhiều lắm , nhưng vì không thể giải thích cho ông biết mức vĩ đại của ngài , cho nên tôi phải tạm nói là trăm tỉ lần hơn tôi . Nhưng ngài vẫn vĩ đại hơn thế nữa".

Người thương gia nói : "Nhưng tôi đã đi cúng dường cho ngài vì tôi nghĩ rằng ngài vĩ đại hơn ông , xuất sắc hơn , đạo đức hơn . Nhưng từ đó công việc buôn bán của tôi lại suy xụp , tôi gần như chết đói đến nơi rồi . Cả gia đình bây giờ không có gì ăn nữa . Tại sao lại như vậy ?"

Người đệ tử đáp rằng : "Trước kia , anh cúng dường cho tôi là do lòng tốt của anh , lòng thương yêu nhân hậu của anh , vì tôi đang thiếu thốn nên anh cho mà không nghĩ đến một sự đền đáp gì . Anh cho vì tình thương và cũng không đòi hỏi gì . Anh cho một cách tùy tiện , cũng không đắn đo suy nghĩ coi tôi có xứng đáng hay không , cũng không để ý chọn người để cho . Anh chỉ vì tình thương mà bố thí . Thượng Đế cũng cho một cách tự do . Ngài không phân biệt người để cho , cũng như anh đã không phân biệt ai để cho . Anh cho tôi mà không phân biệt tôi tốt hay xấu , tôi xứng đáng hay không . Nhưng từ khi anh phân biệt giữa tôi và thầy tôi , anh chọn người vĩ đại , đạo đức , xứng đáng , đáng kính trọng và thánh thiện rồi anh mới cho ; vì anh nghĩ rằng vị này xứng đáng , xuất chúng và đạo đức . Thượng Đế cũng làm như vậy . Ngài chỉ chọn người nào có đạo đức , xứng đáng , thánh thiện mới cho . Vì anh phân biệt nên Thượng Đế cũng phân biệt".

Cho nên , khi quý vị về nhà , hãy cố gắng sao cho tình thương của quý vị không có sự phân biệt . con cái của quý vị có thể rất hư , ông chồng có thể rất tệ , người láng giềng có thể rất xấu xa nhưng hãy cố gắng yêu thương họ . Không phải thương như nhau , nhưng thương tùy trường hợp , tùy khả năng của quý vị . Thương càng nhiều càng tốt , và chỉ khi nào họ cần , quý vị mới giúp . Nếu không quý vị cứ đối đãi mọi người một cách bình đẳng , một cách thân thiện , không sân hận trong lòng , bởi vì quý vị không thể thương mọi người như nhau được .

Thượng Đế không tạo chúng ta ra để thương mọi người như nhau thì tạo phải làm như vậy ? Chúng ta không cần phải phải ép lòng làm như vậy . Nhưng thương họ có nghĩa là bất cứ khi nào họ cần chúng ta , mặc dù trước kia họ đã làm hại ta , chúng ta cũng quay lại lập tức giúp họ . Thương họ có nghĩa là không nuôi lòng thù hận , không có ác ý , hoặc trù ếm họ ; ngược lại , chúng ta chúc lành cho họ , cầu nguyện cho họ , ngồi thiền để cho họ được lợi ích .

Nhím Hoàng Kim
05-18-2008, 07:44 AM
Tên Trộm Trở Thành Người Tu Hành


Xưa kia có một tên trộm lẽn vào hoàng cung ăn trộm , tình cờ nghe được hai viên thái giám nói chuyện với nhau : "Quốc vương của chúng ta đang muốn gả công chúa cho một vị hòa thượng tu hành bên bờ sông Hằng , anh nghĩ sao ?"

Thái giám kia nói : "Tốt , tốt lắm ! Công chúa là người cao quý nhất nước , còn hòa thượng tu hành bên sông Hằng cũng là người hiếm có , rất đạo đức , cao thượng nhất trên đời . Dĩ nhiên tôi rất mừng , rất tán thành !"

Tên kia nghe xong liền bỏ nghề ăn trộm , lén chạy đi làm hòa thượng (mọi người cười). Anh ta vội vã cạo trọc đầu , mặc tăng phục , rồi trà trộn trong đám tăng chúng ngồi thiền , trong bụng ao ước công chúa sẽ trở thành vợ của mình .

Nhiều ngày qua , quả nhiên quốc vương sai thái giám đến bờ sông Hằng hỏi những vị hòa thượng có muốn lấy công chúa không . Ông hỏi từng người một . Người này không muốn , ông lại hỏi người kia , cứ tiếp tục như vậy .

Những vị hòa thượng này là những người tu hành cao , không muốn công chúa , cho nên ai cũng từ chối . Chỉ còn tên ăn trộm ngồi đó , tim đập thình thình , trong đầu la lớn : "Tôi ở đây nè , đến đây lẹ lên". (mọi người cười)

Cuối cùng vị thái giám đến chỗ anh ta . Khi được hỏi thì hắn ta im lặng (mọi người cười), không nói một lời . Những người khác trả lời không muốn , nhưng người này không nói gì cả . Như vậy tức là khác rất xa .

Vị thái giám mừng rỡ , về báo với quốc vương rằng : "Có một vị hòa thượng tu hành bên sông Hằng hình như có ý muốn cưới công chúa , vì khi chúng tôi hỏi , ông ta từ chối . Như vậy có nghĩa là ông đã bằng lòng chín mươi phần trăm , chỉ chưa thật sự quyết định là muốn hay không . Trong số những người mà chúng tôi hỏi , chỉ có ông này là người không từ chối".

Nghe xong quốc vương mừng rỡ , nghĩ rằng mình phải đích thân đi và đem theo nhiều lễ vật , như vậy hòa thượng này thế nào cũng bằng lòng cưới công chúa .

Quốc vương dẫn theo văn võ , bá quan và thái giám tới bên bờ sông Hằng nơi tên ăn trộm đang ngồi thiền . Với một vẽ hết sức cung kính , nhà vua xin hắn nhận công chúa làm vợ . Vì chính quốc vương cũng có tu hành , nên ông không muốn gả công chúa cho một người thường . Ông muốn gả nàng cho một người tu hành hơn , vì như vậy công chúa sẽ có thể cùng tu hành với một người chồng tốt , một vị thầy tốt . Ông chỉ có thể an tâm khi có được một người con rể có thể dạy công chúa cách tọa thiền và trở thành một người đạo đức . Cho nên khi nghe có người tọa thiền bên bờ sông Hằng sẽ lấy công chúa , quốc vương rất vui mừng . Ông đến bái người này một cách cung kính và xin anh ta cưới con gái của ông làm vợ .

Tên ăn trộm rất làm đắc ý , nhưng rồi anh ta nghĩ bụng : "Mình chỉ mới cạo đầu , mặc tăng phục giả trang làm một hòa thượng , một người tu hành , mà nhà vua và quần thần đã đối với mình hết sức tôn kính như vậy , lại còn tặng cho mình tài sản , báu vật . Nếu mình làm hòa thượng thật , một người tu hành chân chánh , thì không còn biết sẽ còn hay tới cỡ nào !"

Sau khi suy nghĩ kỹ càng , anh không muốn lấy công chúa nữa ! (Mọi người cười). Anh bắt đầu tu hành nghiêm chỉnh vì anh ta hiểu được lợi ích của sự tu hành . Từ đó về sau tên ăn trộm này ngồi thiền , tu hành rất là thành tâm . Sau này ông khai ngộ và trở thành một thánh nhân vĩ đại , một nhà tu nổi tiếng .

Nhím Hoàng Kim
05-18-2008, 07:46 AM
Thượng Đế Chăm Sóc Mọi Việc


Hồi xưa có một vị tu sĩ Ấn Độ , tu hành rất siêng năng . Một ngày kia , người mẹ già vẫn hay đau bệnh của ông ta đã qua đời . Ông vui mừng vội vã chạy vào đại điện quỳ xuống cám ơn Thượng Đế , chắc là cám ơn Sư Phụ bên trong ! Ông vừa lạy vừa nói : "Đa tạ , đa tạ Thượng Đế ! Con chưa cầu xin , chưa khấn nguyện , mà Ngài đã ban cho con một ơn huệ thật là vĩ đại . Bây giờ mẹ của con đã được Ngài dẫn độ , cho nên con rất tự do , mỗi ngày có thể dốc tâm nhớ tới Ngài !"

Ông ta rất vui mừng nên cứ nhảy múa và ca hát . Người láng giềng lấy làm lạ nên mới hỏi ông : "Tại sao vậy ? Mẹ chết đã không rơi giọt nước mắt nào , mà lại còn vui mừng ca hát như vậy".

Những bài ca múa của ông có thể điệu cúng dường Thượng Đế , không phải là loại Karaoke , không có giống nhau . Có thể hơi giống , lắc qua lắc lại , nhảy tới nhảy lui , coi cũng giống nhau . Tuy nhiên , mẹ của ông chắc cũng không buồn , vì bà cũng giống như ông , là một người tu hành rất thành tâm . Cả hai đều biết thế giới này là vô thường , nên mẹ của ông lúc qua đời cảm thấy rất vui , và sau khi mẹ ông đã qua đời , ông cũng vui không kém . Cả hai đều là những người kỳ lạ !

Sau khi chôn cất mẹ xong , mỗi ngày ông ngồi bên bờ sông Hằng , ... , tọa thiền , câu thông với Thượng Đế Tối Cao . Ba ngày trôi qua , ông không ăn một hạt cơm nào , cũng không uống một giọt nước nào . Ông hoàn toàn quên hẳn chuyện đó . Nơi ông ngồi là bờ sông rất vắng vẻ , không có người hành hương qua lại , cho nên ông không có gì để ăn .

Thượng Đế trên trời nói với những người xung quanh rằng : "Chao ôi ! Thật tội nghiệp ! Dưới kia , đệ tử của ta sắp chết đói rồi , và chuyện này có vẽ như là ta không làm tròn trách nhiệm , không cho nó cái gì để ăn cả . Nó ngồi đó không giây khắc nào quên ta , còn ta ở đây lại quên không bảo vệ nó".

Thế rồi Thượng Đế phái thiên sứ đang đứng cạnh ngài mang thức ăn ngon đến bờ sông cho vị tu sĩ kia dùng . Thiên sứ cầm một cái đĩa bằng vàng , bên trong đựng rất nhiều thức ăn gia trì , nào là chapati , sữa , táo ... , đến cho ông dùng . Vị thiên sứ này chưa bao giờ gặp loài người , huống chi là một nam nhân . Vị này là một thiếu nữ , nhìn thấy con trai nên mắc cở . Cho nên cô âm thầm đặt cái đĩa bên cạnh ông rồi bay về .

Người tu hành nọ nhìn thấy đĩa thức ăn , nhưng không có ai đến , bèn cảm tạ Thượng Đế , cho răng nhất định đây là do Thượng Đế ban cho . Sau khi ăn xong , ông tiếp tục ở đó tọa thiền , niệm danh Thượng Đế và nhập định .

Đột nhiên , có nhiều người vây chung quanh , đánh thức ông dậy , kẻ cầm gậy , người cầm dao muốn bắt ông . Ông kinh ngạc hỏi : "Tại sao ? Có chuyện gì xảy ra vậy ?"

Họ trả lời : "Ngươi là quân ăn cắp , dám trộm cái đĩa vàng này trong đền thờ Thượng Đế . Chúng tôi sẽ bắt ngươi đến để cho nhà vua trị tội".

Mặc cho ông giải thích thế nào , nhưng người lính kia vẫn không tin . Họ nghĩ một người thanh niên nghèo nàn rách rưới ngồi bên bờ sông , làm sao có được một cái đĩa bằng vàng quý báu như thế , nhất định là hắn đã ăn cắp . Cái đĩa này trông rất giống như những cái người ta hay dùng trong đền thờ để đựng lễ vật cúng dường Thượng Đế , nên họ nhất định bắt ông về để trừng phạt .

Sau khi bắt ông về , nhà vua rất giận dữ , ra lệnh cho thuộc hạ đánh ông . Họ đánh ông rất thẳng tay và đánh rất lâu . Thế mà ông không cảm thấy gì cả , chỉ cười hoài mà thôi (Sư Phụ cười). Không phải giống như tôi cười , nhưng cũng hơi tương tự như vậy . Không những ông ta cười mà còn khoái trá , như đang gãi trúng chỗ ngứa vậy . Sau đó mọi người đều mệt , tay đều đau nhức (Sư Phụ cười), cho nên họ không đánh ông nữa và thả ông về . Nhà vua thấy rất lạ , cảm thấy dường như có Thượng Đế bảo vệ cho người này , cho nên cũng không dám đánh tiếp nữa . Tuy nhiên nhà vua rất là thắc mắc , muốn đi đến đền thờ xem coi có cái đĩa nào như thế bị mất cắp không .

Khi vua vào đến đền thờ , ông thấy có vết máu từ trên tượng của Thượng Đế chảy xuống . Ông lấy làm lạ : "Tại sao lại thế này ? Bức tượng tại sao lại chảy máu ?"

Không những thế , chỗ chảy máu lại đúng chỗ người tu hành bị đánh . Nhà vua liền quỳ xuống sám hối , không biết mình đã phạm lỗi lầm gì . Rồi nhà vua giác ngộ : có thể người đó vô tội , đánh người đó cũng như đánh Thượng Đế vậy , cho nên tượng của Thượng Đế mới đổ máu .

Lúc đó nhà vua và bá quan rất sợ hãi , mọi người vội vã chạy tới bờ sông , quỳ xuống sám hối với người tu hành nhỏ bé , nghèo nàn nọ , rồi sau đó mỗi ngày còn cúng dường thức ăn cho ông nữa .

Khi về lại đền thờ , thì thấy tượng Thượng Đế không còn rướm máu nữa . Cho nên mọi người hiểu rõ nguyên do .

Vì người tu hành này tọa thiền chăm chỉ - hằng ngày chỉ nghĩ tới Thượng Đế - cho nên khi Thượng Đế nhìn thấy ông không có cơm ăn bèn cảm thấy có lỗi . Nếu vì miếng ăn ấy mà để ông bị đòn , thì đương nhiên đó là lỗi của Thượng Đế , nên Ngài mới hứng chịu những hình phạt này . Không phải sau khi làm Thượng Đế hoặc làm Phật rồi thì không phải lo gì cả . Nếu chúng ta thật sự siêng năng tu hành , thì Thượng Đế sẽ săn sóc tất cả mọi việc .

Nhím Hoàng Kim
05-18-2008, 07:48 AM
Bí Pháp Trường Sinh Bất Tử


Xưa kia bên Trung Quốc có một người thường khoe khoang với mọi người rằng ông biết một bí pháp có thể làm con người trường sinh bất tử . Vua nước Yên nghe nói vậy bèn sai thị giả và đại thần đi tìm người biết thuật trường sinh bất tử này , mời ông lên triều để hỏi bí pháp này . Nhưng người thị giả đó rất giống sứ giả Quán Âm của chúng ta , hay là thị giả của tôi ! Ông đi rất là chậm . Thay vì đi bằng xe Benz hay Buick , thì ông lái xe Yulong , cho nên chạy rất là chậm . À ! Không phải là xe Yulong , ông đi xe ngựa . Nhưng ngay cả xe ngựa ông cũng thấy sang quá , cho nên ông cỡi ngựa . Sau đó ông nghĩ nó vẫn còn xa xỉ , thành ra ông quyết định đi bộ , rất chậm , rất là chậm !

Ông vừa đi vừa dạo chơi , vòng qua Ba Lê và nhiều nơi khác . Cho nên lâu lắm mới tới chỗ ở của người biết bí pháp trường sinh bất tử kia . Vì quá chậm và quá trễ nên khi đến nơi thì người đó đã chết rồi ! (Mọi người cười).

Vua nước Yên biết được rất là giận dữ . Ông hét lớn lên giống như lúc tôi la lên vậy , tuy nhiên cũng không được lớn bằng vì ông ta không có tu Pháp Môn Quán Âm (Mọi người cười). Tiếng la của ông không lớn bằng tôi , vì tôi có "khí" nhờ luyện Pháp Quán Âm . Giận kiểu như vậy mới thật là vui (Cười).

Nhà vua rất tức giận , muốn lôi thị giả đó ra chém đầu ngay . Lúc bấy giờ có một vị đại thần đứng ra xin nhà vua tha thứ , đừng giết người đó . Ông tâu với vua rằng : "Trên đời này , ai cũng tham sống , sợ chết . Bây giờ vì thuật trường sinh bất tử mà giết người tức là làm trái với lý tưởng của chúng ta . Hơn nữa người kia khoe ông ta biết bí pháp trường sinh , nhưng bây giờ đã chết , không thể tự cứu mình , chứng tỏ bí pháp của ông là vô dụng ! Cho nên , xin ngài đừng vì một người vô dụng mà giết một người hữu dụng của chúng ta".

Vua nước Yên nghe thấy có lý cho nên ông bắt đầu niệm Hồng Danh , thọ năm giới , theo nguyên tắc của Ngài Vô Thượng Sư Thanh Hải là không sát sanh (Cười).

Lúc bấy giờ , có một nước khác gọi là nước Tề . Ở nước này có một tên là Hồ Tử cũng nghe nói về người biết bí pháp trường sanh bất tử kia và ông cũng muốn tìm học . Cho nên , khi biết người đó vãng sanh , ông rất buồn rầu , và khóc . Một người bạn của ông tên là Phú Tử nói rằng : "Sao anh khờ dại thế ! Người đó nói biết cách trường sinh , nhưng bây giờ ông ta đã chết rồi anh không thấy người đó thật là hoang đường hay sao ? Anh khóc lóc cái gì chứ ? Đủ thấy anh cũng không có trí huệ , còn không biết mình học cái gì".

Hồ Tử nói với bạn Phú Tử rằng : "Anh đã lầm ! Có người tuy biết bí pháp , nhưng vì không biết cách xử dụng cho nên không thể dùng ; cũng có người biết áp dụng , nhưng không biết bí pháp chân chánh lưu truyền ở đâu". Chẳng hạn như trước đây tại nước Ngụy , có một người già rất giỏi về toán học . Lýc sắp qua đời , ông truyền lại môn toán học nầy lại cho người còn . Người con nghe hết tất cả , nhưng không giỏi toán được như cha mình . Lại có một người từ một nơi khác đến nhà của người con đó , xin được học môn toán đó . Khi trở về ông ta có thể giải bất cứ bài toán gì một cách chính xác , y như người cha kia . Vì ông hoàn toàn làm y theo những lời mà người con - một người không biết toán - chỉ lại và thực tập từng bước một . Kết quả ông làm giỏi y như người cha đã qua đời kia .

"Người biết trường sanh bất tử đó có lẽ biết bí pháp , nhưng ông không dùng hay tập không đúng cách . Nếu chúng ta học được của ông ta bí pháp đó , và tự tập lấy thì hay biết mấy !"

Pháp Môn Quán Âm cũng giống như vậy . Thấy quý vị ngồi lâu như vậy , mỗi lần ngồi mười mấy tiếng đồng hồ bất động và có thể nghiệm tốt như vậy , điều đó chứng tỏ pháp môn này là đúng , bí pháp này là chính thống . Như vậy quý vị cứ tiếp tục theo lời dạy của Minh Sư thì sẽ không sai được ! Đôi khi tôi gởi sứ giả Quán Âm đến dạy quý vị , sau đó quý vị tu theo lời của sứ giả Quán Âm . Dù tôi không có mặt cũng không sao , quý vị cứ theo phương pháp đó mà toạ thiền thì quý vị có thể có được thể nghiệm rất tốt .

Vị sứ giả Quán Âm đó tu hành chưa chắc đã giỏi hơn quý vị , cho nên quý vị không cần tôn sùng họ . Quý vị hãy ca ngợi Bản Lai Diện Mục của quý vị , tôn sùng lực lượng vạn năng của Sư Phụ bên trong , mà chúng ta vốn đã có . Qua sự hướng dẫn của sứ giả Quán Âm và tu hành đúng theo phương pháp Minh Sư dạy , nhất định chúng ta sẽ đạt được đạo mà chúng ta khao khát .

Tuy nhiên nói là nói vậy , nhưng phương pháp là quan trọng nhất ! Nguồn năng lực sinh động phải được truyền sang cho chúng ta thì lực lượng bên trong của chúng ta mới có thể khai mở được .

Thật ra , người này có lẽ tình cờ biết được bí pháp này , có lẽ học được tự một vị thầy đã đắc đạo . Cho nên người khác có thể học lại từ câu cũng không sao . Bí pha'p này không phải nơi nào cũng tìm được . Tại sao không có người nào mà chỉ có người cao niên ở nước Yên đó biết bí pháp trường sanh bất tử ? Và tại sao ông đã biết mà bản thân ông vẫn chết ?

Coa hai cách giải thích : Thứ nhất người nước Yên và nước Tề hiểu sai những điều giảng về pháp trường sanh bất tử kia . Trường sanh bất tử cũng không có nghĩa là thân thể này vĩnh viễn hiện hữu , mà là linh hồn của chúng ta vĩnh viễn được giải thoát . Khi chúng ta đạt được cảnh giới bất sinh , bất tử , bất cấu , bất tịnh , vô hủy diệt , không ô nhiễm , không bợn nhơ lúc đó chúng ta mới thật là trường sinh bất tử . Tuy nhiên một người bình thường , hễ nghe nói trường sinh bất tử , là họ nghĩ về phương diện vật chất . Cho nên khi nghe người đó chết , họ thất vọng , hoặc họ cười những người muốn theo học pháp trường sinh của người đó : "Nếu ông thầy đó cũng chết , tại sao chúng ta phải theo học ?" Tôi nghĩ cách giải thích này có lý hơn .

Một cách giỉ thích nữa là : Có lẽ người đó học được bí pháp , nhưng không thực hành . Có lẽ có một phương pháp trường sinh bất tử thật , sống được mấy ngàn năm , mấy vạn năm mà vẫn không già . Chúng ta không nên kết luận rằng nó có hay không có . Chưa biết thật sự thì không nên phủ nhận gì cả . Nếu không biết thì chúng ta nói là không biết . Nếu biết thì chúng ta nói : "Có , tôi biết".

Nếu người kia biết cách để trường sinh bất tử , tại sao lại chết ? Có thể là vì ông không làm được phương pháp thầy ông dạy , hoặc không tu tập pháp đó một cách nghiêm chỉnh , cho nên mới không có kết quả , điều này cũng có thể lắm .

Thí dụ , nhiều người biết luyện Thái Cự Quyền , hoặc biết nhảy Tango , Rumba , hay Cha Cha Cha , qua sách vở . Bước thứ nhất là chân phải , bước thứ hai là chân trái , sau đó xoay trái , xoay phải , tiến tới trước , lùi ra sao , ... họ biết hết và có hình chỉ cách cho từng bước nhảy , nhưng chính họ không tập , hay chỉ tập một hai ngày , không thường đi câu lạc bộ khiêu vũ , cho nên quên mất .

Nếu chúng ta được những hình ảnh chỉ dẫn này từ người đó , chúng ta cũng tự tập lấy được . Có lẽ không hoàn hảo lắm ; nhưng một khi học được những động tác căn bản , chúng ta có thể tập luyện và sẽ giỏi hơn . Có thể nếu được tập với một người chuyên môn , chúng ta sẽ càng tiến bộ hơn nữa . Sau đó cộng thêm trí thông minh của mình , phát huy tài hoa , chúng ta có thể nhảy đẹp hơn nữa .

Tại sao Trung Quốc lúc bấy giờ , chỉ nghe có người đó biết bi pháp trường sinh bất tử , mà không ai khác biết ? Có lẽ giống như sứ giả Quán Âm của chúng ta , không phải chỗ nào cũng có nhiều . Chẳng hạn như , Minh Sư chỉ có một hay hai người , và số đệ tử của các ngài có khả năng đi truyền pháp được cũng không nhiều lắm , không phải lúc nào cũng gửi được hàng chục người tới từng nơi như vậy . Đó là tại sao lúc bấy giờ ở nước đó người ta chỉ nghe nói có người ấy mới biết mà thôi (Vỗ tay).

Nhím Hoàng Kim
05-18-2008, 07:53 AM
Cạm Bẫy của Sự Bố Thí


Đây là câu chuyện của tỳ kheo SuKla .

Một ngày nọ , Đấng Thế Tôn đang ngự tại vườn Jetavana nhân dịp Sarasvati . Ngài đang giảng pháp cho tứ chúng nghe (có nghĩa là những đề tử nam và nữ , xuất gia và tại gia). Lúc đó , trong nhóm người dự thuyết có một ông trưởng giả rất giàu cùng với cô con gái rất xinh đẹp . Cô gái này có một điểm rất đặc biệt . Khi cô sinh ra , cô đã có một tấm vải trắng bọc quanh thân thể . Cha mẹ của cô rất lấy làm thắc mắc , cho nên đã tìm một nhà tướng số để xem vân mệnh của cô ta . Nhà chiêm tinh gia đoán rằng : "Quý vị không cần sợ gì cả . Cô bé này có vô lượng phước báu . Tôi đặc tên cho cô ta là Sukla ."

Dần dần cô lớn lên và tấm vải choàng thân của cô cũng theo thời gian mà lớn lên , và càng không lớn , nàng trở nên rất xinh đẹp và thanh nhã . Là một người con gái sinh trưởng trong một gia đình gia giáo và quý phái , nên có rất nhiều chàng trai đến dạm hỏi , nhưng cô chẳng để một ai vào mắt xanh .

Một ngày nọ , cha của cô cho triệu tập những tay thợ kim hoàn tinh xảo nhất về nhà để làm cho cô những món trang sức thật xinh đẹp để làm tư trang . Cô gái thấy vậy mới hỏi cha : "Thưa cha , những trang sức nầy để làm gì vậy ?"

Cha của cô trả lời : "Bây giờ con lớn rồi , cha cần phải sửa soạn cho con đi lấy chồng !"

Cô thưa với cha rằng : "Hôn nhân chỉ tồn tại được một thời gian ngắn ngủi , không mang lại lợi ích gì mà còn có thể gây ra rất nhiều phiền muộn cho chúng ta . Con không muốn lấy chồng . Con muốn xuất gia . Xuất gia tu hành để được giải thoát sẽ tốt hơn nhiều !"

Cô là đứa con một trong nhà . Biết không thể thuyết phục được , cha mẹ cô không cưỡng ép nữa và chấp thuận cho cô đi xuất gia . Qua ngày hôm sau , người cha đi ra ngoài mua một số vải . Ông muốn may vài bộ áo cà sa cho cô . Cô gái hỏi : "Con sắp sửa xuất gia rồi , tại sao cha vẫn còn sắm sửa y phục để làm gì ?"

Cha cô trả lời : "Cha đang định may cho con vài bộ áo cà sa ."

Cô gái lắc đầu và nói : "Không cần thiết đâu . Con chỉ cần có miếng vải trên thân này là đủ ."

Cha mẹ cô hơi sửng sốt rồi cũng không biết nói gì hơn , nên họ đưa cô đến thăm Đức Phật . Dĩ nhiên , Sukla cầu xin Đức Phật cho phép cô được xuống tóc quy y . Cô bạch với Phật rằng : "Kính bạch Thế Tôn , thân người khó đặng , Phật pháp khó được nghe , Minh Sư khó gặp . Hiện thời con đã có được thân người , nghe được Phật pháp , và đã được gặp Minh Sư , cầu xin Đức Thế Tôn cho phép con được xuống tóc xuất gia , và được giải thoát sinh tử luân hồi ...

Đức Phật lúc đó trả lời sao ? "Thiện thay ! Thiện thay hỡi tỳ kheo ni !"

Ngay sau khi Đức Phật vừa dứt lời , bỗng nhiên tóc cô ta bỗng nhiên rụng xuống (Sư Phụ và mọi người cười), và tấm vải choàng trên thân thể cũng biến thành chiếc áo cà sa . Tốt lắm , rất là thuận tiện ! Trong trường hợp này , chúng ta tiết kiệm được dao cạo , tiết kiệm được y phục và tất cả những thứ khác (mọi người cười). Sau đó Đức Phật giao nàng cho tỳ kheo ni Đại Ái Đạo dạy dỗ và truyền pháp cho cô . Cô rất tinh tấn trong cuộc việc tu tập và chứng được quả vị A La Hán rất nhanh .

Ngài Anan biết được chuyện đó rất lấy làm hiếu kỳ , chắp tay quỳ xuống bạch với Phật rằng : "Kính bạch Đức Thế Tôn , tỳ kheo ni Sukla đã có những công đức gì trong tiền kiếp mà khi sinh ra đời cô ta được bao bọc trong một tấm vải , được sinh trưởng trong gia đình quý tộc , vừa mới xuất gia không bao lâu đã đắc được quả vị A La Hán rồi ? Xin Đức Thế Tôn giảng giải cho chúng con hiểu ."

Đức Thế Tôn nói với Ngài Anan rằng : Thuở xa xưa , có một Đức Phật ra đời , pháp hiệu là Vi Đà Hy . Ngài luôn luôn cùng các đệ tử đi du hành để độ chúng sinh . Đi đến đâu , vua chúa , quân thần và dân chúng đều tôn kính ngài hết mực . Họ hiến dâng lễ vật , tổ chức nhiều lễ hội rất lớn và cung thỉnh Đức Phật đến thuyết pháp .

Lúc đó , có một tỳ kheo tâm rất rộng rãi và thích đi hóa duyên . Bởi vậy , mỗi ngày ông đều đi đến từng nhà , từng gia đình để xin thọ bát và trả ơn cho họ bằng những món quà gia trì . Ông cũng thuyết pháp và giới thiệu giáo lý chân chính của Như Lai (sự khai ngộ cứu cánh) đến cho mọi người .

Có một thiếu phụ kia gia cảnh rất nghèo , giữa hai vợ chồng chỉ có một mảnh vải để che thân . Khi người chồng ra ngoài xin ăn thì người vợ ở nhà không có gì để mặc . Khi đến phiên cô ra ngoài xin ăn thì người chồng phải ở nhà ngồi trên đống rơm mà chờ .

Ngày kia , vị tỳ kheo nói trên đi ngang qua nhà họ để hóa duyên . Ông gặp người thiếu phụ và nói rằng : "Nầy thiếu nữ kia , thí chủ nên biết rằng thân người khó đặng , Phật pháp khó nghe , Minh Sư khó tìm . Nay có một vị Minh Sư tại thế đang giảng luận về Phật Pháp . Thí chủ nên đến đó nghe Pháp sẽ có được vô lượng công đức . Kiếp này thí chủ sống trong cảnh nghèo khổ , khó khăn chỉ là vì trước kia thí chủ độc ác , bủn xỉn không bao giờ biết bố thí cho bất cứ ai , cho nên , bây giờ thí chủ phải trả cái nghiệp đó . Kiếp nầy , nếu thí chủ bố thí chắc chắn sẽ gặt hái được giàu sang trong tương lai ."

Người thiếu phụ nghe được điều này thì rất làm sung sướng . Bà mời vị đại sư đứng đợi bên ngoài để bà vô trong bàn lại với người chồng . Bà nói với chồng rằng : "Trước cửa nhà có một vị tỳ kheo . ông khuyên chúng ta nên đến gặp Phật để nghe pháp . Ông dạy chúng ta nên bố thí để được phước giàu sang . Ông ta nói rằng kiếp này chúng ta nghèo khổ là do kết quả của sự bủn xỉn , không bố thí và lòng tham lam không đáy của chúng ta trong kiếp trước . Bây giờ chúng ta nên gieo một vài thiện duyên thì mới có thể trong kiếp sau chúng ta có được một cuộc sống tốt đẹp hơn ."

Sau khi nghe xong , người chồng đáp : "Mình phải làm sao bây giờ ! Nhà chúng ta không có gì cả . Chúng ta còn không biết ngày mai có gì để ăn hay không thì lấy gì để bố thí ?"

Tuy nhiên , người vợ vẫn cố thuyết phục chồng : "Em đã quyết định bố thí rồi thì em phải bố thí . Nếu chúng ta không bố thí lần này thì kiếp sau lại phải sống một cách đau thương như bây giờ , có thể còn tệ hơn nữa ."

Người chồng suy nghĩ : "À , chắc có lẽ vợ mình dấu một ít của cải nơi nào đó mà không cho mình biết !" Rồi ông nói : "Được , nếu em thật tình muốn bố thí thì cứ bố thí cho thỏa nguyện ."

Người vợ nói : "Tốt lắm , vì nay anh đã đồng ý , em xin được lấy mảnh vải này , gia tài duy nhất của vợ chồng chúng ta , dâng lên cho vị tỳ kheo kia . Xin anh mau mau lấy ra cho em ."

Đến lúc đó người chồng lộ vẻ lo âu rồi nói : "Không được ! Chúng ta nương nhờ vào mảnh vải này để ra ngoài ăn xin . Nếu em cho rồi thì chúng ta sẽ ra sao ? Không lẽ chúng ta ngồi đây đói chết ?"

Người vợ đáp " Anh ơi , đời người sớm muộn gì cũng phải chết , dù cho bố thí hay không bố thí cũng vậy thôi ! Vậy tại sao chúng ta không lo bố thí bây giờ để khi chết đi , chúng ta còn được chút phước báu cho kiếp sau ?"

Người chồng nghe vợ nói rất có lý nên cuối cùng đã thuận theo : "Em cúng dường mảnh vải đó đi , cũng tốt".

Trước khi người thiếu phụ mang mảnh vải ra cúng dường , bà mời vị tỳ kheo leo lên nóc nhà . Vì bà sợ cúng dường tấm vải rồi thân trần như vậy thì kỳ lắm . Bà nói : "Ông đại sư đức hạnh ơi , làm ơn đi lên nóc nhà giùm , tôi có một vật để cúng dường cho ông".

Người tỳ kheo lấy làm lạ : "Nếu thí chủ muốn cúng dường tại sao không đưa cho tôi ngay đây mà lại còn bảo tôi leo lên nóc nhà ?"

Người thiếu phụ đáp : "Xin ngài làm ơn hiểu cho tôi , vợ chồng chúng tôi chỉ có một mảnh vải chê thân này và chúng tôi muốn dâng lên ngài . Sau khi cúng dường , chúng tôi không thể thân trần lộ diện vì sẽ là bất lịch sự . Nếu ngài ở trên nóc nhà , còn tôi dấu mình ở trong nhà khi trao phẩm vật , thì ngài có thể nhận quà cúng dường rồi đi xuống mà không tổn thương đến danh dự".

Vị tỳ kheo leo lên nóc nhà , người thiếu phụ trong nhà khóa cửa lại . Bà mở cửa sổ quăng miếng vải lên nóc nhà làm vật cúng dường . vị tỳ kheo cảm kích đón nhận tấm lòng thành thật cúng dường của họ , mặc dù phẩm vật chỉ là một miếng vải mòn , dơ dáy , không có giá trị gì . Ông ta ban ân huệ cho cặp vợ chồng và mang miếng vải về dâng lên cho Đức Phật .

Khi vừa về đến chỗ Đức Phật Vi Đà Hy , Đức Phật lập tức hỏi ngay : "Này tỳ kheo , hãy đưa miếng vải cho ta !"

Vị tỳ kheo hiểu rằng Đức Phật đã biết tất cả , ông thưa : "Xin Đức Phật từ bi , hãy nhận lòng thành tâm cúng dường của đôi vợ chồng kia".

Sau khi Đức Phật Vi Đà Hy cầm lấy miếng vải , ngài nhìn nó một cách triều mến . Trong lúc đó , ngài đang thuyết pháp cho đại chúng , gồm cả vua chúa , quần thần , binh sĩ , hàng quý tộc , và dâng chúng . Mọi người đang kính cẩn , chăm chú lắng nghe Đức Phật giảng kinh . Đột nhiên họ thấy Đức Phật cầm một mảnh vải vừa cũ , vừa mòn , lại dơ bẩn , trông như một miếng giẻ lau , và Ngài cứ nhìn sửng lấy nó . Mọi người cảm thấy lạ lùng và ngạc nhiên . Đức Phật đọc được ý nghĩ của mọi người nên nói rằng : "Trong tất cả những người giàu lòng từ thiện ở đây , ta không tìm thấy được người nào có lòng từ thiện hơn là người vừa bố thí mảnh vải này cho ta".

Sau khi nghe được Phật giải bày , mọi người đều thấy ngẫn ngơ . Bà hoàng hậu tức thì cởi ra tất cả xiêm y , nữ trang ... Nhà vua cũng cởi hết hoàng bào và mang ra cho tất cả tiền bạc ông mang theo , và cả tiền bạc của những tùy tùng . Rồi ông sai người mang đến cho cặp vợ chồng nghèo kia và mời họ đến dự buổi thuyết pháp . Bởi vì nhà vua và hoàng hậu biết được cặp vợ chồng kia không có gì để mặc , nên họ dâng tặng xiêm y của họ . Nhân dịp đó , Đức Phật Vi Đà Hy giảng thêm về phước đức vô biên của hạnh bố thí cho đại chúng , cảnh cáo mọi người về sự tai hại của tánh bủn xỉn và hậu quả của tánh tham lam .

Đức Phật Thích Ca nhắc nhở ngài Anan rằng : "Anan , con nên biết rằng người thiếu phụ nghèo khó đó bây giờ là vị tỳ kheo ni Sukla . Do lòng thành tâm cúng dường , bất cứ bà sinh ra ở đâu trong chín mươi mốt vô lượng kiếp đều có một miếng vải bọc lấy thân và luôn luôn có được cuộc sống giàu sang , đầy đủ tiện nghi và nhàn hạ . Bà đã được nghe lời giảng của một vị Phật sống , và đã phát tâm tu hành để được giải thoát , cho nên ngày nay mới gặp ta và đạt được quả vị A La Hán . Các ngươi hãy coi đó là một bài học để tinh tấn tu hành và phát tâm bố thí".

Sau buổi thuyết pháp của Đức Phật , nhiều người phát tâm cúng dường bố thí . Mọi người tràn đầy pháp hỷ .


Quý vị có nghi ngờ , có ý kiến hay phê bình gì về câu chuyện này không ? Trong pháp hội đó , mọi người đều quyết tâm bố thí để được quả vị A La Hán . Quý vị có thấy gì lạ về miếng vải này không ? Miếng vải này thuộc về cả hai người , phải không ? Chỉ vì người vợ muốn dùng nó cúng dường , nên bà được miếng vải trong suốt chín mươi mốt vô lượng kiếp . Chỉ bố thí một miếng vải dơ dáy , sờn rách , cũ kỹ mà được bù lại một miếng vải trắng , và sau này còn đạt được quả vị A La Hán nữa . Thật là khó mà tưởng tượng được !

Miếng vải là tài sản chung của hai vợ chồng , tại sao chỉ có người vợ được phước báu ? Chúng ta không nghe thấy người chồng được lợi ích gì . Tại vì người vợ chủ tâm bố thí , trong khi người chồng lúc đầu không muốn làm việc này . Ông chỉ đổi ý sau đó . Thiện ý của ông đến một cách hơi chậm chạp ! (Mọi người cười). Cho nên nếu quý vị muốn làm việc gì phải quyết định mau lẹ và làm liền để được phần thưởng tốt nhất .

Chỉ thành tâm cúng dường đệ tử của một vị Phật sống , mà mỗi lần sinh ra , cô được bao bọc trong miếng vải trắng suốt chín mươi mốt vô lượng kiếp (một vô lượng kiếp bằng hàng tỉ năm) và lúc nào cô cũng được sinh ra trong gia đình giàu có . Cuối cùng cô được gặp Phật và đạt quả vị A La Hán một cách nhanh chóng , đến nỗi cả Anan cũng không theo kịp . Anan chỉ đạt quả vị A La Hán sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni qua đời , trong khi nàng tỳ kheo ni này chỉ trong vòng vài tháng sau khi thọ tâm ấn đã đạt được quả vị .

Quý vị nghĩ rằng bố thí có tốt không ? (Có người trả lời : Đó không phải là cứu cánh). Không phải cứu cánh ! Chịu luân hồi sanh tử trong suốt chín mươi mốt vô lượng kiếp chỉ vì miếng vải . Thật là khủng khiếp ! Thật ra nếu lúc bà cúng dường bà xin được giải thoát thì bà sẽ được giải thoát trong một đời , không cần đến phước báu này . Tiếc rằng bà đã không cầu giải thoát khi bố thí . Bà bố thí vì muốn được giàu có trong đời sau .

Việc này do lỗi tại ai vậy ? Có phải lỗi của bà ấy không ? Không ! Đó là lỗi của vị đệ tử của Phật . Vị tỳ kheo này không giới thiệu cho bà biết về pháp môn tối thượng , ông chỉ nói cho bà về công đức bố thí trong tam giới . Ông chỉ nói là , nếu bố thí sẽ được nhiều công đức ; do đó đã khơi dậy lòng tham của bà . Nếu ông nói rằng : "Bà đừng lo về cuộc sống nghèo nàn bây giờ . Trên trái đất này có một vị Phật sống . Nếu bà theo vị này tu hành để được giải thoát , thì ở trên thiên đàng sẽ có đủ mọi thứ châu báu cho bà , muốn gì cũng có . Dù giàu có đến đâu nhưng nếu như vẫn còn ở lại thế giới nầy thì vẫn không sao có thể bì được với cuộc sống ở Thiên Đàng , hay ở Niết Bàn".

Nếu như ông ta nói như vậy có phải là tốt hơn không ? Vì lý do đó mà Minh Sư không chú trọng vào sự bố thí hay cúng dường , e rằng sẽ khơi dậy lòng tham muốn phước báu tiền tài của quý vị . Đi đâu tôi cũng không nhấn mạnh vào sự bố thí . Dù có nói , tôi cũng thêm vào : trì giới , nhẫn nhục , tinh tấn , thiền định và trí huệ . Tôi sẽ nói bố thí chỉ là một phần , không có gì quan trọng cả . Tôi thường nói với quý vị bố thí không có gì là cao thượng cả vì chúng ta đến thế giới này với hai bàn tay trắng và ra đi cũng sẽ trắng tay . Chúng ta thiếu nợ thế giới này rất nhiều cho nên cho dù chúng ta có cho ai chút gì chỉ là để trả chút ít nợ nần mà thôi . Quý vị thật sự không thể kể đó là bố thí .

Cho nên , chúng ta có thể phân biệt giữa pháp môn tối thượng và pháp môn thông thường . Pháp môn thông thường sẽ khuyên mọi người bố thí để được phước báu vị lai ... rồi từ từ sẽ được về đến Niết Bàn . Chín mươi mốt vô lượng kiếp ! A Di Đà Phật ! Quý vị có biết chín mươi mốt vô lượng kiếp là bao lâu không ? Chín mươi mốt đời chúng ta còn không chịu nổi , huống chi là chín mươi mốt vô lượng kiếp .

Mỗi lần sanh ra , dù giàu sang cách mấy , chúng ta cũng phải trải qua sanh , lão , bệnh , tử . Chúng ta phải chịu đau khổ mỗi khi sanh ra đời , khi già yếu , khi bệnh hoạn , và còn đau đớn hơn nữa khi phải chịu sự sanh ly , tử biệt . Trong cuộc sống giữa khoảng thời gian của sanh và tử , chúng ta còn chịu nhiều sự bất công , chịu nhiều đau khổ dù nặng hay nhẹ , trải qua nhiều cảm xúc đột ngột và chứng kiến nhiều cảnh tượng đau lòng . Sống đến chín mươi mốt vô lượng kiếp kiểu này thật không đáng sống chút nào .

Nếu trí huệ của quý vị không khai mở , không nghĩ đến cứu cánh giải thoát , thì tu cách gì cũng không đến đâu cả . Tu như vậy có ích lợi gì nếu chúng ta chỉ lẩn quẩn trong tam giới ? Được làm vua cũng vậy , vẫn phải chịu sanh , lão , bệnh , tử ; vẫn bị nhức đầu và chịu nhiều phiền não chất chồng của thế giới này . Cho nên quý vị phải hiểu rằng , pháp môn tối thượng rất khác với những pháp môn bình thường của tam giới . Bất cứ nghĩ tới mục đích gì , chúng ta đều sẽ đạt được . Bất cứ đều gì chúng ta mong muốn thật sự tận đáy lòng , trong tâm hồn , trong trí huệ , không sớm thì muộn chúng ta sẽ đạt được .

Khi người đàn bà nghèo khổ đó cúng dường , bà chưa được gặp Đức Phật . Bà chỉ nghe vị tỳ kheo nói rằng bố thí sẽ đem đến quả báu giàu sang . Không ai nói cho bà biết có cách tốt hơn . Khi nghe vị tỳ kheo nói về bố thí và phước báu giàu sang , bà nghĩ rằng điều này rất tốt , chắc phải là sự thật . Vì vậy bà liền tin ngay lập tức và ước nguyện điều này . Quý vị phải biết rằng bà đã đặt hết tất cả năng lực , tư tưởng , lời nói và hành động vào điều ước lúc đó . Và cũng vì vậy , bà đã phải trở lại chín mươi mốt vô lượng kiếp để hưởng phước báu này .

Lời khuyên đó phát ra từ miệng của một cao tăng tu hành rất cao và công đức sâu dầy , nên nó có lực lượng và gây nên một ấn tượng mạnh mẽ . Đây là lần đầu tiên bà nghe được những lời nói tốt lành như vậy . Bà đã khổ cả đời rồi , bây giờ nghe được có một phương cách tốt đẹp có thể làm giảm bớt đau khổ trong tương lai , dĩ nhiên là bà để hết tinh thần vàp sự ước muốn này .

Quý vị không thể để hết thân khẩu ý vào một điều gì , trừ phi quý vị là một người đại tu hành . Nếu không , lực lượng của quý vị sẽ bị dồn hết vào lời nguyện quý vị đã đặt thành . Dù bà ấy sau đó có gặp Phật đi nữa , cũng đã quá muộn rồi . Tất cả tinh lực của bà đã đặt hết vào điều ước được phước báu về sau . Cho nên bà phải ở lại chín mươi mốt vô lượng kiếp để hưởng phước báu này . May thay bà gặp được Phật và tỉnh ngộ được một chút . Nhưng lúc đó tinh lực của bà không còn được bao nhiêu , cho nên bà phải luân hồi chín mươi mốt vô lượng kiếp . Chúng ta có thể hại người bằng cách này , quý vị có thấy chưa ?

Kinh Phật có nói rằng : người bố thí , tâm phải trong sạch , hoan hỷ và bất vụ lợi . Người nhận của bố thí cũng vậy , cũng phải bất vụ lợi , hoan hỷ nhận và với tấm lòng trong sạch ; có như vậy cả hai đều nhận được phước báu . Cả người bố thí lẫn người nhận đều cũng phải như vậy . Và chính vì không được như vậy nên bà ta phải tái sanh chín mươi mốt vô lượng kiếp trước khi đạt được quả vị A La Hán . Nếu phải chờ đến chín mươi mốt vô lượng kiếp mới được giải thoát thì thật là đáng sợ . Phải trải qua đến chín mươi mốt vô lượng kiếp cũng gần như là quý vị không cần phải tu nữa .

Thật ra bà đâu có được phước báu gì . Bà đã gặp được Đức Phật , nhưng bà phải chờ chín mươi mốt vô lượng kiếp mới được giải thoát . Trong khi quý vị gặp được Phật là có thể một đời giải thoát . Cái không may của bà là gặp được một đệ tử của Đức Phật trước và tập trung tất cả tinh lực vào sự mong ước đó , không biết rằng có một phương cách tốt hơn .

Vì vậy khi quý vị đi ra ngoài giảng pháp , đừng đề cập về những điều vô ích nầy , đừng khơi dậy lòng tham hay ước muốn về vật chất trong tam giới . Quý vị nên khuyên bảo người ta hướng về mục tiêu tức khắc giải thoát . Nếu họ không nghe thì thôi . Họ có thể tìm công đức và phước báu ở những nơi khác hay từ những pháp môn khác , do người khác giới thiệu . Chúng ta không nên dạy người khác làm những điều vô ích này . "Trước hết các con hãy tìm đến Thiên Quốc thì các con sẽ được tất cả những thứ khác". Thật sự là như vậy , cho nên khuyên người ta làm những hành động nhỏ nhoi đó để được hưởng những phước báu không đáng gì thì có ích gì đâu . Nó chỉ tạo chướng ngại cho họ thôi . Thế nên , nếu có ai khuyên người khác bố thí để được phước báu những kiếp sau , thì họ thật sự làm hại người ta vô cùng . Nhưng những người đó không biết lại rất lấy làm hãnh diện và đắc ý tưởng rằng họ rất là vĩ đại .

Thật là dễ sợ ! Họ đã tạo nghiệp chướng mà chính họ không biết , mà lại đắc ý về chuyện đó . Nếu chính baen thân họ bố thí và cảm thấy vui vẻ sẽ được luân hồi sinh tử trong chín mươi mốt vô lượng kiếp thì chúng ta không còn gì để nói nữa . Còn không nếu họ diều dắt tất cả mọi người , hàng triệu người hay hàng tỉ người cùng làm giống vậy vì tiếng tăm , lợi lộc , và phước báu đời sau thì thật là khủng khiếp ! Khủng khiếp hơn cả là họ làm cản trở người khác không được giải thoát .

Điều quan trọng nhất trong sự tu hành là có một khái niệm đúng đắn và một phương pháp tu hành chính đáng . Được như vậy rồi thì đã đủ cho chúng ta sống một cuộc sống hết sức bình thường . Những thành kiến sai lạc và những phương pháp tu hành không đúng đắn chỉ đem lại khó khăn cho chúng ta mà thôi .

Nhím Hoàng Kim
05-18-2008, 07:57 AM
Tình Thương Vô Điều Kiện của
Một Minh Sư


Ở Mỹ có một vị minh sư khai ngộ tên là Yogananda . Trước khi được thọ tâm ấn , ông gặp sư phụ của ông lần đầu tiên ở ngoài phố . Ông rất tin tưởng vị minh sư này , nên xin ngài được thọ pháp . Ngài bằng lòng và nói rằng : "Hãy đến gặp ta vào một ngày khác , rồi lúc đó ta sẽ truyền tâm ấn cho , và nhận ngươi làm đệ tử". Ngài còn nói thêm : "Hôm nay ta đến để kiếm ngươi . Nhưng khi đến chỗ ở của ta , ngươi sẽ là người kiếm ta . Lúc đó ngươi sẽ phải cầu khẩn ta , chứ không thể nào tới xin ta truyền tâm ấn tự nhiên như vầy được".

Yogananda nói : "Không sao , con sẽ làm như sư phụ nói".

Sau đó ông đến xin minh sư này truyền pháp cho ông . Quý vị biết tại sao họ lại hành động như vậy không ? Nghi thức vẫn là quan trọng để thử thách xem người kia có nhiệt tình đối với pháp môn đó hay không . Ming sư này e rằng người kia sẽ coi ông như bạn vì trước đó họ đã gặp nhau rồi . Lúc đó người này có thể bước vào nhà nói với thầy rằng : "Chào Ngài ! Ngài chịu truyền pháp cho tôi không ? Tụi mình gặp nhau ngoài chợ lúc đi mua rau đó , nhớ không ?" (Cười). Vì nghĩ rằng Yogananda có thể sẽ tới với thái độ đó , nên ngài căn dặn : "Khi đến với ta , ngươi phải trịnh trọng , nghiêm trang , và cuối đầu xin ta nhận làm đệ tử . Như vậy ta mới truyền pháp cho . Dù hôm nay chúng ta đã quen nhau , nhưng khi đến gặp ta ngươi vẫn phải cuối lạy ta".

Lý do thứ nhất là nghi thức . Lý do thứ hai là để coi người này khiêm nhường như thế nào . Lý do thứ ba là để giữ khoảng cách tôn nghiêm giữa thầy và trò vì sẽ có nhiều đệ tử khác nhìn họ . Nếu ông đối xử với một đệ tử tự nhiên quá thì sau này rất khó dạy những đệ tử khác . Hơn nữa , là một người mới vô , không biết quy luật , ông có thể rất dễ nôn nóng và buộc miệng nói rằng : "Hôm nọ chúng ta ở chợ mua rau với nhau , và ngài có hứa truyền pháp cho tôi . Pháp môn này thật ra như thế nào ? Đem ra cho tôi coi thử !" (Cười).

Vì vậy sư phụ ông phải dặn kỹ càng . Thật ra như vậy là ngài có lòng thương . Không những truyền pháp cho người đó mà còn dạy ông ta cách xử thế đứng đắn của một người đệ tử .

Ngày hôm đó , Yogananda đến nơi thầy ở để xin thọ pháp và tuân theo mọi nghi thức . Trước khi truyền pháp , sư phụ ông nói với đệ tử rằng : "Ta nhận ngươi làm đệ tử của ta một cách vô điều kiện . Dù đức hạnh , đẳng cấp tu hành của ngươi có cao hay thấp , dù tính tình của ngươi xấu hay tốt , dù hành vi của ngươi cao thượng hay thấp hèn , ta vẫn mãi mãi yêu thương ngươi , che chở cho ngươi , và chấp nhận ngươi như một người bạn tốt". Yogananda : "Dạ".

Dĩ nhiên có một ông thầy như vậy thì thật là tốt quá ! Sư Phụ ông tiếp tục nói với một vẽ nghiêm trang : "Nhưng ta có một điều kiện". Tim ông hồi hộp , bỗng nhiên lại có điều kiện ! Sư Phụ ông nói : "Ta chỉ có một điều kiện duy nhất , đó là ngươi cũng phải chấp nhận và yêu thương ta một cách vô điều kiện giống như ta đã chấp nhận ngươi . Ngươi phải thương yêu ta bất chấp đẳng cấp của ta , tính tình của ta , hành động của ta , dù xấu hay tốt . Ngươi có thể làm như vậy được không ?"

Yogananda do dự rồi đáp : "Thưa sư phụ , là một vị thầy đắc đạo , dĩ nhiên là có đẳng cấp cao . Chúng con quý sư phụ vì ngài là tối thượng . Như sư phụ đã nói , đôi khi ngài rất thấp ; nhưng nếu con thấy ngài làm điều gì không phải , vô đạo đức hoặc thấp kém về mặt tâm linh , chắc con sẽ không chấp nhận được" (Cười).

Rồi sư phụ ông nói : "Thôi được ! Ta chẳng cần tình bạn của ngươi , không ra gì cả !"

Ý nói ông là một người bạn không tốt , bạn kiểu này không phải là bạn thật .

Yogananda xấu hổ quá bèn nói : "Xin lỗi sư phụ . Con sẽ mãi mãi thương sư phụ , bất chấp đẳng cấp của ngài , đức hạnh , hay tính tình của ngài . Nếu sư phụ bị ngã , con sẽ che chở cho ngài ."

Sư phụ ông vui lòng đáp lại : "Như vậy thì tốt ! Được , ta nhận ngươi làm đệ tử của ta ."

Sau đó ngài truyền tâm ấn cho Yogananda .

Tại sao sư phụ của ông lại yêu cầu như vậy ? Ngài có cần ông ta phải trung thành không ? Tôi cũng không biết tại sao ngài lại đòi hỏi như vậy . Tôi chưa bao giờ đòi hỏi quý vị như vậy . Không phải ngài là một minh sư không hoàn mỹ , nhưng ngài sợ đệ tử của mình sẽ đem đầu óc và khả năng phàm phu ra phê bình ngài . Nên ngài muốn củng cố lòng tin của người đó trước . Vì thế ngài mới nói rằng : "Dù ta có như thế nào đi nữa , ngươi vẫn phải thương yêu và kính trọng ta ." Như vậy ông sẽ không tạo nghiệp cho mình và lòng tin sẽ không bị giao động . Vì đã hứa như vậy nên ông phải giữ lời .

Cho nên , mỗi khi thấy sư phụ ông làm điều gì không đúng , ông sẽ nhớ lại giờ phút này và sẽ không dám tùy tiên phê bình . Ông cũng nhớ rằng sư phụ đã chấp nhận mình . Nếu vị minh sư đó chấp nhận chúng ta được , thì tại sao chúng ta không thể chấp nhận họ ? Nếu chúng ta tin rằng sư phụ của chúng ta đã đắc đạo , thì ngài có thể nhìn thấy nghiệp quả , đức độ và lỗi lầm của chúng ta . Ngài có thể thấy một cách rõ ràng , nhưng vẫn nhận chúng ta làm đệ tử , vẫn thương yêu , cứu vớt chúng ta mỗi khi chúng ta bị sa ngã .

Là một người phàm phu , chúng ta không nhìn thấy được nghiệp chướng , đạo đức và lỗi lầm , thì làm sao có thể phê bình họ được ? Minh sư đòi hỏi chúng ta phải như vậy chỉ vì muốn củng cố lòng tin nơi chúng ta , và giúp chúng ta đừng tự gây nên nghiệp chướng cho chính mình . Họ không phải là minh sư khai ngộ không hoàn mỹ ; trái lại họ là chúng sinh hoàn mỹ nhất . Nếu không hoàn mỹ thì họ không thể vô sở bất tại được , và không thể cứu độ đệ tử bằng muôn vạn ức hóa thân , cũng không thể nghe và đáp ứng cho cả vũ trụ này .

Có thể đôi khi , chúng ta không có nhiều thể nghiệm , nhưng những đồng tu khác có , như vậy lòng tin của chúng ta cũng được cũng được củng cố . Nếu một người luôn luôn nghe được và đáp ứng được cho từng người khác , nhất định người đó phải có một cái gì đó rất là vĩ đại . Hơn nữa , tất cả sự cống hiến , giúp đỡ của họ đều là vô điều kiện . Vì thế chúng ta vẫn có lòng tin , cho dù chúng ta không có nhiều thể nghiệm . Nếu sau khi nghe những câu chuyện như vậy mà chúng ta vẫn chưa có lòng tin , thì chỉ có nước Thượng Đế xuống địa ngục cứu quý vị , không còn ai khác . Cho nên , đọc những câu chuyện này đừng có lật cho qua trang thôi , mà còn pahri học nữa .

Giả sử sư phụ của chúng ta không hoàn mỹ đi nữa , như vậy còn chúng ta thì sao ? Chúng ta có hoàn mỹ không ? Không ? Vậy thì khỏi phê bình ! Thành ra , tu hành không có khó , giữ vững lòng tin mới là khó . Càng nghĩ rằng mình có lòng tin mãnh liệt , thì chúng ta càng bị khảo nhiều hơn . Nếu chúng ta không nghĩ rằng mình vĩ đại , từ bi , có lòng tin vững chắc và nếu không ham đi độ chúng sinh , chúng ta sẽ bị khảo ít hơn . Là một người phàm phu , lực lượng của ma sẽ không thèm làm rộn chúng ta , vì chúng ta không có những kỳ vọng to tát .

Muốn độ chúng sinh cần phải có lực lượng vạn năng và đạt được quả vị Phật một cách nhanh chóng , đạt được hôm qua thì tốt hơn . (Sư Phụ và mọi người cười) Nhưng lúc đó những bài khảo dồn dập tới thì đừng có than . Nếu không muốn bị khảo nhiều , thì đừng kỳ vọng nhiều . Hãy coi thử chúng ta làm được những gì trong phạm vi khả năng của mình , những gì chúng ta đã làm trong quá khứ , và những gì chúng ta có thể làm được trong tương lai .

Còn lòng tin thì rất hữu dụng , nhưng không phải ai cũng giữ được . Tôi không có ý trách người nào , nhưng chúng ta nên biết những yếu điểm của mình để mà chuẩn bị tinh thần . Khi rớt xuống đẳng cấp nào đó thì mất lòng tin , chúng ta sẽ nhớ lại rằng có lần Sư Phụ đã nói quý vị là những chúng sinh rất yếu đuối , khổ một tí cũng không chịu nổi . Quý vị đã đọc nhiều chuyện , và biết rằng giữ vững lòng tin rất khó .

Thờ Phật gỗ còn dễ hơn thờ Phật sống . Phật sống phải đối phó với nhiều hoàn cảnh , nhiều công việc , bằng nhiều cách khác nhau . Khi thấy cách làm việc của họ không phù hợp với ý thức của chúng ta ; ý thích "cao cả", "khai ngộ" của chúng ta , chúng ta nghĩ vị Phật đó là tốt . Chúng ta không hiểu được nên chỉ đoán mò mà thôi .

Minh sư khai ngộ không màng đệ tử nghi ngờ hay không nghi ngờ mình , họ chỉ muốn dạy đệ tử làm sao để giữ vững đức tin .

Một ngày nọ , Yogananda bỏ đi . Sao ông ta lại bỏ đi ? Vì ông đã sống với thầy một thời gian lâu rồi , mà vẫn không thấy "thể nghiệm" gì cả ! Ông nghe nói có những vị minh sư rất giỏi đang tu hành trong những sơn động tại một nơi nào đó . Cho nên ông đến bên sông Hằng , trèo non lội suối để đi kiếm họ và ở với họ vài ngày . Nhưng tất cả các vị minh sư trên đó đều nói ông đã gặp đúng thầy rồi , và khuyên ông nên trở về . Tại đây ông cũng có được một vài thể nghiệm rất tốt . Đây là một trong những câu chuyện của ông .

Có lần , ông đi đến một sơn động , vì nghe nói ở đó có một bậc đại minh sư , một vị trưởng sư huynh của sư phụ ông , cùng học chung một thầy . Ông nghe nói vị này rất là vĩ đại , có thể còn "vĩ đại hơn" sư phụ của ông nữa , vì người này tu lâu năm hơn . Ông vượt đèo , lội suối , cuối cùng tìm được hang động . Ông ngồi đó , trong lòng đầy những kỳ vọng to tát , bóp chân cho vị minh sư này một cách khiêm tốn để được gia trì .

Tối hôm đó , ông thấy ánh sáng khắp mọi nơi . Chỗ nào cũng sáng , nhắm mắt hay mở mắt cũng không thể nào ngủ được , ông bèn hỏi thầy : "Sư phụ , tại sao kỳ vậy ? Trong này không có đèn , ngoài kia cũng không có gì chiếu . Tại sao sáng vậy ?"

Vị minh sư trả lời : "Ngủ đi ! Đừng có hỏi nhiều !"

Ông nằm xuống vẫn không ngủ được , lại phàn nàn nữa : "Làm sao con ngủ được ? Nhắm mắt hay mở mắt gì cũng thấy sáng quá !"

Vị minh sư đáp : "Thôi được , nếu không ngủ được thì chúng ta hãy dậy uống trà ."

Họ uống trà với nhau cho đến sáng . Sau đó vị minh sư ở trong hang động mới nói với ông rằng : "Về đi , về với sư phụ ngươi . Ngươi đã tìm được đúng thầy rồi , đừng đi đâu thêm nữa ."

Ông rất lấy làm xấu hổ , và tin lời vị sư huynh thâm niên của sư phụ ông .

Khi về tới chỗ của sư phụ ông , ông lén bước vào nhà bếp ; nhưng sư phụ ông đã đợi sẵn ở đó . Ngài không trách cứ một lời nào , chỉ hỏi : "Ê , ăn gì chưa ? Lại đây ! Ta sẽ nấu cho ngươi ăn ."

Họ cùng nhau dùng bữa . Sau khi ăn xong , sư phụ ông nói : "Chúng ta phải nấu thêm . Lát nữa , đến hai giờ sáng sẽ có nhiều người từ xa đến gặp ta . Thế nào họ cũng đói lắm ."

Yogananda tự hỏi : "Lạ nhỉ ! Ở đây sao sư phụ biết chuyện này ? Chắc Ngài cũng giỏi thật . Nếu không thì tại sao biết những chuyện này ?"

Ở đó không có điện thoại , không có người đưa tin , nhưng sư phụ ông vẫn biết một cách tự nhiên . Yogananda có chút nghi hoặc , nhưng ông biết sư phụ ông không giỡn chơi những chuyện như vầy . Ông bèn giúp thầy chuẩn bị thức ăn cho những người kia . Sau đó , hai giờ sáng , quả thật có rất nhiều người đến ăn .

Sau khi bếp núc xong , sư phụ ông đi nghỉ ngơi . Sau đó ngài đưa ông đến một nơi ngoài cửa . Khi ông ngồi xuống , sư phụ ông vỗ lên ngực ông một cái . Tức thì ông có được một thể nghiệm tuyệt vời ở bên trong . Trong thể nghiệm nầy , ông trông thấy mọi vật chung quanh rất là khác lạ , vô cùng trong suốt và rất là sáng . Thân thể ông như tan biến , và cả thế giới đều trở nên trong suốt . Tất cả đều sáng và nhìn rất là khác lạ . Ông quỳ xuống lạy thầy , trong lòng vô cùng biết ơn .

Sư phụ ông lắc đầu nói : "Thật tội nghiệp ! Vượt núi , băng sông lợi lộc gì cho ngươi chứ ?"

Yogananda vừa mới đi hành hương từ núi , sông trở về ; cho nên ông hiểu sư phụ ông muốn nói gì . Từ đó về sau , ông không bao giờ bỏ thầy mà đi nữa .

Nhím Hoàng Kim
05-18-2008, 08:00 AM
Hải Tặc Thành Thánh Nhân

Thanh Hải Vô Thượng Sư kể tại Formosa, ngày 30 tháng 8, 1989
(Nguyên văn tiếng Trung Hoa)


Đây là một câu chuyện Phật giáo. Long cư sĩ là một trưởng giả giàu có, tài sản của ông vô số kể. Một ngày nọ, sau khi gặp được một vị minh sư, ông ngộ được rằng sự giàu có của ông không khác gì độc dược, có thể gây nguy hại cho bản tính và làm quyến rũ lòng tham con người. Cho nên ông dự định đem toàn bộ tài sản của ông chất đầy lên một con thuyền lớn, rồi giong thuyền vượt sóng ra khơi, đem tất cả tài sản này dìm vào lòng biển. Ngay vào lúc ông đang chuẩn bị đem tài sản đổ xuống biển, thì đột nhiên năm trăm tên hải tặc từ đâu xuất hiện và toan tính cướp thuyền ông. Long cư sĩ đương nhiên không hề tõ vẻ sợ hãi, ông đứng trên khoang thuyền chờ họ lên. Khi những tên hải tặc chưa lên thuyền, Long cư sĩ đã nói với họ: "Các vị muốn lấy, hãy cứ lên lấy và mang đi tất cả." Cả bọn hải tặc lấy làm ngạc nhiên, từ trước đến nay chưa bao giờ thấy một thương thuyền nào, gặp hải tặc đã không sợ, mà còn mời lên thuyền cho hết của cải nữa. Họ mới hỏi Long cư sĩ rằng: "Sao ngươi thật khác với người ta, tại sao bảo bọn ta lấy hết tài sản mang đi mà không hề lộ vẻ luyến tiếc, không một chút đau lòng?"

Long cư sĩ trả lời: "Có gì phải sợ hãi, có gì phải lưu luyến chứ, khi tôi biết rằng những thứ của cải này chẳng khác gì độc dược, lẽ ra tôi muốn mang chúng đem đổ biển, nay các vị thấy chúng hữu dụng thì tôi xin tặng cho các vị."

Năm trăm tên hải tặc này sau khi nghe Long cư sĩ giải bày xong, vô cùng sửng sốt liền quỳ xuống sám hối, muốn theo ông ta học đạo. Long cư sĩ đương nhiên hết sức vui mừng đón tiếp họ, ông đem tất cả tài sản này về mang tặng cho chùa và cúng dường cho năm trăm vị "A-La-Hán" này, sau đó năm trăm người hải tặc này đều trở thành hòa thượng và tất cả đều tu hành đến quả vị A-La-Hán.


Chỉ Khai Ngộ Một Nửa

Từ trong câu chuyện này, chúng ta có thể rút tỉa ra được bài học: Sở hữu tài sản cũng không phải là chuyện xấu. Khi chúng ta thấy Long cư sĩ trong câu chuyện định đem toàn bộ tài sản đổ xuống biển, chúng ta nghĩ rằng: Chao ôi! Người này thật là khai ngộ, thật là hay. Nhưng khi chúng ta xem đoạn cuối câu chuyện, ông đem tài sản cúng dường cho năm trăm vị hòa thượng, biến họ từ kẻ đạo tặc sang thầy tu, Sư Phụ nghĩ rằng làm như thế càng hay hơn. Ông đem tài sản đổ biển là một việc làm khai ngộ quả không sai, nhưng chỉ mới khai ngộ một nửa, bởi vì ông vẫn còn lòng chấp trước, vẫn còn lòng phân biệt, vẫn còn phán đoán cái gì tốt cái gì xấu. Lúc đó sự suy nghĩ của ông tương đối cực đoan, ông nghĩ rằng tu hành rồi, nên bỏ đi tất cả, sở hữu tài sản là điều không tốt. Khi vẫn còn lòng phân biệt như thế, chứng tỏ rằng sự khai ngộ chưa đạt đến một trăm phần trăm.

Một người khai ngộ chân chính, đối với họ không có một vật nào là xấu, vật nào họ cũng có thể dùng được. Vị Long cư sĩ này nếu không gặp năm trăm tên hải tặc này ngoài biển, thì ông cũng chưa được hoàn toàn khai ngộ. Trông bề ngoài thì dường như Long cư sĩ đã độ cho năm trăm tên hải tặc, nhưng theo Sư Phụ, chính năm trăm người hải tặc đó đã độ Long cư sĩ! (Mọi người cười và vỗ tay) Tại sao vậy? Nếu như không có năm trăm tên hải tặc đó, Long cư sĩ vẫn còn chấp vào sự phân biệt tốt xấu, ông nghĩ rằng phải buông bỏ tài sản mới là điều phải, mới không bị ràng buộc, mới chính là một người khai ngộ, người có đạo đức, không còn quyến luyến hồng trần, không còn đam mê tài sản. Khi ông gặp được năm trăm người hải tặc, ông mới tỉnh ngộ, ông hiểu được tài sản vốn không tốt cũng không xấu, có thể dùng tài sản để giúp đỡ cho năm trăm người tu hành, như thế không tốt hơn sao? Cho nên có của cải cũng không phải là chuyện xấu, cần xem chúng ta dùng nó như thế nào.

Nếu chúng ta có rất nhiều tài sản, nhưng không biết xử dụng một cách hữu hiệu, thì chúng ta cũng không hơn gì những tên hải tặc. Ví dụ có một người có rất nhiều tiền, địa vị rất cao, nhưng người này đã lợi dụng địa vị và quyền lực để áp bức kẻ cô thế, làm thương hại người ta, vậy cũng chỉ là tên bá đạo. Còn một người khác lâm vào hoàn cảnh thiếu thốn, nghèo khổ, không tiền, bị chèn ép đến đường cùng, bị quan quyền áp bức quá đáng, lòng tức giận nổi dậy, đi phá hoại tài sản của người khác, loại người này cũng không đến nỗi tệ hơn người giàu có nói trên. Cho nên chúng ta phải xem cho rõ ràng, phải biết phán đoán trước những hoàn cảnh và bối cảnh khác nhau. Người có tiền, có chức vị không nhất định là người tốt, cũng không nhất định là người có phước báo. Người nghèo khó, thiếu thốn, hoặc bần cùng, cũng không nhất định là người xấu. Cho nên đức Phật mới có thể độ hai kẻ ác tặc thành người tu hành, Long cư sĩ mới có thể mang năm trăm người hải tặc về cúng dường, về sau họ đều trở thành những vị hòa thượng.


Mọi Vật Đều Hữu ích

Nếu quý vị đọc Tây Du Ký, quý vị sẽ biết Đường Tam Tạng là một vị hòa thượng rất lương thiện và trang nghiêm, nhưng ba người đệ tử của ngài ai trông thấy cũng không khỏi khiếp đảm! Một người thì mũi dài tai bự, một người thì lông lá đầy mình, còn một người thì xâu đầu lâu làm chuỗi đeo. Người bình thường thoáng nhìn thấy họ là sợ muốn ngất xỉu, nhưng Đường Tam Tạng không sợ, ông nhận họ làm đệ tử, chính ba người này đã hết lòng ủng hộ Đường tăng sang Tây Phương thỉnh kinh thành công. Nếu như không có ba người mặt mày hung dữ này, Đường Tam Tạng rất có thể không đi tới Tây Phương nổi. Bất cứ điều gì cũng hữu ích. Vì diện mạo của ba người này trông rất hung dữ, nên yêu quái vừa mới thấy đã hoảng kinh, ngay cả yêu quái cũng ớn yêu quái (Sư Phụ và mọi người cười). Cho nên nếu chúng ta thấu hiểu được pháp luật của vũ trụ, biết được bí mật của tạo hóa, chúng ta có thể biến mọi vật trở nên hữu dụng.

Nhím Hoàng Kim
05-18-2008, 08:03 AM
Khéo Dùng Trí Thông Minh

Thanh Hải Vô Thượng Sư giảng tại Formosa
Ngày 30 tháng 8, 1989 (Nguyên văn tiếng Trung Hoa)


Ở Ấn Độ có một câu chuyện. Có một vị tu hành rất cao, một ngày ông đi thăm địa ngục thấy một vong hồn đang bị lửa đốt rất đáng thương. Ông hỏi Địa Tạng Vương Bồ Tát rằng: "Tại sao nó lại đáng thương như vậỷ Tại sao lại bị lửa đốt nóng quá vậy? Mà đốt lại không chết, đốt chết rồi lại đốt nữa, đời đời kiếp kiếp mấy trăm lần như vậy?" Địa Tạng Vương Bồ Tát trả lời: "Người đó rất hung ác, phải đem cái tâm hung ác đó đốt đi, để những phẩm chất lương thiện mới có thể lộ diện được." Người tu hành nhìn vong hồn này còn trẻ tuổi, mà bị trừng phạt thật khủng khiếp, nên ông cảm thương cho nó, liền nói: "Để tôi đem nó về nuôi, ở với tôi nó sẽ không cần gì, bởi vì cái gì tôi cũng có thể cho nó, nó nhất định sẽ không làm việc xấu, tâm tham lam sẽ mất đi và không còn sự ham muốn nữa. Để tôi thử xem sao!" Ông một mực cầu xin Địa Tạng Vương Bồ Tát tha cho vong hồn nhỏ tuổi này để đem về nuôi. Địa Tạng Vương Bồ Tát nói: "Được! Dĩ nhiên là tôi không muốn làm như vậy, vì ông tự sẽ chuốc lấy rất nhiều phiền phức, nhưng vì ông quá thành tâm yêu cầu, tôi để ông đem nó về."

Một hai ngày đầu sau khi đem về nhà, không có chuyện gì xảy ra, bởi vì vị chủ nhân kêu con ma nhỏ đó làm rất nhiều việc. Nó rất mừng vui, có việc làm thì nó sẽ không gây phiền phức. Tuy nhiên vì là người tu hành, tài sản ít ỏi, mà con ma nhỏ này lại có nhiều lực lượng, có thần thông, kê dọn mọi thứ rất nhanh, nên hai ba ngày là dọn dẹp xong hết, không có việc làm thì nó đứng đợi, hỏi chủ nhân có việc gì khác để làm không. Ông chủ không có việc cho nó làm, nó liền muốn giết chết chủ nhân. Bởi không có việc để làm, mà lực lượng của nó rất lớn, nó không biết phải làm gì, nên con ma nhỏ này bèn kiếm ông chủ để cãi nhau, rồi muốn giết ông. Ông chủ chạy đến địa ngục tìm Địa Tạng Vương Bồ Tát để cầu cứu. Địa Tạng Vương mới nói với ông: "Tôi đã từng nói với ông rồi, phẩm chất hung ác của nó chưa tiêu trừ xong, mà phẩm chất lương thiện của nó lại quá ít. Ông đem nó về nuôi, đương nhiên sẽ tạo phiền phức cho mình." Rồi Địa Tạng Vương Bồ Tát nói cho ông một biện pháp để có thể chế ngự được con ma nhỏ này. Ngài nói: "Sau khi về, ông gọi nó lại bảo nó xây một cái tháp cao, mỗi bực thang vừa dài vừa cao." Xây vừa xong, con quỷ lại hỏi công việc thêm, ông chủ không có việc và lại bị nó đuổi giết lần nữa. Đuổi đến địa ngục, Địa Tạng Vương Bồ Tát nói: "Ông về nói với nó mỗi ngày chạy từ bực cầu thang đầu tiên đến bư.c thang cao nhất, rồi từ bực thang cao nhất chạy xuống, rồi lại từ bậc thang thấp nhất chạy lên trên, mỗi ngày ông kêu nó làm như vậy thì nó sẽ không làm phiền ông nữa." Quả thật như vậy.

Đầu óc của chúng ta cũng y như vậy, bất luận chúng ta cho nó làm việc gì, có việc làm là được, nếu như không có việc làm thì nó sẽ nghĩ lung tung. Thế nhưng đầu óc của chúng ta rất thông minh, rất có tài năng, nếu chúng ta dùng nó làm một việc nhỏ mọn, quả thật là đáng tiếc. Chúng ta phải nhận biết giá trị của chính mình, đừng lãng phí nó. Đa số những người làm sai, đều bởi vì tìm không được công việc đúng với trình độ thông minh của họ, cho nên cảm thấy như bị trở ngại, rồi mới ra ngoài làm những việc phạm pháp, chỉ vì muốn thỏa mãn tài năng háo động bên trong. Có tài mà không được dùng khiến có cảm giác như bị ứ đọng, chúng ta thường nói "anh hùng không có đấu dụng võ" là như vậy. Cho nên sau này chúng ta có cơ hội lựa chọn công việc, phải lư.a chọn những việc có cống hiến cho xã hội. Chúng ta từ từ nghĩ thì nhất định sẽ tìm ra một con đường. Không nên quá hấp tấp, lựa chọn sai lầm rồi sau đó làm những điều vô nghĩa, phí phạm tài năng và lực lượng của chúng ta.