PDA

View Full Version : ✿ SÁCH KHAI THỊ - Các bài thuyết giảng của Thanh Hải Vô Thượng Sư



Pages : [1] 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

Nhím Hoàng Kim
05-18-2007, 03:18 PM
http://img262.imageshack.us/img262/5089/hinhsp6.png

Thay Lời Tựa

Khi Vô Thượng Sư Thanh Hải thuyết pháp , Ngài luôn luôn tránh dùng những những ngôn ngữ cầu kỳ bóng bẩy mà chỉ dùng ngôn ngữ và phương pháp rất giản dị để truyền dạy môn đồ . Cuốn sách này khi được in ra nhằm mục đích để đại chúng được đọc nên tất cả mọi chữ dùng đều rất giảng dị và dễ hiểu . Các đệ tử khi viết ra cuốn sách này , không dám dùng đầu óc phàm phu thay đổi nội dung để tránh làm giảm thiểu sức gia trì của Sư Phụ Thanh Hải .

Lời Phi Lộ

Có một ngày , trong lúc đang dọn dẹp trong phòng chứa kinh của một ngôi chùa nọ , tôi tình cờ tìm được quyển sách này . Tôi đã mê mẩn đọc , càng đọc càng say đắm trong giáo lý , trí huệ mở rộng và không rời tay được đã được giải đáp rất nhiều , lòng vui mừng khôn tả .

Vui mừng vì từ ngày tôi đi tầm đạo đến nay , lần đầu tiên nghe được một pháp môn cứu cánh có thể giúp chúng ta giải thoát trong một đời , làm cho phẩm chất của chúng ta cao quý lên và lòng từ bi cũng theo đó mà lan rộng .

Sau một thời gian thọ pháp và nghiên cứu , tôi phải công nhận rằng đây là một pháp môn rất cao , rất tốt , cho nên tôi cố gắng dịch những giáo lý này từ nguyên văn Trung Hoa qua tiếng Việt ngữ .

Tiếc rằng dịch giả rời Việt Nam đã lâu , du học tại Đài Loan và sống tại Mỹ Quốc cũng trên hai mươi năm nên lối hành văn không được lưu loát và thuần túy . Xin quý độc giả vui lòng thông cảm . Hy vọng rằng quý vị cũng sẽ hưởng được Phật Pháp nhiệm màu và cùng chúng tôi bước trên con đường tu tập giải thoát , tìm Phật tính của mình .

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tác đại chứng minh .

Đồng Kiểm và những người góp phần trong việc phiên dịch và ấn loát .

Nhím Hoàng Kim
05-19-2007, 03:25 PM
Minh Sư Và Danh Sư

Ngày 3-1-1986 Taipei


Có nhiều người tự xưng mình là đại pháp sư , nhưng Sư Phụ tự xưng mình là "Tiểu pháp sư " . Quí vị có thể nhìn thấy Sư Phụ chỉ là một vị Sư Phụ rất nhỏ (đại chúng cười) nhưng mà hôm nay Sư Phụ muốn nói về vấn đề đại pháp sư này .

Nghe nói có một vị "đại pháp sư " , đôi lúc cũng đến Đài Loan thuyết pháp . Nhìn pháp môn của vị đó , hình như không khác gì pháp-môn của chúng ta và mỗi lần vị đó đến Đài Loan để thuyết pháp đều có rất nhiều thính giả . Thật ra giữa pháp môn của vị đó và pháp môn của chúng ta vẫn còn rất nhiều phương diện không giống nhau , bởi vì mọi người đều có thể học pháp môn , nhưng mỗi người có sự giác ngộ và đạt được đẳng cấp khác nhau . Giáo lý pháp môn có thể giống nhau , nhưng lực lượng của mỗi vị sư phụ khác nhau cho nên các học sinh tiếp nhận phước báu không giống nhau . Cũng như chúng ta chưa từng đi qua một chỗ nào đó , chúng ta không thể biết được lộ trình chuyện gì đang đợi chúng ta ? Và sẽ gặp những gì ? Sẽ qua chỗ nào ? Thì một người hướng dẫn có kinh nghiệm rất là quan trọng cho chúng ta .

Ví dụ , từ Đài Loan chúng ta có thể đáp máy bay tới Luân Đôn , nhưng chúng ta không thể nói với người khác là mình biết lộ trình sẽ băng qua những chỗ nào , và những chỗ đó có gì đặc sắc , bởi vì chúng ta thật sự chưa đi qua những lộ trình ấy .

Có người nghe nói học "Pháp Môn Quán Âm" sẽ nghe được âm thanh gì , học trộm cái pháp môn này rồi ra ngoài bày cho những người khác , nên tu như thế nào để có thể nghe được âm thanh gì . Nhưng trước khi chưa thành đạo chúng ta không thể nào biết được âm thanh gì nên nghe , âm thanh gì không nên nghe và nghe thứ âm thanh gì mới là tốt nhất . Càng không thể hiểu được âm thanh nên nghe ở chỗ nào và chỗ nào không nên nghe , vì sao có những chỗ có thể nghe ? Có những chỗ không nên nghe ? Vì sao có âm thanh có thể nghe ? Có âm thanh không thể nghe ? Còn nữa , trong Tam Giới bao gồm những gì ? Ngoài Tam Giới có những gì ?

Những điều này phải dạy rõ ràng ; không phải chỉ bày phương pháp mà thôi . Nhìn từ bên ngoài , pháp môn của họ hình như giống như pháp môn của chúng ta , nhưng trên con đường tu hành , những chỗ nên chú ý , họ đều không rõ , các vị có hiểu không ? Trong quá trình của việc tu hành , nhất định có việc gì sẽ xảy ra , khi xảy ra nên dùng phương pháp nào để khống trị , hoặc dùng pháp môn gì có thể giải quyết vấn đề của người đó . Nếu như truyền pháp chỉ dạy người ta phương pháp hay kỹ thuật tu hành , còn những vấn đề khác đều không lo , thứ truyền pháp đó cũng không hoàn mỹ . Vì muốn truyền pháp , nên truyền pháp hoàn chỉnh , không được truyền pháp một nửa hay một ít , như vậy đối với người tu hành sẽ có nguy hiểm .

Giả sử , Sư Phụ truyền pháp chỉ truyền một nửa , chỉ truyền cho quý vị cái pháp môn mà thôi , không có nói cho quí vị biết trên con đường sẽ có gì nguy hiểm , khi có nguy hiểm , nên dùng phương pháp gì để khống trị . Rồi nếu như ngày mai Sư Phụ đột nhiên qua đời , quí vị tự mình không biết được trên đường tu hành sẽ có những nguy hiểm gì , như vậy làm sao có thể tu được , phải vậy không ? Các đồng tu cũng như vậy , nếu tu hành chưa đạt đến đẳng cấp của Sư Phụ và cũng không được chỉ đạo tu hành làm sao mới an toàn thì rất là nguy hiểm . Vì thế cho nên lúc truyền pháp nên truyền toàn bộ cho đệ tử , không nên chỉ truyền pháp môn mà thôi . Một vị pháp sư nếu như tự mình còn chưa rành được con đường này , chỉ trộm học một pháp môn , rồi lập tức ra ngoài truyền pháp bậy bạ , tự mình cũng không hiểu trên đường sẽ có những vấn đề gì , có những nguy hiểm nào , truyền pháp như vậy là quá vô trách nhiệm .

Trong kinh Lăng Nghiêm , Phật Thích Ca Mâu Ni đã cảnh cáo chúng ta là "thời mạt pháp" , sẽ có rất nhiều chúng sinh tự xưng đã thành Bồ Tát , hay là đại sư phụ để gạt chúng sinh , họ cũng dạy rất nhiều thứ , nhưng tất cả đều là danh lợi , vì tiền , hoặc là vì lợi ích cho cá nhân . Họ tự nhận là người hoàn mỹ , là sư phụ có đại thành tựu , là bật minh sư tối cao ... toàn là các loại danh từ xưng hô tối cao . Nhưng họ vẫn còn là thân phận tại gia chưa thoát Tam Giới . Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói thời mạt pháp sẽ có những người tại gia tu hành , họ tự xưng mình đã thành tựu , đã thể chứng đại đạo , có thể dẫn dạy chúng sinh , rốt cuộc chỉ dẫn chúng sinh đi lạc đường . Thứ người đó nếu đi hoằng pháp , thường thường sẽ hủy báng những người tu hành chân chính , hoặc để cho người xuất gia đảnh lễ họ ... sẽ có rất nhiều tình trạng như vậy trong thời mạt pháp .

Trong Kinh Lăng Nghiêm , Phật Thích Ca Mâu Ni đã có nói rất rõ , cho nên nếu chúng ta muốn học pháp môn gì , hoặc muốn bái danh sư nào , chúng ta đều nên thận trọng một chút , không phải thấy có người tự xưng là danh sư hoàn mỹ , hoặc là đại giác tối cao , hoặc là bật đại danh sư khai ngộ ... chúng ta đều đến lễ bái . Muốn bái lạy cũng được , nhưng khi lạy xong rồi , chúng ta cần phải lấy kinh điển lại đối chứng . Làm như vậy không phải biểu thị là chúng ta chấp vào kinh điển , bị kinh điển bó buộc , mà chúng ta dùng kinh điển để đối chứng , hoặc để kham thảo xem cái pháp môn của người đó , cái đạo lý của người đó , có phải giống như các vị đại sư thời xưa hay không ? Nếu như khác nhau quá , chúng ta cần phải khởi tâm nghi ngờ , vì trong Kinh Lăng Nghiêm , Phật Thích Ca Mâu Ni có nói : " Tất cả chúng sinh , tất cả những người tu hành , nếu như họ ăn thịt , thì họ không phải là Phật , cũng không phải Phật tử , nếu có người khuyên chúng sinh ăn thịt , uống rượu , hoặc hưởng thụ cái thế giới này , chúng ta biết ngay đó không phải là "Đạo Phật" mà đây là "ma đạo" .Cho nên kinh điển quan trọng ở chỗ là chúng ta có thể dùng nó để tham khảo để đối chứng , chứ không phải chúng ta chỉ cần nhắm mắt tọa thiền là đủ . Chúng ta cần phải suy nghĩ kỹ , cần nên hiểu biết một chút đạo lý trong kinh , nếu như chúng ta không biết , chúng ta có thể hỏi những người khác hiểu biết hơn chúng ta .

Trong đạo lý của Thiên Chúa Giáo , chúa Giê Su cũng khuyên người đừng có ăn thịt , đừng có hưởng thụ thế giới này , nhưng chúng ta lại hiểu lầm cái đạo lý trong Kinh Thánh . Trong kinh Thánh có nhiều chỗ nói đến đừng có ăn thịt , đừng có sát sanh . Những điểm đó Sư Phụ đã có nói qua , cho nên hôm nay không cần phải nói đến nữa . Những người đệ tử mới , nếu như chưa từng nghe qua , có thể hỏi những người đệ tử cũ của Sư Phụ .

Trong Kinh Thánh có nói :" Ngươi không nên ăn thứ đồ làm cho anh chị em của ngươi bị đau khổ , vì thứ đồ đó anh chị em của ngươi , hoặc những chúng sinh khác , sẽ bị giết hay phải chịu đau khổ ." Ý nghĩa này là muốn nói động vật cũng là anh chị em của chúng ta . Trong Kinh Thánh còn nhắc đến :" Đừng ở chung với những người ăn thịt heo , ăn thịt chuột ... " Nhưng những tín đồ Thiên chúa Giáo họ chỉ đọc sơ những chỗ này , cho nên đọc qua rồi vẫn không hiểu ý , đọc hết rồi thôi , chứ không chịu hiểu sâu vào ý nghĩa của Kinh Thánh .

Trong Thánh Kinh có một chương lớn nói đến chuyện ăn thịt , (Psalm 78) có nói :

Một hôm , có một nhóm người rất tin thượng Đế , nhưng lại có ý muốn khảo nghiệm Thượng Đế , họ vốn rất tin Thượng Đế , vì Thượng Đế mỗi ngày đều cho họ rất nhiều đồ ăn , nhưng có một hôm họ hỏi :" Thượng Đế , Ngài có thể biến hóa rất nhiều đồ ăn cho chúng con , vậy Ngài có thể hóa thịt cho chúng con ăn không ?" Khi Thượng Đế nghe được câu hỏi này thì rất giận . Ngài biến ra rất nhiều thịt , từ trên trời rơi xuống cho họ ăn , chờ họ ăn xong , Ngài liền giết sạch bất cứ lớn nhỏ , không còn một người .

Như vậy cho thấy rằng Thượng Đế cũng không ưa những những người ăn thịt , nhưng vì người của chúng ta không biết chuyện , cho nên mới có chuyện theo Thiên Chúa Giáo có thể ăn thịt . Thiên chúa cho phép con người ăn thịt đều là do chúng ta tự nói . Thượng Đế rất từ bi , Thượng Đế là Tạo Hóa . Tạo Hóa chỉ háo sinh chứ không háo sát , lực lượng háo sinh không thể nào muốn giết chúng sinh , thích nhìn chúng sinh chịu đau khổ . Ngoài ra tong một đoạn Kinh Thánh cũng nói đến :" Các ngươi đừng có cầu ta , đừng có hướng về ta cầu nguyện , bàn tay các ngươi dính đầy máu tanh của kẻ vô tội , các ngươi giết bò , giết dê đến cúng dường ta . Ta không có bảo các ngươi giết dê giết bò đến cúng dường ta , các ngươi nên sám hối , còn không ta sẽ không nghe lời cầu nguyện của các ngươi , ta sẽ không tha thứ cái nghiệp chướng của các ngươi ."

Điều đó Thượng Đế nói rất rõ , chúng ta không thể sát sinh , luôn cả cúng dường Ngài cũng không thể được . Nếu như cúng dường Thượng Đế cũng không thể sát sanh , như thế thì chúng ta làm sao có thể tự mình sát sinh để ăn ? Trong Kinh Thánh , Chương 1 , trang 29 , Ngài có nói :" Tất cả các giống rau cải , trái cây đã có trong vườn đều rất đẹp , rất ngon , những thứ này đều là thức ăn của các ngươi ." Ngài còn nói :" Động vật là bạn của các ngươi , ngươi có thể làm chủ nó , khống trị nó ." Nhưng Ngài không có nói , có thể giết chúng để ăn . Ngài nói :" Ở ngoài miếng đất trống đó , bất cứ mọc ra những vật gì , trái cây hoặc là rau cải đều là của các ngươi , các ngươi nên ăn những thứ đó ."

(còn tiếp) ;))

Nhím Hoàng Kim
05-20-2007, 07:27 AM
Vì sao Sư Phụ phải nói những chuyện này ? Vì nếu như một vị "Danh Sư" , tự nói họ là người toàn mỹ , là vị đại sư hoàn mỹ , mà còn khuyến khích người hưởng thụ thế giới , hưởng thụ nhục thể , hưởng thụ trên những đau khổ của chúng sinh . Người như vậy , chúng ta nên hoài nghi cái đẳng cấp của họ , vì sao họ muốn dạy người làm những việc như vậy ? Vì nếu như chúng ta đọc qua hết các kinh điển và thật sự thấu hiểu ý nghĩa của kinh , chúng ta sẽ thấy rõ ràng các giáo lý của kinh điển đều khuyên người ăn chay tu dưỡng cái tâm từ bi của chúng ta , đối với các chúng sinh nên có tâm bình đẳng , cho nên không thể nào có một vị gọi là "Danh Sư" mà có thể dạy người sát sinh ăn thịt hoặc hưởng thụ cái thế giới vô thường này để ta quên mất phải tu hành , quên mất phải tự mình thống trị , quên mất huấn luyện mình trở thành con người toàn mỹ , có đủ từ bi , bác ái , đại trí tuệ , có hiểu ý Sư Phụ không ?

Cho nên nếu chúng ta gặp loại danh sư đó , chúng ta nên hiểu biết , bất luận họ có nổi danh bằng cách nào , có giỏi ngụy trang như thế nào , chúng ta vẫn có thể khẳng định , họ làm việc cho Ma Vương . Nhiệm vụ của Ma Vương là để buộc con người trong Tam Giới , đời đời kiếp kiếp làm một chúng sinh đau khổ , không tự do . Cho nên nếu có loại danh sư dạy thứ tà lý thì chính họ là người làm việc cho Ma Vương . Chúng nó phối hợp với nhau , không để cho chúng sinh có cơ hội giải thoát .

Nếu như chúng ta thiếu nợ người khác , chúng ta sẽ bị người đó khống trị . Cho nên , giả sử chúng ta ở trên thế giới này , hưởng thụ vật chất càng nhiều bao nhiêu , chúng ta càng thiếu người bấy nhiêu . Nhưng nếu chúng ta ăn chay , sống với cái sinh hoạt đơn giản , có thiếu cũng ít hơn . Nếu như ăn thịt và quá hưởng thụ đời sống hàng ngày , chúng ta sẽ thiếu nợ cái thế giới này rất nhiều vì cái ý thức sinh mạng của động vật nó nặng hơn ý thức của thực vật rất nhiều . Chúng ta thường nói :" Nhiệp chướng rất nặng " . Nhưng nghiệp chướng là gì ? Tất cả chúng ta đều thiếu nợ của thế giới này và vì chúng ta tiêu xài quá sức trả nợ của mình cho nên mới nói rằng " nghiệp chướng sâu nặng " .

Từ xưa đến nay , một minh sư chân chính , sau khi họ được khai ngộ rồi đi hoằng pháp , họ đều quên mất cái "ta" , họ ngủ không đủ , ăn không nhiều vì họ cần càng nhiều thì giờ , càng nhiều tâm sức đi độ chúng sinh , khuyên chúng sinh tâm tu hành . Không có một vị thầy thời xưa hay thời này muốn hưởng thụ thế giới này , lái loại xe mới nổi tiếng , có máy riêng , hưởng thụ đời sống chồng vợ . Những sự hưởng thụ đó , đối với những vị thầy chân chính đại khai ngộ ở đời nay , không thể nào có được . Dù cho họ không có xuất gia đi nữa , họ vẫn sống đời sống như người xuất gia . Nếu như trước kia họ có chồng , có vợ , hiện giờ đối với họ có cũng như không có , mỗi ngày đều bận rộn đi khắp nơi để độ chúng sinh , bận đến quên mất nghĩ ngơi , có lúc luôn cả ăn cơm cũng không có thời gian . Bởi thế cho nên không có thể một vị minh sư chân chánh nào khuyên người ta hưởng thụ thế giới và tự mình cũng hưởng thụ thế giới .

Vì cái thế giới này vốn đã là cái thế giới hư vô , cõi Ta Bà không phải là nhà cửa chúng ta , nếu chúng ta hưởng thụ cái thế giới này thì chúng ta chờ đến lúc nào mới có thể trở về được ? Chúng ta chỉ tạm thời mượn cái thế giới của người ta mà thôi . Nếu chúng ta mượn càng lâu thì càng bị buộc dính . Cho nên từ xưa đến nay không có một vị minh sư chân chính nào khuyên người làm như vậy . Giả sử hiện tại có một vị gọi là "danh sư" khuyên người ta hưởng thụ thế giới , không màng đến tu hành , không huấn luyện mình , không khống chế mình , không tự kiểm thảo lấy mình , loại sư phụ này rất đáng hoài nghi vì cái giáo pháp của họ hoàn toàn ngược hẳn với cái giáo pháp cổ kim .

Đây không phải là tình trạng riêng của Phật Giáo , tình trạng của Thiên Chúa Giáo , Hồi Giáo , Lão Giáo (Đạo Giáo) cũng đều như vậy . Lúc Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế , ngày ngày đi bộ với đệ tử của Ngài , đi rất nhiều chổ để độ chúng sinh , có lúc đi đến một chổ lạ , vì người ta không nhận biết Ngài , không có người cúng dường cho nên Ngài phải ăn lương thực của ngựa , đến vài tháng như vậy , Phật cũng không có than oán vì độ chúng sinh là không màng bất cứ hoàn cảnh nào , hoàn toàn quên hẳn sự tồn tại của cá nhân .

:cheer1: (còn tiếp)

Nhím Hoàng Kim
05-21-2007, 03:18 PM
Chúa giê Su cũng vậy , Ngài cũng đi rất nhiều chổ , sống một cuộc đời rất đơn sơ rất kham khổ . Sư Phụ có xem qua Thánh Kinh cho nên Sư Phụ biết , Ngài và các đệ tử đều không có mang giầy . Làm sao chúng ta có thể xác nhận rằng Chúa Giê Su sống một cuộc đời rất là kham khổ ? Vì có một Ngài , có một vị nữ đệ tử cúng dường Ngài một chút dầu để thoa chân Ngài , rất có thể vì Ngài đi bộ quá nhiều , bàn chân khô hoặc bị tróc da , cần thoa một chút dầu để khỏi bị khô , loại dầu đó hình như quí hơn dầu thường , rốt cuộc đồ đệ của Ngài liền phê bình , Ngài làm sao có thái độ hưởng thụ đó ? Thế giới này còn rất nhiều người nghèo cần sự giúp đỡ , Ngài làm sao có thể cho người ta thoa loại dầu quí đó trên chân Ngài ?

Bởi vì Chúa Giê Su không có cái tình trạng đó , rất có thể là lần đầu tiên cho nên đồ đệ của Ngài mới kinh ngạc như vậy , nếu như Chúa Giê Su ngày ngày hưởng thụ thế giới , sử dụng đồ rất quí báu để cho người ta phụng sự mọi việc cho Ngài thì đồ đệ của Ngài sẽ không có thái độ kinh ngạc đó .

Cho nên các vị đại sư thời xưa , họ rất kham khổ để độ chúng sinh , không lo cho thân mình , hoàn toàn làm đến "tự ngã phủ định" , quí vị có hiểu ý của Sư Phụ không ? Tất là hoàn toàn không lo việc của riêng mình , không lo cho thân thể mình . Nhưng ngày nay thứ mà gọi là đại sư , khuyên người ta hưởng thụ thế giới , tự mình cũng vậy , sử dụng toàn là đồ tốt xa xỉ .

Cho nên nếu chúng ta muốn bái sư , đừng có coi người đó có bao nhiêu đồ đệ , hoặc là có bao nhiêu tiền , cũng đừng có lo người đồ đệ này của vị sư có hưởng lạc ? Hoặc người đồ đệ kia không hưởng lạc ? Bởi vì họ có hưởng lạc hay không , không phải chúng ta có thể biết được , các vị có hiểu không ? Có người khi cờ bạc , họ cảm thấy rất khoái lạc , có người uống rượu huyên náo , họ mới cảm thấy khoái lạc , có người đi tìm gái , việc trai gái này đối với họ cũng rất khoái lạc . Nhưng cái thứ khoái lạc đó đều là giả dối , không phải thật . Loại khoái lạc đó khiến cho con người đời đời kiếp kiếp phải đau khổ , đời đời kiếp kiếp đều bị cột chặt , không thể giải thoát .

Sự khoái lạc của tu hành là thứ khoái lạc ở bên trong , rất có thể hiện giờ chúng ta phải chịu một chút khổ vì tu hành sẽ có hai thứ nghiệp chướng ; vì sao người tu hành có 2 thứ nghiệp chướng mà người thường thì chỉ có 1 thứ ? Sư Phụ đã có giảng qua , những người được tâm ấn theo Sư Phụ tu hành là để cầu được 1 đời giải thoát . Nếu muốn được 1 đời giải thoát , trước khi chúng ta lìa trần , những gì chúng ta thiếu người ta , thiếu cái thế giới này , bất cứ nhiều hay ít , đều cần phải trả cho sạch , nếu còn 1 xu chưa trả hết , chúng ta không thể lìa cái thế giới này để được vĩnh viễn giải thoát .

Cho nên theo học với Sư Phụ tu hành , có 2 thứ nghiệp chướng . Cái thứ nhất là định nghiệp , trong Kinh Kim Cang có nói , định nghiệp không thể chuyển vì định nghiệp là cái nghiệp chướng của cái sinh hoạt này , là nghiệp chướng của kiếp này , đã bị định rồi , cũng như chúng ta ăn bao nhiêu cơm , mặc bao nhiêu áo quần , cần nên làm việc gì , đều bị cố định rồi nên chịu nghiệp chướng gì cũng đã bị định rồi , dù cho Sư Phụ có giúp đỡ , cũng chỉ giúp được 1 chút mà thôi , để cho người đó trong lúc trả nghiệp chướng bớt đi sự đau khổ , nhưng Sư Phụ không thể hoàn toàn rửa sạch , nếu như trừ hết hoàn toàn định nghiệp , quí vị sẽ lập tức chết đi , vì không có lý do gì để tiếp tục ở trên thế gian này , cho nên định nghiệp không thể chuyển .

Định nghiệp khác với nghiệp chướng , điều này Sư Phụ trước kia đã có nói rồi , nghiệp chướng là chỉ cái nghiệp chướng đời đời kiếp kiếp của quá khứ còn chưa có hiện ra , cho nên có thể rửa sạch , nhưng mà nếu như cái nghiệp chướng này đã bị an bài xong rồi , đã đóng dấu rồi thì không có thể sửa đổi nhiều , đó tất là "định nghiệp" . Lại nữa , chúng ta sống trên cõi này , ngày ngày tạo nghiệp chướng mới , cái nghiệp chướng mới này , chúng ta cũng phải lập tức trả hết , còn không , chúng ta cũng không thể giải thoát . Cho nên 2 loại nghiệp chướng của người tu hành chúng ta là chỉ "định nghiệp" và cái "nghiệp mới" cần phải trả ngay .

:-* :-* :-*

Nhím Hoàng Kim
05-22-2007, 07:11 PM
Người thường nếu làm việc xấu , thứ nghiệp chướng đó còn có thể tạm thời tồn trữ tại cái kho nghiệp chướng , không có lập tức thấy được . Cho nên quí vị thấy có nhiều người làm việc xấu nhưng đời sống của họ vẫn cứ sung sướng giàu sang , không gặp những việc gì đau khổ . Ngoài ra có người làm nhiều việc tốt , bố thí , trì giới , nhẫn nhục lại gặp nhiều cái khổ , đó là vì người đó tu hành , muốn cầu được giải thoát trong kiếp này cho nên thanh toán nghiệp chướng mau hơn , nhưng cái khổ này chắc chắn là lần cuối cùng . Còn như những người hưởng thụ khoái lạc , không biết chừng ngày mai cái đời sống thoải mái bị biến chuyển hoặc là đời sau họ không được hưởng thụ nhiều nữa . Cho nên tu hành hay không tu hành , tuyệt đối khác hẳn với nhau .

Người không tu hành , có những phương diện mới nhìn thấy hình như rất khoái lạc , họ đi khiêu vũ uống rượu cờ bạc , lúc đó hình như rất khoái lạc nhưng có lúc cực lạc sinh bi . Ví dụ , rượu uống nhiều quá không láy xe được , láy không đàng hoàng rất có thể gây ra tai nạn , hoặc là uống rượu rồi sinh chuyện đem đến những chuyện không may . Có người trong lúc hút độc dược hay chích ma túy cũng rất khoái lạc nhưng khi bị nghiền rồi càng cần số lượng độc phẩm càng nhiều , sau này đến nổi vợ con đều có thể bán được , chỉ vì muốn cầu được một chút khoái lạc .

Cho nên chúng ta không nên nghe họ nói , theo vị sư phụ nào đó học rồi thì được hưởng lạc , bèn chạy theo vị đó học . Vì lạc thú ở cái thế giới này rất là vô thường , không có làm được gì , người thường cũng có thể thấy rất hạnh phúc . Có người mới kết hôn , có 1 người vợ đẹp , cho nên cảm thấy rất hạnh phúc nhưng cái thứ hạnh phúc này có thể duy trì được bao lâu ? Ở trên thế giới này có rất nhiều người làm việc xấu nhưng kiếm được rất nhiều tiền vì làm việc phi pháp , thường thường càng dễ đổ lợi hơn . Đối với họ kiếm được nhiều tiền thì có thể hưởng thụ thế giới thì là khoái lạc nhưng cái thứ khoái lạc đó của họ phải là thứ mà trong tâm của chúng ta phải thật sự mong muốn không ? Hoặc là thật sự ưa thích ? Chúng ta nên nghĩ cho kỹ lưỡng điểm này .

Thứ danh sư mà cổ võ người ta hưởng thụ thế giới rất rành quảng cáo , họ sẽ nói :" Đồ đệ của tôi , sau khi theo tôi học đều được hưởng nhiều lạc thú trên đời này ", hoặc bảo đồ đệ đứng dậy nói , sau khi gặp được minh sư , đời sống của họ rất là hạnh phúc . Nhưng nếu nghĩ kỹ càng , tu hành tọa thiền cũng rất vui , tuy rằng tu hành có lúc cũng phải chịu chút khổ , nhưng đó là lẽ tất nhiên . Sau khi tu hành chúng ta có thể khắc phục cái thái độ bực bội của mình gặp việc không xúc động , tính tình trở nên ôn hòa cho nên mới nói tu hành cũng rất vui .

Vì sau khi tu hành , tinh thần của chúng ta rất minh mẫn , không bị cái ảnh hưởng của đau khổ . Người tu hành chân chính có đủ cái tinh thần bi , trí , dũng , có thể vượt qua cái đau khổ của thế giới này , đối với họ mà nói , không có sự đau khổ hay khoái lạc , đó mới chính là khoái lạc . Vì có cái trí huệ cao cho nên biết được sự thật cũng không có cái đau khổ , cái khoái lạc thật cũng không phải hưởng thụ cái thế giới này , uống rượu , khiêu vũ , có quan hệ của trai gái ... cái khoái lạc của thế tục nó , rốt cuộc chỉ làm cho con người đắm trong cái tình trạng rất bực bội , rất đau khổ .

Nếu chúng ta xem qua Kinh Lăng Nghiêm sẽ rõ , Phật Thích Ca Mâu Ni đã có nói trước , thời mạt pháp có rất nhiều loại thầy đó ra dạy người , họ đi đến chổ nào cũng đều đem đến tai nạn hoặc bất hạnh cho người , cho nên chúng ta dùng kinh điển đối chiếu sẽ biết rõ người nào là vị minh sư chân chánh . Bất cứ người nào dạy ngược với giáo lý truyền thống từ xưa đến nay , chúng ta có thể khẳn định được , họ không phải dạy chân lý .

Sư Phụ đi qua rất nhiều nước và gặp rất nhiều thầy , thầy chân chính nhìn vào đều rất lương thiện , không có 1 vị nào khuyên hưởng thụ thế giới , ăn thịt , uống rượu ... đều chỉ cổ võ người nên chịu khổ tu hành ; chỉ có thứ gọi là "thầy đặc biệt" mới khuyên người bất chấp tốt xấu , làm việc gì cũng được , làm gì cũng tốt , cũng không sao . Vì giáo lý họ vốn là như vậy . Nhưng vì có nhiều người vì không hiểu kinh điển và thiếu cái giáo lý của truyền thống đạo đức để nương tựa , cho nên họ rất thích nghe giáo lý của thứ gọi là "thầy nổi danh" . Tuy rằng thứ thầy này có rất nhiều đồ đệ , nhưng không phải biểu thị họ là 1 vị thầy chân chính . Chúng ta nên suy nghĩ kỹ vì chúng ta có truyền thống đạo đức , có rất nhiều kinh điển cho chúng ta tham khảo . Chúng ta không phải người khờ dại , đừng nên nói ai nói gì thì nghe nấy , nói đâu tin đó . Chúng ta nên dùng trí huệ của chúng ta để suy nghĩ , phân biệt , kiểm thảo , dùng trí huệ phân biệt rồi , nếu thấy rằng đó là vị thầy tốt thật , chúng ta mới có thể tin .

Trên núi chỗ Sư Phụ ở , có trồng 1 số khoai tây , trước khi trồng phải cần 1 miếng đất , sau đó mới lấp đất , hằng ngày tưới nước , vài hôm sau nó nẫy mầm , nhưng vẫn phải tiếp tục tưới nước . Chúng ta tu hành cũng vậy , cần phải hằng ngày ngồi thiền , phải phát triển cái trí huệ của chúng ta , luôn luôn nên tự mình kiềm chế , tự mình kiểm thảo , cho đến 1 ngày nào đó chúng ta biến thành 1 người toàn mỹ , lúc đó là lúc chúng ta thành đạo . Cũng như trồng lúa , sau khi trồng rồi , vẫn cần tưới nước trông nom , cho đến khi lúa đã trưởng thành , cũng không thể không chiếu cố , nếu không sẽ khó có những lúa tốt . Cho nên hôm qua lúc Sư Phụ giảng kinh trên núi cũng có nói qua , dù là san hô mã não đi nữa , loại bảo vật trân châu của người đời này cũng cần có người để tâm điêu khắc mài dũa , sau đó mới có thể trở thành vật trang sức tốt đẹp . Bất cứ vật gì không có công mài dũa , không thể có thành tựu được .

:-$ :-$ :-$

Nhím Hoàng Kim
05-24-2007, 04:05 PM
Tu hành cũng vậy , nhưng tại sao phải tu hành , vì đó là một thứ hiện tượng tự nhiên , bất cứ vật gì cũng có cái bổn tính của cái khuynh hướng toàn mỹ . Con người chúng ta cũng như vậy , 1 con người thông minh hay 1 con người ngu dốt cũng có cái khuynh hướng đó , cũng muốn trở thành 1 chúng sinh toàn mỹ . Cho nên Thích Ca Mâu Ni thành Phật , chúng ta xưng Ngài là người toàn mỹ , là Phật , là Buddha , là 1 như lai toàn mỹ ,hoàn toàn khai ngộ .

Thành Phật cũng như các tình trạng khác , bất cứ đồ vật nào thô và khó coi , nhưng nỗ lực làm việc , để tâm coi sóc , sau này sẽ biến thành đồ vật hoàn mỹ . Không có thể có 1 thứ lý do nào không cần người tu hành , trở lại còn dạy người làm gì cũng được , không cần phải gánh cái trách nhiệm của đạo đức . Nếu như có thật như những lời mà vị gọi là thầy nổi danh , làm bất cứ những gì cũng được cũng tốt , thì Phật Thích Ca Mâu Ni không cần đến thế giới Ta Bà này dạy người . Chúa Giê Su cũng không cần khổ cực gánh nghiệp chướng của chúng sanh cho đến bị chúng sanh đóng đinh trên cây thánh giá .

Từ xưa đến nay , các vị đại chân sư chân chính đều phải tu hành , từ Chúa Giê Su đến Thích Ca Mâu Ni , Lão Tử , Bồ Đề Đạt Ma , Huệ Năng , Bách Trượng ... các Ngài cũng phải tu hành 1 đoạn thời gian , còn không 10 tuổi đã thành Phật rồi thì ai tin ? Cái tình trạng này ở cảnh giới cao , ở cõi khác rất có thể có , ở cõi Ta Bà không thể được . Con người không có thể hấp tấp ra đời , rồi sau đó lại đi dạy đồ đệ "không cần tu hành cũng giải thoát" . Không được !

Trong hàng đệ tử của Sư Phụ , có mấy người trước khi theo Sư Phụ học đạo , đã từng gặp qua loại mà gọi là thầy nổi danh , lúc đó học trò của Sư Phụ vì rất khát vọng được giải thoát , muốn được tu hành , nhưng lại tìm không có minh sư để chỉ đạo , cho nên khi nghe chỗ đó có vị thầy toàn mỹ , liền chạy đến hỏi đạo , hỏi rằng làm sao tu để trừ cái "ngã chấp để trở thành con người toàn mỹ" , vị đó nói "ngã" có cái gì không tốt ? Đừng có gạt bỏ cái "ngã" , nếu không có cái "ngã" làm sao mà sinh sống ? Sau này người ấy lại hỏi , làm sao mới có thể giải thoát sinh tử ? Vị đó đáp , nếu muốn cầu giải thoát , thì đi chỗ khác học , chỗ này chỉ dạy làm sao hưởng thụ đời này , không có lo cái quá khứ không có lo đến vị lai .

Nếu họ thật sự dạy người như vậy , thì Sư Phụ nghĩ rằng khỏi cần học , vì thật sự đâu có dễ dàng như vậy . Phật Thích Ca Mâu Ni là vị đại sư nổi danh từ xưa đến nay , nhưng Ngài cũng phải tu hành gian khổ 6 năm , thông qua trùng trùng thử thách , cho đến giờ phút gần thành Phật , vẫn còn bị thử thách trong 49 ngày ngồi dưới gốc cây , các thứ ma chướng xuất hiện thử thách Ngài , rốt cuộc Ngài khắc phục hết các thứ tình trạng đó mới trở thành vị đại sư toàn mỹ . Nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni không phải chỉ tu hành 6 năm mà thôi , lúc còn nhỏ Ngài đã bắt đầu tu hành rồi , Ngài học qua Tứ Vệ Đà , đã hiểu được 1 phần đạo lý của đời , sau đó Ngài thấy đời người vô thường , và các thứ đau khổ mới phát tâm tu hành . Tu hành không có nghĩa là ngồi niết bàn tọa thiền mới gọi là tu hành , tu hành là khi mình bắt đầu có "quan niệm" muốn biết cái vô thường của đời người , có cái quan niệm muốn tịnh hóa lấy mình , trở thành 1 vị chúng sinh hoàn toàn tốt đẹp , cái lúc đó đã bắt đầu tu hành rồi .

Quí vị thường nói Sư Phụ tu hành chỉ có mấy năm thôi , không phải đâu , Sư Phụ từ nhỏ đã bắt đầu tu hành , và thường tự hỏi đời người sao khổ cực quá vậy ? Vì sao chúng ta không có lực lượng ? Vì sao chúng ta muốn bay lại bay không được ? Muốn đi lại không đi được ? Vì sao chúng ta là con người không tự do như vậy ? Cứ bị quá nhiều nghiệp chướng buộc chặt ? Tại sao quá nhiều người đau khổ như vậy ? Làm sao mới có thể giúp họ được ? Bởi vậy Sư Phụ không phải mới bắt đầu tu hành , lúc còn trẻ thơ đã bắt đầu tu rồi , khi đó Sư Phụ không biết tu là gì , bây giờ nghĩ lại mới hiểu rõ , không phải lớn rồi , gặp được sư phụ mới bắt đầu tu hành , lúc nhỏ đã tu rồi , chỉ có đẳng cấp khác nhau , phương pháp khác nhau mà thôi , vì trước khi tu hành không biết đường lối , bây giờ đã biết đường đạo cho nên mới khác nhau .

Đôi khi quí vị nghe Sư Phụ nói đừng nên lạy Phật , đừng có lạy kinh điển , không phải rằng Sư Phụ không cảm tạ Tam Bảo , vì nếu không có Phật Giáo , không có Thiên Chúa Giáo , không có Kinh Phật , không có Thánh Kinh thì làm sao Sư Phụ biết được đạo lý ? Sư Phụ từ đâu sinh ra những quan niệm này ?

Nếu chúng ta muốn tu hành , muốn được giải thoát thì phải đi tìm minh sư chân chính , tìm được rồi , sau đó mới dùng Kinh Phật , Thánh Kinh hoặc Đạo Đức Kinh ... để kham thảo đối chiếu . Bất luận theo vị pháp sư nào hay vị thầy nào học , đều có thể lấy kinh điển để ấn chứng , để khẳng định cái pháp môn này là thật hay là giả , cái "đạo" này là chính đạo hay tà đạo .

:tongue3:

Nhím Hoàng Kim
05-25-2007, 03:10 PM
Cho nên quí vị nên biết , không phải Sư Phụ bảo quí vị đừng lạy Phật , đừng niệm Phật là hủy báng Tam Bảo , tuyệt đối không có , vì cái đẳng cấp chúng ta cao hơn một chút , nên dùng cái "Tâm" của chúng ta để lạy Phật . Sư Phụ khuyên quí vị đừng niệm kinh bái Phật vì không muốn quí vị chấp nhất vào vẻ bề ngoài , quí vị nghe có hiểu ý của Sư Phụ không ? Sư Phụ không muốn quí vị ngưng tại chỗ đó , đời đời kiếp kiếp đứng tại đó lại Phật , quí vị nên "thành Phật" . Thành Phật là phương thức lạy Phật tối cao , không phải Sư Phụ không tôn kính Tam Bảo , không phải Sư Phụ không lạy tạ Tam Bảo , Sư Phụ rất tạ ơn Tam Bảo . Cho đến hiện nay , Sư Phụ vẫn cảm tạ vị Sư Phụ thứ nhất mà Sư Phụ đã quy y ; Sư Phụ vẫn thường gởi biếu Ngài tăng phục , tượng Phật , tràng hạt ... có khi còn có dư 1 ít Mỹ kim , Sư Phụ cũng gởi sang Đức để cúng dường Ngài xây cất chùa .

Tuy rằng Sư Phụ không ở bên đó , Sư Phụ cũng không cần đến chùa lớn chùa nhỏ , nhưng vì Sư Phụ thấy người xuất gia ở bên đó , không có chùa để ở , cho nên khi Sư Phụ có dư tiền , liền gởi đi cho họ cất chùa . Sư Phụ vốn rất phản đối cất chùa , quí vị thường nghe Sư Phụ nói , cất chùa cho lớn để làm gì ? Nhưng Sư Phụ vẫn gởi tiền cho họ cất chùa , vì lý do gì ? Là tại vì bên đó cần thiết , nghe hiểu không ? Không phải cất 1 ngôi chùa lớn cho người ta coi mà cần có 1 chốn cho người tu ở . Ở Đức , Phật Giáo không có phổ biến , cho nên ở bên đó Phật Giáo quan trọng hơn , đương nhiên vẫn còn ở cấp bậc A B C mà thôi.

Trong tâm của Sư Phụ rất cảm kích ân Tam Bảo , rất kính trọng Tam Bảo , vì nếu không có kinh điển , thì đã không có thầy của Sư Phụ , không có hóa thân của Phật , thì Sư Phụ không biết phải bắt đầu từ đâu để hiểu biết đạo lý ; cho nên Sư Phụ vẫn rất cảm kích Tam Bảo , rất tôn kính người xuất gia , bất cần họ tu hành bao nhiêu , họ vẫn đại diện cho 1 sinh hoạt rất đơn thuần , 1 lý tưởng rất cao cả. Phật Giáo , Thiên Chúa Giáo là 2 tôn giáo lớn trên thế giới , cho nên chúng ta cần nên tôn kính họ , vì nếu không có sự duy trì và dẫn đạo của 2 đại tôn giáo này thế giới này sẽ hỗn loạn , 2 tôn giáo này dạy cho con người ý thức đạo đức , lẽ dĩ nhiên rất có thể không có dạy người ngồi thiền , cũng không có dạy người cái pháp môn cứu cánh giải thoát , nhưng vẫn dạy người hành thiện , cho nên cái tình trạng thế giới này , có phần hòa bình , không đến nỗi quá loạn hoặc quá xấu , cho nên chúng ta cũng nên tôn kính họ và tôn kính Tam Bảo.

Lúc đi Po Ly thọ giới , Sư Phụ gặp 1 trong những vị truyền giới sư , Sư Phụ cũng đỉnh lễ vị đó. Sau khi đi về Đức , Sư Phụ cũng dạy những vị thầy lúc trước của mình ; truyền pháp cho họ , vì bấy giờ họ cũng thấy được rằng Sư Phụ khác với lúc trước ; họ cũng rất muốn học ; cho nên muốn Sư Phụ truyền pháp cho họ. Điều đó không biểu thị là Sư Phụ không tôn kính họ , và cũng không phải sau khi truyền pháp cho họ là Sư Phụ trở thành thầy của họ , hay là biến thành người rất kiêu ngạo. Hoàn toàn không có điều đó , cho đến ngày nay Sư Phụ vẫn tôn kính họ ; nếu họ cần những thứ gì , nếu có thể được là nhất định Sư Phụ sẽ gởi cho họ , khi quí vị đó muốn ; nếu không , cũng không thành vấn đề.

Ở Đức , không có nhiều tăng ni , cũng không có nhiều tượng Phật , cho nên Sư Phụ mua cho họ các loại tượng Phật lớn nhỏ , hay là những bức họa của các vị Bồ Tát , có lúc Sư Phụ cũng mua tràng hạt , tượng Phật gởi đi nước Đức , bởi vì ở Đức , Pháp không có những thứ này , nếu có , cũng rất khó mua được , nhưng ở Đài Loan tràng hạt mua rất dễ dàng , lẽ tất nhiên Sư Phụ không niệm , cũng không cần những món đồ đó , nhưng đó không phải là Sư Phụ phẩm định cái đẳng cấp của người khác. Nếu như họ muốn niệm , thì cứ để họ niệm , niệm Phật A Di Đà , cũng tốt hơn là niệm ma , có phải vậy không ? Niệm Phật tối thiểu sẽ ít nghĩ những việc bậy bạ , cho nên khi họ cần , Sư Phụ liền gởi tặng cho họ , không có những điều gì không tốt .

Nhưng quí vị là đệ tử của Sư Phụ , Sư Phụ thấy cái đẳng cấp của quí vị đã cao rồi , Sư Phụ không thể vẫn còn khuyên quí vị niệm những thứ này , vì đó là trò chơi của trẻ nhỏ , đã lớn rồi thì phải láy xe lớn , không nên tiếp tục chơi những chiếc xe đồ chơi . Nếu như còn bé quí vị ngậm núm vú , lớn rồi vẫn chưa sửa đổi , thì Sư Phụ đương nhiên là nên đánh quí vị , không đánh không được . Có rất nhiều trẻ thơ thích nút ngón tay , sau khi qua bốn năm tuổi , nếu vẫn còn tiếp tục nút ngón tay , thì cha mẹ có nên đánh những đứa bé này không ? Hay là dùng 1 thứ thuốc đắng và thoa trên đầu ngón tay đó , để cho trẻ nhỏ không dám nút nữa , điều này không phải cha mẹ không thích nó , hay giận nó . Cha mẹ đánh nó là vì không muốn cho nó nút ngón tay nữa , vì lớn rồi , rất khó coi .


:love3:

Nhím Hoàng Kim
05-27-2007, 08:32 AM
Cho nên , nếu như cấp bực của 1 người đã cao tuổi rồi thì nên học thành Phật , tại sao vẫn còn ở giai đoạn lạy Phật ? Có thể nhường cho những người khác đi lạy Phật , nhưng mà nếu như những người đó , họ thật sự thích lạy Phật , Sư Phụ vẫn mua tượng Phật cho họ cho nên Sư Phụ gởi nhiều tượng Quán Thế Âm Bồ Tát rất lớn , những bức họa , hình chụp và chú của Quan Thế Âm Bồ Tát cho họ .

Sư Phụ vốn không muốn nói những việc này vì bất cứ làm những điều gì đều không cần nói ra , vì không có gì đáng khoa trương nhưng vì muốn cho quí vị hiểu rõ cái dụng ý thật của Sư Phụ . Về sau nếu Sư Phụ nói đừng có lạy Phật , đừng có niệm Phật , đó là tại vì cái đẳng cấp của quí vị đã không phải dùng cái phương pháp căn bản này nữa , đẳng cấp đã khác , việc làm cũng không giống nhau . Thí dụ chúng ta đã học trung học , đó không phải là biểu hiện chúng ta không tôn kính thầy giáo ở bậc tiểu học , tại vì chúng ta đã thi đậu và hiện giờ bắt đầu học chương trình của trung học cho nên đừng có chấp vào cái tiểu học . Nhưng nếu chúng ta gặp thầy giáo ở trường tiểu học của chúng ta , có phải chúng ta đối với vị đó vẫn còn rất cung kính hay không ? Nhưng mà giả sử quí vị vẫn cứ đi học tiểu học thì quá uổng phí thời gian , thầy giáo ở trường trung học của quí vị rất có thể sẽ đánh quí vị , rủa quí vị , sẽ nói rằng quí vị sao mà dại đến thế , đến trường tiểu học để làm gì ? Có phải như vậy không ?

Lúc Sư Phụ đi Ấn Độ , khi tới Bồ Đề Đạo Tràng (chỗ Phật chứng ngộ) tham quan ; không phải đến đó cầu Phật Thích Ca Mâu Ni giúp đỡ hay là gia trì cho Sư Phụ mà đi đến đó là để biểu lộ cái tâm cảm kích và tôn kính Ngài . Ngày thường , quí vị có thể không thấy Sư Phụ lạy Phật Thích Ca Mâu Ni , nhưng Sư Phụ nói cho quí vị rõ , ta rất tôn kính Phật Thích Ca Mâu Ni và Chúa Giê Su ; 2 vị đó là những bậc Minh Sư vĩ đại nhất .

Từ xưa đến nay , chưa có 1 vị minh sư nào khác có cái lực lượng lớn như vậy , có thể ảnh hưởng đến biết bao nhiêu người , không có cái giáo lý của 1 minh sư nào có thể lưu truyền lâu như vậy , đã quá 2000 năm mà đối với cái thế giới này , đối với cá nhân chúng ta vẫn còn nhiều ảnh hưởng sâu xa , bởi vì cái năng lực của họ rất lớn rất cao . Phước báu của họ rất lớn cho nên tới bây giờ chúng ta vẫn tôn kính Phật Thích Ca Mâu Ni , vẫn còn biết và tôn kính Chúa Giê Su . Những bậc minh sư khác đến rồi đi , không ảnh hưởng nhiều lắm , chỉ có 2 vị đó là tối cao xuất danh nhất , năng lực tối đại , ảnh hưởng nhiều người nhất cho nên Sư Phụ rất tôn kính Phật Thích Ca Mâu Ni và Chúa Giê Su .

Quí vị đừng có cho rằng Sư Phụ không tôn kính Phật , quí vị sai rồi không phải Sư Phụ đỉnh lễ Phật mới là tôn kính Phật , tâm của Sư Phụ rất tôn kính , Sư Phụ còn tôn kính hơn quí vị nữa , tại vì tôn kính Phật mà không hiểu Phật là hủy báng Phật . Sư Phụ hiểu Phật cho nên Sư Phụ rất tôn kính Phật , có phải không ? Rất có thể quí vị tin Phật nhưng đều là mê tín .

Rất nhiều người đến trước tượng Chúa Giê Su , cầu Ngài giúp đỡ , 1 tượng như vậy mà làm sao giúp đỡ mình ? Hay là đi chùa cầu Phật A Di Đà , Phật Thích Ca Mâu Ni giúp đỡ mình , các Ngài làm sao giúp đỡ mình ? Như vậy là không phải tôn kính các Ngài , mà là lợi dụng các Ngài , mua trái cây cúng dường các Ngài , hối lộ các Ngài , cầu các Ngài gia hộ , bảo hộ gia đình bình an , cho con mình thi đậu , cho con gái mình lấy chồng tốt , cho sự nghiệp của chồng mình được thành công ... đó là hối lộ Phật , hối lộ Chúa Giê Su , chứ không phải tôn kính các Ngài , như vậy là hoàn toàn không hiểu các Ngài , cho nên quí vị đừng có tự mình tìm lý do , làm như vậy là không phải tin Phật , cũng không phải là tin Chúa Giê Su .

Mới đây Sư Phụ đã có nghĩ và nói đến , các Ngài phải cực khổ như vậy để độ chúng sinh , vì độ chúng sinh phải chịu nhiều cực khổ như thế , nghĩ đến đó Sư Phụ còn cảm động đến chảy nướn mắt , cho nên không nên không tôn kính Phật , không nên không cảm tạ Chúa Giê Su . Lúc Sư Phụ còn nhỏ đã học qua 2 thứ tôn giáo , tại vì Sư Phụ đọc rất nhiều Kinh Phật , còn coi Kinh Đạo Đức , Thánh Kinh nữa . Lúc còn nhỏ đã coi rồi , còn song thân của Sư Phụ không biết vì lý do nào đã trở thành tín đồ của Thiên Chúa Giáo , nhưng bà nội của Sư Phụ là tín đồ Phật Giáo cho nên Sư Phụ bị ảnh hưởng của các người đó ; tối đi giáo đường , ngày chủ nhật cũng đi giáo đường lễ bái Chúa Giê Sư , ăn bánh Thánh ; khi về nhà lại theo bà nội niệm Phật , lạy Phật , ăn chay , rất thích thú , trẻ thơ không biết chuyện , cảm thấy cái gì cũng tốt , cho nên khi Sư Phụ trưởng thành vẫn còn bị ảnh hưởng của họ .

Ở Việt Nam , Sư Phụ ở gần chùa , cho nên thường lấy kinh về nhà niệm , Kinh kim Cang , Kinh A Di Đà , Kinh Phổ Môn ... Sư Phụ đều niệm hết . Sau này đi Âu Châu , vì không có chùa , không có Phật Giáo , cho nên đi nhà thờ lễ bái Chúa Giê Su , nghe họ giảng kinh , hát chung với họ , hát tiếng Đức hay tiếng Anh cũng không sao , đối với Sư Phụ tất cả đều là tốt , về nhà thì đi lạy Quán Thế Âm Bồ Tát , Sư Phụ có đem theo 1 tượng của Ngài từ Việt Nam qua , an vị tại chỗ ở , ngày ngày lễ bái Quan Thế Âm Bồ Tát , niệm kinh sáng , kinh tối . Đi ra ngoài thì nói chuyện với tín đồ Ki Tô , nghe họ nói kinh , cho nên cả 2 tôn giáo đều hiểu ; Sư Phụ nghĩ rằng đời sống của mình rất hạnh phúc , có Phật Thích Ca Mâu Ni và Chúa Giê Su chiếu cố , bất luận mình rớt vào bên nào , bên đó có người đến tiếp cứu (đại chúng cười) , nếu như Sư Phụ chỉ tin Phật Thích Ca Mâu Ni , rất có thể sẽ quên mất Chúa Giê Su , Chúa Giê Su sẽ không chiếu cố mình thì làm sao ? (đại chúng cười) cho nên Sư Phụ thấy mình rất có phước , lúc nhỏ đã tin 2 vị minh sư vĩ đại này rồi .

Hôm qua thiền tam (ba ngày bế quan) mới kết thúc nhưng Sư Phụ chỉ cảm thấy còn chưa đủ cực khổ . Trước kia Sư Phụ cũng nói cho quí vị nghe Sư Phụ độ cho những người thiền tam chưa đủ tốt . Thật vậy , Sư Phụ nói những lời này đều là xuất phát từ nội tâm , không có gian dối , vì người mà cực khổ là Phật Thích Ca Mâu Ni và Chúa Giê Su , các Ngài mới là minh sư vĩ đại , khi độ chúng sinh hoàn toàn quên mình . Phật Thích Ca Mâu Ni mỗi ngày chỉ ăn 1 buổi , ngày ngày cuốc bộ đi độ chúng sinh , đi bưng bình bát để cầu thực , cũng không 1 lời than van , oán trách .

Chúa Giê Su gánh nghiệp chướng cho chúng sinh , cho nên bị chúng sinh đóng đinh trên cây Thánh giá , vì nghiệp chướng chúng sinh lúc ấy quá nhiều , quá sâu nặng , cho nên Ngài phải dùng thứ hình phạt đau khổ nhất để rửa nghiệp chướng cho chúng sinh , đó là truyện có thực , không phải cổ tích . Thật vậy , Chúa Giê Su vì gánh nghiệp chướng cho chúng sinh mới bị đóng đinh cho đến chết , nếu không Ngài là 1 vị đại tu hành sẽ không phải chịu thứ hình phạt đau khổ đó . Ngài có thể tùy lúc dùng thần thông lìa khỏi xác , Ngài có thể biến thành vô hình tướng , có thể ẩn hình , có thể bay lìa hình tướng , không để người ta bắt được . Nhưng vì Ngài muốn để cho người ta bắt , vì Ngài muốn gánh nghiệp chướng của chúng sinh , gánh nghiệp chướng của đồ đệ Ngài , Sư Phụ không có nói gạt quí vị , những điều này đều là sự thật .

Cho nên lúc quí vị nói Sư Phụ cực khổ , Sư Phụ cảm thấy rất xấu hổ , Sư Phụ không có cực khổ như các Ngài . Sư Phụ có chỗ ở quá tốt , quí vị cho Sư Phụ mặc những y phục quá đẹp . Sư Phụ có thể mua xe cũ để đi các nơi giảng kinh , cho nên không thể nói Sư Phụ rất cực khổ . Nhưng mà Sư Phụ xin lỗi , vì có lúc thân mình không được khỏe , không thể kiềm chế nó , muốn nó đừng có nhức đầu , đừng có đau , nó lại nhức đầu , lại đau . Có lúc cần nhiều tâm sức để chỉ dạy quí vị nhưng lại cứ mệt mỏi , cái thân thể này thật là phiền phức , cho nên Sư Phụ nói với quí vị , Sư Phụ rất xấu hổ , Sư Phụ đối với quí vị không đủ tốt là lý do đó .

Vì sao với Phật Thích Ca Mâu Ni và Chúa Giê Su , Sư Phụ thật không đáng gì ? Quí vị nói Sư Phụ rất cực khổ nhưng Sư Phụ có cảm giác là mình không cực khổ , Sư Phụ chỉ nghĩ Chúa Giê Su và Phật khổ cực như thế, Sư Phụ rất cảm động và cũng rất xám hối , cảm thấy tự mình không đáng làm đệ tử của các Ngài nhưng Sư Phụ sẽ tận sức mình , làm được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu .

Phật Thích Ca Mâu Ni có thể bỏ ngôi vua , hoàn toàn không lo sự hưởng thụ của cá nhân , sống 1 đời tu khổ cực , tu hành khổ cực như thế , độ chúng sinh khổ cực như thế . Chúa Giê Su vốn đã sống khổ cực rồi , Ngài sống 1 đời rất khắc khổ , 1 ngày kia có 1 người đến cúng dường Ngài 1 ít dầu để thoa chân của Ngài nhưng Ngài cũng bị đệ tử trách . Cho nên Sư Phụ nghĩ rằng các Ngài thật quá khổ cực rồi (Sư Phụ cảm đông đến rơi lệ) , người chúng ta quá xấu , không đáng được các Ngài tha thứ , không đáng tiếp thụ tình thương khoan dung như thế , lòng từ bi quản đại như thế .

Giờ thuyết pháp đã hết , thành thật cáo lỗi . Bây giờ chúng ta hồi hướng . (Sư Phụ cùng đại chúng hát : Nguyện dĩ thử công đức , hồi hướng chư chúng sinh , giải thoát tam giới khổ , giai phát Bồ Đề Tâm .)

:grin4:

Nhím Hoàng Kim
05-28-2007, 08:31 AM
Chân Lý , Giả Lý

Ngày 20-10-1989
Taipei


Muốn hoằng pháp là phải nhờ vào cái thể xác , nhờ vào phương tiện duy chuyển , rồi sau đó mong đợi đệ tử đến nghe kinh . Khi Phật tử nô nức đến nghe thuyết pháp chẳng may xe hư , hoặc bất ngờ người láy xe vì 1 lý do gì đó không đến được , nhưng Phật tử cũng cố gắng tề tựu đến đông đủ thì Sư Phụ lại bị bệnh , thì hoằng pháp khó thành . Nhưng có bao giờ quí vị nghe Sư Phụ bị bệnh mà bỏ buổi thuyết pháp nào không ? Thưa quí vị , chưa bao giờ , vì sự thật có nhiều lúc Sư Phụ rất mệt mỏi , nhưng Sư Phụ đã hy sinh tất cả quyền lợi cá nhân mà vẫn vui vẻ , ôn hòa ra giữa đại chúng để thuyết pháp , quí vị không biết đó thôi ...

Hoằng pháp trên thế giới này không phải là điều đơn giản , vì tất cả mọi vật chất ở thế giới này đều do nghiệp chướng mà ra .

Vật chất là gì ? Là thể xác , ăn , uống , quần áo ... đều đến từ lực lượng của Ma Vương , nhưng vì chúng ta muốn hoằng pháp , cho nên muốn có vật chất là phải phấn đấu với công việc , không phải là điều đơn giản . Vậy pháp là gì ? Nó là 1 thứ mà ta không thể sờ được , muốn nói cho rõ cũng không dễ dàng , cùng lắm chỉ nói được 1 chút , đúng ra chân lý vốn phải dùng miệng để mà nói , không thể dùng ngôn ngữ để biểu thị , cho nên dùng cái thân thể này thuyết pháp , hay là lợi dụng cái vật chất đi hoằng pháp , cũng không đơn giản , tại vì vật chất đã quá thô và tầm thường rồi , nó đều không thuộc về cái tầng thứ của trí huệ , nếu như chúng ta muốn dùng cái vật chất không có trí huệ này , để nói rõ cái tình trạng của 1 thứ đại trí huệ , điều đó thật khó vô cùng .

Thứ nhất : Tại vì dùng 1 thứ tài liệu giới hạn để miêu tả 1 thứ đại trí huệ vô biên là 1 điều rất khó khăn . Thứ 2 : Người nghe cũng chỉ có thể dùng cái công cụ vật chất để nghe , để lãnh hội 1 cái giáo lý cao siêu bất khả tư nghì , 1 thứ đại trí huệ , điều đó cũng không đơn giản . Hai bên đều không đơn giản , Sư Phụ nói không đơn giản , quí vị nghe cũng không đơn giản cho nên muốn thông hiểu chân lý , không phải dễ dàng .

Nếu muốn hiểu biết chân lý nên dùng cái Phật tánh của mình để mà giác ngộ . Muốn truyền chân lý , cũng phải dùng tâm truyền tâm , không thể dùng ngôn ngữ mà truyền được . Ca hát , bái Phật , hay là giảng kinh , đều chỉ là giai đoạn sơ cấp A B C mà thôi . Quí vị nghe A B C trước , sau đó sinh ra hiếu kỳ , muốn được hiểu thêm 1 chút , muốn nâng cao đẳng cấp của mình , nếu hằng ngày chỉ niệm A B C thì thật là nhàm chán . Nếu như hiểu được điều này thì nên cầu thầy "truyền tâm ấn" , đây mới là pháp môn của chúng ta .

Nói đúng ra pháp môn cũng không là gì nhưng mà truyền tâm ấn mới là sự quan trọng , tại vì truyền tâm ấn là dùng "tâm truyền tâm" , tâm là ý thức , dùng tâm để truyền pháp , truyền pháp không phải là nói , Sư Phụ giảng đạo lý cho quí vị nghe , quí vị nên làm cách này , cách kia , như vậy vẫn chỉ thuộc về từng ngoại biểu mà thôi .

Lúc truyền tâm ấn , Sư Phụ dạy quí vị những việc gì "không nên làm" thì "đừng nên làm" . Sư Phụ sẽ dạy quí vị đừng cần cái này , đừng cần cái kia , cái gì cũng không cần , rồi sau đó mới có thể tìm được cái Phật Tâm của chúng ta , nghe như vậy có phải là mâu thuẩn hay không ? Không phải , đúng ra tại vì chúng ta muốn tìm Phật Tâm , đều hướng bên ngoài mà tìm những thứ ngoại biểu ; cho nên khi quí vị tìm đến với Sư Phụ , Sư Phụ không muốn quí vị chấp chứa tìm cầu ở bên ngoài , cho nên dạy quí vị không cần cái này , cũng không cần cái kia , nhưng "không cần" vẫn chưa phải là pháp môn , nếu như chúng ta thật xã bỏ được 1 chút cái ngã , thì trong 1 tích tắc , chúng ta cũng có thể có thể nghiệm "khai ngộ"

Truyền tâm ấn là việc đơn giản nhưng mà cũng không đơn giản , đơn giản là bởi gì lúc truyền tâm ấn , tức khắc có thể khai ngộ , nhưng cũng cần có 1 người có thể truyền tâm ấn , tìm được thứ người đó , không phải là chuyện dễ dàng , không phải nói rằng truyền tâm ấn là việc phiền phức , cũng không phải nói khai ngộ là điều khó khăn , hay không phải là 1 điều không thể mong ước được . Giải thoát không khó , khai ngộ cũng không khó như ta tưởng tượng nhưng kiếm được 1 người có thể giúp đỡ cho chúng ta được khai ngộ mới chính là 1 việc không dễ dàng .

Truyền tâm ấn có thể truyền cho rất nhiều người , cũng có thể truyền cho 1 người , cái này đều do vị sư truyền tâm ấn đó quyết định . Cho nên các vị thiền sư hồi xưa , có người chỉ có vài đệ tử mà thôi . Lão Tử không có ai biết đến , Bồ Đề Đạt Ma có 5 người đệ tử , Huệ Năng có nhiều hơn 1 chút , Phật thích Ca Mâu ni rất có thể có thêm nhiều hơn , Chúa Giê Su chỉ có 12 vị đại đệ tử , rất có thể Ngài cũng có truyền pháp cho nhiều người khác nữa nhưng chỉ có 12 vị đó là khai ngộ nhất .

Các vị có thể tự hỏi mình , sau khi truyền tâm ấn thì đều là người khai ngộ , vì sao có người ngộ được nhiều ? Có người ngộ được ít ? Có người có thể tiếp tục truyền pháp dùm cho Sư Phụ của họ , có người không thể làm được ? Cái này đều có liên quan đến việc tu hành . Sau khi truyền tam ấn , không phải nói là lập tức có thể hoàn toàn thành Phật ; thành Phật không có sai , lúc chưa có truyền tâm ấn , vốn đã là Phật rồi , không phải đợi đến truyền tâm ấn rồi mới thành Phật , nhưng bởi vì chúng ta tự không biết được , không nhận thức được chúng ta là Phật , cho nên cần phải truyền tâm ấn . Sau khi truyền tâm ấn cũng chưa có chắc lập tức có nhiều thể nghiệm , chỉ có thể khai ngộ 1 chút , có người khai ngộ nhiều , có người khai ngộ ít nhưng vẫn cần tiếp tục tu hành . Tu càng nhiều , càng nhận thức được cái cá tính của chúng ta , càng biết được cái địa vị của chúng ta .

:nhim:

Nhím Hoàng Kim
05-29-2007, 04:39 PM
Ví dụ như có 1 vị hoàn tử , từ nhỏ lìa khỏi hoàn cung , sau này được 1 người ăn mày đem về nhà nuôi dưỡng đến lớn nhưng vị đó không biết được mình là hoàng tử , vẫn cứ ngày ngày đi ăn xin , vua cha mỗi ngày đều nhớ đến hoàng tử cho người đi tìm , hy vọng vị hoàng tử đó có đặc tướng nào , có thể nhòa đó mà nhận ra . Có 1 ngày , người đi tìm gặp được hoàng tử , lúc ấy hoàng tử trong kiếp ăn mày , vị đó bảo rằng :" Ngươi vốn không phải là người ăn xin , ngươi nên nghe theo lời ta , để ta đem ngươi về làm 1 vị vua trong tương lai ." Vị hoàng tử đó vì sinh sống tại nhà của người ăn mày , đã quen cái sinh hoạt ăn sinh , không thể nào lập tức tin lời của vị quan này , cho nên vị quan này cứ nói không ngừng , hằng ngày đều đến nói :" Ta bảo tướng ngươi là 1 vị hoàng tử nếu như ngươi muốn chứng minh , ta cũng có thể chứng minh cho ngươi xem , chỉ cần ngươi chịu đến , ta có thể lập tức cho ngươi mặc y phục của hoàng tử , nếu ngươi chịu cởi ngựa , ta cũng lập tức đưa ngựa cho ngươi , tuyệt đối không thành vấn đề ."

Nhưng vị hoàng tử đã có ấn tượng mình là 1 ngươi ăn xin nên không đủ can đảm nhìn nhận mình là hoàng tử , luôn luôn trả lời :" Ta không dám !" Nhưng vị quan này vẫn kiên nhẫn nói :" Trong hoàng cung có trân châu , gấm vóc , có cung điện nguy nga , tất cả những thứ đó đều là của ngươi " nhưng vị hoàng tử đó vẫn không thể nào chấp nhận được những điều ngoài dự tưởng của mình .

Người có nhiệm vụ tìm kiếm hoàng tử này không thể biến vị đó thành hoàng tử vì người đó vốn đã là hoàng tử rồi . Nói mãi cho đến 1 ngày người ăn mày khởi tin , nói :" Được rồi , tôi để cho ông lo đời sống của tôi , chiếu cố vận mạng của tôi , thử coi đó là sự thật hay là giả ?" Vị đó mặc y phục hoàng tử , rồi sau đó lên cỡi ngựa , có nhiều người bộ hạ khác lập tức tới đĩnh lễ người đó , lúc đó vị đó tin hơn 1 chút nhưng vẫn chưa tin hoàng toàn , vị quan đó vẫn còn phân vân tự hỏi làm cách nào mới có thể đem hoàng tử về cung ? Sau khi về cung rồi , còn phải huấn luyện rất lâu để cho vị hoàng tử ăn xin này quen với đời sống trong cung , quen với lễ nghi cung cách và có thái độ quí phái . Vị đó vốn sống 1 cuộc đời ăn mày thấp hèn , không dám ngước đầu nhìn người , bây giờ làm 1 vị hoàng tử , hoàn toàn khác hẳn với lúc trước cho nên phải huấn luyện rất nhiều , từ cung cách cho đến trí huệ .

Cùng 1 ý , chúng ta vốn đã thành Phật rồi nhưng đời đời kiếp kiếp bị lực lượng của Ma Vương kiềm chế , đau khổ rất nhiều , phiền não rất nhiều , nghiệp chướng rất nhiều , không rời được , trong đời sống tràn đầy khó khăn . Có thể là hôm nay rất tốt , ngày mai lại có rắc rối , hôm sau tốt 1 chút , rồi qua ngày kế lại có những vấn đề khó khăn khác , mỗi 1 lần đều gặp rất nhiều đau khổ , không biết vì sao ? Ăn cũng không ăn được bao nhiêu , mỗi ngày nhiều lắm cũng ăn ba bốn chén cơm , y phục tối đa cũng chỉ mặc hai ba bộ nhưng làm việc lại rất nhiều , cặm cụi suốt ngày , sáng đến tối cũng làm không hết , thời gian vẫn cứ không đủ , tự mình không biết vì sao phải khổ như vậy .

Cho nên nếu có 1 vị đại sư hoặc là hóa thân Bồ Tát đến thế giới này là tại vì Bồ Tát thấy chúng ta đau khổ , chúng ta vốn là bạn của vị Bồ Tát cho nên vị đó đến cứu chúng ta nhưng trong 1 lúc vị đó cũng không có cách nào để cho chúng ta hoàn toàn hiểu rõ và minh bạch cái Phật tính cao quí của chúng ta cho nên phải nói rất nhiều lời cổ võ :" Mình đúng ra rất cao quí , mình là Phật ." Nói tiếp mấy ngày , mấy tháng , rất có thể nghe được 1 chút ít , rồi vị Bồ Tát lại nhẫn nại bảo chúng ta rằng , tốt lắm , lại đây , ta dạy cho các ngươi 1 cái phương pháp để nhận biết được Phật Tánh của mình , nhận thức mình đúng ra là Phật , là Bồ Tát , mình sẽ thấy được "Bản Lai Diện Mục" của mình là gì . Dần dần , chúng ta tin được nhiều hơn 1 chút , có thể chịu truyền tâm ấn , sau khi truyền tâm ấn , mình mới có thể nhận thức được tự mình 1 chút nhưng vị Bồ Tát vẫn phải cần ngày ngày cổ võ mình , nói cho mình nhiều 1 chút , để mình có thể tự nhận thức nhiều hơn cái bản chất cao quí của mình .

Cũng như vị hoàn tử kia nếu như muốn về nhà , con đường từ đây đến hoàng cung rất xa , rất có thể vị hoàng tử chỉ đến nửa đường , lại nói ta không tin , ta không dám đi gặp quốc vương , làm sao có thể được ? Ta vốn là 1 người ăn mày , ta làm ăn mày mấy chục năm rồi , làm sao 1 lúc có thể biến thành hoàng tử được . Vị hoàng tử rất có thể không tiếp tục đi nữa , muốn lui trở về , sống trở lại cuộc đời ăn xin , rất có thể trong hai , ba mươi năm qua bị mọi người ngày ngày áp bức , ăn xin hôi hám , không có bạn bè , không có người lo đến , không có người thích vị đó cho nên vị đó làm sao dám đi đến hoàng cung ? Không thể nào "vị hoàng tử ăn mày" đó , 1 sớm 1 chiều có thể trở thành 1 người cao quí , là lập tức cải biến quan niệm đã ăn sâu trong óc não của "vị hoàng tử ăn mày" . quí vị có thể tưởng tượng được không , 1 người ăn xin lại biến thành quốc vương ? Đó không phải là 1 điều dễ dàng .

Nhím Hoàng Kim
05-29-2007, 04:40 PM
Cho nên từ xưa đến nay , 1 vị đại sư muốn ra để dạy người hoặc độ chúng sanh không phải dễ , các Ngài phải chiến đấu với tập quán của chúng ta , tranh luận , đấu tranh với cái quan niệm đầy chấp nhứt của chúng ta . Không phải mỗi 1 lần 1 vị đại sư nhập thế , chúng sinh đều chạy đến nghe , có người dù cho đã nghe rồi , vẫn không tin , về nhà lại còn phỉ báng , hay là không muốn nghe , họ cứ tự tin cái quan niệm của mình . Cũng như ở đời xưa , họ không tin lời nói chân lý của vị đại sư , ngược lại , lại đi sùng bái thần lửa , mặt trời , thần gió , ảnh tượng ... đó là sự sùng bái của thời xưa . Bởi vì sau khi chúng ta mất đi cái bản lai diện mục của chúng ta , chúng ta lúc nào cũng sẽ lo sợ phập phồng , vì cái lực lượng bảo hộ đoạn mất rồi , chúng ta cảm thấy rất cô đơn bị đe dọa , thấy cái gì cũng rất sợ . Mặt trời làm sao nóng như thế ? Vì sao đồ bị cháy mất ? Vì sao núi cao như thế ? Biển sâu như thế ? Không thấy bờ bến ? Làm sao gió mạnh như thế ? Có thể tàn phá bất cứ vật gì , đến nổi cây lớn cũng bị bất gốc , nhà cửa có thể bị thổi xiêu ngã ? Vì sao chúng ta sợ gió , sợ nước , sợ lửa , sợ mặt trời , sợ ảnh tượng ? ... cho nên đối với 1 số hiện tượng thiên nhiên , vì chúng ta lo sợ nên mới khởi ra việc sùng bái mê tín .

Vì khi thoát lìa cái bản lai diện mục , cái đại lực lượng này rồi , chúng ta sẽ biến thành rất sợ hãi , rất cô đơn , cũng như 1 đứa nhỏ bị lạc đường không kiếm được nhà , mất quan hệ với cha mẹ anh chị em , 1 mình sẽ rất sợ cho nên biến thành rất mê tín . Những thứ mê tín như lạy quỷ , lạy thần , lạy cây , lạy đá ... từ xưa đến nay đều như nhau . Cho nên khi 1 vị đại sư nhập thế , phải đấu tranh với các quan niệm mê tín đó rất dữ , trải qua 1 thời gian sau , mới cải biến được 1 chút , nhưng đối với những người phỉ báng hoặc mê tín , thì không thể cải biến dễ dàng được , nhưng mà cũng phải độ những người này , còn đối với những người có lòng tin thì đơn giản hơn .

Muốn cải biến cái quan niệm mê tín , không phải dùng súng ống để giết giặc , nhưng cũng phải đánh giặc , đánh giặc tư tưởng còn đáng sợ hơn đánh giặc thật , còn phiền phức hơn nhiều . Cho nên chúng ta thường nói , chúng sinh khó độ , không phải chúng sinh khó độ mà là phiền não khó độ . Tại vì đầu óc này vốn không phải của mình , chúng ta làm những việc của thế gian , nó sẽ phối hợp rất tốt , nhưng nếu muốn được giải thoát khỏi thế gian , nó sẽ biến thành chướng ngại của chúng ta , nó sẽ phản đối , không để cho mình tự do , nó sẽ hỏi :" mình giải thoát cái gì ? Ở đây cuộc sống rất tốt , có thức ăn , có áo mặc , có chồng có vợ , mình ngồi thiền để làm chi ? Mình muốn giải thoát để đi đâu ? Cái thế giới này tốt đẹp nhất , không biết ở nơi khác còn có những cảnh giới này không ? Có Thiên Đàng thật không ? Hay là chẳng có gì cả ? Vị Sư Phụ này có phỉnh gạt mình không ?" Đầu óc sẽ hoài nghi như vậy , như vậy ...

Cho nên thiền sư đời xưa , hay là pháp sư nổi danh sẽ cho đệ tử rất nhiều thử thách . Vì sao phải thử thách ? Tại vì muốn cho đầu óc của đệ tử quên đi , trước tiên phải rửa sạch cái tập quán cũ , sau đó mới có thể cải thiện tư tưởng mới . Cũng như cái tình trạng ở trung tâm tịnh tọa ở trên núi của chúng ta , trước khi chúng ta lên núi chỗ đó không có người ở , cỏ rất cao , không có đường đi , mỗi nơi đều có có dại , cho nên chúng ta muốn lên đó , trước nhất phải cắt cỏ , xong rồi nó vẫn tiếp tục mọc ra vì nó còn rễ , về sau chúng ta từ từ nhổ đi 1 chút vì cỏ mọc quá cao , không thể hoàn toàn chặt hết , phải đợi đến lúc cỏ dại ngắn rồi , chúng mới dùng cuốc , cuốc đi gốc của nó . Bây giờ không còn cỏ dại , chúng ta chuẩn bị vài miếng đất sạch , bón phân rồi mới rải lên 1 mớ cải giống , bấy giờ cải đã mọc rồi , mới ăn được .

Cho nên muốn truyền cái tư tưởng mới nào hay là chân lý nào , trước tiên cũng nên phải diệt trừ đi cái giả lý , tại vì chân lý và giả lý không thể song song tồn tại được . Thì cũng giống như chúng ta trồng rau cải không thể trồng chung với cỏ dại , cỏ nhiều quá đi vào còn chưa được , làm sao trồng cải được ? Trồng cải rồi , hằng ngày còn phải chăm sóc , sợ có sâu , có cỏ . Cỏ không trồng mà từ đất mọc lên , cỏ cũng không từ trên trời rơi xuống , nó không biết từ đâu bị gió thổi tới rơi trên vườn cải , nếu 2 ngày không chăm sóc thì cỏ dại đã mọc cao lên .

Nhím Hoàng Kim
05-30-2007, 04:49 PM
Cho nên truyền tâm ấn rồi , cũng cần phải tiếp tục tu hành , vẫn cần ngày ngày nghe Sư Phụ giảng kinh , dù không cần phải ngày ngày nghe kinh , mỗi tuần ít nhất phải nghe 2 hoặc 3 lần , hoặc thiền tam , thiền bảy (ba ngày đến bảy ngày bế quan) , điều đó rất cần thiết , nếu không thì đệ tử sẽ dần dần quen mất tự tâm .

Vì lực lượng mê hoặc của xã hội này rất to lớn , trên thế giới này lực lượng của ma vương rất là lớn vì đây là thế giới của Ma Vương , là lãnh thổ của Ma Vương , bởi vì Phật Bồ Tát từ cảnh giới cao xuống đây , là xâm nhập vào lãnh thổ của chúng nó , bởi thế cho nên chúng nó không hoan nghênh . Bởi vì Phật Bồ tát xuống thế là giải thoát đồ đệ của nó để biến thành người cao quí , họ vốn là nô lệ của Ma Vương , bây giờ biến thành 1 địa vị cao hơn nó và sau này không còn trở lại thế giới này chịu khổ , làm như vậy tức là mất đi hết 1 cái linh hồn , thêm 1 người giải thoát , là ít đi 1 chúng sinh trong Tam Giới này cho nên Ma Vương nó không thể nào hoan nghinh được .

Quí vị coi , từ xưa đến nay , mỗi vị đại sư chân chính đến thế gian độ người đều gặp rất nhiều khó khăn , không cách nào độ hết chúng sinh , nếu có độ cũng chỉ được 1 số ít người và phải chịu rất nhiều thị phi .

Đệ tử của Thần Tú là tín đồ Phật Giáo và cũng là người xuất gia nhưng mà vẫn còn phỉ báng , gia hại Đại sư Huệ Năng như thế . Phật Thích Ca Mâu Ni khi ra độ chúng sinh cũng bị rất nhiều người phỉ báng ; có người đã giả mang thai , đổ tội cho Phật Thích Ca Mâu Ni ; có người muốn giết Ngài ; có người nói Ngài là "ngoại đạo" , "nội đạo" ... Chúa Giê Su ra đời độ người không có mấy năm cũng bị đóng đinh . Ở Vệ Quốc , Khổng tử cũng bị người ở đó chùi đi dấu chân của Ngài . Còn Lão tử thì không có ai tin . Nếu có , cũng rất là ít mà bây giờ Lão tử còn nổi danh hơn 2000 năm về trước , sau khi Ngài chết rồi mới nổi danh .

Vì sao thầy ở thời cổ mà bây giờ lại nổi danh hơn thầy thời nay ? Là tại vì sau khi mỗi vị thầy lìa trần , Ma Vương lập tức lợi dụng tên của vị đó để làm việc , biến chân lý của vị đó thành ma lý , chúng ta đều biết rằng 1 vị đại sư đến thế giới này chỉ nói chân lý , trí huệ mà thôi nhưng sau này dần dần biến thành mê tín .

Ví dụ như Lão tử , Ngài vốn không có dạy người cúng , lạy bái Ngài hay cúng dường Ngài vật gì hoặc là sát sinh cúng dường Ngài ; Ngài cũng không có nói làm vậy Ngài sẽ gia trì cho số người nào , cũng không có nói sau khi Ngài mất rồi nên cúng dường Ngài . Kinh Đạo Đức chỉ dạy người nên tìm cái "Đạo" này , kết hợp với cái "Đạo" kia , ở chung với cái "Đạo" nọ . Có nghĩa là chúng ta tìm được chân lý , đó chỉ là cái chủ ý trong Kinh Đạo Đức , là 1 chân lý rất cao , 1 tư tưởng rất cao siêu .

Nhưng mà chúng ta nhìn thấy đạo ngày nay biến thành như thế nào , quí vị có biết không ? Mỗi ngôi chùa của Đạo Giáo , họ giết heo , giết bò , giết gà ... để cúng dường ai ? Sư Phụ không biết được , Lão tử đã sợ đến chạy mất rồi , Ngài vốn là 1 vị đại sư làm sao mà muốn ăn nhiều thịt như thế ? Khổng Môn cũng vậy , vốn muốn đào tạo con người trở thành người có học vấn và có đạo đức nhưng ngày nay mỗi Khổng miếu đều dùng động vật để tế bái , cúng phụng rất nhiều thịt cá .

Phật Giáo ngày nay cũng không khác xa lắm , mỗi 1 nước đều biến thành tiểu thừa Phật Giáo , có nhiều nước người xuất gia đều ăn thịt , số người lập gia đình cũng không ít . Trong thời mạt pháp , truyền bậy bạ thế nào cũng được . Phật Giáo truyền đến Tây Tạng để độ dân ở đó , chưa độ họ xong thì đã bị họ "độ" rồi , về sau biến thành Lạt Ma Giáo , ăn thịt , uống rượu cũng được , kết hôn cũng được .

Trung Hoa Lục Địa là 1 nước có mấy ngàn năm văn hoá , đạo đức rất cao , khi Phật Giáo truyền đến Trung Hoa , kết quả rất tốt đẹp , tuy nhiên cũng có những thời điểm khó khăn nhưng mà Phật Giáo cũng đã từng sáng lạng , huy hoàng 1 thời . Nhưng khi Đại Lục mất vào tay Cộng Sãn , Phật Giáo gần như bị diệt pháp . Hiện nay chỉ còn có Đài Loan vẫn duy trì cái truyền thống chân chính của Phật Giáo , sau khi xuất gia không được kết hôn , không được ăn thịt , không được uống rượu . Sư Phụ nghĩ rằng nếu luôn cả Đài Loan cũng không giữ được cái truyền thống ấy thì Sư Phụ không biết còn có chỗ nào bảo toàn được cái truyền thống chân chính của Phật Giáo .


:kiss4:

Nhím Hoàng Kim
05-31-2007, 04:03 PM
Nhưng Phật Giáo ở Đài Loan cũng không phải là Phật Giáo chân chính vì vậy Phật giáo kết hợp với Lão Giáo . Phật Giáo trước kia tại Ấn độ không có cái thứ mà bây giờ gọi là niệm kinh sáng kinh chiều . Nhưng hiện tại mỗi nơi đều phải có kinh sáng , kinh chiều . Niệm Phật vốn đã đủ rồi sao còn phải niệm nhiều thứ khác nhau . Vậy cũng không phải là sai nhưng kinh nhật tụng sáng và chiều vốn chỉ dành riêng cho người xuất gia tu hành thanh niệm mà thôi .

Ở Việt Nam , từ trước đến nay , người tại gia đều không được niệm Chú Lăng Nghiêm , Chú Chuẩn Đề hoặc những chú khác đều tuyệt đối không được niệm . Lúc Sư Phụ chưa xuất gia , đã ăn chay rồi , đã tu hành rồi , ngày ngày niệm Phật , lạy Phật , đọc kinh nhưng thầy của Sư Phụ vẫn không cho Sư Phụ niệm Chú Lăng Nghiêm và cũng không cho Sư Phụ tụng kinh sáng kinh chiều . Sau cùng , Ngài mới chịu để Sư Phụ tụng kinh sáng và nói với Sư Phụ , lý do thứ nhất là tại vì :" Người tại gia có sự quan hệ của vợ chồng , lý do thứ 2 là bầu không khí ở nhà khác với ở chùa ." Cho nên chúng ta niệm chú không có linh ứng mà còn có khi sinh ra những phản ứng bất lợi vì chúng ta không đủ trong sạch , niệm chú không có linh ứng , còn làm cho tà ma lại khuấy nhiễu thêm .

Ngày nay có điều hơi hỗn loạn , có người tự mình đi mua 1 tượng Phật , tượng Thích Ca Mâu Ni hay là tượng Phật khác . Sau khi mang về nhà , mỗi ngày lễ lạy , cùng tụng kinh sáng kinh chiều , để rồi làm nước bùa cho chúng sanh uống . Thứ nhất : họ không nên uống . Thứ 2 : nếu như họ uống 1 lần thì không có gì nhưng về sau ngày nào cũng đến uống , như vậy sẽ dẫn đến càng lúc càng nhiều ma quỉ đến chỗ của chúng ta , tạo nên âm khí nặng nề , chúng ta không đủ lực lượng để kiềm chế nó cho nên có người niệm xong rồi tinh thần không an và mắc bệnh thần kinh .

Sư Phụ biết có rất nhiều trường hợp như vậy , có người đến tìm Sư Phụ , có lúc Sư Phụ cũng giúp đỡ , có khi Sư Phụ không muốn lo tới bởi vì trường hợp quá nghiêm trọng , Sư Phụ không có thời giờ . Thứ người mà tự mình xen vào chuyện của người ta , tự mình muốn làm Đại Bồ Tát đi cứu người thì để tự mình cứu mình được rồi . Sư Phụ không muốn lo thứ chuyện đó , quá phiền phức , muốn cứu thứ người đó phải tốn lực lượng và thời giờ của Sư Phụ quá nhiều ; tốt nhất là Sư Phụ để dành cái lực lượng này để cứu thêm nhiều người thường , để cho họ sớm được giải thoát . Nếu vì cứu 1 người mà phải bỏ rơi 100 người , làm như vậy rất uổng phí công sức và không công bằng nữa .

Ở Đài Loan bị rất nhiều tình trạng đó , tự đem kinh về nhà , niệm sáng , niệm chiều , niệm bậy niệm bạ , rồi sau đó lại đi học bắt ấn , tưởng rằng có thể độ ngạ quỉ . Hay là tham gia Phật thất (niệm Phật 7 ngày) , về nhà theo đó mà làm , sau 1 khóa thiền 7 , về nhà theo đó tự học , đi chùa bái lạy 2 hoặc 3 ngày , chỉ học sơ lược rồi về nhà tự xưng là pháp sư . Bầu linh khí trong chùa khác với bầu không khí ở nhà , nếu muốn làm ở nhà tự mình phải có lực lượng mới được , nếu mình không cúng dường ngạ quỉ , mời chúng nó đến ăn , cũng cần có đủ lực lượng để kiềm chế chúng nó , không để chúng nó làm hại đến tinh thần của chúng ta . Ở Đài Loan có rất nhiều người "siêu độ chúng sinh" . Chỗ nào Sư Phụ cũng nghe nói đến nên "siêu độ chúng sanh" ... ý thì rất tốt nhưng làm được hay không là 1 chuyện khác .

Thỉnh 1 cuốn Pháp Bửu Đàn Kinh hay là Kinh Kim Cang về nhà tự coi , thấy trong kinh nói , ngồi thiền rất tốt , rồi tự mình học ngồi thiền . Đi chùa thấy người xuất gia cũng ngồi thiền như thế , về nhà cũng theo đó mà ngồi , như vậy là thiền gì ? Đó là thiền không đúng . Thiền sai sẽ đi sai đường , sẽ mang đến nhiều phiền phức cho nên nhiều người học rồi có bệnh thần kinh bởi vì giáo lý quá công khai , có thứ có thể công khai , có thứ không thể công khai , có người tự học rồi , không thể chịu được tâm thần rối loạn , như vậy sẽ hại đến họ .

Cho nên các vị đại sư thời xưa , lúc truyền pháp , các Ngài rất thận trọng ; trước hết thử thách "đệ tử" rất nhiều lần , quan sát kỹ lưỡng 1 thời gian dài , sau này mới truyền pháp cho đệ tử , như vậy mới an toàn hơn và về sau những đệ tử này cũng không ra ngoài phê bình bậy bạ .


:53: :rose3: :rose2:

Nhím Hoàng Kim
06-01-2007, 04:43 PM
Niệm mật chú để độ chúng sinh sẽ có 2 tình trạng xảy ra . Tình trạng thứ nhất rất có thể niệm đến lâu rồi sẽ biến thành bệnh thần kinh . Tình trạng thứ 2 là niệm rồi vẫn bình thường như lúc trước . Người mà có bệnh thần kinh là tại vì không có phước báu , ngã chấp quá lớn , "ta" tốt như vậy , "ta" có tâm từ bi lớn như vậy , "ta" muốn độ chúng sanh , "ta" ngày ngày bố thí cho ngạ quỉ ăn . Bởi vì ngã chấp quá lớn cho nên mới bệnh thần kinh của "ta" . Niệm rồi , tự cảm thấy mình cao hơn người 1 cấp , sinh ra tâm ngạo mạng rồi sẽ có ma chướng . Đúng ra Ma Vương là thuộc về cái lực lượng xấu nhưng mà nó cũng không thích thứ người xấu như thế cho nên nó sẽ tới náo loạn đầu não của chúng ta .

Cũng trong tình trạng thứ 2 là niệm cho đến khi chúng ta vãng sanh cũng không có bệnh thần kinh . Vì sao vậy ? Tại vì rất có thể thứ người đó đời trước đã có tu hành rất nhiều , còn nhiều phước báu nhưng mà vẫn tu chưa đủ cho nên bây giờ trở lại vẫn còn bị thế tục cột dính rất nhiều , nhưng mà vẫn còn phước báu của kiếp trước , tu hành của kiếp trước .

Có thứ người phát tâm muốn độ người thật sự , không có thái độ ngạo mạng đó , trong tâm muốn bố thí ngạ quỉ thật sự , muốn tụng kinh sáng hoặc kinh chiều , muốn độ linh hồn của người chết , thứ người đó , không phải không có . Nếu như họ có thật tâm muốn độ chúng sanh , Ma Vương cũng để họ độ nhưng mà đợi đến khi họ vãng sanh , tại vì chỉ lo độ người mà thôi , tự mình không tu hành cho nên bao nhiêu công đức của kiếp trước đều vung vải sạch rồi , sau khi vãng sanh thì không còn cái gì cả . Rất có thể đầu thai vào đẳng cấp rất thấp . Tuy rằng đời này không thấy có chuyện gì nhưng công đức đều bị mất hết , bởi vì chúng ta không thấy được , không hiểu cái tình trạng này cho nên không biết được .

Ta có thể chia tình trạng này ra làm 2 : Thứ nhất là 1 người không có bao nhiêu tiền nhưng vì muốn được người ta biết đến tôi là người giàu có cho nên ngày ngày đi mượn tiền , sài tiền của người khác , còn chia cho những người nghèo khác , bởi vì muốn nổi tiếng , sau khi sài quá nhiều , không có tiền trả nợ bị cảnh sát bắt nhốt vào tù . Thư 2 là có người thật muốn bố thí cho người nghèo tự mình tuy không đi làm nhưng cha mẹ có để lại 1 mớ tài sản , mỗi ngày sài đi 1 mớ , sau này không còn gì cả .

Cũng như vậy , phước báu cũng sẽ bị cho hết , cũng như tiền vậy . Cho nên chúng ta muốn tu hành nên để ý cái công đức vô lượng vô biên này , làm thứ công đức vô lượng vô biên , nên nhờ thứ phước báu vô lượng vô biên đó , cũng nên biết cách nào để tìm được cái phước báu vô lượng vô biên . Khi tìm được rồi , chúng ta muốn cho gì cũng được , không có gì trở ngại cả . Nhưng mà trước khi còn chưa tìm được cái thứ phước báu vô lượng vô biên đó đừng có làm xằng bậy , rất nguy hiểm .

Cái vô lượng vô biên này có 1 nguồn gốc , nếu chúng ta tìm được cái nguồn gốc đó , nối thông được với cái nguồn gốc đó , chúng ta sẽ có tất cả , như vậy còn có thể cho người khác , không thành vấn đề .

Cho nên Sư Phụ mới nói , nếu như chúng ta tìm được cái nguồn gốc phước báu vô lượng vô biên này , chúng ta có thể cho , có thể bố thí phước báu đến vô cùng mà không hại đến bản thân . Những người mà có thể tìm được nguồn gốc đại phước báu này , họ không đi làm pháp hội tụng kinh , không làm cái việc tụng niệm gõ gõ đánh đánh cốc cốc keng keng này vì đó là việc của Ma Vương không phải của Phật Thích Ca Mâu Ni dạy . Chúa Giê Su cũng không có dạy người đi làm những việc đó . Niệm chú gì ? Vốn không có việc đó . Sau khi Phật Giáo kết hợp với những tín ngưỡng mê tín khác mới biến thành cái kiểu ngày nay . Cũng như Phật Giáo truyền thống đến Tây Tạng rồi biến thành Lạc Ma Giáo vậy , đã không còn thuần túy nữa .

Cho nên Phật Tử chân chánh không cần làm thứ việc đó , 1 vị mà đã thật sự tìm được bản lai diện mục rồi cũng không đi làm những việc đó . Quí vị có từng nghe nói Huệ Năng Đại Sư tụng kinh sánh kinh chiều không ? Hay là siêu độ chúng sinh ? Có khi nào thấy Bồ Đề Đạt Ma làm những việc đó không ? Ngài chỉ đối vách tọa thiền , Ngài Pháp Sư Bách Trượng cũng vậy , Ngài có làm pháp hội tụng kinh không ? Không có . Sư Phụ cũng không có nghe nói Phật Thích Ca Mâu Ni tụng kinh sáng kinh chiều hay làm những việc hình thức náo nhiệt bên ngoài .


:hutgio: :hutgio: :hutgio:

Nhím Hoàng Kim
06-02-2007, 04:20 PM
Nếu như Phật Thích Ca Mâu Ni có làm , Ngài có phần lực lượng lớn , Ngài có thể làm như vậy , chúng ta không thể làm được , chúng ta vẫn còn chưa thành Phật , làm những việc này có ích gì ? Nhưng thật ra Phật cũng không phải lo những việc đó , Ngài chỉ cần ngồi tại 1 nơi đã có thể làm rất nhiều việc , Ngài không cần phải tới chỗ đặc biệt nào , không cần niệm chú , nếu Ngài muốn niệm , đều niệm tại tâm , bất cứ Ngài muốn làm gì , đều dùng cái lực lượng của Ngài , dùng cái hóa thân của Ngài đi làm . Cho nên chúng ta nói :" Phật Thích Ca Mâu Ni có trăm ngàn ức hóa thân , Ngài chẳng cần phải động tay ."

Sư Phụ nói cho quí vị nghe , Sư Phụ không cần đi đâu nhưng có người vẫn thấy Sư Phụ đi đến đó giúp đỡ họ , đó không phải là Sư Phụ xuống núi đi làm . Hôm nay Sư Phụ đến đây giảng kinh là thân thật của Sư Phụ đến đây giảng kinh , bây giờ nếu quí vị đánh Sư Phụ , cái thể xác này cũng biết đau nhưng có lúc là hóa thân đi làm việc chứ không phải cái xác thân này đi làm .

Cho nên khi thật sự tìm được cái Bản Lai Diện Mục cũng là cái mà chúng ta sau khi "thành đạo" , không cần phải động tay , lúc đó mới thật sự là độ chúng sanh . Vì không có chúng sanh bị độ , lúc đó không có cái tâm phân biệt ta và chúng sanh , cái gì cũng không có nghĩ đến , tất cả đều làm bằng tự nhiên . Cho nên Lão tử nói :" làm mà không làm ." tất là ý nghĩa đó , phải :" Tác nhi bất tác , vi nhi bất vi ."

Sư Phụ nói về 1 vị minh sư sau khi vãng sanh , thường thường còn nổi tiếng hơn lúc còn tại thế . Tại vì Ma Vương sẽ lợi dụng tên của vị đó để tiến hành cái kế hoạch phá hoại của nó , biến thành 1 cái tôn giáo , xen vào giả lý , để cho chúng sinh tưởng rằng như vậy mới là Phật Giáo . Rốt cuộc vẫn còn trong luân hồi sinh tử , vẫn còn làm công nhân của Ma Vương , như vậy Ma Vương rất hoan hỉ , nó sẽ để cho chúng ta có 1 cái tôn giáo đặng an ủi , mơn trớn sự khác vọng chân lý của chúng ta .

Có nhiều người muốn tìm chân lý nhưng không biết đi đâu tìm ? Cho nên có người bảo họ đi lạy Phật , làm như vậy sẽ giải thoát , họ nghe rồi rất mừng , tưởng rằng có thể giải thoát . Đây đều là mưu kế của Ma Vương , nó không muốn chúng ta tìm được cái Phật chân chánh ở trong tâm của chúng ta , nó muốn chúng ta tìm Phật bên ngoài , làm những việc bậy bạ , sau này chúng ta tự an ủi lấy , tưởng rằng tự mình là người có đạo tâm , ngày ngày tụng kinh sáng kinh chiều , tu hành tốt như vậy , kết quả không rõ đó đều là mưu kế của Ma Vương , đều là trong Tam Giới . Nếu quí vị làm như vậy nữa cho dù 1000 năm cũng không thể giải thoát .

Con người có rất nhiều phước báu , thành tâm , thành ý cũng chỉ đi đến Thế Giới Thứ Hai mà thôi , không thể tới Thế Giới Thứ Ba , càng không thể nói tới thoát ly Tam Giới khổ . Thế Giới Thứ Hai vẫn là quốc gia của Ma Vương . Thế Giới Thứ Ba vẫn còn là chu vi của Ma Vương , tại vì thế giới đó là còn trong Tam Giới . Tới ngoài Tam Giới , không có thân thể , không có đầu não , không có mắt mũi tai thân ý , tất cả đều không cần . Ở đây chúng ta dùng quá nhiều công cụ , càng nhiều công cụ càng phiền phức , không có đầu não tốt hơn nhưng mà ở thế giới này là phải dùng tới cái thân thể và đầu óc , không có cái thân thể này chúng ta không cách nào sống .

Cho nên nếu chúng ta muốn độ chúng sinh , muốn niệm chú để độ chúng sinh , muốn siêu độ hồn ma , chúng ta trước tiên nhất là nên thành Phật , trước hết nên tìm được Phật tâm của mình , tìm được cái lực lượng lớn của chúng ta , cái lực lượng nguyên bản , bản lai diện mục của chúng ta , hay là sau khi thành "đạo" chúng ta có thể cứu chúng sinh cũng như Chư Phật đã và đang cứu vậy . Có thể có người bảo rằng , có thứ chú có thần lực , họ làm ấn tay nào cũng có thần lực , rồi chúng ta cũng theo họ bắt ấn , rốt cuộc đều không có công dụng .

Cho nên 1 vị minh sư chân chính , ngài không bày chúng ta những thứ rắc rối này . Ngài sẽ dạy chúng ta trước tiên tìm cái Bản Lai Diện mục của chúng ta , tìm được cái Phật tâm của chúng ta trước , rồi sau đó mình muốn làm gì cũng được , tại vì sau khi có cái "Phật lực" việc gì cũng làm được , bất cứ người nào cũng có thể cứu được , bất kể ở đâu , đều có thể dùng hóa thân đi độ chúng sinh chứ không phải cực nhọc như vậy , ngày ngày niệm kinh sáng 2 tiếng đồng hồ , làm ấn tay , những cái này đều không có giup ích gì , chỉ có tự hại mình , bận đông bận tây , không có thời giờ tu cho đúng , không có thời giờ tìm cái Bản Lai Diện Mục của mình và cái Phật Tâm của mình , còn phải uổng phí lực lượng , uổng phí cái phước báu nhỏ từ kiếp trước để lại cho chúng ta , lìa đời "không , không" tái luân hồi sinh tử , làm ma , làm quỷ , làm súc sinh , làm người ngu dốt , người nghèo như vậy có phải là đáng thương không ?


:om:

Nhím Hoàng Kim
06-03-2007, 07:32 AM
Có cái thân này cần nên tu hành cho mau , thành Phật có thể độ vô lượng , vô biên chúng sinh , hằng hà sa số chúng sinh , chứ không phải chỉ độ 1 nhóm hồn ma hay độ 1 nhóm đoàn thể nhỏ mà thôi , tất cả thiện đạo đều có thể độ , có thể độ quỉ , cũng có thể độ người , cho nên gọi là :" Thiên nhân đạo sư , tứ sinh từ phụ ."

Cũng như Sư Phụ đã từng kể chuyện của 1 vị hoàng tử , vị quan lớn mới cho vị hoàng tử đó 1 chút tiền để dùng , cho 1 số áo để mặc , cho 1 con ngựa nhưng vị hoàng tử không lấy , vị hoàng tử đó không chịu dùng số tiền nhỏ đó , cũng không lấy con ngựa và hoàng toàn mang đi cho người khác . Vị hoàng tử đó không có nghĩ đến trước tiên nên dùng số tiền này , dùng số y phục này , cởi ngựa này mới có thể trở về , trở về tìm hoàng cung của mình , sau đó trở thành quốc vương , trong cung có rất nhiều tiền , lúc đó mới cho chúng sinh cũng không muộn .

Vì lúc vị quan lớn tới không có mang theo nhiều tiền để cho vị hoàng tử , chỉ có thể cho vị hoàng tử 1 , 2 bộ y phục để mặc , 1 ít tiền để dùng từ chỗ đó đến hoàng cung . Vị hoàng tử có thể dùng số tiền này trước , không phải là vị hoàng tử đó ích kỷ , không lo cho người khác mà là vị đó cần dùng số tiền ấy để về tới hoàng cung , về được hoàng cung rồi , bất cứ bao nhiêu tiền tài mang bố thí cho chúng sinh đều không thành vấn đề . Cho nên đừng có dùng cái đầu óc đi suy nghĩ , cũng đừng nên nghe người khác nói quá nhiều , đừng có coi người ta làm những gì rồi chúng ta theo đó mà làm . Chúng ta nên suy nghĩ , làm những việc này có ích lợi không ? Ích lợi nhiều hay ích ? Cái công dụng đó hữu hạn hay vô hạn ? Nên làm như thế nào mới có công dụng tối đa ? Mới không có chướng ngại tối thiểu ?

Trước khi chưa xuất gia , Sư Phụ cũng đi giúp đỡ nhiều người , đây không phải là kể lễ "công lao" cho quí vị nghe . Lúc đó đồng bào Việt Nam của Sư Phụ có rất nhiều khó khăn , họ tới nước Đức , không có ai vừa biết nói tiếng Đức , tiếng Anh và tiếng Pháp . Cũng có 1 số người biết nói nhưng tiếng Đức hầu như ít ai biết , Sư Phụ đi giúp họ thông dịch , mỗi ngày bận rộn từ 7 giờ sáng tới 11 giờ khuya , có lúc không có thời gian ăn cơm , vừa đi vừa ăn bánh mì , lúc đó quên chính bản thân mình , hoàn toàn đều nghĩ về họ . Có lúc Sư Phụ rất nhức đầu nhưng vì họ đau răng , đau bụng cho nên Sư Phụ vẫn cứ phải nhịn đau , dẫn họ đi bác sĩ , sau này quên luôn cái nhức đầu của mình , bác sĩ cho Sư Phụ thuốc , Sư Phụ cũng không có thời gian uống , cũng quên uống luôn nhưng mà sau khi hết lòng đi lo lắng người khác , chứng nhức đầu cũng hết luôn . Có lúc suốt ngày không có ăn , rất cực khổ .

Trước đó , Sư Phụ có ý niệm xuất gia nhưng vì lúc đó nạn nhân rất nhiều , Sư Phụ nghĩ rằng xuất gia không có giúp ích gì , ngày ngày tự nhiên niệm Phật và tu hành , đối với họ không có giúp ích gì , Sư Phụ thà đi giúp nạn nhân còn tốt hơn , còn có ích hơn . Lúc đó Sư Phụ không thấy xa được , chỉ thấy trước mắt có nhiều người gặp khó khăn , cần sự giúp đỡ cho nên cả ngày đi giúp đỡ , có lúc không có thời giờ đọc kinh , sau đó càng giúp đỡ càng nhiều người đến . Sau này làm việc ở Hồng Thập tự gặp những nạn nhân bất hạnh càng nhiều , không chỉ là người Việt Nam mà thôi , còn có người Phi Châu , người A Phu Hản ... tại vì đây là tình trạng của quốc tế cho nên càng lúc gặp càng nhiều chúng sinh , sau này Sư Phụ nghĩ rằng nếu không giúp được họ thì làm sao ? Lúc ấy Sư Phụ nghĩ đến Phật Thích Ca Mâu Ni nói :" Xuất gia là công đức lớn nhất , có thể thành Phật , sau khi thành Phật , có thể giúp đỡ càng nhiều chúng sinh , lực lượng của 1 người phàm phu có hạn , không thể giúp quá nhiều người được " bởi vậy lúc đó Sư Phụ quyết tâm xuất gia .


:lay: :lay: :lay:

Nhím Hoàng Kim
06-04-2007, 09:12 PM
Sư Phụ cũng từng đi qua nhiều chùa coi , xuất gia cũng không có nghĩa gì , mỗi ngày đều tụng kinh sáng và kinh chiều , ấn tay , ấn chân (đại chúng cười) . Sư Phụ không thấy linh hồn nào đến ăn , cũng không thấy đối với chúng sinh có ích gì , các việc kinh sáng và kinh chiều này , lúc còn nhỏ Sư Phụ đã học qua rồi , đọc kinh cũng đọc rất nhiều , từ nhỏ đã bắt đầu đọc kinh Phật rồi , cho nên Sư Phụ nghĩ , như vậy là không được , thấy trong Kinh Lăng Nghiêm đệ tử của Phật có rất nhiều thể nghiệm , thấy trong Kinh Pháp Hoa Phật đề cập tới rất nhiều cảnh giới , sẽ nghe được tiếng gì , Bồ Tát tu hành có thể nghe được nhiều âm thanh mỹ miều , cũng có tiếng của Phạm Thiên , mắt có thể thấy được Phạm Thiên , còn có các thứ ánh sáng . Sư Phụ thấy tại sao mình tu hành cho đến nay , cái gì cũng không thấy ? Cũng không nghe được tiếng mỹ miều gì !

Không vừa ý , Sư Phụ nghĩ như vậy không được cho nên lúc đó mới quyết định đi tìm "minh sư" , Sư Phụ nhất định muốn thấy được ánh sáng và cảnh giới mà Phật đã nói đến , và cũng nhất định muốn nghe được thứ âm thanh mà Phật có đề cập đến . Một tí ti cũng không được ! Không phải Sư Phụ tham lam , không phải Sư Phụ muốn lập tức thành Phật hay là muốn lập tức thấy được cả vũ trụ , nhưng để cho Sư Phụ có thể có 1 chút ấn chứng và thể nghiệm trong kinh Phật nói , để cho Sư Phụ an tâm , để nhận định con đường mình đi là chính đạo , chỉ cần nương theo con đường đó để đi , nhất định có thể về đến nhà .

Giả sử không có thấy được bất cứ thể nghiệm nào thì Sư Phụ không biết được con đường này có phải là đúng thật có thể về đến nhà hay là con đường ngoại đạo . Bởi vì trên đường về nhà nên có những dấu hiệu đặc biệt gì . Ví dụ như , ở ngoài cái Phật đường này có 1 chiếc cầu lớn , chỉ cần thấy cái dấu hiệu ngoài đó thì biết rằng mình đi đã gần tới Phật đường .

Nhưng thể nghiệm nói trong Kinh Lăng Nghiêm , Sư Phụ cũng không có , rồi những thể nghiệm đã từng đề cập trong Kinh Pháp Hoa , Sư Phụ cũng không có . Kinh Phổ môn nói :" Niệm quán Âm Bồ Tát , nếu chúng ta đi vào trong lửa , lửa cũng không thiêu ." Quí vị hãy thử coi , quẹt 1 cây diêm , lấy ngón tay để trên lửa , 1 bên đốt , 1 bên niệm Quán Thế Âm Bồ Tát , coi có bị phỏng hay không , chỉ cần thử 1 ngón tay thôi , đừng để cả cánh tay . Cho nên Sư Phụ nói , không được , không được , không thể gạt người , lúc ấy Sư Phụ muốn có tự mình chứng nghiệm nhưng mà không có cách nào cả . Hồi xưa , Sư Phụ không biết bơi nhưng trong Kinh Phổ Môn có nói :" Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát , rớt trong nước sẽ được nổi lên ." Sư Phụ rớt trong nước thì bị chìm , lúc ấy nếu không có ai tới cứu Sư Phụ , Sư Phụ đã vãng sinh rồi .

Sư Phụ nói :" Như vậy không được !" Phải có 1 tí chứng minh mới được , sau đó Sư Phụ mới có thể tiếp tục tu hành . Ít nhất để Sư Phụ tin 1 tí , nếu cái gì cũng không có , đợi tới lúc vãng sinh , nếu Phật A Di Đà tới vớt thì tốt , nếu không tới rước thì Sư Phụ phải làm sao ? Ví dụ như nếu bây giờ tôi chỉ có 1 tí tiền , nếu đủ xài thì được , nếu bây giờ không đủ xài , đợi tới lúc tôi vãng sanh cho dù ông chủ cho tôi 1 ngàn vạn ức cũng vô dụng và có lẽ ông chủ không cho nữa kìa .

Cho nên lúc ấy Sư Phụ đi tìm minh sư , tìm được 1 vị minh sư để cho Sư Phụ có thể có thể nghiệm thật sự , những thể nghiệm trong kinh điển nói , Sư Phụ cũng sẽ có . Tuy nhiên là không trong vòng 1 ngày thì có hết tất cả thể nghiệm , chỉ cần 1 chút là đủ rồi . Tại vì tu hành cần thời gian lâu dài chứ không phải 1 ngày thì lập tức thành Phật . Phật Thích Ca Mâu Ni cũng tu 6 năm ! cho nên chỉ cần có 1 tí ti gì đó để cho chúng ta ấn chứng , để chúng ta an tâm . Nhưng không phải vì có cái chứng nghiệm này chúng ta mới an vui ; sau khi có thể nghiệm đẳng cấp của chúng ta sẽ khác , chúng ta biến thành cái đẳng cấp an vui , chúng ta đã cải biến rồi .

Cũng như vị quan sau khi tìm được hoàng tử rất có thể trong tâm của vị hoàng tử không có cải biến quá nhiều nhưng bề ngoài đã hiện rõ cái khác nhau , vị hoàng tử đó mặc áo tốt , có tiền để dùng , có ngựa để cỡi , có rất nhiều người hầu hạ , tất cả đều khác hẳn với lúc trước , đợi tới khi vị hoàng tử về đến cung điện sẽ trở thành như thế nào ? Các vị cũng đoán được .

Cho nên ít nhất phải có áo của hoàng tử cho chúng ta mặc , có 1 chút tiền cho chúng ta dùng , nếu không , đợi chúng ta vãng sinh , cho dù biến thành hoàng tử cũng vô dụng và lúc đó tự mình chắc gì đã biết mình là hoàng tử chưa !

:idea2: :idea2: :idea2:

Nhím Hoàng Kim
06-05-2007, 08:54 PM
Tại vì Sư Phụ đã tìm được cái tình trạng an vui đó cho nên cũng muốn chia cho quí vị . Một vị đại quan đi thông báo , vị đó không cần phải là quốc vương , người thông báo không thể biến quí vị thành hoàng tử mà chỉ thông báo cho quí vị biết được mà thôi , nói cho quí vị rõ quí vị là hoàng tử , quí vị tự mình tìm hoàng cung của mình , rồi đi về làm quốc vương . Theo Sư Phụ học cũng như vậy , tránh nhiệm của Sư Phụ là để nói cho quí vị biết được mà thôi , cho nên đừng nên chú ý bề ngoài của Sư Phụ , hoặc là hành động và cách ăn uống của Sư Phụ như thế nào ? Sư Phụ nói như vậy quí vị có hiểu chăng ? Điều đó không có quan trọng gì và cũng không ảnh hưởng đến địa vị thế gian của quí vị , Sư Phụ chỉ đến đây để nói cho quí vị biết là địa vị của quí vị rất là cao , là cao quí nhất trên thế giới , nếu như quí vị muốn tìm lại địa vị bản lai của mình , Sư Phụ có thể dẫn quí vị đi tìm .

Cho nên theo 1 vị thầy để học , đừng có phê bình hành động của người thầy đó , đừng coi bề ngoài của vị thầy đó , đừng coi người thầy đó làm việc gì . Coi người thầy ấy như là 1 vị đại quan được phái tới là được rồi , dẫn quí vị đi về , để cho quí vị hồi phục lại cái địa vị nên có của mình . Cho nên quí vị chỉ cần theo vị thầy đó đi là được rồi , đừng để ý việc làm của người thầy đó , coi áo quần có đẹp không ? Đi chậm hay nhanh ? Những việc này không có quan hệ gì quí vị , quí vị chỉ cần theo vị đó đi là đủ rồi .

Nhưng rất nhiều người lầm lẫn , tới tìm 1 người thầy chỉ coi bề ngoài của vị đó : Thầy có trang nghiêm không ? Họ không chịu học theo 1 vị ni cô , chỉ muốn theo học 1 vị nam nhân hoặc tì kheo mà thôi ; hay là gặp 1 vị sư tăng nhỏ thấp thì không thích , chê vị đó nói chuyện không rành , hay là tính tình của vị đó nóng nảy , và không ưa thích vị đó , không hạp với mình , mình cũng không thích ... nhưng những việc này không có quan hệ bản lai diện mục của chúng ta ; không nghe lời của vị sư tăng , vị đó cũng chẳng cần đến mình .

Vì trước khi còn chưa ra độ chúng sinh , các thầy đó đã biết con đường không dễ đi , chúng sinh khó độ , sẽ có rất nhiều khó khăn , họ đã biết được rồi , nhưng họ vẫn đời đời kiếp tới độ chúng sinh . Vì chúng sinh đều là thân nhân của chúng ta , giả sử cha mẹ , anh chị em của chúng ta làm sai việc , họ vẫn còn là thân nhân của chúng ta , chúng ta vẫn còn thương yêu họ , giúp đỡ họ , cứu họ , có phải như vậy không ? Chứ không phải trong nhà có 1 đứa con hư , thường nổi giận , không nghe lời cho nên chúng ta đem vất nó đi , có phải vậy không ? Không , chúng ta vẫn ngày ngày lo lắng cho nó , cho nó ăn đầy đủ , nó đói vẫn nấu cơm cho nó ăn , nó không có áo quần mặc thì lấy áo quần cho nó mặc , có lúc có thể nó chửi chúng ta , chúng ta cũng không ưa thích nhưng chúng ta vẫn tiếp tục lo lắng cho nó như cũ .

Trong xã hội , có nhiều người nói chuyện ngọt ngào , như rất khách sáo nhu hòa , nhưng họ có giúp đỡ chúng ta tìm được cái bản lai diện mục của chúng ta không ? Không . Cho nên lời nói ngọt ngào và khách sáo , không có quan hệ đến tu hành , chúng ta đừng coi cái bề ngoài của con người , thầy tốt , thầy xấu , đều là nghiệp chường của chúng ta , nếu như không có nghiệp chướng thì cũng chỉ là cá tánh mà thôi , nếu như cải biến được đối với người này , có thể rất hợp lý , nhưng đối với người khác có thể không ưa thích , làm sao cho vẹn toàn được ? Vị thầy không thể làm vừa lòng tất cả mọi người , có đúng không ?

Cho nên chúng sinh thật khó độ , không những phải chiến đấu các thứ tập quán bất đồng của chúng sinh mà còn phải chiến đấu với ý thích của chúng sinh nữa . Có người thích Sư Phụ mặc đồ vàng , có người thích Sư Phụ mặc đồ đỏ , có người khác lại thích đồ xanh , mua rất nhiều y phục cho Sư Phụ mặc , nếu như Sư Phụ không mặc , họ lại không vui , mua cái này cho Sư Phụ ăn , nếu như Sư Phụ không ăn , họ lại cho rằng Sư Phụ không thích họ , không chiếu cố họ . Tu hành đừng cố chấp như thế , cho nên có nhiều người nghiệp chướng quá nặng , theo học 1 thời gian nhận thấy tánh tình của Sư Phụ hình như không thích hợp với ý họ cho nên họ đi mất . Như vậy là tự hại mình . Sư Phụ không có cách nào 1 mình có thể làm hài lòng tất cả chúng sinh ?

Khi nuôi động vật cũng vậy , có người thích chim nhưng mà người láng giềng rất ghét chim , chim hót cả ngày nên họ muốn dùng thuốc độc để cho chim câm miệng nhưng vì người chủ quá ưa thích cho nên không có cách nào . Quí vị muốn tu hành , tự mình cần phải tu cho chân chính , đừng có nhìn bên ngoài của vị thầy vì vị thầy chỉ đạo mà thôi chứ không phải là "đạo" . Cái thân này , đầu óc này , thế giới này là phải như vậy , không thể cải biến .

Quí vị nếu tìm được 1 vị sư phụ thật sự như vậy thì tự mình phải cố gắng tọa thiền , qua 1 đoạn thời gian , có thể thấy vị thầy bên trong , thầy đó sẽ xuất hiện , sẽ đưa chúng ta đi cảnh giới cao , học tập chân lý chính cho rõ ràng như vậy mới là 1 vị sư phụ tốt , nếu có thể nhận thức chân lý thì không bị cái quan niệm hay là truyền thống của xã hội này buộc chặt . Tu hành lâu rồi có thể nhìn thấy minh sư trong tâm của mình , lúc đó vị minh sư trong tâm chỉ đối với riêng mình mà thôi . Trên thế giới này , vị sư phụ phải dùng cái thân thể để chỉ dạy nhiều chúng sinh , cho nên mọi người có tánh tình khác nhau và cá tính của vị thầy cũng khác nhau , không có thể chỉ đặc biệt đối xử với 1 ai nào để làm vừa lòng mình mà thôi .

Phật Thích Ca Mâu ni không thể làm cho tất cả chúng sinh vui lòng . Chúa Giê Su cũng vậy , cho nên Ngài đã bị đóng đinh đến chết mặc dù Ngài có rất nhiều phép thần thông biến hóa rất thần kỳ diệu ảo , có thể trị bịnh , làm cho người chết sống lại , biến nước thành rượu , hóa phép thành thức ăn cho mọi người dùng . Người tài giỏi như vậy , nổi danh như vậy , sau cùng vẫn bị chúng sinh đóng đinh mà chết .

Cho nên quí vị đừng có nhìn vào Sư Phụ mà tự mình tu hành là đủ . Sư Phụ ấn chứng cho quí vị , để quí vị có cái thí nghiệm của thể nghiệm đầu tiên , để cho quí vị tin , sau này tự mình tu hành là được , đừng nhìn bề ngoài của Sư Phụ vì nó không có quan hệ gì với sự giải thoát .

:axe:

Nhím Hoàng Kim
06-09-2007, 03:55 PM
Âm Thanh Siêu Thế Giới

Ngày 24-4-1987
Peng Hu




Quí vị trí thức , tuy chúng ta mới chỉ gặp nhau lần đầu tiên nhưng theo cái nhân quả Phật giáo mà nói , chúng ta là bạn tốt , vì đời trước đã làm bạn chung với nhau rồi cho nên bây giờ gặp lại quí vị lòng Sư Phụ rất mừng , không biết quí vị có mừng không ? (Đại chúng đáp : có)

Theo cách nói của Phật Giáo , chúng ta coi như có duyên với nhau . Có duyên là gì ? Tức là các kiếp trước chúng ta có quan hệ gì với nhau . Bởi vì chúng ta là người đã luân hồi nhiều lần . Đời đời kiếp kiếp chúng ta có rất nhiều bạn , thân nhân , chồng vợ ... cho nên bây giờ quí vị tới đây , chúng ta không phải là người lạ , bất quá chỉ thay đi 1 cái áo mà thôi . Đây (Sư Phụ tự chỉ vào mình) là 1 loại y phục , người chủ chính là người ở bên trong chúng ta chứ không phải là cái nhục thể này ; tại vì , mỗi 1 lần ra đời đều mặc áo khác nhau , cho nên biến thành không quen biết nhau .Nhưng nếu chúng ta tu hành nhiều , có thể thấy được quá khứ , hiện tại , tương lai , chúng ta sẽ biết chúng ta đều có quan hệ chặt chẽ với nhau .

Bởi vì những người đến đây nghe kinh , trong đó có đại biểu và tín đồ của các tôn giáo khác nhau . Có tín đồ của Thiên Chúa Giáo , tín đồ của Lão Giáo , e quí vị có lẽ không tin nhân quả chăng nhưng mà Sư Phụ báo với quí vị , thật ra , Chúa Giê Su cũng có nói đến "nhân quả" , trong Thánh Kinh Ngài có nói :" Tôi tức là hóa thân hay là tái sinh của những vị đại sư quá khứ kia ." Ngài còn nói :" Các đại sư thường hóa thân ở chung với quí vị nhưng quí vị không nhận biết ." Ý rất rõ rệt , tức là nói tới cái nhân quả luân hồi . Ngài còn nói :" As you sow , so shall you reap " , đây ý nói là :" Mình trồng quả nào thì được quả đó " . Nếu không phải là nhân quả thì là gì ? Những lời đó với giáo lý Phật Giáo cũng như nhau .

Trong Kinh Đạo Đức cũng có nói nhân quả nhưng bởi vì cổ văn khó hiểu cho nên rất có thể quí vị không hiểu biết nhưng nếu coi cho kỹ càng thì sẽ hiểu được , ví dụ như Lão Tử nói :" Đạo vốn là trung lập nhưng nó sẽ ngã về người lương thiện ." (Kinh Đạo Đức , trang 79) :" Thiên Đạo Vô Thân , Thường Dữ thiện Nhân ." Cái ý nghĩa đó cũng chỉ nhân quả bởi vì chỉ có người tốt , mới được giúp đỡ và được phước . Hàm ý nói :" Có nhân thì có quả ."

Cho nên nếu chúng ta suy nghĩ cho sâu xa thì sẽ hiểu được bất cứ tôn giáo nào cũng đều nói giống với đạo lý mà Sư Phụ đã nói , không gì khác cả . Luôn cả Hồi Giáo cũng vậy nhưng mục đích của hôm nay không phải để bàn luận về tôn giáo cho nên chúng ta sẽ không bàn sâu về vấn đề này .

Vì sao trước nhất Sư Phụ phải nói nhiều về các tôn giáo , thật ra đều như nhau ? Vì nếu không nói điểm này thì hôm nay có vài người đến nghe kinh sẽ tưởng rằng Sư Phụ đến đây là để khuyên quí vị thay đổi tín ngưỡng tôn giáo trở thành Phật tử . Không phải vậy , Sư Phụ không có cái ước vọng này , cái nhìn của Sư Phụ là bất cứ ai cũng là tín đồ của Phật Giáo , chỉ có danh từ khác nhau mà thôi . Tôi cho rằng Phật Giáo , Thiên Chúa Giáo , Lão Giáo (Đạo Giáo) , Hồi Giáo đều rất tốt . Nhưng chỉ có 1 điểm là Sư Phụ không mấy đồng ý là tín đồ của Phật Giáo , tín đồ của Thiên Chúa Giáo , tín đồ của Hồi Giáo ... Đa số đều lầm cái giáo lý của giáo chủ họ cho nên mới sinh ra nhiều giáo phái , nhiều tranh luận . Trong 1 tôn giáo đã có nhiều giáo lý khác nhau , tranh luận không ngừng , còn sự xung đột giữa các tôn giáo thì khỏi nói , điều đó làm cho Sư Phụ cảm thấy rất buồn .

Bởi vì khi 1 vị giáo chủ lìa khỏi thế giới này , không có cao đồ để hậu truyền chân lý cho nên các tín đồ chia thành phe nhóm và lập riêng giáo phái của họ và cũng vì vậy mà chân lý của giáo phái bị thay đổi và diễn biến cho đến hôm nay . Chúng ta nghĩ rằng các tôn giáo đều khác nhau , thật ra các tôn giáo đều phát xuất từ 1 nguồn . Nếu như chúng ta hiểu biết thật sự cái giáo lý của các giáo chủ thì sẽ biết được giáo lý của các giáo phái đều là 1 , tôn giáo có thể khác nhau nhưng pháp môn tu hành vốn đều như vậy .

Ý Sư Phụ muốn nói là bất cứ tin tôn giáo nào đều có thể tu Pháp Môn Quán Âm , tại sao vậy ? Tại sao nên tu Pháp Môn Quán Âm ? Không tu được không ? Đương nhiên là được . Không tin tôn giáo cũng được , tại sao không tu không được ? Nhưng mà nếu chúng ta suy nghĩ về bản thân và thế giới này thì sẽ thường tự hỏi :" Tôi từ đâu mà tới ? Chết rồi sẽ đi đâu ? Tại sao tôi tới cái thế giới này làm người ? Làm người khổ như vậy , không làm người có được không ? Ngoài cái thế giới này ra , còn có thế giới nào tốt đẹp hơn thế giới này không ? Tôi có thể nào có quyền độc lập chọn lựa ? Muốn rời khỏi thế giới này để đi cảnh giới khác thì có thể được như ý , tôi có thể nào làm được chuyện đó không ? Và không bị sinh tử bó buộc không ?"

Nếu chúng ta có những thắc mắc như trên thì chúng ta phải đi tìm 1 vị có thể giải đáp câu hỏi của chúng ta . Đa số mọi người đều đi tìm người lãnh đạo của 1 tôn giáo . Ví dụ , tín đồ Thiên Chúa Giáo thì tìm cha sứ hay ma sơ , tín đồ Phật Giáo đi tìm các vị tăng ni hoặc Bồ Tát tại gia theo họ học hỏi . Nhưng mà cho dù chúng ta tìm gặp những người đó nhưng vẫn không tìm được cái giải đáp mãn ý , có người đến nơi khác để tìm câu giải đáp khác . Có thể vì duyên may sẽ đưa đến cho chúng ta gặp 1 vị thầy , người được gọi là Thiện trí thức hay là bật thầy khai ngộ và người thầy này sẽ giúp cho chúng ta khai ngộ các vấn đề đó .


http://www.smradio.net/

Nhím Hoàng Kim
06-12-2007, 05:20 PM
Nếu như mình là người có thắc mắc về vấn đề sinh tử và ước vọng được giải thoát thì nên tu Pháp Môn Quán Âm , nên tìm 1 vị thiện trí thức để có thể truyền cho mình "Pháp Môn Quán Âm" . Pháp Môn Quán Âm là chìa khóa độc nhất vô nhị , có thể giải đáp tất cả các vấn đề sinh tử và vũ trụ . Chúng ta phải tự tìm cầu giải đáp qua sự tu hành "Pháp Môn Quán Âm" . Phải tự mình lãnh ngộ ra giải đáp , không phải chỉ nghe người khác nói mà thôi , cũng không phải chúng ta muốn lìa cái thế giới này liền được như ý , không phải muốn đến các cảnh giới khác để du lịch thì có thể tùy tiện mà đi bất cứ lúc nào .

Trước nhất cần phải tìm được cái pháp môn tối cao , ngày ngày tu hành , sau này chúng ta mới được như thế , được giải thoát , muốn đi đâu thì đi , cũng như chúng ta có đủ tất cả những điều kiện cần thiết để xin giấy thông hành để có thể tự do đi bất cứ nước nào , không nhất định phải vĩnh viễn ở tại Đài Loan . Sau khi tu hành Pháp Môn Quán Âm chúng ta có thể biết mình từ đâu đến , sau khi lìa đời phải đi về đâu ?

Ngày thường nếu không có nghịch cảnh chắc không có vấn đề nhưng gặp lúc sinh bịnh hay có thân nhân vãng sanh , chúng ta sẽ cảm thấy rất yếu đuối và vô dụng , không có 1 chút sinh lực để có thể giúp chính mình và thân nhân . Muốn cứu họ sống lại , lại không cứu được ; cha mẹ chúng ta chết đi , không ai có thể cứu được , tự họ không muốn chết cũng không được , tới giờ rồi thì bất cứ là ai , bất luận giàu nghèo đều phải lìa cái thế giới này , lúc đó không có quyền lựa chọn cho nên rất đau khổ , trong lòng lưu luyến đến thân nhân vô cùng nhưng không thể ở lại .

Trừ khi lúc mình còn sống đã theo 1 vị minh sư tu hành Pháp Môn Quán Âm , dù cho ban đầu mình tu hành chưa đủ lực lượng , khi vãng sinh mình cũng không thể tự tại mà đi , minh sư sẽ lại dẫn dắt mình đi đến chỗ vĩnh viễn tự tại . Sau khi tu Pháp môn Quán Âm được thành tựu rồi , mình muốn cứu người cũng được ; sau khi lìa trần , nếu muốn trở về cái thế giới này , giải cứu những chúng sinh khốn khổ cũng được , lúc đó mình là người tự tại , hoàn toàn có quyền độc lập tự chủ , muốn đến thì đến , muốn đi thì đi . Cho nên Pháp Môn Quán Âm là pháp môn bất khả tư nghì , độc nhất vô nhị , đó là cái lực lượng của tạo hóa , là lực lượng tối cao , vĩnh viễn tồn tại .

Lúc thường nếu không tu hành , thấy người thân nhân của chúng ta lìa đời , chúng ta sẽ tự hỏi :" Vì sao họ phải đi ? Vì sao không phải người khác mà là họ ?" Chúng ta rất muốn biết giải đáp , vì làm người thật rất chán , không có làm được gì , ngày ngày ăn cơm , làm việc , ngủ , rồi sống qua ngày , 60 năm , nhiều lắm là 100 năm phải chết , không hiểu tại sao phải như vậy , bởi thế chúng ta cần phải giải thoát , phải khai ngộ .

Khai ngộ là gì ? Ngộ là minh bạch , muốn biết rõ những vấn đề như : tại sao phải làm người ? Vì sao thế giới này nó đau khổ như thế ? Vì sao có chiến tranh ? Vì sao thế này ? Vì sao thế kia ? Đa số tín đồ Thiên Chúa Giáo , nếu họ có thắc mắc về vấn đề đó , họ sẽ đi giáo đường , hát chung với ông cha hay ma sơ , cầu Thượng Đế giúp đỡ , hay đọc Kinh Thánh , họ chỉ làm như vậy thôi , không còn cách khác . Đương nhiên , như vậy đối với tinh thần của chúng ta cũng có ích , có thể an ủi cái tâm đau khổ đầy khát vọng , có lúc cũng có 1 chút cảm hứng , vì lúc chúng ta có bịnh hay đau khổ , lúc đó chúng ta cầu nguyện thành tâm hơn , cho nên tình trạng sẽ có biến chuyển chút ít , để cho chúng ta dễ chịu 1 chút .

Còn tín đồ Phật Giáo thì đa số cũng vậy : Đi chùa lễ bái , tụng kinh sáng kinh chiều , niệm chú , niệm Phật A Di Đà , niệm Quán Thế Âm Bồ Tát , gần như đều như vậy . Còn bật pháp sư cao hơn 1 chút có lẽ dạy chúng ta tọa thiền , tham công án , dạy mình tự hỏi :" Ta là ai ?" đó tức là tham công án hay thoại đầu . Nếu như mình đã biết được "mình là ai ?" cần gì phải đi tìm minh sư để hỏi ? Có phải vậy không ? Nhiều người sau khi tham công án rồi , cũng không có kết quả , vẫn không biết mình là ai .

Ví dụ , bây giờ có 1 người bị khát nước và sắp chết , người đó xin mình cho họ uống nước , mình không những không cho họ nước mà còn bảo họ tự hỏi "Nước là gì ?" , "nước ở đâu ?" hoặc là "đừng có để ý đến nước , khát kệ nó !" như vậy đối với 1 người sắp chết khát có phải là quá tàn nhẫn hay không ? Nhưng vị minh sư của Pháp Môn Quán Âm có thể cho nước cho người đang chết khát uống , họ còn chỉ cho biết đi đâu để tìm nước uống , mình không cần ngày ngày nhờ minh sư cho mình nước uống , tự mình cũng có thể tìm được nước , cũng có thể dùng nước đi cứu những người khát nước khác , đó là cái kết quả khẳng định mà tu Pháp Môn Quán Âm có thể đạt được .

Tham công án dù cho nổ lực lắm cũng chưa chắc có thể nghiệm gì , kết quả gì ; tu các phương pháp khác cũng có thể có các thứ thể nghiệm , nhưng thứ thể nghiệm này vẫn chưa rốt ráo cao tuyệt . Ví dụ như thấy được ánh sáng của cảnh giới thứ 2 , cái cảnh giới thấy được vẫn còn thuộc thế giới của đẳng cấp trí thức , tức là còn thấp . Điểm đó nếu chúng ta tham khảo kinh điển của các tôn giáo thì sẽ hiểu . Vả lại không phải người nào cũng có thể tham công án , cho nên rất ít người có thể tu , người muốn tu công án , trước nhất nên có nhiều hiểu biết về Phật Pháp , nếu người nào không có hiểu biết nhiều thì không thể tu . Thiền ngày nay khác với thiền ngày xưa , nếu như muốn tu thiền , thân mình phải khoẻ mạnh , người có bệnh không thể tu , vì không thể ngồi xếp bằng thì thiền sư không thâu nhận .

Ở Mỹ , Sư Phụ có gặp 1 vị gọi là "thiền sư" , có người hỏi :" Con không thể ngồi xếp bằng , không thể tọa kim cang như vậy có thể học hay không ?" Vị sư đáp :" Không được ." Người đó lại hỏi :" Con ngồi trên ghế có thể tu hành không ?" Vị sư lại đáp :" Không được ." Cho nên chúng ta có thể thấy được cái hệ thống thiền của ngày nay không có thích hợp cho đa số người tu hành trong thời đại này . Bởi vì có người không thể xếp bằng , không phải mỗi người sinh ra đều xếp bằng được , phải tập lâu lắm mới xếp bằng được , nếu như chúng ta già rồi , hay đã gần trung niên , từ trước đến giờ chưa ngồi từng xếp bằng , bây giờ bảo họ ngồi xếp bằng , làm sao làm được ? Tu hành không phải chỉ dùng thân tu hành , tu "tâm" mới là quan trọng nhất .

:rose4:

Nhím Hoàng Kim
06-13-2007, 07:06 PM
Chỉ vì lý do không thể xếp bằng mà không thể tu hành thì thật vô lý , nếu là 1 pháp môn tốt thì người nào đó cũng có thể tu mới là đúng , trẻ nhỏ cũng có thể tu , trong nhóm đồ đệ của Sư Phụ cũng có người mới 6 tuổi nhưng các em tu hành rất tốt , đạt được cảnh giới rất cao ; người già cũng có thể tu , đồ đệ lớn tuổi nhất của Sư Phụ hơn 80 tuổi , tu hành cũng rất tốt , cũng có thể nghiệm , người có bệnh tuy không thể ngồi xếp bằng cũng tu được như nhau . Có 1 vị đến hỏi Sư Phụ nếu không ngồi xếp bằng có thể tu được không ? Sư Phụ đáp là được , rốt cuộc người đó cũng có thể nghiệm , trí huệ cũng mở . Không có người nào không thể tu .

Cho nên bất cứ đi nơi nào nếu không có gặp minh sư , thầy tốt nhất định sẽ có chướng ngại . Có thiền sư không thâu người lớn tuổi , vị thiền sư mà Sư Phụ gặp ở Mỹ cũng không nhận người già , 60 tuổi đã không được chấp nhận , không thể tham gia thiền thất và tọa thiền nhưng vị sư ấy dạy người đó niệm Phật A Di Đà . Thật ra người lớn tuổi cũng có thể tu , không phải lớn tuổi chỉ có thể niệm Phật A Di Đà mà thôi .

Tuy rằng niệm kinh , niệm Phật cũng có công dụng của nó , hát Thánh Kinh hay cầu nguyện Chúa Giê Su , Đức Mẹ Maria cũng có cái công dụng của nó nhưng nếu như muốn vĩnh viễn giải thoát , muốn được cảnh giới tối cao , vĩnh viễn không trở lại , làm như vậy thì vẫn chưa đủ nên tu Pháp Môn Quán Âm , nếu không phải vậy thì trong thời đại của Phật Thích Ca Mâu Ni , Ấn Độ cũng có nhiều kinh điển , tại sao Phật Thích Ca Mâu Ni không chỉ nhờ niệm Phật hiệu hay tụng kinh là đủ rồi ? Sao còn cần phải nổ lực tọa thiền như thế , khổ tu 6 năm , sau này còn nhấn mạnh bảo các đồ đệ và chúng sinh nên tu Pháp Môn Quán Âm . Chúa Giê Su cũng y như vậy , Ngài ra đời trong 1 gia đình tôn giáo , từ nhỏ đã ăn chay . Nếu như chúng ta đã nghiên cứu cuộc đời của Chúa Giê Su thì sẽ biết , Ngài ra đời từ Esssene Clan (một thứ gia tộc tôn giáo) , loại tôn giáo đó , từ mấy ngàn năm nay đều ăn chay như như gia đình Bà La Môn của Ấn Độ vậy , gia đình của Bà La Môn từ nhỏ cũng đều ăn chay . Chúa Giê Su đã ra đời trong 1 gia đình Esssene Clan đồng thời cũng ăn chay vì sao Ngài còn phải đi Ấn Độ tu hành khổ cực như thế , ở trong núi Hy Mã Lạp Sơn cầu đạo tu hành mười mấy năm mới có thể thành đạo ?

Cho nên tụng kinh , niệm Phật , cầu nguyện , ca hát , đọc kinh đều vẫn chưa đủ ; tụng kinh , lạy thầy , niệm Phật , lạy Phật có thể tiêu trừ 1 chút nghiệp chướng thô lậu nhưng vẫn còn 1 thứ nghiệp chướng rất vi tế , luôn chính chúng ta không cảm thấy đặng , không thể dùng phương pháp này mà tiêu trừ được . Trừ khi tu Pháp Môn Quán Âm , dùng cái "âm lưu" vĩnh viễn tồn tại này rửa sạch ; còn không , chúng ta không có cách nào lìa khỏi sanh tử luân hồi . Cho nên Sư Phụ cứ nhấn mạnh nên tu "Pháp Môn Quán Âm" , ý nghĩa của nó là ở đó .

Tại vì bất luận chúng ta niệm tên gì hay là tụng kinh gì đều vẫn thuộc ngôn ngữ của thế gian , đồ vật của thế gian , lợi dụng cái công cụ của thế giới này , chúng ta làm sao có thể siêu thế giới được ? Có hiểu ý Sư Phụ không ? Ví dụ như trên lục địa của đảo Bành Hồ , chúng ta nên dùng xe gắng máy , xe hơi , đi bộ cũng được nữa nhưng nếu muốn đi Đài Loan thì phải băng qua hải vịnh , lúc đó chúng ta có thể sử dụng cái công cụ giao thông trên lục địa không ? Đương nhiên là không được , cho nên muốn đi Đài Loan nên đi bằng cách ngồi máy bay hay ngồi thuyền . Vì thứ đó là dụng cụ dùng để vượt qua không gian ; ngồi thuyền mới có thể qua biển , đáp máy bay mới có thể xuyên qua không gian .

Cho nên nếu chúng ta muốn thoát khỏi thế giới này thì không thể sử dụng công cụ của thế giới này và cái ngôn ngữ của thế giới này , hể thuộc về thân khẩu ý đều là công cụ của thế giới này , công cụ của phàm phu . Vì niệm Phật A Di Đà hay Chúa giê Su đều dùng ngôn ngữ của thế giới để niệm , kinh điển cũng là dùng ngôn ngữ của thế giới mà viết ra , dùng các thứ này đều là vô thường , dùng cái pháp môn vô thường đương nhiên vẫn còn trong vô thường .

Vì sao âm thanh quan trọng đến thế ? Bây giờ Sư Phụ xin giải thích thế giới phàm phu đối với chúng ta có ảnh hưởng gì , rồi sau đó mới so với ảnh hưởng bất khả tư nghì của siêu thế giới .

Chúng ta đều biết trẻ thơ lúc mới ra đời rất thích âm thanh cho nên mỗi lúc nó khóc người mẹ sẽ ru con , nó liền thôi khóc , nếu nó khóc nữa , người mẹ sẽ rung cái lục lạc hay cho nó những đồ chơi có thể phát ra âm thanh , nó liền nín khóc .

Vì sao trẻ thơ thích âm thanh ? Vì lúc nó còn trong bụng mẹ , nó tiếp nối với cái tiếng vô hình của siêu thế giới , nó tiếp nối với "Thương Đế" , "Lực Lượng Nguyên Bản" hay là "Phật lực" , tức là lực lượng của "tạo hóa" . Thai trong bụng không có ăn gì hết , trong đó không có không khí , không có mặt trời và thân mình trở ngược cũng không chết , nó không phải là cá nhưng nó có thể bơi trong nước , ở bụng mẹ mà không bị chết ngộp , tuy không dùng thức ăn nhưng vẫn trưởng thành rất mau ; nếu như sau khi sinh nó ra , tốc độ trưởng thành của nó cũng như trong bụng mẹ , nó đã cao lớn tới trần nhà rồi (đại chúng cười) , hiểu không ?

:hug:

Nhím Hoàng Kim
06-14-2007, 03:38 PM
Vì lúc nó còn trong bụng mẹ , nó đã ở chung với cái âm thanh siêu thế giới này , cái tiếng này nuôi dưỡng nó , bảo hộ nó , sau khi nó ra đời , cái tiếng này bứt mất rồi , cho nên nó rất khổ , không ưa thích , lập tức cảm thấy cô đơn , sợ sệt , đau khổ cho nên lúc nó ra đời nó liền khóc , không có 1 đứa nhỏ nào , khi mới sinh ra đã cười , lúc quí vị ra đời khóc hay cười ? (Có người đáp : Đương nhiên là khóc) . Đúng , phần nhiều điều khóc , tại vì đã mất liên lạc với cái lực lượng dưỡng sinh này , cho nên đối với nó , nó cảm thấy rất cô đơn , đau khổ , cái thân thể rất nhạy cảm của nó tiếp xúc với không khí của thế giới này , cũng cảm thấy rất đau đớn cho nên mới ra đời là khóc rồi nhưng bởi vì nó không biết nói chuyện cho nên chúng ta không biết được .

Trẻ thơ , khi nó nghe được những tiếng gì , nó sẽ tưởng rằng đó là tiếng trong bụng mẹ cho nên tạm thời cảm thấy an ủi , mới ngừng khóc . Có người tinh thần hơi yếu vào nằm bệnh viện bác sĩ cũng cho họ nghe các loại nhạc êm dịu , giúp cho tinh thần họ an định 1 chút . Chúng ta làm việc cả ngày rất mệt , về nhà rồi , nghỉ 1 chút , nghe âm nhạc , có cảm thấy thư thái hơn không ? Cho nên trong thế giới của chúng ta âm nhạc rất là quan trọng ; từ xưa đến nay âm nhạc đối với con người đều rất cần thiết , thứ âm nhạc của phàm phu này đối với chúng ta đã quan trọng như vậy , nếu như là âm thanh của siêu thế giới đối với chúng ta nhất định càng quan trọng , càng cần thiết ngần nào !

Cuối tuần , trong nhà tuy có máy truyền hình , có ra-đi-ô , có nhiều băng video hay là nhạc để nghe nhưng chúng ta vẫn thích đi ra ngoài , đi đến 1 chổ thiên nhiên hơn , nghe chim hót , nghe nước chảy , nghe sóng biển , nghe gió thổi trên cây , nghe tiếng mưa rơi trên lá , nghe tiếng cóc , nghe tiếng trùng kêu ... chúng ta cảm thấy rất thoải mái , còn thoải mái hơn nghe âm nhạc nhân tạo .

Có người không phải vì chịu hết nổi cái bầu không khí ồn ào trong thành phố nên mới nuôi chim , mèo , chó trong nhà hoặc trồng rau , trồng hoa mà là vì chúng ta rất ưa thích bầu không khí thiên nhiên , âm thanh của thiên nhiên . Vì chúng ta không thể thường thường lên núi nghe chim hót hoặc nghe gió thổi , nước chảy cho nên mới trồng những thứ hoa lá , nuôi những chim trời để ít nhất nó cũng tượng trưng 1 chút ít của bầu không khí tự nhiên , thích hợp hơn với cái bản tánh bên trong của chúng ta , có thể an ủi cái tâm thần của chúng ta 1 chút , nếu không , sợ rằng chúng ta sẽ chịu không nổi cảm giác ngột ngạt , khô khan . Cho nên ngày nay bất cứ nước nào cũng đều coi trọng về sự bảo vệ thiên nhiên , phong cảnh tự nhiên ; nhiều nước cấm người dân đốn cây , cấm săn bắn , sát hại động vật , đó đều là vì muốn bảo vệ cái thế quân bình của vạn vật , bảo vệ cái sinh thái tự nhiên .

Cái âm thanh của thế giới phàm phu này đối với chúng ta đã có sức hấp dẫn như thế nhưng chúng ta nên biết rằng còn 1 thứ âm thanh siêu thế giới "bất khả tư nghì" , có sức "vạn năng" , có thể giải quyết các khát vọng và vấn đề của chúng ta . Tại vì sao ? Bởi vì chúng ta và vạn vật đều được sáng tạo ra từ cái âm thanh này nên Thánh Kinh có nói :" In the beginning was the 'word' (sound) , and the word was with God , and word was God , everything was made by this , and nothing was not made by this ."

Quí vị về nhà coi Thánh Kinh thì sẽ hiểu . Ý nghĩa của nó nói lúc vũ trụ mở đầu thì đã có âm thanh này , WORD ý nghĩa nó là âm thanh , âm thanh này cùng chung với Thượng Đế , "Âm Thanh" này tức là "Thuợng Đế" , vạn vật trong vũ trụ đều sinh ra từ cái âm thanh này , không có vật gì mà không phải từ nó ra .

Phật Giáo cũng có nói đến cái tiếng này , Kinh Lăng Nghiêm có nói , Chư Phật nhờ cái "âm lưu" này đến độ chúng sinh . Bồ Tát và chúng sinh nhờ cái "âm lưu" này trở về nguyên bản . Kinh Phổ Môn cũng nói đến :" Phạm Âm , Hải Triều Âm , Thắng Bỉ Thế Gian Âm ." Phẩm "Pháp Sư Công Đức" trong Kinh Pháp Hoa cũng có nói đến cái nội âm này , ví dụ như tiếng chuông , tiếng trống , tiếng phèn la ... đều là nội âm nhưng những thứ tiếng đó vẫn chưa phải là tiếng của đẳng cấp cao , nó chỉ là tiếng của cảnh giới sơ bộ mà thôi , còn thứ tiếng của đẳng cấp cao Sư Phụ không thể nói ra đây .

Cái âm thanh của đẳng cấp cao tương trưng cho cái thế giới của đẳng cấp cao , nếu chúng ta nghe được thứ tiếng đó toàn con người sẽ cải biến , cái âm thanh này sẽ ảnh hưởng đến cả sinh mạng của chúng ta , cải biến cái cách sinh hoạt hằng ngày của chúng ta , tháo bỏ cái ràng buộc của nghiệp chướng , để cho chúng ta cảm thấy thoải mái được giải thoát . Thứ ảnh hưởng này trong thời gian ngắn sẽ có thể nghiệm được , không phải chờ tới mấy năm mới có thể thấy sự thay đổi . Bởi vì không những cái màng nhỉ của chúng ta nghe cái âm thanh này , mà cái ý niệm xấu của chúng ta cũng sẽ được cái âm thanh này rửa sạch . Cái nghiệp chướng hay ấn tượng không tốt của chúng ta đã bị thâu nhận từ các kiếp trước đều sẽ được nó rửa sạch , cũng như nước có thể rửa sạch bụi dính vào quần áo của chúng ta . Nội âm của chúng ta cũng sẽ giúp đỡ chúng ta rửa sạch cái nghiệp chướng của chúng ta .

:nhim:

Nhím Hoàng Kim
06-16-2007, 12:20 PM
Nghiệp chướng là gì ? Nó là để chỉ đến cái sự không tốt , chỉ những việc xấu mà chúng ta đã làm hoặc là những ấn tượng xấu ở ngoại cảnh mà chúng ta đã vô tình thâu nhận từ kiếp trước , tuy rằng cúng ta không biết nhưng đầu óc của chúng ta đã thâu nhận tất cả vào trong , đó là cái mà Phật Giáo gọi là "nghiệp chướng" và Thiên Chúa Giáo gọi là "nguyên tội" hay "tội tổ tông truyền" . Chúng ta sinh ra đời là đã có tội hay nói cách khác là đã có nghiệp chướng của kiếp trước , chúng tôi sẽ giảng nghĩa cho quí vị tham khảo trong giây lát . Sư Phụ đã có nói qua ở 1 nơi khác , bất cứ tôn giáo nào cũng có nhắc đến Pháp Môn Quán Âm , họ chỉ dùng danh từ khác nhau mà thôi , thật ra tất cả đều chỉ về cái nội âm mà thôi . Chúng tôi sẽ phát ra phần tài liệu về vấn đề này , quí vị có thể đem về tham khảo . Bây giờ Sư Phụ không nói dài dòng nữa , chỉ nói vấn đề chánh là cái công dụng của cái nội âm này .

Vì sao cái âm thanh này có thể rửa sạch cái nghiệp chướng như núi của chúng ta ? Bởi vì mọi thứ đều được sinh ra từ cái âm thanh này , cái âm thanh này là 1 thứ chấn động , 1 thứ lực lượng lớn , cái âm thanh của đẳng cấp cao phải dùng trí "trí huệ bên trong" mới nghe được , còn âm thanh của đẳng cấp thấp thì biến thành tiếng chim , tiếng nước , tiếng gió , tiếng sấm , còn ở trên thế gian này thì nó biến thành tiếng của thế gian . Cảnh giới cao 1 chút thì có âm thanh cao 1 chút nhưng vì phàm phu chúng ta thuộc về người của thế giới này cho nên không thể nghe âm thanh của đẳng cấp cao , nếu muốn nghe thì phải nâng cao cái đẳng cấp của chúng ta , tương đương với người của thế giới cao đó mới nghe được .

Hiện giờ trong phàng này , quí vị chỉ nghe được tiếng của Sư Phụ , nếu muốn nghe tiếng sóng biển thì làm sao ? Có phải nên đi đến bờ biển mới nghe được không ? Giống như vậy , nếu chúng ta muốn nghe âm thanh của đẳng cấp cao , muốn thấy cái cảnh giới của đẳng cấp cao , thì phải lên đến đó , nhưng muốn đến đó thì dùng phương pháp gì ? Phải dùng cái "âm lưu" này mới có thể nghe được . Thế giới nào cũng bị cái âm thanh này buộc dính liền nhau , bởi vì tất cả đều từ âm lưu này mà ra . Cho nên chúng ta dùng "âm thanh" để rửa đi cái nghiệp chướng để trở về cái nguyên bản vốn không có nghiệp chướng của chúng ta . Ví dụ chúng ta đã luân hồi nhiều lần rồi cho nên có rất nhiều nghiệp chướng , nhưng kiếp đầu tiên nhất , do đâu mà có nghiệp chướng ? Cho nên vốn không có nghiệp chướng . Vì mọi thứ đều sinh ra từ cái âm thanh này , cho nên nếu như chúng ta phạm tội , cũng vì bởi ảnh hưởng của tình trạng mới tạo thành , nếu là bất cứ cái gì cũng biến hoá từ cái âm thanh này mà ra , thì cái "tội" cũng không thể ngoại lệ , bởi vậy tội vốn không phải là lỗi lầm của chúng ta , có hiểu ý của Sư Phụ không ?

Tuy rằng bây giờ quí vị nghe Sư Phụ nói , nghiệp chướng của quí vị vẫn chưa có được tiêu trừ mau như thế , quí vị chỉ mới nghe hiểu mà thôi , nếu muốn tiêu trừ nghiệp chướng , vẫn phải dùng cái âm thanh này mới có thể rửa sạch , đương nhiên , nghe Sư Phụ giảng kinh cũng có thể tiêu trừ đi 1 số nghiệp chướng thô lậu , tuy không thấy đượ cũng không sao , Sư Phụ không có hy vọng quí vị tin , nhưng chỉ muốn cho quí vị hiểu biết , cho nên mới nói 1 ít , để cho quí vị tham khảo .

Gặp Sư Phụ hay theo Sư Phụ ở nơi tu hành , đương nhiên có thể rửa đi 1 số nghiệp chướng nhỏ , thấy không được , sờ không có cảm giác , không thấy cái thứ vi tế và cội gốc của ấn tượng xấu , thì phải dùng cái "âm lưu" vi tế và thấy không được mới có thể rửa sạch , vì cái "âm lưu" này có cái lực lượng bất khả tư nghì , nếu như dính được vào nó , bất cứ chỗ dơ nào cũng được rửa sạch .

:music2:

Nhím Hoàng Kim
06-17-2007, 10:51 AM
Lực lượng mà gọi là thấy không được , tức là chỉ cái âm thanh này , mắt thường nhìn không thấy , tai thường nghe không được , phải tự nâng chúng ta đến đẳng cấp cao 1 chút mới có thể nghe được cái âm thanh đẳng cấp đó . Trên thế giới này , chúng ta chỉ có thể nghe được tiếng của phàm phu mà thôi . Ví dụ như tiếng chim , tiếng côn trùng , tiếng sóng biển hay là tiếng am nhạc của thế giới chúng ta ...
Nếu muốn nghe tiếng âm nhạc của đẳng cấp cao thì phải trở thành con người của đẳng cấp cao ; muốn thành con người của đẳng cấp cao thì phải tìm 1 vị ở đẳng cấp cao để chỉ đạo , người đó sẽ giúp chúng ta , mở cửa cho chúng ta vào , người đó cũng như hướng đạo viên đã quen thuộc lối đi , người đó biết nhà ở đâu , người đó có chìa khóa , chỉ cần chúng ta muốn đi vào , người đó sẽ mở cửa , có hiểu không ?
Cho nên chúng ta nên đi tìm minh sư , nếu muốn đi lên dẳng cấp cao , đọc kinh không có giúp ích nhiều , chỉ có thể đạt được đến dẳng cấp nhỏ thì bị ngừng tại đó ; cái lợi của đọc kinh , đôi khi chỉ là để cho tâm hồn của chúng ta dễ chịu một chút mà thôi . Nhưng nếu muốn siêu thoát , phải tìm minh sư , người mà có chìa khóa đó sẽ mở cửa ở cảnh giới cao cho chúng ta đi lên , sẽ biết cửa ở nơi nào , chỉ cần mở , chúng ta sẽ lập tức thể nghiệm được cái âm thanh của cảnh giới cao và tình trạng tâm linh của cảnh giới đó .
Vì sao Sư Phụ nói rằng "nghiệp chướng" không phải là lỗi của chúng ta , vì sao nghiệp chướng vốn là không ? Vì như vừa mới nói , mọi thứ đều sinh ra từ cái âm thanh này , nghiệp chướng cũng là tự nó "tự tạo" mà thôi , cho nên chúng ta nên để cho nó tự sửa lấy cái lầm lỗi của nó . Đúng vậy mà ! Bây giờ quí vị đã hiểu được tại sao chúng ta vốn không có nghiệp chướng ? Vốn không có tội lỗi chưa ?
Ví dụ 2 ngày trước , có 1 vị đồng tu (chỉ đệ tử của Sư Phụ) là 1 y sĩ , nghe Sư Phụ nói lúc nhỏ Sư Phụ rất thích ăn trái xương rồng , đệ tử ấy liền đi mua cho Sư Phụ ăn ; quí vị đều biết , trên trái đó có rất nhiều gai , vị đó gọt vỏ cho Sư Phụ ăn , Sư Phụ thấy vị đó rất thành tâm cho nên ăn vào , rốt cuộc bị 1 cái gia nhỏ , ngó thì không thấy , chích vào lưỡi lúc đó cảm thấy rất đau , cái đau đó từ đâu ra ? Có phải vốn đã có hay không ? Không phải , mà là tại vì cái gai đó nó đâm vào trong lưỡi cho nên mới thấy đau , bây giờ làm sao mới có thể làm mất cái đau ? Có phải đi mua aspirine không ? Nếu như nhức đầu thì có hiệu nghiệm , nhưng cái đau này không phải từ trong , nó là cái đau ở ngoài , vậy phải làm sao ? Chúng ta sẽ nói :" Thì chỉ cần nhổ ra là được rồi !"
Chúng ta thường nói mình có nghiệp chướng nhưng làm sao biết được ? Vì đời sống rất khổ , có lúc không có lý do cũng có đau khổ , tuy sinh hoạt rất tốt , có tiền , có chồng , có vợ , có con , mới nhìn thì thấy rất tốt nhưng cũng rất đau khổ bởi vì chúng ta bị cái ảnh hưởng nghiệp chướng của quá khứ , rồi lại bởi vì chúng ta mất liên lạc với cái đại lực lượng nguyên bản này , cho nên cảm thấy tất cô đơn , rất bất mãn cho chúng ta bất cứ thứ gì trên thế gian này đều không thể vừa lòng người , cho dù là quốc vương của 1 nước cũng không mãn ý , quí vị có thấy 1 vị quốc vương nào hoàn toàn sung sướng không ? Địa vị càng cao thì trách nhiệm càng nặng . Cho nên chúng ta thấy rằng người có địa vị cao thì họ không thể an hưởng hạnh phúc được .
Bởi vì cái địa vị trên thế giới này không phải là cái quả vị cứu cánh , không phải thứ mà chúng ta cần , cho dù làm 1 vị thủ tướng của 1 nước , nhiều lắm cũng chỉ làm được 50 năm mà thôi , chúng ta sống được 100 năm là đã quá thọ rồi . Cho nên vật của thế tục không có cái gì là vĩnh viễn , bởi thế tâm của chúng ta mới vẫn không thấy an toàn , mỗi ngày đều cảm thấy buồn bực không vui , chỉ có hợp chung với cái âm thanh nguyên bản mới cảm thấy an vui mà thôi .

:love5:

Nhím Hoàng Kim
06-18-2007, 03:05 PM
Ví dụ như chúng ta vốn là 1 người có đầy đủ tay chân , nếu như có người mất đi 1 cánh tay thì cánh tay đó có vui không ? Tuy rằng nó vẫn là cánh tay của chúng ta , không có thay đổi nhưng nó đã lìa khỏi cái thân hình của chúng ta , không còn hoạt động nữa , nhìn nó rất cô đơn , khong còn 1 chút sinh khí , qua 1 thời gian rồi nó sẽ chết không thể sử dụng , nếu muốn cánh tay đó hoạt động trở lại thì phải làm cho nó dính liền trở lại với thân thể của chúng ta .

Ở nước Đức , bác sĩ đã có thể giúp cho bệnh nhân nối liền cánh tay , đó là vấn đề ngoại khoa rất phức tạp và rất tinh vi , phải may từng mạch máu , từng đường dây thần kinh , sau 1 thời gian cái cánh tay mới hoạt động tự do như trước , không có gì khác . Lúc đó cánh tay của chúng ta mới hoạt động , mới có sức sống , thân hình và các bộ phận khác của chúng ta mới đầy sinh khí .

Cái linh thể của chúng ta cũng vậy , nếu nó mất liên lạc với lực lượng lớn của vũ trụ , chúng ta sẽ cảm thấy rất đau khổ , nếu như có thể liên lạc trở lại được thì chúng ta rất vui mừng . Khi chúng ta mất liên lạc với cái lực lượng lớn này , chúng ta sẽ có nhiều phiền phức , cũng giống như khi đụng xe , cánh tay bị gẫy vì chỗ bị đụng xe có rất nhiều bụi , sạn và các thứ đồ dơ khác , hoặc là cánh tay bị xe đụng làm biến da.ng thái của cánh tay , đây không phải là lỗi của cánh tay đó , hoàn toàn đều tại vì cái tai nạn đó cho nên mới biến dạng như vậy , có phải không ?

Con người chúng ta cũng vậy , khi chúng ta ra đời , mất liên lạc với cái lực lượng đó , cho nên chúng ta sẽ gặp rất nhiều phiền phức , dù cho chúng ta không muốn , phiền phức cũng sẽ tự động tìm đến chúng ta . Ví dụ có 1 người , họ vốn không phải là người ăn trộm , nhưng bởi vì nhà họ bị động đất hay tài sãn đã tiêu tan , lúc đó người đó biết làm gì đây ? Cầm bình bát đi xin cũng không được , cho nên rất có thể có 1 ngày người đó quá đói , hay là vợ , con bị bệnh và đói , trong lúc nguy cấp , người đó chỉ cón cách đi ăn trộm đồ cho người nhà ăn , đây là tình trạng bị bắt buộc , mới có những hành động ngược với ý muốn , chứ không phải người đó vốn muốn làm như vậy .

Cũng cùng ý đó , chúng ta vốn không có nghiệp chướng , sau khi kết hợp được với cái lực lượng nguyên bản rồi thì không còn nghiệp chướng , cho nên chúng ta nói nghiệp chướng không có thể rửa sạch , nếu còn chưa có nối được với cái "lực lượng" , cái "âm lưu" này , nếu chúng ta gặp được 1 vị sư người đã nối liền với cái lực lượng lớn này , chúng ta tự nhiên cũng hưởng được sức gia trì của vị sư đó . Cho nên Sư Phụ mới nói nghe được Sư Phụ giảng kinh thì cái nghiệp chướng nhỏ cũng sẽ được tiêu trừ , nhưng tốt nhất là mình tự đi tắm trong nguồn nước còn sạch hơn biết bao lần . Tuy rằng Sư Phụ đã nối thông được với nguồn nước đó , có rất nhiều nước cho quí vị , nhưng đối với quí vị , nước đó vẫn có hạn , nếu như Sư Phụ không cho quí vị , quí vị sẽ không có , có phải như vậy không ? Nếu như quí vị nối thông được với cái luồng nước này , biết được chỗ có nước , tự mình muốn lấy bao nhiêu về nhà cũng được , không những tự mình có thể dùng , còn có thể chia cho người khác , như vậy sẽ vĩnh viễn dùng không hết .

Hồi nãy nói cái cánh tay bị đứt , nếu nó không được kết hợp cái thân này , nó sẽ càng ngày càng xấu , lần lần biến đen , tế bào sẽ chết dần , nếu để lâu quá thì không còn kết hợp lại được nữa . Sư Phụ không biết các nước khác có thể làm y thuật tinh xảo như vậy không ? Ở Đức , nếu như có 1 người bị tai nạn , bị đức cánh tay , họ liền lấy nước đá và túi ni lông bao cánh tay lại , sau đó mới đem cánh tay cùng người đó đến bệnh viện dặc biệt đó mà nối ráp cánh tay vào thân thể nạn nhân .

Ở Đức không có nhiều bệnh viện có thể làm như vậy , chỉ có 1 số ít bác sĩ biết cái y thuật đó , vì muốn làm y thuật kết hợp cần phải cố gắng học tập , ít nhất phải 12 năm mới có thể làm cái thủ thuật kết hợp tinh vi đó , đem mỗi sợi dây thần kinh và gân máu may trở lại , nếu không thì máu không có thể lưu thông , tế bào sẽ bị chết rất mau và mất đi cái công năng . Cho nên làm việc đó phải học tập rất nổ lực . Ở Đức người ta coi bác sĩ đó như thần thánh , rất tôn kính ; bệnh nhân đương nhiên càng tôn kính họ hơn .

:om:

Nhím Hoàng Kim
06-19-2007, 02:40 PM
Thứ y sĩ chữa bệnh đó rất ít , bởi vì họ không những phải nổ lực học tập , lúc làm việc lại càng cực khổ , đứng đó không cục cựa đến 16 18 tiếng đồng hồ , hoặc hơn thế nữa , tinh thần hoàn toàn chăm chú , không thể đổi người , có lúc cuộc giải phẩu chưa hoàn tất , họ không thể đi nghĩ , cũng không thể đi ăn cơm . Họ phải hết sức cẩn thận , may từng sợi từng sợi một , vì bên trong còn có xương , cho nên phải may lại tất cả , sau đó mới có thể phục hồi công năng , hoạt động trở lại như trước , điều này có phải là ảo thuật không ? Sau khi kết hợp rồi , máu mới bắt đầu lưu thông , màu da mới dần dần trở nên hồng hào .

Tình trạng của chúng ta cũng vậy , cùng lắm sống được 100 năm mà thôi , nhưng lại có rất nhiều đau khổ , rất nhiều phiền não , tuy rằng có tiền , có vợ đẹp , có nhà sang , có việc làm tốt nhưng vẫn cứ không vừa ý vì đã gián đoạn với cái "chân lý" lớn này rồi , cũng như cánh tay bị đứt đó , nếu không mau mau may lại cho kịp , qua 1 thời gian , sẽ bị hư chết , biến thành vật phế thải , liệng trong đống rác , hôi thúi đến không ai dám đến gần , chỉ còn cách đem chôn dưới đất .

Chúng ta cũng như vậy , cần có 1 vị minh sư giúp chúng ta may nối lại , để cho con người cô đơn của chúng ta nối liền với cái "chân lý" của lực lượng lớn , cái chân thể của đại lực lượng này , có người gọi nó là "Thượng Đế" tối cao , có người xưng là "Phật tâm" , "bản tâm" , "đạo" hay là "đại ngã" , "Đại trí huệ" ... Bây giờ chúng ta là "tiểu ngã" thuộc 1 phần nhỏ của cái "đại ngã" này , bởi vì đã chia rời với "đại ngã" , cho nên mới đau khổ như vậy , mới tịch mịch , cũng như cánh tay bị đứt nhìn nó rất là khô khan và buồn thảm , không có 1 chút sinh lực , khi chúng ta may liền nó trở lại , máu chảy đều hòa khắp rồi , cánh tay liền hồi phục hoạt động rất mau .

"Âm lưu" cũng giống như vậy , nó nối liền hết tất cả cái vũ trụ , không có 1 thứ nào không ở trong cái âm lưu đó , nhưng mà chúng ta mất liên hệ với nó , chỉ còn dư 1 chút liên hệ mà thôi , nếu còn chưa may dính lại , chúng ta sẽ hoàn toàn bị gián đoạn với cái âm lưu này rất nhanh , cho nên chúng ta mới luân hồi , bị rơi vào "lục đạo" đau khổ vô ngần . (Lục đạo bao gồm : thiên , nhơn , a tu la , ngạ quỉ , địa ngục , súc sinh) , không thể đi lên thượng cảnh .

Muốn trở thành 1 y sĩ chuyên môn may nối tay chân con người không phải dễ . Phải là 1 y sĩ xuất sắc , và phải có cái "tâm từ bi" vị tha , mới được lựa chọn , được chọn rồi , còn phải chờ đợi 1 thời gian dài , mới có thể huấn luyện thêm 1 bước , vì số thầy có thể dạy môn này rất ít , nếu như học sinh nhiều , thì chỉ đứng 1 bên coi mà thôi , không có cơ hội thực sự ra tay thực tập cho các học sinh xem .

Ở bên Đức có 1 bệnh viện loại đó cho nên rất là nổi tiếng . Nếu muốn đến đó học , phải đợi cả mấy năm mới vào được , ngoài thầy giáo không tính , học sinh muốn thực tập phải đợi rất lâu mới có thể thực tập được 1 lần . Vì số người quá nhiều nên phải thay phiên nhau , 1 bên quan sát , 1 bên tự mình ra tay tập luyện , sau này mới có thể trở thành người thầy . Cho nên muốn học cũng không dễ dàng , muốn trở thành thứ y sĩ chuyên môn đó càng không phải dễ , còn muốn nổi danh thì càng khó nữa . Bởi vì khi mà đã học thành tài rồi , không những có năng lực cứu người , còn phải có năng lực dạy người khác nữa , cho nên chúng ta có thể hiểu được , đó là lý do tại sao mà người ta cư xử người đó như thần thánh vậy , và họ được nhiều người khác kính trong họ , lẽ dĩ nhiên , những người đó đáng được cái vinh dự đó .

Muốn may hợp 1 cánh tay đã không dễ như thế , muốn may hợp 1 "linh hồn" đương nhiên càng khó hơn . Nhưng y sĩ đó lúc tiến hành y thuật rất là khổ , cả ngày đứng ở đó , 1 lời cũng không thể nói , không dám động đậy , thời gian cũng rất có hạn , bởi vì khi cánh tay bị đứt và khi được đem vào bệnh viện thì đã bị chậm trễ rất nhiều thời giờ , bị đong lạnh trong tủ lạnh rất lâu , nếu mà kéo dài thì giờ sẽ mất đi sức sống , không thể dùng được nữa . Trong cái tình trạng không đủ y sĩ , nhân viên , rồi còn phải tranh thủ thời gian , lẽ dĩ nhiên rất khổ , đứng đó mười mấy tiếng đồng hồ , không thể nghỉ ngơi , tất cả tinh thần đều tập trung vào đó . Người y sĩ đó vốn đâu cần phải khổ như thế , có phải không ? Nhưng vì bệnh nhân cho nên mới chụi khổ cực như thế , học tập rất là khổ , lúc làm việc càng khổ hơn , càng lúc càng khổ , cũng chỉ vì cứu bệnh nhân mà thôi .

:love3:

Nhím Hoàng Kim
07-02-2007, 07:54 PM
Người y sĩ lúc đi học , không vì lợi ích bản thân mình , người đó đâu thể nào tự may lấy mình được , cho dù người đó có bị thương đi nữa , cũng không cách nào tự may lấy được . Lúc người y sĩ đó còn học , trong đầu óc không có cái "ta" trong đó , toàn cái ý niệm là vì người khác , mới đi học cực khổ , học thành tài rồi , vẫn còn phải khổ như thế , phải ở trong phòng mổ chịu khổ cho bệnh nhân . Một vị Minh Sư cũng như thế , lúc cứu người cũng phải chịu rất nhiều đau khổ , gánh nghiệp chướng cho chúng sinh , để cho nghiệp chướng của chúng sinh được sạch nhưng tự mình phải chịu ảnh hưởng của bầu không khí xấu đó . Bệnh nhân đương nhiên lần lần khoẻ hẳn , nhưng vị y sỹ thì càng lúc càng mệt , vì phải tập trung tư tưởng , vì lo âu cho bệnh nhân . Nhưng y sỹ không bao giờ oán trách , vì đó là công việc của họ , là họ tự ý đi làm . Cho dù họ có khổ cách mấy , chỉ cần mỗi lần giải phẫu bệnh nhân , được thành công là họ cảm thấy rất vui mừng rồi .

Từ xưa đến nay các vị đại minh sư đều như thế , đi học thành rồi thì đem trí tuệ , lực lương , phước báu của mình chia hoàn toàn miễn phí cho người khác , cho càng mau càng tốt , cho nên rất là cực khổ . Nếu như quí vị muốn trở thành thứ y sỹ của linh hồn , hay là y sỹ của tinh thần , hoan nghênh quí vị đến học với Sư Phụ . Có lẽ sau này quí vị làm việc còn giỏi hơn Sư Phụ , bởi vì có người học rất hay , học xong rồi , không biết chừng nào còn giỏi hơn Sư Phụ . Bởi vì Sư Phụ nghĩ rằng Sư Phụ làm việc không mấy tốt , cho nên rất ưa thích có nhiều người đến học , về sau mới lợi cho thêm nhiều người . Bởi vì thứ y sỹ may nối linh hồn rất ít , nếu có nhiều người học càng tốt , còn có rất nhiều bệnh nhân đang chờ đợi chúng ta đến cứu họ .

VẤN : Xin hỏi Sư Phụ , ngày đầu tiên con đến nghe kinh , sau khi về nhà , vừa đọc chương trình của các ngày Sư Phụ thuyết pháp vừa ăn quà của Sư Phụ ban cho , con hình như cảm giác có một lực lượng ở bên trong . Xin hỏi Sư Phụ lực lượng đó có phải là từ đồ ăn của Sư Phụ ban cho hay không ?

ĐÁP : Nếu quí vị đã cảm thấy được thì còn hỏi làm cho ? Quí vị đã tự biết rồi phải không ? (tất cả cười) . Ăn quà của Sư Phụ ban cho dĩ nhiên là có lực lương rồi , nếu không , quí vị làm sao mà cảm thấy được ? Đọc hay là nghe băng thuyết pháp đều có lực gia trì . Ăn quà của Sư Phụ ban cho rất nguy hiểm , sau này đừng ăn nữa (tất cả cười) , ăn xong rất có thể không còn trở về cái thế giới này ; nếu ai mà muốn trở về thì đừng nên ăn .

VẤN : Hồi xưa con có tập ngồi thiền và đã từng nghe âm thanh nhưng con lập tức ngưng ngồi , tại vì con sợ có ảnh hưởng không tốt .

ĐÁP : Âm thanh có tốt có xấu , nếu quí vị không học theo một minh sư thì không thể nào phân biệt tốt xấu cho nên thái độ của quí vị là đúng . Nếu muốn biết tốt hay xấu thì đến học theo Sư Phụ nhưng mà Sư Phụ không thể ở đây công khai nói , truyền pháp là không nên công khai vì ở đây có nhiều người không muốn học , Sư Phụ cũng không muốn miễn cưỡng mang chuyện của chúng ta nói cho họ nghe . Truyền pháp là một chuyện rất trang nghiêm , rất thiêng liêng , không nên coi thường , càng không phải là vì thu nhiều học trò nên truyền cho có lệ . Phải coi người , chỉ có người chân chính khát vọng một đời giải thoát , có trí huệ , có thể hiểu cái Pháp Môn Quán Âm là vô giá , biết quí trọng nó , biết cố gắng tu hành , mới đáng để Sư Phụ truyền pháp , hiểu ý Sư Phụ không ?

:kiss6:

Nhím Hoàng Kim
07-03-2007, 05:48 PM
Ánh Sáng Siêu Thế Giới

Ngày 25-4-1987
Peng Hu



Hôm nay , Sư Phụ cũng nói về Pháp Môn Quán Âm nhưng hơi khác với những gì Sư Phụ đã nói từ hôm qua ; hôm nay Sư Phụ nói về ánh sáng của âm thanh . Lúc nãy chúng ta hát bài ca tụng A Di Đà , Phật A Di Đà tiếng Phạn là AMITABHA , và cũng có nghĩa là Vô Lượng Quang . Cái Vô Lượng quang này từ đâu ra ? Nó cũng từ cái âm thanh này ra . Do cái âm thanh vi tế biến ra thành ánh sáng , đối với chúng ta mà nói , ánh sáng cũng rất quan trọng . Hôm nay nói đến cái ánh sáng , nó cũng rất quan trọng , điểm này chắc quí vị cũng đã biết rồi .

Không có đèn chúng ta không thể sinh hoạt , không có mặt trời chúng ta không thể tồn tại , không thể trồng trọt , vitamin D không đủ , trẻ thơ không thể trưởng thành ... cho dù ban đêm thì cũng nên có mặt trăng . Ngày xưa , cổ nhân dùng đèn dầu , thời nay chúng ta dùng đèn điện . Vì sao hôm qua nói đến âm thanh và ánh sáng ? Vì sao giữa âm thanh và ánh sáng có quan hệ với nhau , muốn tu Pháp Môn Quán Âm thì phải thì phải tu pháp môn Quán Ánh Sáng . Từ xưa đến nay , bất cứ tôn giáo nào , minh sư nào cũng đều nhấn mạnh vào cái "Ánh Sáng" . Hôm nay Sư Phụ nói về "Ánh Sáng" để cho quí vị rõ ràng minh bạch .

Bất cứ bậc đại tu hành nào cũng đều nói đến ánh sáng . Chữ "Ngô." có hàm ý "Minh" . Minh gồm có chữ Nhật và chữ Nguyệt , ý của nó là sáng sủa , không có ánh sáng làm sao có thể khai ngộ ? Cho nên khai ngộ hàm ý là có ánh sáng , thấy được ánh sáng , tự mình phát minh ra ánh sáng , hoặc là mình tiếp nosi được với ánh sáng này . Ánh sáng đèn cũng rất quan trọng , hôm qua Sư Phụ có nói đứa nhỏ đang khóc mà nghe được tiếng lục lạc là nín ngay . Có lúc trẻ thơ khóc là tại mình tắc đèn , 1 mình nằm trong bóng tối nó sẽ sợ hãi và khi bật đèn lên thì nó không còn sợ nữa , hoặc là cho nó xem đồ chơi có màu sắc tươi sáng , nhiều màu sắc lấp lánh , rực rỡ và khi đứa bé nhìn thấy thì liền ngưng khóc .

Cho nên ánh sáng và âm thanh đối với chúng ta khởi từ lúc nhỏ đã quan trọng lắm rồi . Tại sao ? Vì đứa bé lúc còn trong bụng mẹ , đứa bé đã có quan hệ với ánh sáng , cái ánh sáng này đã nuôi lớn nó . Ánh sáng và âm thanh cũng là 1 thứ nhưng chỉ khác nhau ở phẩm chất mà thôi .

Ví dụ như nước và nước đá hay là nước và không khí . Trong không khí có H2O , nước cũng như vậy nhưng nước không phải là không khí ; không khí cũng không phải là nước nhưng chúng ta đều cần 2 thứ đó , chúng ta cần có không khí đề thở , chúng ta cần nước để uống , để nấu ăn , để tắm , nước còn có rất nhiều công dụng cho nên chúng ta đều cần 2 thứ đó . Thành phần của 2 thứ đều là sự kết hợp của khinh khí và dưỡng khí nhưng nước không phải là không khí và không khí cũng không phải là nước . Lúc chúng ta khát nước , chúng ta cũng không thể uống không khí . Lúc thở chúng ta cũng không thể bằng nước , tuy rằng khi chúng ta bơi lội cũng tiếp xúc với H2O nhưng chúng ta cũng cần có dưỡng khí , cần hít thở , nếu không thì chỉ trong thời gian ngắn , chúng ta sẽ bị chết ngộp .

Trong thế giới này , cho dù có dễ chịu đến đâu , có thanh nhàn đến đâu , tối đa chúng ta cũng chỉ có 100 năm mà thôi , huống chi đời sống chỉ là "khổ nhiều vui ít" không có gì là tốt đẹp . Nhưng có nhiều người cất nhà kiên cố là lớn lao , bên trong được trang trí rất hoa lệ , như để chuẩn bị vĩnh viễn ở trong đó , rốt cuộc cũng không có thời gian để ở , người có trường thọ phú quí đến đâu , tối đa cũng chỉ có thể ở 100 năm , rất dáng tiếc ! Cung điện trong người chúng ta rất đẹp đẽ , rất kiên cố , có rất nhiều đồ tốt nhưng chúng ta lại không biết hưởng thụ mà lại chạy đuổi theo đời sống vô thường ở bên ngoài . thật là đáng tiếc .

Ánh sáng và Âm thanh đối với chúng ta rất quan trọng , không có ánh sáng chúng ta không thể sanh tồn , không có mặt trời thế giới này không thể nào tồn tại , chúng ta đều biết điều này . Ngay cả đứa nhỏ cũng rất ưa thích mặt trời , cũng rất ưa thích nững đồ vật trong sáng . Cho nên sau khi đứa nhỏ ra đời , nếu có người đến thăm nó , ăn mặc càng sáng lạng , màu sắc càng rực rỡ , đứa nhỏ càng thích nhìn , có phải như vậy không ? Quí vị có con bé tức nhiên biết được , bởi vì Sư Phị quan sát kết quả , và nhận thấy tất cả các đồ chơi của trẻ thơ cũng đều có màu sắc tươi sáng và rực rỡ . Người lớn không bao giờ cho chúng nó các đồ chơi có màu sắc u tối là vì trẻ thơ đều không thích màu sắc u tối và chúng đều ưa thích những thứ đồ chơi có màu sắc tươi sáng lòa loẹt .

Bởi vì sao ? Vì khi đứa bé còn trong bụng mẹ , nó đã tiếp được với loại ánh sáng này . Tuy không ăn gì nhưng nó lớn rất mau , bởi vì đứa bé được cái "Ánh Sáng" này và cái "Âm Thanh" này trưởng dưỡng nó . Nhưng khi nó mới ra đời liền mất đi cái liên hệ với ánh sáng , nếu như quí vị đọc qua quyển "Thai Tạng Kinh" thì sẽ rõ . Trong đó có nói , đứa nhỏ trong bào thai trước khi ra đời , linh hồn của nó đang du ngoạn trong 1 khoãng không gian và thời gian nào đó , và sau cùng thấy được 1 nơi nào đó có ánh sáng , mới chạy vào khoảng ánh sáng đó , và 1 khi đã vào rồi thì thần thức nó nhập vào thai nhi .


:sunny:

Nhím Hoàng Kim
07-04-2007, 08:59 PM
Lúc bào thai còn trong bụng mẹ cái ánh sáng này sẽ tiếp tục chăm sóc nó nhưng khi nó ra đời thì cái ánh sáng này không còn nữa . Ánh sáng trong bào thai của người mẹ rất sáng nhưng không làm đau cặp mắt nó , thân , mình , da , sinh mạng của bào thai đều không có cảm giác đau hay nhức mõi , bởi vì đó là "Phật Quang" , là "Ánh Sáng Như Lai" , "Là Ánh Sáng của bản tính" rất nhu hòa , không tổn hại đến cặp mắt của chúng ta , không làm cho chúng ta sợ hãi , bào thai đã quen sống và nhu hòa với Phật Quang , và 1 khi đứa bé đến thế giới Ta Bà này , tuy rằng ở đây cũng có ánh sáng , như ánh sáng của mặt trời , không khí hay là ánh sáng của bất cứ vật chất nào cũng làm thân thể nó đau nhức , làm cho cặp mắt nó khó chịu , cho nên lúc đứa bé sinh ra cặp mắt không thể mở , bởi vì nó có cảm giác như có rất nhiều kim châm vào mắt , toàn thân mình đều cảm giác như vậy . Không khí của trái đất làm cho thân thể của đứa bé cảm xúc mạnh và rất đau nhức cho nên đứa bé mới khóc . Khóc vì bởi thân thể 1 mặt bị đau nhức , 1 mặt vì bị mất đi sự tiếp xúc với ánh sáng , khi mất đi ánh sáng , nó cảm thấy không còn khoái lạc , không còn thoải mái như lúc còn trong bụng mẹ cho nên nó cảm thấy khó chịu và nó khóc . Sau này nó lớn lên dần , mới quen đi với tình trạng ở bên ngoài , nó liền bớt khóc .

Nhiều đứa bé trong lúc khóc , chúng ta cho nó 1 cái lục lạc nhỏ hay là bật đèn trong phòng tối , nó sẽ cảm thấy rất kinh ngạc liền nín khóc , nó sẽ ngó quanh , tưởng rằng tìm được lại cái ánh sáng đã mất hay là khi nghe được tiếng lục lạc tưởng rằng đã tìm được thứ tiếng bên trong cho nên nó ngưng khóc 1 chập , để ý nghe và ngó nhưng khi cảm biết được đó là giả tạo , không giúp ích gì cho nó , không thể an ủi linh hồn của nó , cho nên nó lại khóc nữa , người lớn lại tìm thứ đồ chơi có nhiều lục lạc hơn , tạo ra cái âm thanh càng nhiều , càng lâu để gạt đứa bé cho nên nó lại ngưng khóc 1 lần nữa , qua 1 hồi nó lại phát giác cũng là giả , nó lại khóc lên . Khóc rồi nín , khóc rồi lại nín . Cả ngày đứa bé đều như vậy .

Có lúc không cần lý do đứa bé cũng khóc bởi vì cảm thấy khó chịu , nó không thể nói chuyện . Nhưng cảm giác của đứa bé từ lúc mới sinh ra rất là nhạy cảm , trí huệ của nó lúc đó cũng rất nhạy cảm và đơn thuần , chỉ cần có 1 chút gì khó chịu , nó tức khắc cảm nhận ngay . Sau khi đứa bé ra đời , chúng ta miễn cưỡng nuôi sống nó chung với đời sống của chúng ta , từ đó đứa bé mới càng lúc càng quen thuộc . Tuy như vậy , khi đứa bé lớn lên vẫn còn ưa thích những đồ sáng và ánh sáng . Cho nên quí vị coi có phải đàn bà có phải rất ưa thích đánh phấn son không ? Đó bởi vì trong quá khứ lúc còn trong tay mẹ , cái tiềm thức của phần ánh sáng vẫn còn lưu lại trong đầu óc .

Cho nên đa số áo quần theo thời trang , màu sắc cũng tươi sáng hơn . Còn nữa , có phải vào mùa hè thân thể của chúng ta cảm thấy dễ chịu hơn , tâm tình thoải mái hơn không ? Còn mùa đông thì rất bực bội , bởi vì màu trời xám tối hơn , không có ánh sáng cho nên thân thể của chúng ta cảm thấy không tốt , tinh thần cũng uể oải khó chịu , đó bởi vì cái ánh sáng bên ngoài không đủ sáng .

Cho nên sau khi chúng ta trưởng thành , vẫn còn tiếp tục tìm những đồ sáng chói , tìm những thứ áo quần dủ màu tươi sáng để mặc . Hôm nay , Sư Phụ mặc áo vàng này cũng để thức tỉnh quí vị cái ánh sáng bên trong của mình . Tại Ấn Độ , các vị tu sĩ đều mặc màu áo đó , hàm ý tiêu biểu của nó là con người sáng , con người có ánh sáng , con người khai ngộ , ít nhất họ có áng sáng mặt trời cho nên màu vàng là đại biểu cho màu sắc khai ngộ .

Người chưa khai ngộ cũng ưa thích màu sắc rực rỡ cho nên quí vị nhìn những chỗ ăn chơi , rực rỡ ánh đèn , có phải đều được trang trí lộng lẫy đủ màu hay không ? Chỗ càng rực rỡ , càng thu hút người , cho dù không có nhiều người đến cũng phải duy trì cái mức độ ánh sáng như vậy mới thu hút người ta đến , có phải như vậy không ? Những chỗ nhấn mạnh về hưởng thụ đều trang trí bằng những thứ ánh đèn , làm như thế cặp mắt chúng ta mới bị thu hút đến đó , cũng như con thiêu thân , thấy ánh đèn liền ùa tới , có lúc gặp đến lửa nó cũng bay đến , có lúc cũng bị chết cháy .

:color: :color: :color:

Nhím Hoàng Kim
07-05-2007, 09:01 PM
Chúng sinh nào cũng đều ưa thích ánh sáng nhưng những thứ ánh sáng này chỉ thuộc về loại ánh sáng bình thường ở phía bên ngoài . Ngoài ra còn 1 loại "Ánh Sáng của Siêu Thế Giới" , chúng ta gọi là ánh sáng tu hành . Người tu hành nào cũng đều có ánh sáng này hoặc ít hoặc nhiều . Cho nên chúng ta mới thấy trên đầu của Phật Thích Ca Mâu Ni , Quán Thế Âm Bồ Tát , Chúa Giê Su Ki Tô đều có ánh sáng bởi vì cái đẳng cấp minh bạch bên trong của họ phát triển đến 1 mức độ nào đó thì có thể phát ra ánh sáng . Cũng như 1 cây cổ thụ , dù cho chúng ta có đứng từ ngoài xa cũng có thể nhìn thấy được . Con người bình thường có ánh sáng hay không ? Cũng có nhưng có người ánh sáng của họ tất là đen tối (Thính chúng cười) . Có người thì ánh sáng của họ như màu nâu , màu xanh dương hay là hơi có chút màu tím hoặc chút màu đỏ , có người thì hơi có màu vàng ... Nhưng những bật đại tu sĩ thì ánh sáng của họ có rất nhiều màu như màu vàng , màu trắng ... nhưng những thứ ánh sáng đó không phải là màu sắc bình thường . Nếu như con mắt trí huệ của chúng ta mở thì chúng ta cũng có thể thấy được . Nếu mắt trí huệ chỉ mở 1 chút , ta chỉ nhìn được 1 tí ánh sáng của họ mà thôi hoặc chỉ nhìn thấy được 1 khoảng mông lung mờ mịt .

Vì sao 1 vị đại tu hành có thứ ánh sáng này ? Ánh sáng này không phải để coi chơi , không phải dùng để trang sức cái thân thể của họ . Ánh sáng này tức là thân mình của họ , bởi vì bên trong cái ánh sáng này có lực lượng biểu hiện ra cứu người , cũng như bảo họ cho người . Nếu như chúng ta được bao bọc trong cái ánh sáng này , chúng ta sẽ cảm thấy rất thoải mái . Cho nên những bật tu hành thường có thứ ánh sáng này và làm cho những người chung quanh cảm thấy rất thoải mái . Nhưng nếu như có người ác tâm hay con người có ma chướng nặng nề sẽ không chịu nổi thứ ánh sáng này , họ sẽ cảm thấy khó chịu , nếu họ đứng cách xa luồng ánh sáng này thì họ mới cảm thấy dễ chịu hơn .

Hôm trước có 1 người nói với Sư Phụ rằng người đó có thể nhìn thấy ánh sáng bao quanh mình của Sư Phụ nhưng người đó cảm thấy không thể lại gần và chỉ có thể đứng xa mà ngó . Nếu khi người đó đứng gần thì liền cảm thấy khó chịu . Người đó nói :" Nếu như miễn cưỡng đứng gần thì rất có thể sẽ bị ánh sáng của Sư Phụ giết mất ." Sư Phụ đáp :" Đâu có việc đó ! Thí chủ có ngồi bên cạnh tôi đi nữa cũng đâu có chết được ! Đó chỉ là bất quá cảm thấy như vậy thôi ." Bởi vì có người , tuy rằng tu hành cũng đạt được 1 chút trình độ nhưng họ vẫn còn ma chướng bên trong , họ vẫn còn có chỗ đen tối chưa được rửa sạch . Tà ma không ưa thích người có ánh sáng , chứ không phải ánh sáng này không ưa thích nó , có hiểu ý Sư Phụ chưa ?

Ví dụ như có người bị phạm tội hay làm điều xấu , khi thấy cảnh sát thì liền cảm thấy có mặc cảm tội lỗi , sợ sệt và muốn chạy trốn . Không phải là cảnh sát biết được họ làm điều xấu , có lúc cảnh sát chưa có thấy được họ thì họ đã chạy mất . Đó là biểu hiện cho 2 thứ quan niệm khác nhau , hai cái đẳng cấp khác nhau và 2 tình trạng khác nhau ; 1 cái là tối đen và 1 cái là sáng trắng . Cảnh sát biểu hiện cho công bình và pháp luật , còn phạm tội biểu hiện cho sự xấu xa và tình trạng phạm pháp cho nên khi thấy cảnh sát họ không ưa thích . Còn những người bình thường khi hội nhập vào thứ ánh sáng nhu hòa đó thì cảm thấy rất là thoải mái . Nhưng những người còn có 1 chút ma chướng đen tối thì khi mới nhập vào liền cảm thấy khó chịu nhưng sau khi tiếp cận nhiều lần thì cũng sẽ cảm thấy thoải mái .

Bởi vì thứ ánh sáng đó sẽ rửa sạch đi chổ đen mà chúng ta gọi là "Nghiệp Chướng" hay là "Ma Chướng" . Sau khi rửa sạch rồi thì người đó không còn vấn đề gì nữa , họ sẽ cảm thấy thoải mái . Có thoải mái hay không đều do cái ma chướng này chứ không phải là ánh sáng nó tự biến đổi hay là người đó tự biến đổi . con người chính của họ vẫn trong sạch và đơn thuần nhưng chỉ vì tiếp nhận những thứ từ bên ngoài vào cho nên người đó mới biến đổi như vậy .

:idea2:

Nhím Hoàng Kim
07-07-2007, 07:20 PM
Thí dụ như chúng ta tắm nước lạnh hoặc tắm nước nóng đều cảm thấy rất thoải mái nhưng mà nếu như chúng ta bị thương hay bị phỏng và nhìn thấy thịt ở bên trong , lúc đó chúng ta tắm rửa có cảm thấy dễ chịu không ? Đương nhiên là không ? , có phải không ? Sư Phụ hy vọng quí vị chưa có cái kinh nghiệm này nhưng quí vị đều hiểu rõ nếu như tự mình bị thương một ít chỉ tắm là đã khó chịu . Sau khi vết thương đã làng rồi thì lúc đó có tắm rửa như thế nào cũng không sao . Sự thật thì nước nó không biến đổi nhưng mà chỗ bị thương của chúng ta tự nó biến đổi .

Người bị ma nhập hay là người không trong sạch cũng như thế . Chỉ cần mới gần gũi vị đại tu hành thì liền cảm thấy khó chịu . Nếu được gần gũi nhiều lần , sau đó sẽ ưa thích và không còn cảm thấy khó chịu nữa cho nên người tu hành không cần cảnh sát bảo hộ cũng được . Chỉ cần mình không muốn , bất cứ người nào khác cũng không có cách nào xâm nhập được , tự nhiên mình sẽ có 1 bức tường bảo hộ , ngăn chặn người lạ xâm nhập . Không phải cái ánh sáng này đẩy người xâm nhập trở ra mà họ tự nhiên sẽ bị đẫy ra bởi vì đồ đen tối tự nhiên nó không thích ánh sáng , có sáng thì không có tối , nếu là ngày thì không phải là đêm . Có hiểu ý của Sư Phụ không ?

Thí dụ như ở Nam Cực và Bắc Cực tối đen lâu đến nữa năm nhưng nếu mỗi ngày mặt trời hiện ra 1 lần , chỉ cần chiếu rọi 1 lần , chung quanh đều có ánh sáng , bất cứ chỗ đen tối nào kéo dài bao lâu , mấy trăm năm hay mấy ngàn năm chỉ cần mặt trời ló ra 1 lần tất cả đen tối đều tan mất , bị ánh mặt trời đuổi đi , bởi vì 2 thứ phẩm chất khác nhau này không thể trà trộn với nhau được .

Cũng như vậy , người tu hành tượng trưng cho ánh sáng trên vũ trụ , người không tu hay người có nghiệp chướng nặng nề tượng trưng cho phương diện đen tối , cái nghiệp chướng này biểu hiện cho cái ảnh hưởng xấu trong quá khứ đã lưu lại nếu như có nghiệp chướng nhiều như thế đương nhiên không thể trà trộn với cái phương diện sáng sủa , cũng như ngày và đêm là 2 phần chia cách . Cho nên người tu hành không cần cảnh sát bảo hộ cũng được .

Bây giờ có người sẽ tự hỏi , đã như thế tại sao Chúa Giê Su vẫn bị người sát hại . Các vị có biết sao không ? Bởi vì Ngài chịu như vậy , Ngài biết ngày đó Ngài sẽ bị sát hại . Vì Ngài muốn gánh nghiệp chướng của đệ tử , Ngài phải hy sinh thân thể của Ngài , để rửa sạch nghiệp chướng giùm cho đệ tử , nếu không thì các đệ tử của Ngài sẽ có rắc rối , tu hành không xong không thể giải thoát được nhưng đây chỉ là lúc Ngài còn tại thế . Hiện tại bây giờ nếu chúng ta tin tưởng Ngài cũng không có ích lợi nhiều , tối thiểu cũng không hữu ích như lúc Ngài còn tại thế

Bởi vì vị Sư Phụ còn tại thế khác với vị Sư Phụ xuất thế . Cũng như y sĩ bây giờ khác với y sĩ thời trước . Hoa Đà tuy là 1 vị y sĩ rất nổi tiếng , chúng ta tôn xưng là thần y nhưng ông ta đã lìa khỏi thế giới này . Chúng ta có tôn kính ông ta đến cách nào , sùng bái họ , họ cũng không thể nào tái xuất hiện để cứu bệnh cho chúng ta . Nếu muốn cứu bệnh cho chúng ta hiện tại thì ta nên đi tìm y sĩ hiện thời .

Cũng như vậy , chúng ta sùng bái các vị đại sư đã qua đời nhưng chúng ta không thể nào nói chuyện với họ , không có cách nào theo họ học được pháp môn gì nên địa vị đại sư tại thế rất là quan trọng : Giê su Ki tô , Phật Thích Ca Mâu Ni , Lão Tử ... đều là những vị đại sư vô cùng nổi danh . Tuy cũng còn nhiều người khác cũng có đẳng cấp như họ nhưng vì không nổi danh cho nên không có người biết đến .

Thí dụ như có 1 số y sĩ đột nhiên trị được 1 chứng bệnh nan y nào đó nên được phổ biến trên báo và trở nên có danh tiếng . Còn nhiều y sĩ khác cũng rất giỏi được tốt nghiệp tại trường y khoa và trị bệnh rất hay nhưng không nổi tiếng cho nên không có người biết đến . Thí dụ trên thế giới này , có rất nhiều người giàu có , đều thuộc hạng tỷ phú nhưng ngoại trừ Rockerfeller , Onassis ... chúng ta còn biết được bao nhiêu người nữa đâu ? Có nhiều người còn giàu hơn họ nhưng không ai biết đến , có lẽ không có lý do đặc biệt để nổi tiếng hay họ không thích nổi tiếng , hay bởi vì họ không có sản xuất gì đặc biệt trên quốc tế cho nên không nổi tiếng .

:57:

Nhím Hoàng Kim
07-09-2007, 02:45 PM
Phật Thích Ca Mâu Ni nổi tiếng bởi vì khi Ngài ra đi rồi có nhiều người có thế lực ảnh hưởng lớn sùng bái Ngài và những người đó dùng cái sức ảnh hưởng của họ truyền bá cái giáo lý của Ngài đến tận các nơi , thành ra 1 tôn giáo lớn trên thế giới .

Chúa Giê Su cũng rất nổi tiếng bởi vì cái chết của Ngài là phương thức đau khổ nhất trên thế giới . Ngài ra đi rồi các đệ tử của Ngài mới đi các nơi hoằng pháp truyền giáo lý của Ngài và lần lần trở nên nổi tiếng . Bởi vì trong lịch sử , Ngài là vị giáo chủ truyền pháp đầu tiên vì gánh nghiệp chướng cho chúng sanh mà phải chịu chết đau khổ trên thập tự giá . Ngài ra đi rồi nhưng vẫn còn hiện hóa thân cho các đệ tử thấy và có nhiều người khác cũng thấy được cho nên Ngài càng ngày càng nổi tiếng . Các vị sư khác , có người đẳng cấp của họ cũng rất cao nhưng không bị chết đau khổ như thế nên không có nổi tiếng như Ngài .

Tuy những đấng cứu thế khác trên đời không có tiếng như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Giê Su Ki Tô nhưng đời đời kiếp kiếp cũng đều có đấng cứu thế đó đến chỉ dạy cho chúng sinh . Nếu không có đấng cứu thế ấy thì thế giới này của chúng ta đã sớm bị hủy diệt rồi , vì đạo đức không đủ , ác nghiệp lại nhiều hơn thiện nghiệp cho nên âm dương không thể quân bình ; mà khi âm dương không quân bình thì thế giới không thể tồn tại và đã biến thành địa ngục rồi . Có hiểu ý Sư Phụ không ?

Địa ngục là gì ? Là 1 chỗ hoàn toàn không có đạo đức , toàn là những người ác ở đó và nơi đó chỉ có việc trừng phạt và đau khổ . Thiên đàng là gì ? Thiên đàng là vui nhiều khổ ít nhưng thế giới của Phật là chỗ tốt nhất vì nơi đó chỉ có cực lạc và không còn khổ não .

Nhìn lại thế giới của chúng ta , vừa có đau khổ cũng vừa có khoái lạc cho nên có âm có dương ; âm biểu hiệu cho sự đen tối đau khổ , dương biểu hiệu cho sự quang minh đạo đức . Bậc đại tu hành thuộc phần của dương , họ có đủ đạo đức , có ánh sáng , có lực lượng , có thể cứu chúng sinh và làm cho cái lực lương thiện ác của thế giới này trở nên quân bình hơn . Họ và các đệ tử của họ chân chính tu hành và làm cho thế giới này trở nên sáng sủa hơn . Nếu không thì ác nghiệp của chúng sinh sẽ nhuộm đen cả thế giới và biến nó thành địa ngục . Phật Thích Ca Mâu Ni , Giê Su Ki Tô , Lão Tử , các Ngài đời đời đều là các vị đại sư , đại biểu cho thứ phẩm chất sáng lạng và làm cho bầu không khí thiện ác của thế giới Ta Bà này hóa thành quân bình .

Ánh sáng đối với chúng ta rất quan trọng , chúng ta thấy người trên trời hay Thiên Thần đều có hào quang vì ma quỷ biểu hiệu cho sự đen tối . Phật và Thiên Thần biểu hiệu cho sự sáng lạng huy hoàng . Trên thế giới Ta Bà này có tối có sáng , cũng như ban ngày và ban đêm vậy nhưng chỗ của Phật thì chỉ có ánh sáng , còn chỗ địa ngục thì hoàn toàn tối đen . Nếu như chúng ta có cách để đi xem địa ngục thì sẽ biết được , nơi đó hoàn toàn không có ánh sáng , tất cả hoàn toàn đen tối . Nhưng ở thế giới của chúng ta thì có đen và sáng trà trộn cho nên có khổ có sướng , có sáng có tối . Có người không thích cái đen tối của ban đêm và hy vọng ngày ngày đều sáng sủa . Nếu như muốn ngày ngày đều có ánh sáng thì phải nên tu hành Pháp Môn quán Âm .

Tu Pháp Môn quán Âm sẽ có ánh sáng , chúng ta không chỉ là Quán Âm Thanh mà thôi . "Âm thanh cũng là một thứ ánh sáng" , mà chúng ta còn phải quán "Ánh Sáng" bởi vì nếu không có ánh sáng ai sẽ dẫn đường cho chúng ta đi ? Chỉ nghe được âm thanh rồi chạy theo âm thanh nhưng nếu không có ánh sáng dẫn đường thì làm sao ? Cho nên Pháp Môn Quán Âm sẽ cho chúng ta ánh sáng này .

Chúng ta nghe nói người khai ngộ , trong 1 giây phút khai ngộ đó sẽ thấy được ánh sáng , sáng lạng cả cõi trời , có phải như vậy không ? Lúc đó họ cảm thấy thân hình của họ như đã tiêu mất rồi và chỉ còn tồn tại 1 khối ánh sáng mà thôi . Cái giây khắc khai ngộ đó có thể lâu đến năm mười phút hay là cả ngày . Đối với người khai ngộ tuy rằng họ vẫn còn sống tại thế giới Ta Bà này nhưng cũng như họ sống tại thế giới của Phật , vì đối với họ cho dù ngày hay đêm cũng rất sáng sủa . Thứ ánh sáng đó nếu như phát ra , người ngoài cũng có thể thấy được , cả căn phòng tối biến thành rất sáng lạng . Không cần phải dùng đèn cũng có thể nhìn thấy đồ vật trong phàng tối . Chỉ có người tu hành mới có thể đạt đến trình độ đó nhưng thứ ánh sáng đó khác hẳn với ánh sáng đèn của chúng ta .

:x

Nhím Hoàng Kim
07-10-2007, 06:33 PM
Nói ví dụ như , bây giờ Sư Phụ ngồi tại đây và giả sử Sư Phụ có hào quang và mắt trí huệ của quí vị đã mở , lúc đó quí vị sẽ thấy Hào Quang của Sư Phụ . Tuy rằng chỗ giảng kinh này có rất nhiều đèn nhưng thứ ánh sáng đèn này không bằng ánh sáng Phật , cho nên tuy rằng có những ánh đèn , chúng ta cũng vẫn có thể thấy được Hào Quang . Có hiểu ý Sư Phụ chưa ? Bởi vì ánh sáng Phật khác hẳn với ánh sáng vật chất của thế giới .

Tại sao chúng ta cần phải tìm cái Phật quang này ? Không tu hành , không tìm ánh sáng có được không ? Được ! Nếu mình vẫn còn ưa thích cái thế giới này , thích có đen có trắng , thích có ngày có đêm thì có thể ở lại , không cần tu hành . Nhưng nếu như 1 lòng ưa thích thứ ánh sáng của siêu thế giới , nó vốn huyền diệu , đầy đủ ích lợi lớn , có ánh sáng làm cho người giải thoát , thứ ánh sáng này có thể làm cho con người trở thành loại chúng sinh có đầy đủ trí huệ nhất , vĩ đại nhất trong vũ trụ thì phải tu hành theo Pháp Môn Quán Âm mới có đầy đủ ánh sáng lớn này , để đi lên tìm đến cái chỗ sáng lạng này .

Làm sao mới có thể tìm được cái chỗ đó ? Trước hết nên tìm 1 vị minh sư . Minh Sư là gì ? "Minh" tức là người đã minh bạch , người đã có mặt trời mặt trăng , có ánh sáng , có thể truyền cho chúng ta ánh sáng của họ , còn nếu không thì làm sao chúng ta biết được vị đó là minh sư . Bất cứ người nào cũng có thể xưng mình là minh sư nhưng rốt cuộc tự mình cũng không minh bạch .

Cho nên nếu như có 1 người tự xưng mình là Sư Phụ hay Minh Sư , Sư Phụ bao hàm ý nghĩa Thầy và Cha thì họ nên cho chúng ta 1 cái gì để chứng minh . Nếu họ nói họ là triệu phú mà không thấy được tài sản của họ thì chúng ta làm sao dám tin ? Chúng ta không cần toàn bộ tài sản của họ bởi vì tài sản đó là của họ nhưng chúng ta chỉ hy vọng được 1 ít tiền của người đó để tự mình có thể kinh doanh . Giả sử họ nói họ có thể cho chúng ta tiền nhưng lại không cho , như thế chúng ta làm sao có thể tin họ là tỷ phú hay không ? Cho dù họ là 1 tỷ phú thật nhưng lúc ta đã khốn cùng nhất , chết đói gần kề , họ không những không giúp đỡ , trái lại còn lấy tiền của chúng ta , như vậy bất luận họ có phải là tỷ phú hay không , đối với chúng ta đều vô ích . Nếu là tỷ phú thật thì tất sẽ giúp đỡ chúng ta chút ít rồi .

Minh Sư cũng như thế , nếu như họ nói họ có thể giúp cho chúng ta "Khai Ngộ" nhưng chúng ta lại không có 1 điểm ánh sáng nào , hoàn toàn không thấy ánh sáng cũng không nghe được 1 chút Phật Âm nào , như vậy làm sao chúng ta tự biết mình có khai ngộ hay không ? Có cái gì để ấn chứng ? Bởi vì bây giờ và trước kia đều là như nhau , không có biến đổi gì . Nếu như chúng ta hỏi họ :" Khai Ngộ là gì ?" Họ trả lời :" Cần phải tiếp tục tu hành , 10 năm sau mới có thể biết được ." Nhưng nếu vạn nhất 5 năm sau chúng ta chết mất hay là ngày mai vãng sanh mà vẫn còn chưa khai ngộ , vẫn chưa kịp tìm được cái ánh sáng này , vẫn chưa thỏa mãn cái khát vọng khai ngộ của chúng ta thì làm sao đây ? Như vậy chỉ là tổn phí thời giờ và rất có thể lúc đó chúng ta đã xuống địa ngục rồi và không có người cứu chúng ta , có hiểu ý của Sư Phụ không ?

Cho nên vị minh sư chân chính đều có thứ ánh sáng này , khi họ truyền pháp họ có thể giúp cho chúng ta khai ngộ ngay , để cho chúng ta có 1 chút ấn chứng . Ít nhất họ cũng giúp cho chúng ta thấy được 1 tí xíu ánh sáng hay nghe được 1 chút âm thanh ở bên trong . Lúc truyền pháp chỉ giúp cho chúng ta khai ngộ nhỏ nhưng sau đó chúng ta ngày ngày đều cần phải gắng sức tu hành , mới có thể càng lúc càng phát triển cái "Ngộ" , kỳ vọng có 1 ngày có thể hoàn toàn được khai ngộ đó mới có thể tiếp tục duy trì hằng ngày bởi vì nó đã biến thành tài sãn của chúng ta . Cái "Ánh Sáng" này và cái "Âm Thanh" này tức là Pháp Môn Quan Âm . Chỉ có Minh Sư chân chính mới có thể giúp cho chúng ta thể nghiệm được .

Nhím Hoàng Kim
07-11-2007, 05:55 PM
Chúng ta vốn đã có ánh sáng và âm thanh ở bên trong , đó là cái "Bản Tính" của chúng ta hay còn gọi là "Phật Tánh" cũng đều như nhau . Giê Su Ki Tô nói :" Thiên Quốc ở trong người của các ngươi ", Phật Thích Ca Mâu Ni nói :" Phật Tại Tâm ", và Lão Tử cũng nói đạo lý tương tự như vậy . Các Ngài không có bảo chúng ta nên đi lạy núi , lạy nước mới có thể tìm được cái "Đạo" này , có phải vậy không ? Cái chủ yếu của Kinh Đạo Đức cũng có hàm ý là chúng ta nên tự tìm cái "Đạo" ở bên trong của mình .

Nếu như trong quá khứ các vị đại sư đều nhấn mạnh như vậy thì tại sao chúng ta còn phải tìm ở bên ngoài ? Tại sao chúng ta còn đến chùa để tìm ? Tại sao không nghe ngược cái tự tánh của mình ? Mình coi cái "Phật Tánh" của mình nằm ở đâu ? Phải nhìn cái "Phật Tánh" bên trong ! Không cần dùng dao mổ xẻ để xem mà phải dùng chìa khóa để mở ! Vị Minh Sư chân chính sẽ có cái chìa khóa này , nếu như họ không mở được thì không phải là Minh Sư . Nếu như họ không thể cho chúng ta 1 chút thể nghiệm Khai Ngộ thì họ không phải là người Khai Ngộ .

Pháp Môn Quán Âm tất phải có ánh sáng vì có ánh sáng mới có thể soi đường cho chúng ta đi . Bởi vì cảnh giới rất nhiều , không có ánh sáng chúng ta làm sao thấy được . Giả sử chúng ta muốn nhìn cảnh giới bên trong , nhìn vào cái kho bảo tàng bên trong của chúng ta nhưng nếu không có ánh sáng làm sao chúng ta nhìn thấy được ? Ngay cả cái thế giới này nếu không có ánh sáng thì chúng ta cũng không nhìn thấy được huống hồ gì là cảnh giới cao ? Nếu như không có ánh sáng soi đường thì chúng ta không thấy được gì hết cho nên ánh sáng rất quan trọng . Các vị tu hành đời xưa khi họ khai ngộ , họ ghi lại các thể nghiệm của mình , lưu truyền cho người đời sau cho nên chúng ta thấy lúc họ khai ngộ đều có hào quang , về sau ngộ được lớn (Đại Khai Ngộ) thì thấy được hào quang lớn , thứ hào quang đó sẽ phát ra cho các người khác đều thấy được cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni có hào quang , Chúa Giê Su cũng có hào quang là ý đó .

Có lúc chúng ta không tu hành , không tọa thiền và cũng không có minh sư truyền pháp , cũng có thể có ánh sáng hoặc đột nhiên nghe được âm thanh nhưng bất cứ hào quang hay ánh sáng bên trong chỉ có nghe được và thấy được trong chốc lát mà thôi . Không có Minh Sư truyền pháp , không thể tiếp tục duy trì được ánh sáng hay nghe được tiếng bên trong .

Hôm qua , Sư Phụ có nói qua , có 2 thứ âm thanh , 1 thứ là "Âm Thanh Hữu Định" , đại biểu cho âm thanh trong tam giới . Còn 1 thứ âm thanh đại biểu cho âm thanh ngoài tam giới là thuộc về "Âm Thanh Giải Thoát" . Nếu như chúng ta nghe âm thanh trong tam giới sẽ đưa chúng ta trở lại luân hồi , nghe âm thanh ngoài tam giới sẽ dẫn chúng ta giải thoát . Nhưng nếu không có Minh Sư chỉ đạo , chúng ta không thể biết rõ để phân đoán âm thanh nào là thật , là tốt đẹp , có thể làm cho con người giải thoát ; âm thanh nào là giả , không tốt đẹp , không thể giúp cho người giải thoát .

Ánh sáng cũng như vậy , cũng có 2 loại , 1 loại làm cho chúng ta giải thoát , 1 loại làm cho chúng ta cứ luân hồi mãi mãi cho nên không phải thấy được hay nghe được thứ ánh sáng nào cũng có thể được giải thoát vì thế nên chúng ta cần phải có Minh Sư chỉ dẫn bởi vị họ đều biết rằng loại ánh sáng nào và loại âm thanh nào là Hữu Định hay giải thoát cho nên họ có thể bày chúng ta phân đoán thật giả . Nếu không chúng ta tự tọa thiền là được rồi cần gì phải tìm Minh Sư chỉ dạy . Quí vị đừng lầm tưởng tự tọa thiền hay niệm Phật là đủ , đương nhiên cũng còn hơn là không có nhưng đó không phải là tình trạng tốt nhất mà còn cho là đã đạt được đại khai ngộ .

Cho nên từ xưa đến nay , các đại tu sĩ , trước khi khai ngộ đều phải vượt núi lội sông để tìm "Minh Sư" đều là lý do đó . Nếu như tự mình tu hành là đủ rồi thì cần gì phải tìm Minh Sư . Nghe nói Chúa Giê Su ra đời đã là 1 người Thánh , là con của Thượng Đế , Ngài sao còn phải đi Ấn Độ , theo nhiều vị tu hành mười mấy năm . Phật Thích Ca Mâu Ni khi ra đời đã đi 7 bước , mỗi 1 bước đều hiện ra 1 đóa hoa sen , dưới chân có tất cả 7 đóa hoa sen bởi vì Ngài là Bồ Tát giáng sinh . Tuy là Đại Bồ Tát , Ngài vẫn phải tìm Minh Sư học tập , sau đó lại phải khổ cực tu hành hơn 6 năm mới thành đạo .

Ngài Lục Tổ Huệ Năng chỉ là 1 người đốn củi không biết gì nhưng chỉ nghe 1 người đọc Kinh Kim Cang thì liền đốn ngộ nhưng vì sao còn phải tìm Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền pháp , rồi lại ẩn tu 16 năm mới hoàn toàn khai ngộ , mới có thể truyền pháp cho người khác . Chúa Giê Su cũng theo nhiều vị đại sư tại Hy Mã Lạp Sơn để tu hành mới có thể liễu ngộ nhiều đạo lý . Phật Thích Ca Mâu Ni có 6 người thầy , sau khi Ngài thành Phật , Ngài vốn muốn trở về giảng chân lý cho họ nghe để báo ơn nhưng các vị thầy đều qua đời . Cho nên chúng ta đừng tưởng Phật Thích Ca Mâu Ni không có thầy . Ngài có tới 6 vị thầy . Bất cứ vị Bồ Tát nào chào đời đều phải đi tìm Minh Sư để tu hành thì mới có thể đắc đạo được .

Nhím Hoàng Kim
07-12-2007, 05:36 PM
Ánh sáng có thể chia ra 2 loại , 1 loại thuộc về ánh sáng của Phật hay Thượng Đế , loại ánh sáng này có thể giúp cho chúng ta được giải thoát . Còn 1 loại ánh sáng chỉ làm cho con người luân hồi không dứt . Nếu như chúng ta không có Minh Sư đắc đạo chỉ dạy , tự thiền không đúng , tự tu sai lầm , rồi có 1 ngày đột nhiên nghe được thứ tiếng bên trong , hay vô ý thấy được thư ánh sáng đó , chúng ta cũng được ít trí huệ .

Nhưng vì thiếu minh sư , thứ ánh sáng thấy được hay là thứ âm thanh nghe được , thuộc về hạng thấp , chúng ta không hiểu , còn tưởng là rất tốt , rốt cuộc bị thứ ánh sáng và âm thanh hạng thấp giữ lại cảnh giới thấp , làm cho chúng ta không thể chứng đắc được đẳng cấp tối cao , chúng ta không thể đạt được cái trí huệ lớn , chỉ được trí huệ nhỏ , thuộc về trí huệ thấp , trí huệ trong Tam Giới , trí huệ của 6 đường . Sáu đường là gì ? Trời , Người , A Tu La , Quỉ đói , Địa ngục , Súc sanh . Cho nên thấy được ánh sáng hạng thấp và nghe được âm thanh hạng thấp , chúng ta không đạt được chân lý tối cao .

Có nhiều người hỏi Sư Phụ , họ ăn thịt cũng có thể thấy được ánh sáng , tại sao Sư Phụ khuyên người nên ăn chay ? Lý do rất đơn giản , tức là cái đạo lý mà Sư Phụ mới nói , có hiểu chưa ? Người tu hành ăn thịt cũng có ánh sáng hạng thấp , nhưng không tìm được chân lý , chỉ quanh quẩn trong 6 nẻo luân hồi nhưng họ tu hành cũng biết nhiều hơn người thường 1 chút .

Ví dụ lấy ly dơ bẩn chưa được rửa sạch , bất cứ chúng ta bỏ gì vào trong đó , đối với chúng ta không giúp ích gì nhiều , nếu chúng ta miễn cưỡng uống vào sẽ có bệnh , bởi vì cái ly đã dơ rồi , dù có bỏ cái gì vào , cũng trở thành độc , quí vị có hiểu không ? Đổ sữa vào sẽ biến thành chua , thành đắn , đổ rượu vào cũng uống không ngon , cho dù nó đựng nước gì đi nữa cũng có mùi . Mặc dù nước rất sạch , rượu nguyên chất , sữa rất thơm nhưng bởi vì cái ly không sạch , chúng ta uống vào , không những không có ích mà còn uống đồ dơ và có độc vào bụng .

Cũng như thế , người tu hành nếu mình thân khẩu ý không sạch cho dù có tu hành được đẳng cấp nào , đạt được quả vị gì đều bị cái đẳng cấp này làm cho rắc rối . Cũng như cái ly dơ sẽ làm cho nước trong ly trở nên dơ , ánh sáng đen là tự mình làm dơ mà ra , ánh sáng có ánh sáng cũng vì tu hành sạch sẽ mà thành tựu .

Thân , khẩu và ý rất quan trọng , không thể chỉ tu "Khẩu" mà thôi , ngày ngày không nói xấu người khác vẫn chưa đủ , vẫn còn phải nói chuyện đạo đức , không những không uống nước độc là đủ mà chúng ta còn nên ăn đồ dinh dưỡng nữa . Cũng không thể tu "Ý" , ngày ngày tuy không nghĩ xấu , vẫn chưa đủ , chúng ta còn nên làm việc tốt nữa . Nhưng nếu như mình bỏ đồ dơ vào miệng , ví dụ như thịt của chúng sinh , cũng không được . Bất cứ chúng ta ăn thức gì , đều ảnh hưởng đến cái "Ý" của chúng ta .

Quí vị xem , heo ăn thức ăn của heo , bò ăn thức ăn của bò , ngựa ăn thức ăn của ngựa , gà ăn thức ăn của gà , con người chúng ta vốn cũng nên ăn thức ăn của người , là thực vật . Trên Thánh Kinh có nói , Thượng Đế tạo ra các thứ trái cây và rau cải cho chúng ta ăn , đó là thức ăn của chúng ta .

Trong bất cứ kinh điển nào Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đều nhấn mạnh , không được sát sinh . Ngài nói :" Người tu hành ăn thịt , không thể thành Phật , không thể thành bồ Tát , bởi vì người ăn thịt không có lòng từ bi , ăn thịt sẽ đoạn mất hạt giống từ bi , cho nên cao lắm chỉ đạt được quả Ma Vương , còn không thì thành dân của Ma Vương , còn nếu tệ hơn thì thành Ma Nữ ". Điểm này Phật nói rất rõ .

Cho nên bất cứ tu pháp môn nào , Sư Phụ đều khuyên họ ăn chay , như vậy ít nhất cũng còn 1 chút hy vọng , sau này còn có cơ hội đi cảnh giới cao . Không nhất định phải theo Sư Phụ tu Pháp Môn Quán Âm , cũng không nhất định phải tin lời Sư Phụ , bất kể tu pháp môn nào đều nên thanh tịnh thân , khẩu , ý của chính mình , như vậy mới có thể trừ đi cái ảnh hưởng xấu . Nói ví dụ chúng ta uống 1 loại thuốc , có khi y sỹ nhấn mạnh :" Uống thứ thuốc này nếu pha trộn với cà phê sẽ có tác dụng phụ , đối với chứng bệnh sẽ ảnh hưởng xấu ." Giống như có lúc chúng ta nhức đầu , sau khi uống thuốc nhức đầu rồi , lại đau bụng hay sinh nhức đầu khác , là ý nghĩa đó .

Nếu chúng ta muốn tu hành thì nên tịnh hóa Thân Khẩu Ý của chúng ta , chúng ta mỗi ngày đều tắm gội , giữ sạch bề ngoài , bên trong cũng nên rửa sạch sẽ . Đa số mọi người đều quên mất rằng nguồn gốc con người vốn đã ăn chay nhưng bởi vì mỗi ngày tập ăn thịt thành thói quen , bây giờ bảo họ ăn chay trở lại thật là 1 điều khó khăn , nếu chúng ta không muốn bồng bế heo , gà , vịt , bò , dê vào trong lòng , tại sao lại mang xác chết của chúng để bỏ vào miệng ?:eat2:Thật không đúng đạo lý chút nào .

Nhím Hoàng Kim
07-15-2007, 04:42 PM
Sư phụ lúc nãy có nói , ăn thịt cũng có thể thấy ánh sáng , cũng có thể nghe được âm thanh , chuyện đó không sai , nhưng nó không phải là loại ánh sáng và âm thanh có thể làm cho người giải thoát . Nó không thuộc thuộc về ánh sáng và âm thanh của cảnh giới cao .

Lúc Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế , đệ tử của Ngài đều là người xuất gia , đương nhiên là ăn chay . Từ xưa đến nay tại Ấn Độ , đa số đều ăn chay cho nên nhiều vị đại sư đều xuất từ Ấn Độ hay có liên quan đến Ấn Độ . Đệ tử tại gia của Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đều là Bồ Tát , cho nên có 25 vị Bồ Tát như trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đến và cũng có rất nhiều người đã trở thành là Bồ Tát Tại Gia .

Vì sao xưng họ là Bồ Tát ? Là tại vì họ đã thọ Bồ Tát Giới , trong giới của Bồ Tát có qui định , người thọ giới tuyệt đối không được ăn thịt , bởi vì những Bồ Tát Tại Gia đó đã thọ giới rồi , cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni mới truyền pháp môn cao cho họ , còn không họ chỉ là người thường tại gia mà thôi . Người Bồ Tát tại gia khi thọ Bồ Tát Giới rồi thì không thể ăn thịt được cho nên dẳng cấp của họ rất cao . Trong Kinh Lăng Nghiêm họ nói ra thể nghiệm của mỗi người , mới tu mà trình độ đã cao rồi là bởi nhờ không ăn thịt . Còn đệ tử xuất gia của Phật thì tất nhiên càng không được ăn thịt .

Chúng ta biết được bất cứ kinh điển nào đều có nói người xuất gia không nên ăn thịt , thật sự là như vậy . Nhưng Phật Giáo ngày nay chỉ còn vài quốc gia giữ giới ăn chay , đại khái chỉ còn Phật Giáo của Ấn Độ , Việt Nam , Đài Loan , đại lục Trung Hoa còn ăn chay . Còn các nước khác như Đại Hàn , tỉ lệ ăn chay là 50% , Nhật Bản thì gần 80% đều ăn thịt .

Cho nên bất cứ người ta tu pháp môn gì , chúng ta đừng chỉ nhìn họ có nỗ lực tu hành hay không , mà phải để ý đến phương diện đạo đức của họ nữa , bởi vì không có "Giới" thì không có "Định" thật và không có "Trí Huệ" thật . Cho nên giới luật rất quan trọng . Giới luật là gì ? Tức là làm người phải làm người tốt , còn phải phối hợp và tuân theo pháp luật của vũ trụ . Chúng ta không muốn bị giết hại thì đừng đi giết hại những động vật , chúng ta không muốn bị người ăn thịt , thì đừng có ăn thịt của kẻ khác . Chúng sinh đều có sinh mạng , chúng nó đều tham sống sợ chết . Khi chúng ta giết động vật , chúng nó đều rất sợ hãi , rất đau khổ , sẽ sinh ra chất độc và sinh lòng hận thù .

Nhưng cái thần thức của rau cải , cây cỏ , không có phát triển đến cái tầm thức tham sống sợ chết , cho nên chúng ta ăn loài cây cỏ sẽ không bị nhiều nghiệp báo vì giết bất cứ vật gì cũng đều có quả báo nhưng vì chúng chưa có cái tâm muốn báo thù cho nên chúng ta không bị cái tâm sinh hận ấy kéo ta trở xuống . Chỉ cần chúng ta tu Pháp Môn Quán Âm nhiều một chút , mỗi ngày ít nhất là 2 tiếng rưỡi đồng hồ thì cái nghiệp chướng nhỏ nhoi đó sẽ được rửa sạch rất nhanh .

Nhưng nghiệp chướng của động vật không thể rửa sạch được 1 cách dễ dàng như vậy , bởi vì chúng có tư tưởng sẽ tìm lại chúng ta để báo thù , không để chúng ta ra đi , cho nên đó là cái lý do tại sao người ăn thịt của súc sinh thì không thể tu đến cảnh giới cao được . Bởi vì ý nghĩa của "Giải Thoát" là vĩnh viễn không trở lại , nếu như chúng ta một mặt ăn thịt của chúng sinh , một mặt lại vĩnh viễn không muốn trở lại thì ai phải trả cái "nợ thịt" này , có hiểu ý của Sư Phụ không ? Nếu như ăn thịt lại được giải thoát như vậy là không có nhân quả . Cái pháp luật của vũ trụ này thì "Có nhân tức có quả" , ăn thịt thì phải trả nợ thịt cho nên những người ăn thịt không thể tu đến cảnh giới cao .

Đó là những lời mà Sư Phụ căn cứ trên kinh điển mà nói chứ không phải Sư Phụ phê bình các vị nơi đây . Bởi vì đã nói đến chân lý thì nên nói lời chân thật . Biết được cái gì thì nên nói cái đó . Nếu như chỉ muốn nói những lời cho người ta vui thì Sư Phụ đâu cần phải nói , cũng không cần phải làm ni cô , không cần phải giảng kinh , chỉ cần ngày ngày chuyện trò với người ta , khen người đó đẹp , khen người đó mặc y phục theo thời trang , muốn làm cái gì cũng được , muốn hưởng thụ thế giới cũng không thành vấn đề , chỉ cần qui y là được rồi , ăn thịt uống rượu cũng không sao , như vậy để cho người nghe được vui mừng , không cần phải nói kinh gì hết .

Đối với những người ăn thịt thì cũng nói rằng ăn thịt không có sao , ăn thịt sẽ làm cho thân thể khoẻ mạnh nhưng vài ngày sau họ lại đến bệnh viện bởi vì người ăn thịt phần đông sẽ bị bệnh ung thư , người ăn chay thì không bị bệnh gì hết . Thế giới này có những bệnh nan y cũng là tại vì con người ăn thịt mới mắc bệnh , người ăn chay tuyệt đối không có thứ bệnh đó .

Cho nên quí vị nên biết , nếu Sư Phụ chỉ muốn nói những lời cho quí vị vui thì Sư Phụ không cần phải nói những đạo lý này , không cần phải nói đi nói lại khuyên quí vị nên ăn chay , bởi vì ăn chay ngược với thói quen sinh hoạt hằng ngày của quí vị . Có người nghe sẽ không ưa thích nhưng bởi vì người tu hành cần phải nói sự thật , nói thẳng , nói cho người có trí huệ nghe . Khổng Tử nói :" Người quân tử tánh nên ngay thẳng (như ruột ngựa) ". Cho nên khi chúng ta nghĩ đến việc gì có lợi ích cho người khác thì nên nói ra , không cần người nghe có ưa thích hay không .

Khổng Tử nói :" Kỷ sở bất dục , vật thi ư nhân ". Ý là những điều gì mình không muốn , đừng bắt người khác chịu . Câu nói này quí vị đều hiểu biết mà , thường hay lấy ra để dẫn chứng có phải không ? Tại sao quí vị lại thích cái lý đó ? Bởi vì chân lý nằm trong bản tính của chúng ta , chúng ta ai ai cũng đều mong muốn đạo lý tốt , những tư tưởng cao quí , những cách nói cao quí ấy vốn đã nằm ẩn bên trong chúng ta , con người là chúng sinh vốn đã cao quí nhất , quí vị rất có thể trong 1 lúc không thể ăn chay được , bởi vì tình trạng của cá nhân không tiện lợi , có người bị vợ hay chồng cản trở hay có người bị hoàn cảnh làm việc hạn chế .

Tuy thế , quí vị vẫn còn ưa thích nghe những chuyện đạo đức , thích nghe chân lý bởi vì Sư Phụ tin rằng bên trong của quí vị đều có chỗ cao quí nhất , đó là "Phật Tánh" của quí vị ! Có cái "Phật Tánh" này hay là cái "Thiên Quốc" tại bên trong thì làm sao mà không ưa thích chân lý ? Làm sao mà không ưa thích tư tưởng cao quí được ? Có phải vậy không ? (Có người đáp : Phải) Đôi lúc vì trước kia chúng ta không nghe ai nói đến chân lý , cho nên không biết chứ không phải mình không muốn làm . Luật nhân quả rất chính xác , rất lợi hại , không sai lầm 1 tí ti nào , trồng nhân gì thì có quả đó , không trốn được nên có câu "Lưới trời tuy thưa , mảy lông khó lọt ".

Nhím Hoàng Kim
07-18-2007, 06:32 PM
Xưa kia tại Ấn Độ có 1 vị đại tu hành tên là Kabir , 1 ngày lúc Ngài đi vắng có người đến tìm . Người đồng tu của Ngài (trước kia là vợ , bây giờ là đệ tử) nói rằng Ngài đi đến nghĩa địa để đưa đám 1 người bạn . Người đó hỏi :" Tôi chưa biết ông ta làm sao tìm được ?" (Bởi vì dáng người Ấn Độ đều giống nhau , mặc đồ cũng giống nhau , cũng như người xuất gia ở Đài Loan mặc đồ sư tăng cũng giống nhau) . Vợ của Kabir bảo người đó :" Ông đi đến đó nếu như thấy có 1 người trên đầu có hào quang , người đó là Kabir ". Người đó đến nghĩa địa thấy có nghiều người đang đào lỗ , có người khiêng quan tài , có người chuẩn bị việc chôn cất , trên đầu mỗi người đều có hào quang . Ông ta tìm không được Kabir , bởi vì trong lúc chôn , mọi người đều im lặng cho nên người đó không dám hỏi chỉ còn biết trở về hỏi vợ của Kabir :" Tôi tìm không được ông Kabir bởi vì tôi thấy trên đầu của mỗi người đều có hào quang , bây giờ làm cách nào đây ?"

Vợ của Kabir trả lời :" Được rồi không sao đâu , ông cứ trở lại nghĩa địa , đợi việc chôn cất xong họ trở về nhà , lúc đó chỉ còn có 1 người trên đầu có hào quang mà thôi , người đó chính là Kabir ". Người đó nghe rồi liền trở lại nghĩa địa , đợi cho họ chôn cất xong rồi ra về , quả nhiên thấy có 1 người có hào quang trên đầu . Quí vị có biết tại sao không ? Tại vì khi đi chôn đám ma mọi người đều có hào quang mà khi trở về thì chỉ còn có vị đại sư có hào quang ?

Bởi vì trong lúc chôn cất tất cả các bạn hữu của người chết đều nghĩ đến việc tôn nghiêm , tập trung tư tưởng nghĩ rằng :" Tại sao con người có sống có chết ?" Lúc đó vì 1 lòng muốn giải thoát cho nên cái phẩm chất sáng lạng bên trong nó phát ra ánh sáng , cho nên người đến tìm mới nhìn thấy trên đầu mỗi người đều có ánh sáng . Bởi vì lúc đó họ thật sự lãnh ngộ việc sinh tử luân hồi là đáng sợ nhất , hiểu được đời sống rất là vô thường , lúc đó họ không còn lưu luyến nhiều với thế giới Ta Bà này mà 1 lòng chỉ muốn tu hành cầu giải thoát cho nên cái phẩm chất sáng lạng bên trong mới hiện ra ngoài , mới thấy được hào quang .

Thứ hào quang này người nào cũng có nhưng đợi họ chôn cất xong trở về thì đều quên mất . Bởi vì người phàm nếu ngày ngày không tập luyện không thể kiềm chế ý niệm , không thể để cho cái ý niệm chạy theo tư tưởng của chúng ta , quí vị có hiểu không ? Có lúc chúng ta nghĩ phương bắc nó đi phương nam , chúng ta nghĩ tây nó đi đông ; cả đầu óc đông tây nam bắc đều nghĩ loạn bậy . Cho nên khi chôn cất xong trở về nhà , vì không còn thấy thân xác và quan tài nên tư tưởng không còn điểm tựa để dựa , rốt cuộc tư tưởng cũng biến mất , lúc đó không còn nghĩ đến chuyện sinh tử luân hồi nữa , chỉ nghĩ chồng vợ , ăn , ngủ , chơi ... các chuyện của thế tục cho nên không có hào quang .

Nếu như chúng ta tập trung tư tưởng trên vấn đề sinh tử luân hồi thì chúng ta nhất định sẽ có hào quang . Quí vị về nhà có thể thử xem ! Những người đó khi hoàn tất việc chôn cất trở về nhà , lúc đó trong lòng chỉ nghĩ đến chuyện của thế tục cho nên không còn có hào quang nữa . Bởi vì cái thế giới này là đen tối , thuộc về chỗ đẳng cấp thấp , lúc giận thì rất là đen , lúc đó rơi vào cái cấp bực của địa ngục . Nghĩ đến chuyện của thế giới cũng đen và chỉ có nghĩ đến phương diện tu hành mới có hào quang sáng mà thôi .

Vì Kabir đã tu lâu rồi nên giờ phút nào cũng tâm niệm vào việc tu hành , tâm niệm trên tư tưởng thanh cao cho nên ông ta lúc nào cũng có hào quang . Nếu như chúng ta nghĩ đến lý tưởng cao siêu thì sẽ biến thành sáng sủa , chúng ta nghĩ đến chuyện của thế giới Ta Bà thì biến thành phàm phu , nghĩ đến tham sân si thì biến thành quỉ ma ...

Vì vậy luật nhân quả rất là chính xác , không sai 1 tí ti nào . Sư Tổ của Sư Phụ lúc còn tại thế có 1 người đệ tử rất cố gắng tu hành Pháp Môn Quán Âm , 1 ngày nọ đi chơi bên ngoài , người ấy thấy có 1 con trùng đang bị kiến cắn rất đau khổ , gần chết mất mà không chạy thoát được . Vì phát lòng từ bi nên ông ta cứu con trùng ra khỏi đám kiến và bỏ nó 1 nơi an toàn rồi mới đuổi kiến đi .

Trong đêm đó ông tọa thiền , thấy có 1 đàn kiến rất đông đảo dùng cái linh thể tinh tế vi diệu của chúng nó chứ không dùng cái thân thể thô kệch để cắn ông ; lúc ông ta nhìn thấy linh thể của đàn kiến rất sợ sệt , đàn kiến đó lại cắn ông và oán trách (dùng lời nói của loài kiến nói chuyện , vì sau khi chúng ta tu hành cao rồi có thể biết được lời nói của động vật) . Đàn kiến đó nói :" Con trùng đó vốn phải chịu nghiệp báo của nó , nên nó phải trả sạch , tại sao ông xen vào việc này ? Chúng tôi nhận cái quả báo này , vì con trùng đó nó phải dùng cái sinh mạng của nó , để trả sạch cái nghiệp chướng của nó đã tạo ra từ kiếp trước ".

Cho nên bất cứ chúng ta làm việc gì cũng đều có nhân quả . Chúng ta muốn cứu người thì phải gánh nghiệp chướng dùm họ , nếu như chúng ta có nhiều phước báu lớn , như vậy việc gánh vác nghiệp chướng của người khác mới không đến nỗi gì nhưng vẫn phải chịu bị đau hay mắc bệnh 1 chút hoặc thân thể không được khoẻ mạnh . Tình trạng xấu nhất cũng như tình trạng của Đức Giê Su Ki Tô , bị người đóng đinh trên thánh giá , dùng cái phương thức đau khổ nhất để trả sạch nghiệp chướng cho chúng sanh . Phật Thích Ca Mâu Ni cũng vậy , bị người ném đá , bị người phỉ báng , có người muốn giết hại Ngài , có người muốn vu cáo Ngài ... và có rất nhiều chuyện phiền phức khác nữa .

Cho dù sau khi thành Phật , lúc đó có lực lương lớn mà vẫn còn bị người khác vu cáo , phỉ báng , sát hại là vì sao thế ? Bởi vì Ngài thâu rất nhiều đệ tử và truyền pháp cho họ , cũng như gánh nghiệp chướng cho họ , dạy cho họ làm thế nào mà từ phàm phu trở thành thánh nhân cho nên nghiệp chướng của họ đã được Sư Phụ của họ trả sạch dùm cho họ .

Cho nên khi chúng ta bố thí , trì giới , nhẫn nhục , tinh tấn , thiền định , trí huệ thì đừng nên làm bậy . Chúng ta nên biết hiện trạng nhân quả rồi mới làm nếu không thì sẽ tạo nên rất nhiều phiền phức . Trong Kinh Kim Cang có nói rất nhiều chuyện nhưng chúng ta có thể không làm được bởi vì kẻ phàm phu không có đủ lực lượng . Quí vị thử nghĩ coi , chỉ bất quá cứu 1 con trùng đã đem đến tình trạng ghê sợ như thế , nếu như chúng ta tự mình tạo ra nghiệp chướng như thế hậu quả của nó sẽ đến mức nào ?

Đã hết giờ , quí vị còn muốn hỏi gì nữa không ? Cái câu hỏi lớn nhất của Sư Phụ là :" Quí vị tại sao không tu hành ? Tại sao không có nhiều người chịu tu hành như vậy ? Thế giới này rất vô thường , mạng sống rất ngắn , cùng lắm con người cũng chỉ có thể sống đến 100 năm mà thôi . Nếu nhiều người than phiền là đời sống rất khổ , không có ý nghĩa gì cả , ngày ngày chỉ có ăn cơm , ngủ , làm việc , rồi lại làm việc , ngủ , ăn cơm . Nhưng vẫn còn rất nhiều người lưu luyến cái thế giới này , không bỏ được , không rời được . Tại sao chúng sinh cứ nghĩ tất cả là không ? Đó mới là cái câu hỏi khó giải quyết nhất của Sư Phụ ".

Nhím Hoàng Kim
07-21-2007, 06:18 PM
Ý Nghĩa Của "Hoa Khai Kiến Phật"




Hôm nay , Sư Phụ nghe nói mía và khoai lang ở đây rất ngon , nghe rồi mừng quá không muốn bỏ đi (đại chúng cười) , chỉ cần có khoai lang và mía thì Sư Phụ có thể ở lại (đại chúng cười) . Ở Đài Nam cũng như quê nhà , quê hương Việt Nam của Sư Phụ cũng có mía ngọt . Ba của Sư Phụ là 1 đông y sỹ , hằng năm chữa bệnh rất nhiều người , ba của Sư Phụ có biệt tài chữa bệnh , những bệnh nhân mà các y sỹ khác không thể chửa được đưa đến ông , cho dù bệnh nhân không có tiền , ông cũng tận lực cứu chữa . Ông dùng thuốc rất đơn giản , tự mình bào chế , hình như pha trộn thuốc tây và thuốc bắc với nhau cho người bệnh uống thì bệnh mau khỏi . Cả năm , thường có rất nhiều bệnh nhân đến tạ ơn , tặng cho những thứ trái cây theo từng mùa , thí dụ như mía và khoai lang hoặc đường mật ; đối với Sư Phụ thuở nhỏ những món quà này là những lễ vật tốt nhất trên đời .

Cho đến bây giờ Sư Phụ vẫn còn ưa thích , nghe nói Đài Nam có mía và khoai lang ngon , Sư Phụ liền cảm thấy như là ở quê nhà vậy , vì vậy hôm nay giảng kinh có thể rất hay (đại chúng cười) . Sư Phụ rất thích sự thông minh của người Đài Loan , thủ công nghệ của họ rất giỏi , làm cái gì cũng rất đẹp . Lúc Sư Phụ còn ở bên Đức , cũng thường mua những thứ công nghệ của Đài Loan vừa rẻ vừa đẹp lại vừa thích hợp , cho dù đồ giả cũng giống như là đồ thật , khiến cho người ta không thể nào phân biệt được .

Sau khi đến Đài Loan thấy họ nấu ăn đều tốn rất nhiều thời giờ , Sư Phụ nghĩ rằng không phải là người Đài Loan háu ăn , nếu họ háu ăn thì bất cứ món gì cũng ăn hết nhưng người Đài Loan bỏ ra rất nhiều thời giờ để nấu ăn , làm cho thức ăn đầy đủ mùi vị và màu sắc , không những chỉ là để ăn mà còn để ý đến nghệ thuật ăn , đó cũng là 1 quan niện thích làm đẹp . Đài Loan và Nhật Bản đều nổi tiếng về nghệ thuật cắm hoa nhưng tâm của người Nhật hình như không được "rộng lượng" . Sư Phụ không có thành kiến với họ vì Sư Phụ thấy họ cắm hoa , họ cắm rất ít , chỉ cắm một hai nhánh hay là một hai cây , còn người Đài Loan thì cắm rất nhiều . Ở Đài Loan bất cứ đồ gì cũng đều được trang trí rất đầy đủ , điều đó biểu lộ tâm của họ đã tràn đầy .

Cũng như 1 ly nước đầy quá sẽ tràn ra , tại sao như thế ? Việc đó biểu rộ rằng : họ sinh ra từ mảnh đất tốt . Cho nên ở Đài Loan chùa chiền đều cất rất lớn , nếu có Pháp hội thì bất luận vị pháp sư nào có nổi tiếng hay không ? Có biết giảng kinh hay không ? Đều có rất nhiều người đến tham dự để nghe thuyết giảng , nghe những chuyện đạo đức . Bởi vì quí vị đã chuẩn bị hết rồi , đẳng cấp bên trong đã cao rồi cho nên mới ưa thích những việc đó , nó có liên quan đến đẳng cấp cao hay thấp .

Chúng ta nghe nói Thiên Đàng rất đẹp và chỗ ngự của Đức Phật A Di Đà cũng rất đẹp , chúng ta rất có thể từ nơi đó xuống trần cho nên đến nay chúng ta vẫn ưa thích những đồ tốt như thích bông đẹp , thức ăn cũng trang trí cho có mỹ thuật đẹp mắt , 1 miếng đậu hũ cũng được quí vị nấu ngon và làm đẹp mắt , đó là vì quí vị có cái quan niện thẩm mỹ . Người Đài Loan đều ưa thích những đồ đẹp lộng lẫy , mặc áo quần cũng rất đẹp , cho dù người nghèo cũng ăn mặc tươm tất sạch sẽ . Điều này biểu lộ rằng đời trước nếu như quí vị không phải là vua chúa hoặc là quí nhơn hay quan lớn thì cũng là ở cõi trên xuống . Cho nên ở Đài Loan người tu hành rất nhiều . Theo truyền thống của Phật Giáo mà nói Đài Loan bây giờ coi như là 1 nước còn lưu lại tính chất cổ truyền của Phật Giáo , còn như Phật Giáo ở những nơi khác đều bị suy tàn và biến chất , không còn giữ theo nguyên bản Phật Giáo cổ truyền .

Nhím Hoàng Kim
07-22-2007, 03:16 PM
Ở Đài Loan bất cứ ai tu theo Mật Tông , Tịnh Độ Tông , tu Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều gọi là tỳ kheo hay tỳ kheo ni . Những vị này đều ăn chay trường , không có kết hôn . Phật Giáo nguyên thủy vốn là như vậy . Lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế thì truyền thống đó đã như thế , bây giờ chỉ có Đài Loan là còn duy trì truyền thống đơn thuần của Phật Giáo . Nếu như quí vị đọc sách sẽ biết được Phật Giáo ở những nước khác , ăn thịt uống rượu cũng được , xuất gia kết hôn cũng không sao nhưng tại Đài Loan vẫn chưa có tình trạng này . Sư Phụ nghĩ đó là vì Đài Loan có đầy phước báu mới có thể tiếp tục duy trì được truyền thống Phật Giáo đơn thuần này .

Sư Phụ đến các nước khác , thí dụ như ở Miến Điện mới nhìn qua cũng là 1 quốc gia mà Phật Giáo rất phát triển , có nhiều người xuất gia hơn ở Đài Loan , nơi nào cũng đều có người xuất gia mặc áo nâu sòng , Đại Hòa Thượng , Tiểu Hòa Thương rất nhiều , nhìn họ đều rất vui tươi . Sư Phụ thấy Phật Giáo nơi này có nhiều người xuất gia như vậy nên rất mừng , rốt cuộc khi thấy tình trạng của họ khác hẳn lúc Phật Thích Ca còn tại thế . Vì ở Miến Điện ai muốn xuất gia bao lâu cũng được , hai ba tháng cũng được , cả vợ lẫn chồng mới thành hôn nếu như giận nhau , ly thân hay vì 1 vấn đề gì đó liền tới chùa , liền cạo đầu phát nguyện xuất gia 3 tháng , mỗi ngày cũng đi khất thực , cũng giống như người xuất gia vậy , 3 tháng sau lại trở về , rồi lại tiếp tục làm vợ chồng như trước . Đứa trẻ 7 tuổi cũng đi xuất gia , một hai năm sau lại hoàn tục cho nên mới nhìn thì thấy có rất nhiều người xuất gia . Đương nhiên , như vậy cũng có công dụng , cũng có ảnh hưởng nhưng họ đều không ăn chay , không được thuần túy như ở Đài Loan .

Ngày nay tình trạnh ở Tích Lan , Thái Lan , Miến Điện , Nhật Bản , Đại Hàn cũng tựa như nhau , chỉ còn Phật Giáo ở Đài Loan là được thuần túy 100% , trong lúc này Sư Phụ chỉ thảo luận đến người xuất gia , còn tình trạng của người tại gia như thế nào Sư Phụ không được rõ .

Sư Phụ vẫn thấy rằng , Phật Giáo ở Đài Loan ít nhất cũng thuần túy hơn ở những chỗ khác . Bởi vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có nói trong Kinh Lăng Nghiêm :" Bất cứ người nào (xuất gia hay tại gia) nếu như không ăn chay mà lại đi ăn thịt cho dù họ tu Thiền Định rất tốt cũng có Ma Chướng , sẽ không thành Bồ Tát . Thư người tu Thiền Định mà ăn thịt , cùng lắm chỉ thành Ma Vương , thấp hơn thì làm Ma , tệ nhất là Ma Nữ , bởi vì ăn thịt sẽ bị đoạn hạt giống Từ Bi , đoạn hạt giống Bồ Tát . Cho nên theo Kinh Lăng Nghiêm mà nói thì chỉ còn người xuất gia ở Đài Loan là tuân theo cái giáo lý của Đức Phật dạy nhất .

Hôm nay là ngày giảng kinh cho quí vị cho nên Sư Phụ mới chuyện trò với quí vị trước , lúc bình thường Sư Phụ giảng kinh cũng như vậy mà thôi , đối với Sư Phụ việc giảng kinh rất thông thường , Sư Phụ không có đọc sách giảng kinh , trước khi giảng kinh cũng không soạn trước , Sư Phụ nói "Kinh Tự Nhiên" , dùng lời nói dễ hiểu nhất , không dùng lời khó hiểu hay là cổ văn làm cho người nghe không hiểu biết gì ngay cả Sư Phụ cũng không hiểu gì (mọi người cười) , đã là giảng Kinh thì nên giảng cho mọi người nghe đều hiểu , không cần học vấn của họ cao hay thấp . Cho nên Sư Phụ giảng Kinh rất đơn giản dị , rất minh bạch , ai muốn hỏi những vấn đề gì thì Sư Phụ nói cái đó , nếu như bảo Sư Phụ vừa coi kinh vừa giảng như vậy càng làm cho mình quên hết phải nói gì , Sư Phụ để cho kinh điển trong đầu óc tự nhiên chạy ra , muốn nói về đề tài gì thì nói liền ngay cái đó . Bây giờ bắt đầu giảng kinh nhưng cũng giống như từ trước tới giờ , không có cái gì đặc biệt , quí vị thích nghe Kinh gì ? (Mọi người đáp :" Kinh A Di Đà") .Tốt ! Không thành vấn đề . Quí vị đừng có tưởng rằng Sư Phụ tu thiền thì không thích Kinh A Di Đà , thật ra Sư Phụ rất thích Kinh A Di Đà . Xưa kia lúc Sư Phụ chưa đi Ấn Độ , đều là niệm Kinh A Di Đà , niện A Di Đà Phật . Niệm Phật A di Đà rất đơn giản đứa nhỏ cũng biết niệm cho nên Sư Phụ thấy cách dễ nhất là dạy người ta niệm A Di Đà Phật .

Nhím Hoàng Kim
07-23-2007, 08:46 PM
Bây giờ , Sư Phụ muốn nói cái lợi ích của niệm A Di Đà , A Di Đà tiếng Phạn là AMITABHA , cái chữ này vốn không có chữ Phật ở trong đó nhưng dịch qua chữ Tàu biến thành A Di Đà Phật , thêm 1 chữ Phật . Ý của tiếng Phạn AMITABHA là Vô Lượng Quang , AMITAYUS là Vô Lượng Thọ .

"Vô Lượng Quang" là gì ? Chúng ta thường nghe "Phật Quang Thường Chiếu" , nếu như Phật A Di Đà có Vô Lượng Quang , tại sao chúng ta không có được ? Cho nên chúng ta sẽ tự hỏi :" Phật Quang Thường Chiếu là gì ? Chiếu ở đâu ? Khi nào mới chiếu ? Chúng ta làm sao mới có thể thấy được cái thường chiếu của Phật Quang này ?" Trong Kinh A Di Đà , Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói :" Chư Phật luôn luôn có Vô Lương Quang " , cho nên mới nói "Phật Quang Thường Chiếu" .

Chúng ta nghe nói khi vãng sanh nếu như tu hành tốt , Phật sẽ phóng hào quang đến rước chúng ta , có phải vậy không ? Nhưng bây giờ nếu như chúng ta không thấy được ánh sáng sẽ không khỏi có 1 chút hoài nghi , bởi vì chúng ta không biết được lúc vãng sinh có phải sẽ thấy được ánh sáng không ? Phật Quang sẽ chiếu hay không ? Bây giờ chúng ta đã mù như thế , không thấy được ánh sáng Phật , lúc vãng sinh không biết được mắt chúng ta có mở hay không ? Có thấy được ánh sáng của Phật hay không ?

Vì lúc phiên dịch , thêm 1 chữ Phật , kết quả chúng ta đã bị nhốt vào đó , nếu như ban đầu chỉ phiên dịch AMITABHA thì người ta sẽ không nghĩ A Di Đà "Phật" . AMITABHA là Vô Lượng Quang , AMITAYUS là Vô Lượng Thọ , chúng ta không phải là cái xác thân này nhưng bây giờ chúng ta đã đứt đoạn với Vô Lượng Quang này , bị cái thân thể này bao lại , tình trạng này cũng giống như lấy 1 ly nước úp trong biển , nước trong ly tưởng rằng mình ít như vậy , tưởng rằng mình khác với nước biển nhưng nếu như có người lấy cái ly này đi , nước ở trong ly và nước ở ngoài ly chỉ là một , nó sẽ hòa hợp lại thành 1 thể , bởi vì chúng nó vốn đồng 1 phẩm chất .

Bản Lai Diện Mục là gì ? Cái bản tánh chính của chúng ta tức là "Ánh Sáng" . Nếu như có người dùng cái pháp môn nào đó để mở ra cái thân mình này , dĩ nhiên Sư Phụ không phải lấy dao để mở ra mà là chỉ dùng pháp môn bất khả tư nghì nào đó làm cho cái "Hữu Lượng Quang" trong thân thể mình này lìa khỏi sự bó buộc của nhục thể và dính liền với "Vô Lượng Quang" ; cũng như sau khi lấy đi cái ly ở trong biển , nước ở trong ly tự nhiên sẽ hòa hợp với nước biển và nước sẽ trở lại y như cái lúc chưa bị chia ra vậy . Lúc đó chúng ta sẽ biết rằng , chúng ta tức là "Vô Lượng Quang" .

Ngoài Vô Lượng Quang ra , tại sao lại nói "Vô Lượng Thọ" ? Là vì chúng ta vốn không sinh cũng không diệt cho nên trong Bát Nhã Tâm Kinh có nói các pháp không hình không tướng , không sinh không diệt , không sạch không dơ , không thêm không bớt ... ý nghĩa câu này với Vô Lượng Quang , Vô Lượng Thọ đều giống nhau . Đức Phật Thích Ca giảng kinh nào cũng dùng rất nhiều thí dụ , dùng rất nhiều cách để cho chúng sanh hiểu được cái bản tánh của họ , tùy theo trình độ của chúng sanh , Ngài dùng những thí dụ hợp tương với trình độ của họ . Cho nên không phải là Tâm Kinh hay Kinh A Di Đà có cái gì khác nhau , thật ra vốn hoàn toàn như nhau .

Trong Kinh Pháp Hoa , Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng , Phật xuất hiện ở đời là bởi vì muốn cho chúng sanh hiểu được cái biết , cái thấy của Phật ; muốn cho chúng sinh cũng thành Phật . Ngài đến đây không phải dạy người ta tôn sùng hay bái Ngài , đảnh lễ Ngài , đời đời kiếp kiếp xưng tán Ngài là con người vĩ đại nhất trên thế giới . Ngài nói : Chư Phật xuất hiện là muốn chúng sinh thành Phật , muốn chúng sinh hiểu biết được trí huệ của Phật , tức là đã thành Phật rồi . Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì mục đích đó mới đến thế giới Ta Bà này . Cho nên bất cứ kinh điển nào , bất cứ thí dụ gì , đều là vì muốn cho chúng sinh thành Phật , bất cứ là Tâm Kinh hay Kinh A Di Đà , mục đích tối cao nhất cũng đều như nhau , sự giống nhau ở điểm nào , chút nữa Sư Phụ sẽ nói .